Bạn đang xem bài viết Thực Trạng Về Thực Hiện Dân Chủ Cơ Sở Ở Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Và Đơn Vị Sự Nghiệp Công Lập Của Nước Ta Hiện Nay (Qua Số Liệu Điều Tra Xã Hội Học) được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
– Phát huy quyền làm chủ của CB,CC,VC và nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị;
– Góp phần xây dựng đội ngũ CB,CC,VC là công bộc của nhân dân, có đủ phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển và đổi mới của đất nước;
– Phòng ngừa, ngăn chặn và chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu nhân dân.
Hiệu quả thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, đơn vị được đánh giá thông qua các tiêu chí cụ thể sau:
– Nhận thức, năng lực thực hành dân chủ của đội ngũ CB,CC,VC. Muốn thực hiện dân chủ trong cơ quan, đơn vị, trước hết người công chức, viên chức phải nắm bắt và hiểu biết về dân chủ cơ sở, bao gồm những việc công khai để cán bộ, công chức, viên chức được biết; những việc cán bộ, công chức, viên chức tham gia ý kiến và những việc CB,CC,VC được giám sát, kiểm tra. Điều này đóng vai trò quyết định trong việc tổ chức thực hiện dân chủ cũng như kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện dân chủ.
– Kết quả phát huy quyền làm chủ của CB,CC,VC. Đánh giá hiệu quả thực hiện dân chủ ở cơ quan, đơn vị còn được thể hiện qua kết quả thực hiện quyền làm chủ của CB,CC,VC, thể hiện qua việc CB,CC được trình bày ý kiến, đề xuất việc giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của mình khác với ý kiến của người phụ trách trực tiếp trong khi thi hành công vụ, nhưng vẫn phải chấp hành sự chỉ đạo và hướng dẫn của người phụ trách trực tiếp, đồng thời có quyền bảo lưu ý kiến và báo cáo lên cấp có thẩm quyền. Hoặc đối với viên chức, họ được quyền từ chối thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ trái với quy định của pháp luật, được quyết định vấn đề mang tính chuyên môn gắn với công việc hoặc nhiệm vụ được giao. Người CB,CC,VC được thẳng thắn đóng góp ý kiến để xây dựng nội bộ cơ quan, đơn vị trong sạch, vững mạnh.
– Kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, thể hiện qua năng suất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển và đổi mới của đất nước. Kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ hàng năm của các cơ quan, đơn vị sẽ phản ánh được sự chủ động trong xây dựng và thực hiện kế hoạch công tác; sắp xếp tổ chức bộ máy, bố trí sử dụng biên chế hợp lý, tiết kiệm, nâng cao chất lượng, hiệu suất lao động, hiệu quả trong sử dụng kinh phí, thực hành tiết kiệm, tăng thu nhập cho CB,CC,VC. Kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị cũng thể hiện chất lượng của việc ban hành quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế quản lý và sử dụng tài sản công; việc thực hiện quản lý thu, chi tài chính tại đơn vị; việc tiết kiệm chi thường xuyên theo định mức biên chế và chi bổ sung thu nhập cho CB,CC,VC và người lao động… Nếu quyền dân chủ của CB,CC,VC được đảm bảo và không ngừng phát huy thì kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị sẽ không ngừng được củng cố, nâng cao.
- Kết quả phòng ngừa, ngăn chặn và chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu nhân dân trong cơ quan, đơn vị. Đây là tiêu chí quan trọng nhằm đánh giá được hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ trong cơ quan, đơn vị. Thực hiện tốt dân chủ sẽ tạo điều kiện để các CB,CC,VC cũng như toàn xã hội tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước; CB,CC,VC sẽ dễ dàng nhận biết và chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, buộc các CB,CC,VC phải có ý thức hơn trong việc thực hiện chức trách, công vụ, nhiệm vụ của mình theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật quy định bởi, mọi hành vi vi phạm, phiền hà, sách nhiễu hay lợi dụng chức trách để tư lợi đều có thể bị phát hiện và xử lý.
– Mức độ tham gia kiểm tra, giám sát trong việc tổ chức thực hiện dân chủ của các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể như tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Ban Thanh tra nhân dân… Các tổ chức đoàn thể trong cơ quan, đơn vị có vai trò quan trọng, tạo sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong CB,CC,VC, tạo mọi điều kiện thuận lợi để động viên họ phát huy quyền làm chủ của mình. Do vậy, việc củng cố, kiện toàn các đoàn thể trong các cơ quan, đơn vị là yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ cơ sở.
2. Thực trạng tình hình thực hiện dân chủ ở cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập của nước ta hiện nay
Nhằm cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện các chủ trương, chính sách nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ cơ sở (dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn và dân chủ ở cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập), năm 2017, Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ đã thực hiện điều tra Dự án: “Điều tra thực trạng, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở”. Với quy mô điều tra gần 1.500 CB, CC, VC ở các cơ quan, đơn vị một số Bộ, ngành và địa phương về tình hình thực hiện dân chủ trong các cơ quan, đơn vị theo phương pháp lựa chọn mẫu, báo cáo tổng hợp kết quả cho thấy (đơn vị tính: tỷ lệ %):
Biết rất rõ
Biết sơ qua
Không biết
76.0
23.1
0.9
* Hình thức tiếp cận thông tin:
Tự tìm hiểu
Từ cơ quan, đơn vị
Qua thông tin đại chúng
Khác
10.4
79.6
8.4
1.6
2.2. Việc tổ chức hội nghị cán bộ, công chức, viên chức hàng năm
Tổ chức đều đặn hàng năm
Có năm không tổ chức
Chưa bao giờ tổ chức
93.3
5.9
0.8
2.4. Ý kiến nhận xét của CB, CC, VC về tình hình thực hiện việc công khai thông tin ở cơ quan, đơn vị (Theo quy định, thời hạn công khai văn bản chậm nhất là 03 ngày làm việc, trường hợp đặc biệt không quá 05 ngày kể từ ngày văn bản được ban hành hoặc kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan, đơn vị cấp trên).
