Bạn đang xem bài viết Thực Trạng Và Một Số Giải Pháp Nhằm Quản Lý, Sử Dụng Đất Đai Có Hiệu Quả Ở Tây Nguyên được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Kết quả thống kê đất đai năm 2011 do Tổng cục quản lý đất đai thực hiện, nếu căn cứ vào mục đích sử dụng đất, 5,4 triệu ha đất Tây Nguyên được sử dụng như sau:
Đất sản xuất nông nghiệp chiếm 36,29%; đất lâm nghiệp chiếm 51,8%; đất phi nông nghiệp chiếm 6,48% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó, 15% diện tích là đất ở, 83% là đất chuyên dùng. Đất chưa sử dụng chiếm 5,23% tổng diện tích tự nhiên. Hầu hết diện tích (92,7%) là đất đồi núi. So sánh với các số liệu điều tra đất đai năm 2000, kiểm kê đất đai năm 2005 và 2010 thì diện tích, cơ cấu sử dụng đất đã biến động rất lớn và liên tục theo hướng tăng diện tích đất sản xuất nông nghiệp, đất ở và đất chuyên dùng, giảm diện tích đất lâm nghiệp và đất chưa sử dụng.
Tính từ năm 2000 đến năm 2011, diện tích đất sản xuất nông nghiệp đã tăng 60,92%; trong đó, đất trồng cây hằng năm tăng 67%, đất trồng cây lâu năm tăng 57,23%. Diện tích đất ở tăng 59,85%, trong đó đất ở đô thị tăng 92%, đất ở nông thôn tăng 51,5%. Diện tích đất chuyên dùng tăng 47,94%. Phần diện tích tăng thêm của các loại đất nói trên được bổ sung từ việc chuyển mục đích sử dụng đất lâm nghiệp và khai thác quỹ đất chưa sử dụng. Cùng với đó, diện tích đất lâm nghiệp trong thời gian tương ứng đã giảm 5,44%; trong đó đất rừng sản xuất giảm 2,13%, đất rừng phòng hộ giảm 7,08%, đất rừng đặc dụng tăng 18,83% do tăng số lượng và mở rộng diện tích các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên. Diện tích đất chưa sử dụng cũng giảm 27,23%.
Căn cứ theo đối tượng sử dụng đất thì hộ gia đình, cá nhân được giao sử dụng 39,45%; các tổ chức trong nước sử dụng 60,22% tổng diện tích đất tự nhiên; trong đó, UBND cấp xã sử dụng 0,26%, tổ chức kinh tế sử dụng 29,64%; cơ quan, đơn vị của nhà nước sử dụng 29,33%, các tổ chức khác sử dụng 0,99%. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng 0,11%, cộng đồng dân cư sử dụng 0,22%, hai đối tượng này chủ yếu sử dụng đất lâm nghiệp.
Phần lớn diện tích đất sản xuất nông nghiệp được giao cho các hộ gia đình và cá nhân sử dụng (84,63% diện tích đất sản xuất nông nghiệp; 92,41% diện tích đất trồng cây hằng năm và 78,75% diện tích đất trồng cây lâu năm). Các tổ chức kinh tế sử dụng 13,96% diện tích đất sản xuất nông nghiệp, 6,45% đất trồng cây hằng năm và 19,36% đất trồng cây lâu năm.
Trong khi đó thì việc sử dụng đất lâm nghiệp lại diễn biến theo chiều ngược lại, phần lớn diện tích đất lâm nghiệp được giao cho các tổ chức kinh tế (42,09%) và cơ quan, đơn vị nhà nước (52,8%) sử dụng. Trong đó, tổ chức kinh tế sử dụng 67,58% diện tích đất rừng sản xuất, 17,53% diện tích đất rừng phòng hộ và 1,29% diện tích đất rừng đặc dụng; cơ quan, tổ chức nhà nước sử dụng 24,4% diện tích đất rừng sản xuất, 79,78% diện tích đất rừng phòng hộ và hầu hết diện tích đất rừng đặc dụng (98,71%). Các hộ gia đình và cá nhân chỉ sử dụng 3% diện tích đất lâm nghiệp, hầu hết (99,98%) là đất rừng sản xuất, trong đó 70% là đất rừng tự nhiên.
