Bạn đang xem bài viết Thực Trạng Về Tổ Chức, Hoạt Động Thanh Tra Hành Chính Của Công An Tỉnh Quảng Bình Và Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt Động Thanh Tra Hành Chính – Công An Tỉnh Quảng Bình được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra hành chính nói riêng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý của Thủ trưởng Công an các cấp; tăng cường pháp chế; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; chấn chỉnh, khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong việc thực hiện quy trình công tác; giúp Công an các đơn vị, địa phương thực hiện đúng quy định của pháp luật và của Bộ Công an. Xác định được ý nghĩa, tầm quan trọng đó, trong thời gian qua, công tác thanh tra hành chính được Thường vụ Đảng ủy, Lãnh đạo Công an tỉnh Quảng Bình quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trên tất cả các mặt, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra.
Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ thanh tra hành chính của Công an Quảng Bình đã được quan tâm, tạo điều kiện tăng cường về số lượng và chất lượng. Tại Thanh tra Công an tỉnh lực lượng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành được biên chế chung một đội (Đội thanh tra hành chính và chuyên ngành); Đội được biên chế 03 cán bộ (02 Thanh tra viên, 01 cán bộ thanh tra) và do một đồng chí Phó chánh thanh tra phụ trách. Tất cả cán bộ thanh tra đều có trình độ đại học, được đào tạo cơ bản, phần lớn đã qua đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra, có trình độ lý luận chính trị; có năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có kinh nghiệm thực tiễn, chủ động tham mưu lãnh đạo Công an tỉnh tiến hành nhiều cuộc thanh tra hành chính trên các lĩnh vực. Các cuộc thanh tra đảm bảo đúng quy định của pháp luật, hướng dẫn của Bộ Công an và yêu cầu quản lý của Lãnh đạo Công an tỉnh.
Trong 06 năm thi hành Luật thanh tra năm 2010 (Từ năm 2011 đến năm 2017), Công an tỉnh Quảng Bình đã triển khai 09 cuộc thanh tra hành chính, trong đó bao gồm các cuộc thanh tra diện rộng theo chỉ đạo của Bộ Công an và các cuộc thanh tra do Giám đốc Công an tỉnh chỉ đạo tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra sai phạm như công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự; việc quản lý, sử dụng kinh phí được trích lại từ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ… Qua thanh tra phát hiện nhiều tồn tại, thiếu sót trên các lĩnh vực, đã chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương chấn chỉnh, khắc phục 43 vấn đề, kiến nghị Bộ Công an 15 nội dung. Công tác thanh tra hành chính đã giúp Công an các đơn vị, địa phương và cán bộ, chiến sĩ thực hiện đúng hành lang pháp lý, đúng quy định của Bộ Công an theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Các kết luận, kiến nghị thanh tra được đối tượng thanh tra chấp hành nghiêm túc, ý thức chấp hành pháp luật, chấp hành quy trình công tác của cán bộ, chiến sĩ được nâng lên, góp phần xây dựng lực lượng Công an Quảng Bình ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Nhìn chung, công tác thanh tra hành chính của Công an tỉnh Quảng Bình đã có chuyển biến tích cực, cán bộ thanh tra hành chính đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; tính dân chủ, công khai, minh bạch đã được thực hiện nghiêm túc theo quy định, nhất là từ khi Bộ Công an ban hành Thông tư số 02/2015/TT-BCA ngày 05/01/2015 Quy định quy trình tiến hành một cuộc thanh tra hành chính trong Công an nhân dân, hoạt động thanh tra hành chính từng bước đi vào nề nếp, chất lượng các cuộc thanh tra ngày càng được nâng lên và có ảnh hưởng tốt đến hoạt động của đối tượng thanh tra.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác thanh tra hành chính của Công an tỉnh Quảng Bình còn có một số tồn tại, hạn chế, bất cập: Trình độ năng lực chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn của một số ít cán bộ thanh tra, thanh tra viên còn có những hạn chế nhất định; chưa tương xứng với yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Chất lượng, hiệu quả một số cuộc thanh tra hành chính còn thấp; việc xác định trách nhiệm để xảy ra tồn tại, thiếu sót chưa cụ thể; kiến nghị một số nội dung trong kết luận thanh tra còn mang tính chung chung; công tác đôn đốc, kiểm tra sau thanh tra hiệu quả chưa cao. Lực lượng làm công tác thanh tra hành chính còn thiếu; Công an các huyện, thành phố, thị xã chưa có cán bộ thanh tra chuyên trách mà đang còn kiêm nhiệm và thường xuyên luân chuyển, điều động sang làm công tác khác, do đó khó khăn trong tổ chức và hoạt động; Công an cấp huyện chưa triển khai được cuộc thanh tra hành chính nào.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên là do: Thủ trưởng Công an một số đơn vị, địa phương chưa thực sự quan tâm đến công tác thanh tra; chưa coi đây là một nhiệm vụ quan trọng thường xuyên trong công tác quản lý của đơn vị. Sự phối hợp giữa các đơn vị chức năng trong công tác theo dõi, đôn đốc sau thanh tra còn hạn chế. Công tác tổ chức cán bộ tuy đã được quan tâm nhưng chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; biên chế cán bộ làm công tác thanh tra hành chính còn ít.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thanh tra hành chính:
Thứ nhất, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Lãnh đạo Công an tỉnh đối với công tác thanh tra hành chính, trong đó quan tâm bổ sung biên chế cho lực lượng thanh tra hành chính; trang bị cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc cho đơn vị thanh tra. Tăng cường thanh tra trách nhiệm của Thủ trưởng Công an các đơn vị, địa phương trong việc thực hiện quy định của pháp luật, của Bộ Công an.
Thứ hai, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra có tâm, có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, bản lĩnh nghề nghiệp và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc thanh tra hành chính trong toàn bộ quy trình của cuộc thanh tra, từ giai đoạn chuẩn bị thanh tra, quá trình thanh tra và báo cáo, kết luận cuộc thanh tra. Đảm bảo tiến hành đúng trình tự, thủ tục từ công tác chuẩn bị đến kết thúc thanh tra. Tăng cường công tác giám sát hoạt động của đoàn thanh tra.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, trong đó cần thực hiện tốt một số nội dung như: Tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng Công an các đơn vị, địa phương trong công tác chỉ đạo, điều hành và nâng cao chất lượng theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra. Tăng cường giáo dục pháp luật về thanh tra nhằm nâng cao nhận thức, ý thức cho các đối tượng thanh tra trong việc chấp hành nghiêm túc các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra. Đẩy mạnh phối hợp giữa các đơn vị chức năng trong hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra.
Đại úy Nguyễn Mạnh Trường
Đội trưởng, Thanh tra Công an tỉnh
Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt Động Hòa Giải Ở Cơ Sở Từ Thực Tiễn Thi Hành Ở Quảng Bình
Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn thi hành ở Quảng Bình
Hòa giải ở cơ sở là nét đẹp truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam, là hoạt động mang tính tự nguyện, tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Hoạt động hòa giải ở cơ sở về bản chất là hướng dẫn, giúp đỡ thông qua việc thuyết phục, vận động các bên đi đến thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật dựa trên nguyên tắc tôn trọng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước và lợi ích công cộng. Vì vậy hòa giải ở cơ sở đã khẳng định vai trò to lớn, ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội, góp phần tăng cường tình đoàn kết trong cộng đồng dân cư, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, kịp thời ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần bảo đảm ổn định, trật tự, an toàn xã hội, giảm bớt các vụ việc phải chuyển đến Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết, tiết kiệm thời gian, kinh phí cho Nhà nước và Nhân dân, từ đó góp phần thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển.
Đặc trưng cơ bản của Tổ hòa giải là tổ chức tự quản của Nhân dân, do Nhân dân bầu ra theo từng tổ bản, cụm dân cư. Tổ hoà giải thực hiện “hướng dẫn, thuyết phục, dàn xếp, giúp đỡ”, “dùng tình cảm để giải quyết mâu thuẫn” chứ không phải bằng phán xét, bằng quyết định, bằng quyền lực của các cơ quan nhà nước, không do cơ quan nhà nước thực hiện nên các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật trong cộng đồng dân cư khi hòa giải thành được các bên tự nguyện chấp hành, có giá trị thi hành cao. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác hoà giải, đã có những biện pháp phù hợp nhằm duy trì, củng cố và phát triển công tác hoà giải, tạo cơ sở pháp lý cho công tác này không ngừng phát triển và phát huy tác dụng tích cực đối với đời sống thông qua việc quy định trong nhiều văn bản pháp luật như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Đất đai, Hôn nhân gia đình… chính sách khuyến khích các bên giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp bằng hình thức hòa giải ở cơ sở và các hình thức hòa giải thích hợp khác.