Không công khai
Có được công khai
Khó trả lời
Kịp thời
Không kịp thời
1.6
93.4
3.2
1.8
4.2. Kế hoạch công tác hàng năm, hàng quý của cơ quan, đơn vị
1.4
95.0
2.6
1.0
4.3. Tài sản, trang thiết bị; kinh phí hoạt động và quyết toán hàng năm
2.6
82.6
8.4
6.4
4.4. Các chế độ, chính sách đối với CB, CC, VC
1.5
90.7
5.7
2.2
4.5. Bản kê khai tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ phải kê khai theo quy định
4.4
84.8
5.7
5.1
4.6. Các vụ việc tiêu cực, tham nhũng trong cơ quan đã được kết luận (nếu có)
3.7
59.5
3.7
33.1
4.7. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong nội bộ cơ quan, đơn vị (nếu có)
3.2
65.5
3.8
27.5
4.8. Kết quả tiếp thu ý kiến (khi lấy ý kiến) của CB, CC, VC về những vấn đề thuộc thẩm quyền của người đứng đầu cơ quan, đơn vị
3.1
82.2
5.3
9.4
2.5. Nguyên nhân của tình trạng một số thông tin chưa hoặc chậm công khai là do:
* Nguyên nhân khác: Do ý chí cá nhân người đứng đầu và sự chậm trễ trong công việc của cơ quan, đơn vị.
2.6. Hình thức thường được thực hiện để công khai thông tin cho CB,CC,VC biết
Chế độ, chính sách
Không công khai
Có công khai
Khó trả lời
Kịp thời
Không kịp thời
7.1. Về tuyển dụng
3.7
84.6
4.7
7.0
7.2. Về đào tạo, bồi dưỡng
1.3
89.8
6.0
2.9
7.3. Điều động, bổ nhiệm, luân chuyển, biệt phái
2.3
85.1
5.6
7.0
7.4. Thay đổi vị trí làm việc hoặc chức danh nghề nghiệp
1.9
84.2
6.0
7.9
7.5. Đi công tác nước ngoài
2.7
73.1
4.4
19.8
7.6. Về nâng bậc lương, nâng ngạch
1.3
92.9
3.7
2.1
7.7. Về đánh giá, xếp loại và khen thưởng CB, CC, VC
1.1
93.0
3.7
2.2
Có
Chưa
58.2
41.8
* Việc bố trí lịch hẹn có dễ dàng, thuận lợi hay không
Rất dễ dàng, thuận lợi
Có một chút khó khăn
Rất khó khăn
90.4
9.0
0.6
* Ý kiến phản ánh hay phê bình của CB, CC, VC có được người đứng đầu cơ quan/ đơn vị quan tâm, lắng nghe hay không
Có
Không
98.2
1.8
* Người đứng đầu cơ quan/ đơn vị sau đó có phản hồi/giải thích cho CB, CC, VC được biết hay không
Có
Không
97.3
2.7
2.10. Đánh giá về mức độ dân chủ trong việc tham gia ý kiến của CB,CC,VC
* Về ý thức, trách nhiệm của CB,CC,VC trong việc tham gia ý kiến
* Về sự tiếp thu ý kiến của người đứng đầu cơ quan, đơn vị
2.11. Những nội dung ở cơ quan/ đơn vị CB, CC, VC cần phải được thực hiện dân chủ hơn
2.12. Phản ứng của CB, CC, VC khi không hài lòng về tình hình thiếu dân chủ ở cơ quan/ đơn vị
2.13. Đánh giá chung về tình hình thực hiện dân chủ ở cơ quan/đơn vị CB, CC, VC công tác
2.14. Nguyên nhân chính của tình trạng chưa dân chủ trong các cơ quan/ đơn vị hiện nay là do:
Tỷ lệ %
14.1. Sự ràng buộc từ các mối quan hệ
52.2
14.2. Lợi ích nhóm
32.6
14.3. Quy định về dân chủ chưa rõ, không phù hợp
32.8
14.4. Quy chế dân chủ còn thiếu các chế tài cần thiết đảm bảo thực hiện
52.7
14.5. Sự thiếu trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị
29.0
14.6. Sự thiếu trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức
38.8
14.7. Sự phối hợp chưa tốt giữa các tổ chức trong cơ quan
47.0
14.8. Thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của tổ chức Đảng về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, đơn vị
17.8
14.9. Điều kiện vật chất, trang thiết bị còn hạn chế
28.4
14.10. Chưa phát huy hết vai trò của Ban Chấp hành Công đoàn cơ quan
33.2
14.11. Chưa phát huy hết vai trò của Ban Thanh tra nhân dân ở cơ quan
32.7
14.12. Việc thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm chưa được coi trọng
32.8
* Lý do khác: Sự phối hợp chưa tốt giữa các thành viên trong cơ quan; Nhân viên không dám phê bình cấp trên; Chưa nắm bắt kịp thời văn bản quy định.
III. Kết luận
Có thể nói rằng, việc thực hiện dân chủ trong các cơ quan, đơn vị ở Việt Nam hiện nay là tương đối tốt (thể hiện trong biểu đồ số liệu điều tra tại mục 2.13). Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế như việc thực hiện dân chủ vẫn còn hình thức, thậm chí ở một số cơ quan, đơn vị sự nghiệp vẫn còn tồn tại tình trạng chưa dân chủ trong một số hoạt động. Nguyên nhân của nó cũng đã được thể hiện qua đánh giá của CB,CC,VC tại bảng số liệu mục 2.14.