Kết quả phân tích là vậy song trên thực tế việc sử dụng đất trong một số trường hợp lại không diễn ra như các con số và mong muốn của các nhà quản lý. Gia tăng dân số cộng với sự lên ngôi của một số loại cây, nhất là một số cây công nghiệp lâu năm đã làm cho quan hệ quản lý, sử dụng đất đai bị biến dạng, không theo quy định của pháp luật và các quy hoạch đã được phê duyệt.
Tại Quyết định số 168/2001/QĐ-TTg về việc định hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 và những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế – xã hội vùng Tây Nguyên ngày 30/10/2001 và Quyết định số 25/2008/QĐ-TTg ngày 05/02/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội đối với các tỉnh vùng Tây Nguyên đến năm 2010 đều xác định mục tiêu nâng độ che phủ rừng lên 65% với diện tích rừng tương ứng là 3,54 triệu ha nhưng trên thực tế diện tích rừng bị suy giảm nhanh cả về diện tích và chất lượng.
Theo số liệu thống kê, năm 2001 Tây Nguyên có 3,02 triệu ha rừng thì đến năm 2005 diện tích này còn 2,97 triệu ha, độ che phủ rừng còn 54,54% và đến năm 2010 diện tích rừng giảm xuống còn 2,87 triệu ha, độ che phủ 51,9% (thấp hơn 13,1% so với mục tiêu). Năm 2011, theo thống kê diện tích rừng Tây Nguyên còn 2,81 triệu ha, độ che phủ 51,34% nhưng theo kết quả giải đoán ảnh viễn thám thì diện tích rừng Tây Nguyên chỉ còn 2,66 triệu ha, độ che phủ 48,6% (trong đó rừng tự nhiên và rừng trồng có trữ lượng chỉ còn 2,03 triệu ha, độ che phủ 37,2%). Như vậy, so với mục tiêu, diện tích rừng năm 2011 theo thống kê thấp hơn so với mục tiêu 730 ngàn ha, độ che phủ thấp hơn 13,66%; theo kết quả giải đoán ảnh viễn thám thì diện tích rừng thấp hơn mục tiêu 880 ngàn ha, độ che phủ thấp hơn 16,4%.
Đối với diện tích đất trồng một số cây công nghiệp tăng rất nhanh so với mục tiêu. Quyết định số 168/2001/QĐ-TTg xác định mục tiêu đến năm 2005 Tây Nguyên có 31 ngàn ha và năm 2010 có 60 ngàn ha điều nhưng đến năm 2005 diện tích điều của Tây Nguyên đã đạt 102,62 ngàn ha và đến năm 2010, mặc dù phải tranh chấp với cây cao su và các cây trồng có giá trị kinh tế cao hơn, diện tích điều vẫn còn 91,14 ngàn ha. Tại Quyết định số 25/2008/QĐ-TTg xác định mục tiêu đến năm 2010 “giảm diện tích cà phê ở những nơi thiếu nước, sản xuất kém hiệu quả, để ổn định diện tích khoảng từ 33 – 35 vạn ha” nhưng đến năm 2010 diện tích cà phê của vùng đã đạt 49,86 vạn ha và đến năm 2011 tăng lên 52,76 vạn ha. Cũng tại Quyết định số 936/QĐ-TTg ngày 18/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng Tây Nguyên đến năm 2020 xác định mục tiêu “ổn định diện tích cây cà phê” nhưng 9 tháng đầu năm 2012, các tỉnh Tây Nguyên vẫn tiếp tục trồng mới 4.321 ha cà phê.
Phần lớn diện tích tăng thêm của các cây trồng nói trên được chuyển đổi mục đích một cách tự phát. Người dân phá rừng trái phép để lấy đất hoặc tự chuyển đổi diện tích từ loại đất (theo mục đích sử dụng) khi loại cây trồng này có giá trị kinh tế cao hơn cây trồng khác. Nguyên nhân của tình trạng trên một phần do sự yếu kém trong quản lý đất đai, sự bất cập của các quy hoạch sử dụng đất khi không căn cứ vào nhu cầu sử dụng đất thực tế tại địa phương và các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; một phần do việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách kinh tế – xã hội còn nặng về sử dụng biện pháp hành chính, chưa có giải pháp kinh tế phù hợp cũng như nguồn lực bảo đảm cho việc thực hiện các giải pháp đó.