Sở Tư pháp tổ chức Hội thảo Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn thi hành ở Quảng Bình
Về hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh đối với công tác hòa giải ở cơ sở, ngày 25/12/1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức và triển khai hoạt động hòa giải ở cơ sở. Tuy nhiên, vai trò của công tác hòa là rất lớn và cần phải được điều chỉnh bởi một đạo luật có hiệu lực pháp lý cao hơn. Vì vậy, ngày 20/6/2013, Quốc hội đã ban hành Luật Hòa giải ở cơ sở thay thế cho Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở năm 1998. Để triển khai thi hành Luật, ngày 27/02/2014 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số biện pháp triển khai thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở; ngày 18/11/2014, Chính phủ và Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cũng ban hành Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTWMTTQVN hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Để nâng cao kiến thức pháp luật và hiệu quả hoạt động cho các hòa giải viên, Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Quyết định số 4077/QĐ-BTP ngày 31/12/2014 về Chương trình khung bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên và Quyết định số 4080/QĐ-BTP ngày 31/12/2014 ban hành Kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở.
Tại Quảng Bình, để triển khai thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở, ngày 29/11/2013, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch 1376/KH-UBND về triển khai thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở. Đồng thời, để có chế độ động viên những người làm công tác hòa giải ở cơ sở, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 42/2012/NQ-HĐND ngày 12/7/2012, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 25/2012/QĐ-UBND ngày 06/9/2012 quy định về nội dung chi, mức chi và kinh phí bảo đảm cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL của HĐND, UBND các cấp và công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Hiện nay, các văn bản này đã được thay thế bởi Nghị quyết số 106/2015/NQ-HĐND ngày 17/7/2015 và Quyết định số 30/2015/QĐ-UBND ngày 25/9/2015 về quy định nội dung chi, mức chi cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL của HĐND, UBND các cấp; công tác hòa giải ở cơ sở; công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng và cần thiết để triển khai Luật Hòa giải ở cơ sở và đảm bảo cho hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì việc triển khai thi hành hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần được khắc phục như: Một số nơi việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của các Tổ hòa giải tiến hành còn chậm; hoạt động hoà giải chưa đồng đều, một số nơi còn mang tính hình thức; năng lực hòa giải viên một số nơi nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu, ảnh hưởng đến kết quả hòa giải thành ở một số địa phương; một số vụ việc quá trình hoà giải chưa giải quyết triệt để mâu thuẫn dẫn đến tình trạng mâu thuẫn kéo dài và phải chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng hoặc thủ tục hành chính; sự phối hợp giữa cơ quan Tư pháp các cấp và Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp trong xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức các Tổ hòa giải ở cơ sở, trong theo dõi hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở, trong động viên các tầng lớp Nhân dân tích cực tham gia xây dựng củng cố tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở cũng như gắn hoạt động hòa giải ở cơ sở với việc xây dựng và thực hiện các phong trào quần chúng ở địa phương chưa thường xuyên; kinh phí đảm bảo cho công tác hòa giải còn hạn chế nên việc chi cho các hoạt động hòa giải của các địa phương theo mức chi của tỉnh hầu như chưa thực hiện được.
Trên cơ sở kết quả điều tra, kết quả hội thảo, Nhiệm vụ đã đưa ra 08 giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn thi hành ở Quảng Bình, đó là:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và vai trò của Mặt trận TQVN và các tổ chức thành viên các cấp đối với công tác hòa giải ở cơ sở. Là một tổ chức quần chúng trong cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, Tổ hoà giải không thể đứng ngoài sự lãnh đạo của Đảng, không thể thiếu vai trò quản lý của Nhà nước và sự tham gia của Mặt trận và các tổ chức đoàn thể xã hội trong hoạt động hoà giải. Ủy ban Mặt trận các cấp và các tổ chức thành viên thường xuyên phối hợp chặt chẽ và phối hợp thực hiện tốt những quy định của pháp luật về hòa giải nhằm tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Nhân dân với Nhân dân, giữa Nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước để không ngừng nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp Nhân dân đối với vị trí, vai trò của công tác hòa giải ở cơ sở.