Cũng trong khuôn khổ Dự án điều tra năm 2017, Viện Khoa học tổ chức nhà nước đã trưng cầu ý kiến của gần 1.500 CB,CC,VC về giải pháp cần phải tập trung nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập. Số liệu cụ thể như sau:
Giải pháp
Tỷ lệ %
15.1.Sửa đổi văn bản pháp luật
24.9
15.2. Quy định cụ thể hơn trong việc phối hợp giữa các tổ chức trong cơ quan, đơn vị
65.6
15.3. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị
59.8
15.4. Đề cao tinh thần và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức
61.4
15.5. Đề cao vai trò của Ban Chấp hành Công đoàn cơ quan
36.9
15.6. Đề cao vai trò của Ban Thanh tra nhân dân ở cơ quan
28.1
15.7. Đề cao tinh thần gương mẫu của đảng viên
24.6
15.8. Đổi mới nhận thức của người đứng đầu CQ, đơn vị và CB, CC, VC
34.3
15.9. Tăng cường điều kiện vật chất, trang thiết bị
24.1
15.10. Kiểm tra và xử lý kịp thời những biểu hiện thiếu dân chủ
50.4
Mặc dù số liệu và kết quả điều tra về dân chủ trong cơ quan, đơn vị như đã trình bày ở trên là cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc đề xuất cơ chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả trong việc tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, điều này vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu, làm sâu sắc hơn trong thời gian tới bởi dân chủ nói chung và thực hiện dân chủ ở cơ sở nói riêng là một vấn đề phức tạp và luôn nảy sinh những vấn đề mới trong điều kiện, hoàn cảnh mới. Trong phạm vi bài viết của mình, sau đây là một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện dân chủ ở cơ quan, đơn vị:
Một là, hoàn thiện các quy định về dân chủ.
– Chính phủ đã ban hành NĐ số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, nên có văn bản quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở riêng cho cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp vì mỗi loại hình có những đặc điểm riêng trong tổ chức, hoạt động cũng như nội dung thực hiện dân chủ.
– Các văn bản quy định về dân chủ cơ sở cần được bổ sung thêm các chế tài về việc thực hiện quy chế đối với người đứng đầu đơn vị cũng như cán bộ, công chức, viên chức khi không thực hiện đúng các nội dung mà dân chủ quy định nhằm đảm bảo cho quy chế dân chủ ở cơ sở được thực hiện nghiêm minh, đúng quy định.
Hai là, chú trọng tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động về vai trò, tầm quan trọng cũng như các nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở
Ba là, nâng cao chất lượng Hội nghị CB,CC,VC
– Người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần chủ động trong việc chuẩn bị nội dung, bố trí đủ thời gian và phối hợp với Chủ tịch công đoàn chỉ đạo Hội nghị CB,CC,VC theo quy định. Bên cạnh việc lắng nghe ý kiến đóng góp, phê bình của CB,CC,VC; giải đáp những thắc mắc, kiến nghị của CB,CC,VC… thì người đứng đầu cơ quan, đơn vị cũng cần phải tạo được bầu không khí thực sự thoải mái để mọi CB,CC,VC và người lao động có cơ hội bày bỏ tâm tư, nguyện vọng của mình.
– Tăng cường giám sát việc thực hiện Nghị quyết hội nghị CB,CC,VC; phải có đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết hội nghị CB,CC,VC trước hội nghị CB,CC,VC vào 6 tháng và cuối năm.
Bốn là, khắc phục tính hình thức trong hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân trong cơ quan, đơn vị.
Thực tế cho thấy trong thời gian qua, tổ chức và hoạt động của Ban Thanh tra nhân chưa thực sự phát huy hết được chức năng, nhiệm vụ theo quy định và những kết quả đạt được vẫn còn rất hạn chế. Điều này xuất phát từ nguyên nhân chủ yếu do Ban Thanh tra nhân dân đều là cấp dưới của thủ trưởng, chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi các quyết định của thủ trưởng (quyền lợi trong công việc hàng ngày; kinh phí hoạt động của Ban Thanh tra…). Như vậy việc tổ chức Ban Thanh tra nhân dân trong cơ quan, đơn vị chưa đảm bảo rõ tính độc lập, khó có thể thực hiện được đúng bản chất của hoạt động giám sát và trên thực tế hiệu lực của hoạt động giám sát của Ban thanh tra nhân dân trong cơ quan, đơn vị quá yếu so với các chủ thể thực hiện quyền giám sát khác.
Tuy nhiên, trong thời gian tới khi vẫn duy trì Ban Thanh tra nhân dân như một thiết chế đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở ở cơ quan và đơn vị sự nghiệp, trước hết cần lựa chọn, bố trí những người có phẩm chất, năng lực tốt, được CB,CC,VC tín nhiệm làm công tác thanh tra nhân dân. Các thành viên tham gia Ban thanh tra nhân dân phải có bản lĩnh, không ngại va chạm, ý thức đầy đủ về vị trí, vai trò và phải nắm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của mình được pháp luật quy định; có nghiệp vụ hoạt động, được tập huấn cơ bản. Muốn vậy, hàng năm có kế hoạch và tổ chức các cuộc tập huấn cho cán bộ làm công tác thanh tra nhân dân về chức năng, nhiệm vụ của Ban thanh tra nhân dân, kỹ năng xây dựng kế hoạch hoạt động, tổ chức thực hiện quyền thanh tra, giám sát, xác minh vụ việc theo quy định pháp luật… nhằm nâng cao nghiệp vụ, kỹ năng, năng lực, trình độ và hiểu biết pháp luật cho người làm công tác thanh tra nhân dân. Đồng thời, cơ quan, đơn vị cần tạo điều kiện thuận lợi và bố trí nguồn kinh phí hợp lý để Ban thanh tra nhân dân hoạt động. Ban Thanh tra nhân dân phải thực hiện đúng nhiệm vụ là giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cơ quan, đơn vị.
Năm là, phát huy vai trò của các tổ chức Đảng cơ sở, các tổ chức đoàn thể quần chúng trong việc thực hiện dân chủ ở cơ quan, đơn vị.
Tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể cần phối hợp chặt chẽ, thường xuyên trong việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng phấn đấu, rèn luyện và phải là những tấm gương về thực hiện dân chủ. Mỗi tổ chức đảng phải giáo dục cho đảng viên ý thức rõ trách nhiệm chính trị và nghĩa vụ đạo đức của mình, biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến phê bình. Nếu trong Đảng thực hành được dân chủ, đoàn kết và đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư thì tình hình sẽ chuyển biến tốt đẹp, các CB,CC,VC được bảo đảm lợi ích, nhu cầu và quyền làm chủ của mình. Dân chủ trong Đảng sẽ thúc đẩy dân chủ trong cơ quan, đơn vị. Mỗi cán bộ đảng viên và đội ngũ công chức, viên chức phải gương mẫu trong đạo đức, lối sống, đề cao kỷ luật và trách nhiệm, tôn trọng và tận tụy phục vụ nhân dân. Nghiên cứu xem xét đưa kết quả xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ quan, đơn vị là một tiêu chí quan trọng để xem xét, đánh giá chi bộ, đảng bộ trong sạch, vững mạnh; đảng viên là CB,CC,VC hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Các tổ chức công đoàn, các đoàn thể cần đề xuất, tham mưu cho cấp ủy, lãnh đạo cơ quan tăng cường kiểm tra, theo dõi, đánh giá, uốn nắn việc triển khai thực hiện tại các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý để đảm bảo thực hiện đúng pháp luật, đồng thời báo cáo, đề xuất lên cấp trên có thẩm quyền để xử lý đối với những trường hợp vi phạm về dân chủ.
Sáu là, tăng cường dân chủ phải đi đôi với siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính và đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Thực hiện dân chủ nhưng luôn phải gắn với bảo đảm tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, cấp dưới phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo và chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định của cấp trên. Mỗi cá nhân phải thực hiện đúng trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Mỗi cơ quan, đơn vị phải xây dựng được chương trình, kế hoạch công tác cụ thể trên cơ sở nhiệm vụ được giao; đánh giá đúng chất lượng, trình độ, kết quả thực hiện nhiệm vụ của CB,CC,VC. Kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, gây nhũng nhiễu, phiền hà trong giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp, xử lý nghiêm việc chậm trễ trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
Bảy là, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Trước hết, người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần phải nhận thức rõ việc thực hiện dân chủ trong cơ quan, đơn vị là một thiết chế hỗ trợ rất hiệu quả cho công tác quản lý, điều hành công việc. Không nên nhìn nhận việc thực hiên dân chủ như là một đối trọng về lợi ích trong quản lý điều hành, hoạt động của cơ quan, đơn vị. Thực hiện dân chủ cơ sở tốt sẽ là công cụ giám sát có hiệu quả chính bản thân cơ quan, đơn vị, đảm bảo thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị, cảnh báo sớm những sai phạm có thể xảy đến với các quyết định của người đứng đầu hoặc trong quá trình tổ chức triển khai công tác của cơ quan, đơn vị. Chính vì vậy, người đứng đầu cần nhận thức đúng vai trò và tầm quan trọng của thực hiện dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để CB,CC,VC và các tổ chức đại diện cho quyền lợi của họ như Công đoàn, Ban Thanh tra nhân dân hoàn thành nhiệm vụ, hoặc tạo điều kiện về thời gian, vật chất để các tổ chức này hoạt động được hiệu quả.
Đồng thời, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải đảm bảo đúng trách nhiệm của mình trong thực hiện dân chủ trong quản lý và điều hành hoạt động của cơ quan, đơn vị; trong quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chế độ, chính sách đối với CB,CC,VC. Khi CB,CC,VC đăng ký được gặp và có nội dung, lý do cụ thể thì bố trí thời gian thích hợp để gặp và trao đổi; Chỉ đạo việc cung cấp đầy đủ, kịp thời những thông tin, tài liệu, cách thức tổ chức thực hiện, trách nhiệm thực hiện và trách nhiệm giải trình những nội dung công việc trong cơ quan, đơn vị…
Tám là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về việc thực hiện dân chủ ở cơ quan, đơn vị.
Xử lý nghiêm, kịp thời những hành vi vi phạm những quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở; điều chuyển, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhiều dư luận, biểu hiện tham nhũng, lãng phí, uy tín giảm sút, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Nghiêm cấm và xử lý nghiêm người đứng đầu có hành vi cản trở việc thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, đơn vị hoặc có hành vi trả thù, trù dập CB,CC,VC khiếu nại, tố cáo, kiến nghị theo quy định của pháp luật. Đồng thời, kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của CB,CC,VC và quyền làm chủ của nhân dân, cản trở việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị./.
Tài liệu tham khảo:
1. Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ (2017), Báo cáo tổng hợp Dự án điều tra cấp Bộ “Điều tra thực trạng, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở”.
2. Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 9/01/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập.
3. Thông tư số 01/2016/TT-BNV ngày 13/ 01/2016 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 04/2015/NĐ-CP.
ThS. Trần Thị Thơ, Phó Trưởng phòng
Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ
Liên Hệ Thực Tiễn Vai Trò Của Quản Lý Hành Chính Nhà Nước Ở Cơ Sở Hiện Nay
Liên hệ thực tiễn vai trò của quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở hiện nay . Liên thực trạng quản lý hành chính nhà nước ở việt nam hiện nay, liên hệ thực tế về quản lý hành chính nhà nướ qua những vai trò của quản lý hành chính nhà nước đối với sự phát triển của xã hội. Link download cuối bài
Liên hệ thực tiễn✅ vai trò của quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở hiện nay
Để thực hiện quản lý hành chính nhà nước, các cơ quan, tổ chức nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó đều phải ban hành quyết định hành chính nhà nước và thực hiện các quyết định đó. chính vì thế, mà việc ban hành và thực hiện các quyết định hành chính trong việc quản lí hành chính nhà nước của các cơ quan, chủ thể quản lí hành chính nhà nước có vai trò rất quan trọng. Có thể nói, trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước, không thể thiếu quyết định hành chính. .
1. Vai trò của quyết định hành chính trong việc bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước
Quản lí hành chính nhà nước là loại hoạt động được thực hiện chủ yếu bởi cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan hành chính, sử dụng quyền lực nhà nước để đảm bảo quản lí tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Vai trò quản lí của cơ quan nhà nước là thể chế hóa các quy định của pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành ra, đưa nó vào thực tiễn đời sống. Để làm được việc đó, thì cơ quan quản lí hành chính nhà nước phải thực hiện thông qua các biện pháp, hoạt động quản lí khác nhau, trong đó, việc ban hành quyết định hành chính đóng vai trò hết sức quan trọng.