Xét theo thời gian, nếu như trước ngày giải phóng miền Nam, hầu hết đất đai ở Tây Nguyên do các cộng đồng dân cư và các hộ gia đình (phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số gốc Tây Nguyên) quản lý và sử dụng nhưng từ sau ngày giải phóng miền Nam, cùng với việc chuyển đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý, Nhà nước đã thực hiện việc điều động dân cư, lao động để xây dựng hàng loạt nông, lâm trường, các khu kinh tế mới; quan hệ đất đai ở Tây Nguyên đã có sự thay đổi căn bản. 21% diện tích đất trồng cây công nghiệp lâu năm và hầu hết diện tích đất lâm nghiệp (95%) do các tổ chức trong nước sử dụng. Các hộ gia đình chỉ sử dụng 39% tổng diện tích tự nhiên. Trong số diện tích do các hộ gia đình sử dụng, các chủ trang trại và hộ gia đình người Kinh và dân tộc thiểu số phía Bắc do có vốn, có kinh nghiệm sản xuất, cũng thông qua việc chuyển nhượng đất đai của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ để giành quyền sử dụng những diện tích lớn và thuận lợi cho sản xuất. Do đó, đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ vốn sống nhờ rừng thông qua việc săn bắn, hái lượm và canh tác theo lối luân canh trên rất nhiều mảnh rẫy ở trong rừng bị thu hẹp môi trường sản xuất truyền thống, không theo kịp tiến bộ kỹ thuật mà người Kinh và các dân tộc thiểu số nơi khác đến ứng dụng, sản xuất và đời sống tuy được nâng lên nhưng họ vẫn cảm thấy bị thua thiệt, khó khăn.
Trong những năm gần đây, chính quyền các cấp đã giành nhiều nguồn lực để hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất, việc làm cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nhưng đến nay vẫn còn hàng ngàn hộ thiếu đất sản xuất và con số này còn tiếp tục gia tăng do áp lực tăng dân số. Nếu không có những giải pháp cơ bản, lâu dài để giải quyết tình trạng thiếu đất dẫn tới thiếu việc làm – thu nhập thì sẽ rất khó khăn cho việc duy trì sự ổn định của Tây Nguyên. Bên cạnh đó, trong những năm qua việc triển khai các dự án kinh tế – xã hội trên địa bàn Tây Nguyên đã chiếm dụng nhiều diện tích đất nông nghiệp, ảnh hưởng đến sản xuất của người dân. Riêng việc triển khai các dự án thuỷ điện, với 163 dự án đã và đang nghiên cứu, đầu tư xây dựng, đã có 25.269 hộ dân bị ảnh hưởng (trong đó 5.617 hộ dân phải tái định cư); chiếm dụng 65.239,2 ha đất các loại (tương đương 1,2% tổng diện tích đất tự nhiên toàn khu vực), trong đó có 452 ha đất ở, 742,1 ha đất trồng lúa, 21.819,7 ha đất trồng màu và các cây lâu năm.
Song, khi thu hồi đất, một số địa phương và chủ đầu tư không căn cứ vào nhu cầu sử dụng đất của dân cư địa phương để bố trí mà thường căn cứ vào định mức hỗ trợ đất sản xuất cho hộ dân tộc thiểu số nghèo theo Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng chính phủ (Mức giao đất sản xuất tối thiểu một hộ là 0,5 ha đất nương, rẫy hoặc 0,25 ha đất ruộng lúa nước một vụ hoặc 0,15 ha đất ruộng lúa nước hai vụ) để cấp đất tái định canh cho các hộ bị mất đất phải di dời, phần còn lại bồi thường bằng tiền. Do đó, chỉ sau một thời gian, người dân lại thiếu đất sản xuất và khi tiêu hết tiền bồi thường thì cuộc sống lại gặp rất nhiều khó khăn. Tại một số dự án nông, lâm nghiệp, chủ đầu tư không lưu ý đến phong tục tập quán của đồng bào địa phương, cho san ủi cả những diện tích nghĩa địa, rừng thiêng, rừng giàng, gây bức xúc cho cộng đồng tại địa phương.