Thứ ba, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phát huy vai trò, trách nhiệm của cơ quan Tư pháp trong công tác hòa giải ở cơ sở, nhất là trong việc phối hợp với Ủy ban MTTQ và các tổ chức thành viên cùng cấp của Mặt trận để thực hiện tốt công tác hòa giải ở cơ sở.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về công tác hòa giải ở cơ sở phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo khả thi. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện hệ thống pháp luật hòa giải ở cơ sở để hoạt động hòa giải ngày càng mang lại hiệu quả thiết thực hơn.
Thứ năm, tiếp tục củng cố, kiện toàn nâng cao chất lượng tổ hòa giải và hòa giải viên thông qua việc rà soát số lượng, chất lượng đội ngũ hòa giải viên; chuẩn hóa các tiêu chuẩn, điều kiện để được công nhận là hòa giải viên; bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng hòa giải; tạo điều kiện cho hòa giải viên giao lưu, học hỏi kỹ năng hòa giải thông qua các hoạt động như thi hòa giải viên giỏi, học hỏi kinh nghiệm.
Thứ sáu, trang bị cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho cơ quan quản lý nhà nước và hòa giải viên. Tạo điều kiện cho các hòa giải viên trong việc tiếp cận thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin. Đặc biệt, UBND các cấp quan tâm bảo đảm kinh phí hoạt động cho công tác hòa giải ở cơ sở; giải quyết kịp thời, đầy đủ các chính sách, chế độ cho hoà giải viên và kinh phí cho hoạt động hoà giải để động viên những người làm công tác hòa giải, qua đó góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở.
Thứ bảy, kết hợp chặt chẽ công tác hòa giải ở cơ sở với hoàn thiện quy chế dân chủ ở cơ sở; cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; phong trào xây dựng nông thôn và thực hiện chuẩn tiếp cận pháp luật ở cơ sở. Thực hiện tốt giải pháp này là cơ sở quan trọng để góp phần đảm bảo tình hình an ninh trật tự ở địa phương, hạn chế các vụ việc tiêu cực và các xích mích trong cộng đồng dân cư.
Thứ tám, thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo; công tác thanh tra, kiểm tra; sơ kết, tổng kết và khen thưởng đối với công tác hòa giải ở cơ sở.Qua đó giúp ngành Tư pháp chủ động nắm bắt được thông tin về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở một cách sát thực để đôn đốc, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động sát thực, biết được cách làm hay, những nơi hoạt động có hiệu quả để nhân rộng mô hình trên địa bàn tỉnh. Hàng năm, thực hiện tốt việc sơ kết, tổng kết công tác hoà giải ở cơ sở để kịp thời biểu dương khen thưởng các tập thể và cá nhân có thành tích trong hoạt động hoà giải ở cơ sở.
Có thể nói rằng, việc nghiên cứu, đánh giá nghiêm túc và khoa học về những mặt tích cực, những tồn tại, hạn chế, từ đó đề ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở, nâng cao vai trò của hòa giải ở cơ sở trong đời sống xã hội là hết sức cần thiết và là một nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất trong công tác quản lý nhà nước đối với công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Tại Quảng Bình, thời gian qua trên địa bàn tỉnh chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về hòa giải ở cơ sở để tạo cơ sở cho nhiệm vụ quản lý nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền và việc tổ chức xây dựng, thực hiện hòa giải ở cơ sở được thực hiện tốt. Tin chắc rằng, với nhiệm vụ khoa học “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn thi hành ở Quảng Bình”, sau khi hoàn thiện sẽ góp phần đề xuất các giải pháp về công tác hòa giải để kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và đối tượng thực hiện vận dụng vào quá trình triển khai các nhiệm vụ về quản lý nhà nước và tổ chức triển khai công tác hòa giải ở cơ sở phù hợp nhằm phát huy tình đoàn kết, tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của từng cá nhân và của cả cộng đồng, qua đó nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn thi hành tại Quảng Bình.