Ví dụ : Nghị định của Chính phủ được ban hành để quy định chi tiết thi hành luật, Nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước như : Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 5 năm 2014 về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai; Nghị định số 104/2003/NĐ-CP của Chính phủ : Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số;……
2. Vai trò của quyết định hành chính trong việc thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước
Phát Huy Dân Chủ Trong Công Tác Cán Bộ Ở Nước Ta Hiện Nay: Thực Trạng Và Giải Pháp
Đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc vượng trao đổi với cán bộ xã Châu Cường (huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An), nêu rõ tính chất quan trọng của công tác chuẩn bị nhân sự cho đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ tới phải thực sự khách quan, dân chủ, không được để xảy ra bè phái, cục bộ, vận động, lôi kéo_Ảnh: chúng tôi Phát huy dân chủ trong công tác cán bộ là rất quan trọng và cần thiết
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, nhận thức rõ điều đó, trong suốt quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng công tác cán bộ mà một trong những nhiệm vụ trọng tâm là củng cố, xây dựng lực lượng cán bộ cả về số lượng và chất lượng; đồng thời, tập trung ban hành các văn bản, quy định nhằm chuẩn hóa và phát triển đội ngũ lãnh đạo các cấp.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã chỉ ra rằng: Cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo có vai trò quyết định đối với sự thành bại của cách mạng. Tiếp thu tinh thần đó, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng”, “vừa chuyên”, có đủ sức mạnh hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của Ðảng. Người đã dày công đào tạo, huấn luyện và xây dựng đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng.
Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi ra đời đến nay, Ðảng ta luôn coi công tác cán bộ là một trong những vấn đề chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Quan điểm, chủ trương của Ðảng về công tác cán bộ luôn nhất quán, coi trọng con người là hàng đầu, là nguồn lực có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Ðội ngũ cán bộ đã khẳng định vai trò đầu tàu của công cuộc đổi mới, là nhân tố quyết định trong việc thực hiện một nền hành chính hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”. Có được những thành tựu đó, không thể không kể đến những dấu ấn đậm nét trong công tác cán bộ, đặc biệt là việc thực hiện và phát huy dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ. Những năm qua, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã nhận thức được rõ vị trí, tầm quan trọng của dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; nhiều chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế, cụ thể hóa bằng quy chế, quy định, quy trình, bảo đảm dân chủ, khách quan, chặt chẽ. Các khâu, như quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ được cấp ủy và tổ chức đảng bàn bạc dân chủ và quyết định theo đa số; sự phân cấp trong công tác cán bộ được nhận thức và thực hiện tốt. Việc tổ chức góp ý, phê bình, lấy phiếu tín nhiệm đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt được tiến hành nghiêm túc, đúng Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã đẩy mạnh thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong đề bạt, bổ nhiệm, đào tạo cán bộ, nên đã củng cố được lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Kết luận số 37-KL/TW, ngày 2-2-2009, của Ban Chấp hành Trung ương khóa X, “Về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020”, yêu cầu: “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên đối với cấp dưới trong việc giáo dục và thực hiện công tác cán bộ”; xây dựng cơ chế đảng viên và nhân dân tham gia giám sát cán bộ và công tác cán bộ. Tiếp đó, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. Hội nghị Trung ương 3 khóa XI ban hành Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 1-11-2011, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, “Về những điều đảng viên không được làm”, quy định rõ không được can thiệp, tác động đến tổ chức, cá nhân để bản thân hoặc người khác được bổ nhiệm, đề cử, ứng cử, đi học, đi nước ngoài trái quy định; tạo điều kiện hoặc có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị, em ruột lợi dụng chức vụ, vị trí công tác của mình nhằm trục lợi…
Hội nghị Trung ương 5 khóa XI ban hành Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-5-2012, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, “Về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban; lập lại Ban Nội chính Trung ương và ban nội chính tỉnh, thành ủy. Trong Kết luận số 21-KL/TW có yêu cầu: “Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ, nhất là trong các khâu tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật… Có quy định cụ thể để điều chuyển, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhiều dư luận, biểu hiện tham nhũng, lãng phí, uy tín giảm sút, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ… Nghiên cứu ban hành quy định về kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn… Quy định về trách nhiệm giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm”(1). Muốn vậy, yêu cầu đầu tiên đặt ra là kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ bằng thể chế, cơ chế. Bởi lẽ, xây dựng một hệ thống thể chế, cơ chế không chỉ tạo điều kiện, môi trường cho cá nhân tự giác tuân thủ pháp luật, nguyên tắc tổ chức, mà còn dựng lên một hành lang pháp lý để không ai có thể vượt qua; từ đó, phát huy tốt những thể chế, cơ chế đủ sức trừng trị, răn đe, nếu ai vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm minh.
Thực trạng việc phát huy dân chủ trong công tác cán bộ hiện nay
Đại hội XII của Đảng đánh giá phát huy dân chủ trong công tác cán bộ: “Nhiều chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế, cụ thể hóa bằng quy chế, quy định, quy trình bảo đảm dân chủ, chặt chẽ hơn. Thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm cán bộ, trọng tâm là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, được dư luận đồng tình, có tác dụng, hiệu quả. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ về cơ bản đã thực hiện theo quy hoạch”(2). “Đổi mới bầu cử trong đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ,… để lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất, đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu”(3). Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” cũng đã đánh giá: “Các quy trình công tác cán bộ ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch, khoa học và dân chủ hơn”(4).
Để phát huy dân chủ của nhân dân trong công tác cán bộ, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 3-10-2017, “Ban hành Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức Đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Quy định yêu cầu “công khai” bản cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, không “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên; bản kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ lãnh đạo, quản lý phải kê khai theo quy định. Công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, cổng thông tin điện tử, niêm yết tại trụ sở cơ quan, đơn vị; thông qua họp báo, hội thảo, sinh hoạt chi bộ, thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội; gửi văn bản hoặc bằng các hình thức khác trong triển khai thực hiện. Theo quy định của Hiến pháp, pháp luật, người dân có quyền, có trách nhiệm lựa chọn những người đủ đức, đủ tài, xứng đáng để bầu cử, làm đại biểu của dân vào Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp.