Từ thực tế trên, qua trao đổi, ông Trần Đức Thanh, Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế – xã hội Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần quản lý, sử dụng có hiệu quả hơn quỹ đất Tây Nguyên trong thời gian tới như sau:
Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cần gắn liền với việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và nhu cầu sử dụng đất tại địa phương. Quy hoạch sử dụng đất trước hết phải bảo đảm nhu cầu đất ở, đất sản xuất của nhân dân địa phương, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời đáp ứng nhu cầu sử dụng đất của các ngành, các thành phần kinh tế trong từng thời kỳ. Quy hoạch sử dụng đất nông, lâm nghiệp cần căn cứ điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội để bố trí quỹ đất cho các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế của vùng; đồng thời chú trọng bảo vệ và phát triển rừng, vừa bảo đảm mục tiêu phát triển kinh tế, vừa bảo đảm mục tiêu bảo vệ môi trường, góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa, lịch sử của đồng bào các dân tộc tại chỗ, góp phần khắc phục tình trạng phá rừng bừa bãi, phát triển nông lâm nghiệp không có hoặc không theo quy hoạch. Quy hoạch sử dụng đất cho xây dựng hạ tầng và phát triển các ngành, các dự án kinh tế phải căn cứ vào dự báo về nhu cầu và khả năng phát triển của ngành, địa phương, tránh tình trạng quy hoạch treo, thu hồi đất của dân rồi bỏ hoang không sử dụng.
Bên cạnh đó, cần xây dựng quy hoạch, kế hoạch giải quyết đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là đồng bào gốc Tây Nguyên. Để làm tốt điều này, trước hết cần xây dựng các chỉ tiêu thống kê để tổ chức thu thập, tổng hợp tình hình sử dụng đất trong đồng bào dân tộc thiểu số làm căn cứ cho việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch. Quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch cần ưu tiên giải quyết đất sản xuất cho các hộ hiện đang thiếu đất sản xuất, đồng thời tính đến sự gia tăng nhu cầu sử dụng đất trong dài hạn do gia tăng dân số. Nghiên cứu, ban hành các quy định nhằm chấm dứt tình trạng bán đất dẫn tới thiếu đất trong đồng bào dân tộc thiểu số gốc Tây Nguyên.
Ở góc nhìn văn hóa, cần thực hiện thí điểm tiến tới nhân rộng mô hình chuyển một phần diện tích đất rừng sản xuất hiện do các tổ chức kinh tế đang sử dụng để xây dựng thí điểm mô hình buôn làng Tây Nguyên truyền thống (có đất sản xuất nông nghiệp, rừng, sông suối…) để góp phần bảo tồn không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào Tây Nguyên.
Một giải pháp cần chú ý là khi triển khai các dự án kinh tế – xã hội trên địa bàn, cần nghiên cứu kỹ điều kiện kinh tế – xã hội và nhu cầu sử dụng đất của số dân bị thu hồi đất để có giải pháp bồi thường phù hợp, không để người dân thiếu đất sản xuất. Cụ thể: Đối với số dân sinh sống hoàn toàn bằng sản xuất nông nghiệp thì chỉ bồi thường bằng tiền sau khi đã bảo đảm bố trí đủ quỹ đất để họ có thể duy trì sản xuất, bảo đảm cuộc sống tốt hơn nơi ở cũ như chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, có giải pháp hỗ trợ về hạ tầng, điều kiện và kiến thức sản xuất… để họ từng bước thích nghi được với điều kiện sản xuất và sinh sống tại nơi ở mới. Đối với các dự án nông – lâm nghiệp, doanh nghiệp – đơn vị triển khai dự án phải bảo đảm cho người bị thu hồi đất tham gia và hưởng lợi từ dự án (cho thuê đất, góp cổ phần bằng giá trị quyền sử dụng đất, tuyển dụng lao động…) để họ có thu nhập ổn định, phát triển kinh tế và bảo đảm cuộc sống lâu dài.