Một Số Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Đấu Tranh Phòng, Chống Tội Phạm Hình Sự Trên Địa Bàn Tỉnh Quảng Bình – Công An Tỉnh Quảng Bình
Tội phạm hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình thời gian qua có xu hướng giảm, như năm 2018 xảy ra 444 vụ phạm pháp hình sự, làm chết 9 người, bị thương 128 người, thiệt hại tài sản trên 7 tỷ đồng, giảm 40 vụ, chiếm 8,26%. Qua thực tế tình hình tội phạm hình sự nổi lên một số vấn đề sau:
– Tội phạm giết người xảy ra 7 vụ, giảm 2 vụ so với năm 2017, chủ yếu là giết người do nguyên nhân xã hội, xuất phát từ những mâu thuẫn bột phát. Đáng chú ý có 4 vụ do người bị bệnh tâm thần, ngáo đá gây ra, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân.
– Tội phạm có tổ chức: Quảng Bình chưa xuất hiện các băng, nhóm tội phạm có tổ chức hoạt động theo kiểu “xã hội đen” nhưng vẫn tồn tại nhiều ổ, nhóm tội phạm có tổ chức ở mức độ giản đơn núp bóng doanh nghiệp, các công ty hỗ trợ tài chính hoạt động trên lĩnh vực “tín dụng đen”, bảo kê khai thác khoáng sản và một số hoạt động kinh doanh. Đã xảy ra các vụ sử dụng hung khí gây thương tích, hủy hoại tài sản nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa các ổ, nhóm, đối tượng côn đồ, gây phức tạp tình hình TTATXH và gia tăng các vụ gây thương tích. Điển hình như vụ cố ý gây thương tích giữa 2 nhóm thanh niên 18 đối tượng, xảy ra ngày 23/9/2018 tại xã Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch làm 7 người bị thương.
– Tội phạm xâm phạm sở hữu: So với năm 2017, tội phạm xâm phạm sở hữu năm 2018 giảm sâu. Tội phạm trộm cắp tài sản vẫn là nhóm tội chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số vụ PPHS (56,5%). Thủ đoạn chủ yếu là đột nhập nhà dân lấy xe máy, tài sản, đập phá két sắt lấy trộm tài sản. Đặc biệt trong những tháng cuối năm nổi lên tình trạng đột nhập vào các cơ quan, doanh nghiệp lấy trộm máy tính. Tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nổi lên là lừa đảo qua mạng Internet bằng hình thức huy động vốn kinh doanh tiền ảo. Một số đối tượng hack tài khoản cá nhân như Facebook, Zalo nhắn tin cho người nhà nạn nhân chuyển tiền nộp tiền học, mua hàng hóa hoặc lợi dụng các trang mạng xã hội làm quen, giả vờ tặng quà sau đó lừa chuyển tiền làm thủ tục nhận quà để chiếm đoạt, thiệt hại do hình thức lừa đảo này gây ra ngày càng lớn, có vụ thiệt hại trên 1 tỷ đồng.
Trước tình hình trên, lực lượng Cảnh sát Hình sự đã chủ động trong công tác nắm tình hình, tăng cường tham mưu, kịp thời đề xuất lãnh đạo Công an tỉnh chỉ đạo giải quyết có hiệu quả tình hình tội phạm nổi lên. Triển khai quyết liệt các biện pháp phòng ngừa xã hội, phòng ngừa nghiệp vụ, đấu tranh trấn áp mạnh mẽ với các loại tội phạm hình sự. Năm 2018 lực lượng cảnh sát Hình sự toàn tỉnh đã điều tra, khám phá 387 vụ, 714 đối tượng, đạt tỷ lệ 87,16%. Đấu tranh triệt xóa 37 nhóm, 210 đối tượng.
Thời gian tới, dự báo tình hình tội phạm hình sự sẽ có nhiều diễn biến phức tạp, có sự đan xen, chuyển hóa giữa các loại tội phạm hình sự, ma túy, kinh tế, công nghệ cao. Các hành vi sử dụng vũ khí nóng, công cụ hỗ trợ và các loại hung khí gây án có xu hướng gia tăng cả về cường độ, quy mô và tính chất. Thủ đoạn gây án ngày càng manh động và nguy hiểm hơn. Hoạt động của tội phạm sẽ có sự câu kết ngày càng chặt chẽ, làm xuất hiện những băng, nhóm tội phạm, gây khó khăn cho công tác phòng ngừa, đấu tranh trấn áp. Công tác quản lý đối tượng tâm thần, ngáo đá còn sơ hở, bất cập dễ nảy sinh các hành vi vi phạm pháp luật như giết người, gây rối TTCC.