Bên cạnh những kết quả đạt được về phát huy dân chủ trong công tác cán bộ vẫn còn một số thiếu sót cần khắc phục, như Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ và nhân dân còn hạn chế. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội(7). “Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp… chưa được ngăn chặn, đẩy lùi”(8). Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về công tác cán bộ chỉ rõ: “Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến”. “Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, “cánh hẩu” xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội”(9). Chính vì thế, có một số cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao thuộc diện Trung ương quản lý, không những không hoàn thành nhiệm vụ mà còn vi phạm pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng, phải thi hành kỷ luật… Những tồn tại, hạn chế trên đã ảnh hưởng rất lớn đến việc phát huy dân chủ trong công tác cán bộ thời gian vừa qua.
Một số giải pháp để tăng cường phát huy dân chủ trong công tác cán bộ ở Việt Nam thời gian tới
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng, đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục phát huy dân chủ trong công tác cán bộ; thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau đây:
Đại biểu bỏ phiếu bầu Ban Chấp hành Đảng bộ phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân (Hải Phòng) nhiệm kỳ 2020 – 2025_Ảnh: chúng tôi
Thứ hai, Bộ Chính trị cần sớm chỉ đạo cơ quan chức năng cụ thể hóa các định hướng của Trung ương tại Nghị quyết số 26-NQ/TW, về đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ. Để phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, Trung ương cần xây dựng và ban hành sớm cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng vào vị trí lãnh đạo quản lý, kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ. Xây dựng quy định cụ thể để việc nhận trách nhiệm từ chức, từ nhiệm trở thành nền nếp văn hóa ứng xử của cán bộ, hoàn thiện các quy định về cách chức, bãi nhiệm, miễn nhiệm để việc “có lên, có xuống”, “có vào, có ra” trở thành bình thường trong công tác cán bộ. Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xử lý nghiêm những người có sai phạm… Hằng năm, nhất là sau cả nhiệm kỳ đại hội, các cấp ủy cần phải đánh giá cụ thể kết quả đề bạt, bổ nhiệm cán bộ để rút kinh nghiệm cho nhiệm kỳ sau. Từng bước mở rộng việc thi tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Thứ ba, Đảng tiếp tục lãnh đạo Nhà nước bằng việc thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về phát huy dân chủ thành chính sách, pháp luật và tăng cường xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Bên cạnh đó, cần tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội, cùng nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ. Nhà nước cần sớm xây dựng và ban hành luật giám sát và luật phản biện xã hội. Thực hiện tốt cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám sát” công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ để phát huy dân chủ trong công tác cán bộ; sớm cụ thể hóa các chính sách, pháp luật của Nhà nước để nhân dân thực hiện thống nhất. Hiện nay, Liên hợp quốc đã tổ chức đánh giá chỉ số hạnh phúc của mỗi quốc gia hằng năm và nhiều nước trên thế giới rất coi trọng việc đánh giá chỉ số hài lòng của người dân. Vì thế, việc mở rộng hình thức này ở Việt Nam hiện nay đối với từng đối tượng lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị là rất cần thiết; trước hết, nên tập trung lấy ý kiến đối với người đứng đầu các cấp, các ngành… Thực hiện tốt việc lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân về đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là thực sự phát huy quyền làm chủ của người dân, tạo được sự đồng thuận xã hội và góp phần nâng cao năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ. Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 11-QĐ/TW, ngày 18-2-2019, “Về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân”; qua đó, phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện và đánh giá thực chất kết quả, tỷ lệ các kiến nghị, phản ánh đúng pháp luật của nhân dân được giải quyết. Cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành cần làm tốt công tác tiếp dân, đối thoại với nhân dân và giải quyết kịp thời đơn, thư, khiếu nại, tố cáo của công dân thì sẽ giảm tối đa các vụ khiếu kiện phức tạp kéo dài, nhất là trên lĩnh vực đất đai, đền bù, giải phóng mặt bằng, tổ chức tái định cư…
Thứ tư, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân thực hiện quyền giám sát, phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, nhất là lĩnh vực phát huy dân chủ trong công tác cán bộ. Đây là một trong năm đột phá về công tác cán bộ tại Nghị quyết 26-NQ/TW khóa XII, về “Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ”. Thực tế từ xưa đến nay, nếu chính quyền, người đứng đầu trọng dụng được hiền tài thì đều chỉ đạo đất nước phát triển hưng thịnh. Để thực sự đóng góp xây dựng đất nước thì ngoài việc vận động, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân cùng tham gia phát hiện, lựa chọn, giới thiệu những người đủ đức, đủ tài, thật sự xứng đáng làm đại biểu nhân dân trong Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, cần tăng cường chức năng giám sát trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các cấp, các ngành.
Thứ năm, các cấp ủy đảng tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan truyền thông làm tốt công tác tuyên truyền phổ biến các nghị quyết, quyết định, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, tạo sự chuyển biến về nhận thức cho các tầng lớp nhân dân.Báo chí và các phương tiện truyền thông giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phổ biến, tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Để chuẩn bị cho đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020 – 2025, cần tuyên truyền phổ biến rộng rãi Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30-5-2019, “Về đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, Nghị quyết số 26-NQ/ TW “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ” và các quyết định, quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã được ban hành về công tác cán bộ. Quan tâm nắm bắt tình hình thực tế, kịp thời biểu dương những cấp ủy, chính quyền phát huy dân chủ tốt trong công tác cán bộ, những tấm gương đảng viên, cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị; đồng thời, phân tích, phê phán những cấp ủy, người đứng đầu có biểu hiện độc đoán, gia trưởng trong công tác cán bộ, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng và đấu tranh kịp thời với một số phần tử cơ hội, thoái hóa, biến chất, xuyên tạc, bóp méo sự thật về “dân chủ”, “nhân quyền” làm giảm sút niềm tin của người dân đối với cấp ủy, chính quyền trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay.
Theo NGUYỄN THẾ TRUNG / Tạp chí Cộng sản
()
Những Nguyên Tắc Cơ Bản Đảm Bảo Thực Hiện Chức Năng Xã Hội Của Nhà Nước Ở Việt Nam Hiện Nay
Dưới góc độ khác, với tính cách là tổ chức đại biểu chủ quyền quốc gia, nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Giữa các chức năng của nhà nước có sự tác động qua lại nhau. Việc thực hiện chức năng xã hội là phương thức và điều kiện để thực hiện chức năng thống trị chính trị của giai cấp.
Đối với nước ta trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN cần thực hiện những nguyên tắc cơ bản sau:
Đảng Cộng sản là hạt nhân lãnh đạo trong hệ thống chính trị của xã hội XHCN. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân và sức mạnh của Nhà nước. Thông qua nhà nước XHCN Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với các quá trình phát triển của xã hội. Thực chất của sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là lãnh đạo chính trị mang tính định hướng.
Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bao gồm nhiều mặt. Trước hết, Đảng vạch ra đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và phương hướng hoạt động cho Nhà nước, Đảng lãnh đạo bằng giáo dục, thuyết phục; bằng tổ chức, hướng dẫn kiểm tra, giám sát cơ quan nhà nước thực hiện đường lối của Đảng. Bằng việc thông qua chương trình, kế hoạch hoạt động, bằng pháp luật và các chế độ ban hành của Nhà nước mà biến đường lối chính trị của Đảng thành ý chí và hành động cách mạng của quần chúng. Cán bộ, đảng viên của Đảng thông qua sự lựa chọn và tín nhiệm của quần chúng mà đảm đương các chức vụ trong bộ máy nhà nước.
Đảng lãnh đạo thông qua vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên và các cơ quan của Đảng trong việc chấp hành đường lối của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Đảng cùng với Nhà nước tuyên truyền giáo dục, vận động, tổ chức nhân dân chấp hành đường lối của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng bao gồm cả giám sát, kiểm tra thực hiện đường lối, kịp thời tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối chính sách cho phù hợp với thực tế cuộc sống. Để làm tròn vai trò lãnh đạo Nhà nước, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới cả nội dung và phương thức lãnh đạo cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Hiệu quả quản lý của Nhà nước là tiêu chuẩn để đánh giá sự lãnh đạo của Đảng.
Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước, Đảng phải có đường lối đúng đắn, sáng tạo. Đường lối đó phải lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận phương pháp luận, vừa phải xuất phát từ đặc điểm kinh tế – xã hội của đất nước, bám sát thực tiễn sinh động của sự nghiệp đổi mới. Nó là kết quả không chỉ ở sự vững vàng về bản lĩnh chính trị mà còn là sự phát triển cao của năng lực trí tuệ và phương pháp tư duy khoa học. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng đại này, Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực trí tuệ, thực hiện tốt công tác chỉnh đốn Đảng làm cho Đảng không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu.
Đội ngũ cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nói chung và việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước nói riêng.
V.I.Lênin viết: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cán bộ là người đem chính sách của Đảng, của chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Đội ngũ cán bộ chẳng những là lực lượng tham gia xây dựng phát triển và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng mà còn là lực lượng có vai trò quyết định sự thành bại của đường lối chính sách. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của Đảng. Đảng là người định hướng chính trị, là nơi đào tạo và tiến cử nhân tài, là người cung cấp cán bộ cho các cơ quan nhà nước. Đây vừa là nội dung vừa là phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước.
Cùng với việc hoạch định đường lối, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước là một trong những nội dung và là phương thức quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng.
Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa, để thực hiện tốt chức năng xã hội của Nhà nước không thể không thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát. Văn kiện Đại hội X chỉ rõ: “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát với nhận thức và yêu cầu mới; công tác kiểm tra, giám sát phải góp phần phát hiện và khắc phục được những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha; bên cạnh việc tiếp tục thực hiện kiểm tra tổ chức và cá nhân đảng viên có dấu hiệu vi phạm, phải tăng cường chủ động giám sát, kiểm tra về phẩm chất đạo đức và kết quả thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, về nhận thức và chấp hành Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Coi trọng kiểm tra, phát hiện nhân tố tích cực”(2)
Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, song chính trị không đóng vai trò thụ động mà tác động trở lại đối với kinh tế. V.I.Lênin nhiều lần khẳng định chính trị chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế. Thắng lợi hay thất bại về chính trị trực tiếp đe dọa sự sống còn của một chế độ xã hội nhất định. Chính trị của một giai cấp cầm quyền có vai trò to lớn chỉ đạo, định hướng hoạt động kinh tế của toàn xã hội, bảo đảm những lợi ích cơ bản, lâu dài của giai cấp đó. V.I Lênin khẳng định, không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể nào hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất. Chính trị không chỉ tác động trở lại, mạnh mẽ đối với kinh tế mà còn chi phối mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.
Quán triệt nguyên tắc thống nhất biện chứng giữa kinh tế và chính trị, cũng như vai trò của chính trị đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, Đảng ta khi chủ trương đồng thời đổi mới kinh tế và chính trị thì đối với lĩnh vực chính trị cần thận trọng, cân nhắc từng bước một sao cho đổi mới mà không dẫn đến, mất ổn định. Trong chiến lược 10 năm 2001- 2010, Đảng ta chỉ rõ, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
Bảo đảm sự ổn định chính trị sở dĩ là nguyên tắc thực hiện thắng lợi chức năng xã hội của Nhà nước vì:
– Sự ổn định chính trị tạo ra tiền đề, điều kiện cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan để tận dụng về nguồn vốn, thành tựu khoa học công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý kinh tế và mở rộng thị trường để phát triển kinh tế xã hội. Nếu không có được sự ổn định về chính trị thì không thể tiến hành hội nhập thắng lợi.
– Sự ổn định chính trị vừa là kết quả vừa là nguyên nhân để tăng cường quốc phòng an ninh, bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Bởi vậy đấu tranh chống âm mưu “Diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ, ban hành và thực hiện các chủ trương chính sách đúng đắn để phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị là nhiệm vụ có ý nghĩa rất quan trọng trong thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước.