Để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm hình sự trong thời gian tới, theo chúng tôi lực lượng Cảnh sát hình sự cần phải tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý kinh tế – xã hội, kiềm chế và khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của các loại tội phạm, không để tội phạm lợi dụng hoạt động. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các buổi họp dân, sinh hoạt đoàn thể… tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn nhân dân nắm vững các quy định của pháp luật về công tác phòng, chống tội phạm để thực hiện và tích cực tham gia; thông tin về phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm để nhân dân biết, tự chủ động phòng ngừa.
Ba là, triển khai các kế hoạch, biện pháp và mở các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm theo chuyên đề, hệ loại đối tượng, giải quyết những vấn đề phức tạp nổi lên về tội phạm hình sự trên các tuyến, địa bàn trọng điểm, tập trung vào tội phạm có tổ chức, tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm trộm cắp, cướp, cướp giật. Thực hiện tốt công tác tiếp nhận, phân loại, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và củng cố lòng tin của nhân dân vào các cơ quan thi hành pháp luật, từ đó tạo sự đồng thuận để phát huy trách nhiệm, sức mạnh của cả hệ thống chính trị, nâng cao ý chí, tinh thần kiên quyết đấu tranh trấn áp tội phạm của các cấp, các ngành, các đơn vị, địa phương trong phòng, chống tội phạm.
Bốn là, phối hợp với lực lượng cảnh sát QLHC về TTXH làm tốt công tác quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ. Thường xuyên kiểm tra các cơ sở đầu tư, kinh doanh ngành nghề có điều kiện về ANTT, nhất là các cơ sở cầm đồ, dịch vụ hỗ trợ tài chính, quản lý tốt hoạt động của các cơ sở không để tội phạm lợi dụng danh nghĩa để hoạt động phạm tội. Trong đó đặc biệt lưu ý các đối tượng có nhiều tiền án, tiền sự, đối tượng cộm cán đứng đầu các cơ sở hoạt động kinh doanh các loại hình dịch vụ này, vì đây là điều kiện dễ dàng hình thành các băng, nhóm tội phạm.
Phan Thị Cẩm Hạnh
Hoạt Động Thanh Tra Chuyên Ngành
Các vấn đề cơ bản về hoạt động của thanh tra chuyên ngành theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Hoạt động thanh tra chuyên ngành được quy định tại Khoản 3 Luật Thanh tra 2010: “là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó”
Đối tượng chịu sự thanh tra kiểm tra đa dạng, phức tạp với sự gia tăng về số lượng các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội đều có các cơ quan quản lý nhà nước. Vì thế, việc thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về từng lĩnh vực phải được tiến hành chuyên sâu, do các cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực thực hiện. Tổ chức và hoạt động nó thường do Chính phủ quy định trên cơ sở đề nghị của các bộ, ngành và phụ thuộc vài tính chất, phạm vi, đặc điểm của từng bộ, ngành đó (lĩnh vực giáo dục; lĩnh vực y tế, tài chính v.v…).
Về chủ thể tiến hành thanh tra chuyên ngành : thuộc ngành lĩnh vực chuyên môn và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra bất kì. Luật thanh tra năm 2010 quy định chủ thể tiến hành thanh tra chuyên ngành là thanh tra bộ, thanh tra sở, thanh tra cục, tổng cục và chi cục thuộc sở . Thanh tra chuyên yếu ngành có thể tổ chức đoàn hoặc có thể được thực hiện bởi thanh tra viên độc lập và trên cơ sở sự phân công nhiệm vụ.
Phạm vi thanh tra chuyên ngành luôn bị giới hạn bởi ngành lĩnh vực quản lí chính sách nhà nước, quy định pháp luật, các quy định chuyên môn có tính chất kĩ thuật với mục đích hướng tới việc kiểm soát hoạt động, bảo đảm sự chấp hành chính sách, pháp luật của mọi cơ quan, tổ chức cá nhân, phục vụ hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước bảo đảm sự trật tự, kỷ cương trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong mọi lĩnh vực khác của đời sống kinh tế xã hội.
Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Trạng Về Tổ Chức, Hoạt Động Thanh Tra Hành Chính Của Công An Tỉnh Quảng Bình Và Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt Động Thanh Tra Hành Chính – Công An Tỉnh Quảng Bình trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!