– Sự ổn định chính trị là điều kiện quan trọng để thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
Những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ổn định chính trị, sự nghiệp đổi mới đất nước thu được những thành tựu to lớn đáng tự hào. Chính sự ổn định chính trị là một trong những tiền đề, điều kiện quan trọng cho những thành tựu của hơn 20 năm đổi mới đất nước. Sự nghiệp đổi mới đất nước đi vào chiều sâu, nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp nảy sinh. Thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước cũng đứng trước những yêu cầu mới cao hơn, càng đòi hỏi phải đảm bảo sự ổn định chính trị.
Mục tiêu lý tưởng XHCN mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử xã hội, với xu thế của thời đại và nguyện vọng thiết tha của nhân dân trong suốt mấy chục năm qua. Độc lập dân tộc gắn với CNXH là quy luật của cách mạng XHCN là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và nhân dân ta. Tuy nhiên trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều phức tạp, việc giữ vững định hướng XHCN rất khó khăn. Đó là cuộc đấu tranh quyết liệt và phức tạp giữa định hướng XHCN với các thế lực cản trở và những nguy cơ, thách thức. Cuộc đấu tranh đó diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hóa, đối ngoại, an ninh quốc phòng…
Giữ vững định hướng XHCN vừa là mục tiêu vừa là, điều kiện, động lực của sự nghiệp đổi mới. Không quan tâm đúng mức để gây ra sự chệch hướng dù bất cứ một lĩnh vực nào cũng làmtổn hại đến sự nghiệp đổi mới, thậm chí đe dọa đến phát triển của dân tộc. Trong hơn 20 năm đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp nhằm giữ vững định hướng XHCN. Tuy nhiên, Đảng cũngchỉ rõ, trong quá trình thực hiện đã phạm một số khuyết điểm, lệch lạc kéo dài, dẫn đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này, mức độ khác. Nếu không được khắc phục có hiệu quả thì những khuyết điểm lệch lạc đó sẽ làm suy yếu Đảng, làm mục ruỗng bộ máy nhà nước, biến chất chế độ, đưa đất nước đi chệch con đường XHCN. Hiện nay đất nước ta đã gia nhập WTO, vận hội mới cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước đã mở. Tuy nhiên, những thách thức to lớn, nghiệt ngã đãxuất hiện đặt ra yêu cầu rất cao và có tính nguyên tắc của vấn đề giữ vững định hướng XHCN.
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có những đặc trưng cơ bản là: Nhà nước của dân, do dân, vì dân, quyền lực Nhà nước thống nhất không phân chia nhưng có sự phân công, phối hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là công cụ của các tầng lớp nhân dân Việt Nam dùng để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội XHCN, công cụ để tiến hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, để thực hiện có hiệu quả chức năng xã hội của Nhà nước, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là một nguyên tắc cơ bản vì:
– Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị thì kinh tế quyết định chính trị. V.I.ênin cho rằng, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Với kinh tế thị trường thì nhà nước tương ứng với cơ sở kinh tế ấy phải là nhà nước pháp quyền. Chúng ta chủ trương thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN (nhằm mục đích quá độ lên CNXH) thì nhà nước tương ứng với cơ sở kinh tế đó phải là Nhà nước pháp quyền XHCN. Trong nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau (nhất là khác nhau về sở hữu tư liệu sản xuất) do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế khác nhau. Các chủ thể kinh tế này độc lập tự chủ về vốn, về sản xuất kinh doanh, về thị trường, công nghệ, lao động và tiêu thụ sản phẩm. Quyền tự chủ về kinh tế được thể hiện ở quyền thành lập doanh nghiệp, quyền tự do ký kết các hợp đồng kinh tế… Kinh tế thị trường đặt ra yêu cầu rất cao đối với tính tự chịu trách nhiệm, tính chủ động sáng tạo và nỗ lực cá nhân. Để khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng kinh tế – xã hội và tính chủ động sáng tạo của các chủ thể kinh tế, của mọi thành phần kinh tế cũng như mỗi con người, phải xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Trong những năm qua, bên cạnh những thành tựu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, góp phần quan trọng tạo nên những thành tựu to lớn đáng tự hào của sự nghiệp đổi mới đất nước, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng tồn tại nhiều yếu kém, bất cập, nổi lên là: Bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, quan liêu, hiệu lực không cao, cơ chế vận hành còn chồng chéo, pháp luật kỷ cương không nghiêm, một bộ phận không nhỏ cán bộ, viên chức nhà nước thoái hóa biến chất…
Để bảo đảm thực hiện có hiệu quả chức năng xã hộicủa nhà nước cần đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ là khát vọng, là mục tiêu mà con người vươn tới, đồng thời là động lực to lớn thúc đẩy con người hành động. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định dân chủ có nghĩa dân là chủ và dân làm chủ. Một khi nhân dân là chủ, làm chủ mọi quyền lực xã hội sẽ khơi dậy được sức sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Để phát huy những thuận lợi các nguồn lực trong nước, tranh thủ những nguồn lực từ bên ngoài đòi hỏi phải thực hiện dân chủ.
Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện môi quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân”(3). Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, để thực hiện có hiệu quả chức năng xã hội của Nhà nước tất yếu phải thực hiện và phát huy dân chủ XHCN.
Thực tế những năm đổi mới đất nước cho thấy ở đâu không thực hiện tốt dân chủ hay dân chủ hình thức thì ở đó có không ít cán bộ nhà nước độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng… làm cho người dân bất bình tạo nên những điểm nóng, kinh tế – xã hội của địa phương không phát triển.
(1) V.I.Lênin toàn tập, NXB Tiến bộ, M.1974, tập 4, tr.473.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X, NXBCTQG, H.2006, tr.302.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX, NXBCTQG, H.2001, tr.134.
(LUATMINHKHUE.VN: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Trạng Về Thực Hiện Dân Chủ Cơ Sở Ở Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Và Đơn Vị Sự Nghiệp Công Lập Của Nước Ta Hiện Nay (Qua Số Liệu Điều Tra Xã Hội Học) trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!