Và cuối cùng việc giải quyết đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số phải kết hợp với đào tạo nghề và giải quyết việc làm (kể cả xuất khẩu lao động). Phải kiên trì vận động, thuyết phục để đồng bào thích nghi dần với tác phong công nghiệp và sinh hoạt tập thể. Từ đó, chuyển dần một bộ phận lao động trẻ sang khu vực công nghiệp – dịch vụ để giảm dần áp lực thiếu đất dẫn tới phá rừng tập thể.
Luận Văn Thực Trạng Và Giải Pháp Nhằm Hoàn Thiện Bộ Máy Quản Lý Về Đất Đai Việt Nam
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động và cùng với quá trình lịch sử phát triển kinh tế – xã hội, đất đai là điều kiện chung của lao động. Đất đai đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nếu không có đất đai thì rõ ràng không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, một quá trình lao động sản xuất nào, cũng như không thể nào có sự tồn tại của loài người. Bởi vì, đất là tư liệu sản xuất chính không thể thay thế được của một số ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp. Đất đai là địa điểm để đặt máy móc, kho tàng, bến bãi, nhà xưởng, tạo chỗ đứng cho công nhân trong sản xuất công nghiệp. Vì thế quản lý và sử dụng đất đai một cách hợp lý và có hiệu quả là mục tiêu cực kỳ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ở nước ta, vấn đề về sử dụng và quản lý đất đai luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Để phù hợp với bước chuyển đổi từ cơ chế kinh tế bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường có định hướng XHCN. Những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm đảm bảo sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước, đồng thời khuyến khích được các tổ chức và các cá nhân sử dụng đất đai cho mục đích phát triển kinh tế trong khuôn khổ của pháp luật. Tuy nhiên, quản lý và sử dụng đất đai trong thực tế đời sống xã hội còn nảy sinh ra nhiều vấn đề cần được giải quyết. Do đó, để quản lý tốt tình hình sử dụng đất đai phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống và phát triển kinh tế đất nước là một việc khó khăn, đòi hỏi phải có một bộ máy quản lý khoa học và hiện đại, phù hợp với thực tế phát triển của xã hội. Đó là một bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương, những người tổ chức và điều hành bộ máy có đầy đủ năng lực về chuyên môn và phẩm chất của người cán bộ quản lý. Từ năm 1986 đến nay, bộ máy quản lý đất đai nước ta có nhiều thay đổi, nhưng mốc quan trọng nhất là năm 1994, khi Chính phủ ra Nghị định 34/CP về việc thành lập Tổng cục Địa chính trên cơ sở hợp nhất và tổ chức lại Tổng cục Quản lý Ruộng đất và Cục Đo đạc – Bản đồ. Từ đó đến nay công tác quản lý đất đai nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể, tuy nhiên nước ta mới chuyển đổi nền kinh tế hơn nữa công tác quản lý đất đai là một công tác phức tạp và khó khăn nên trong một thời gian ngắn Chính phủ Việt Nam chưa thể tổ chức được bộ máy quản lý đất đai đáp ứng được hết những nảy sinh trong thực tế các hoạt động xã hội, kinh tế và đời sống của nhân dân ngay được. Vì thế trong thời gian tới để tổ chức được một bộ máy quản lý đất đai hoạt động có hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế và sinh hoạt của nhân dân thì chúng ta cần phải xem xét thực trạng của bộ máy hiện nay để rút ra được những ưu điểm, nhược điểm. Để tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai của nước ta trong thời gian tới. Vì những lý do trên em chọn nghiên cứu đề tài cho Luận vcăn tốt nghiệp: “Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý về đất đai Việt Nam”. Mục tiêu nghiên cứu: Đề tài đánh giá hệ thống quản lý đất đai hiện nay dựa trên cơ sở tổ chức quản lý bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong bộ máy quản lý đồng thời đưa ra một số giải pháp dựa trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực tế trong nước và tổ chức bộ máy quản lý đất đai của một số nước trong khu vực và trên thế giới. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này nghiên cứu lý luận cơ bản về đất đai, kết hợp với việc tham khảo các mô hình trên thế giới và phân tích đánh giá mô hình hiện tại của Việt Nam để xây dựng những luận cứ khoa học và phương pháp luận. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu lý thuyết trên cơ sở phân tích và đánh giá hiệu quả một số mô hình trên, so sánh với thực tiễn Việt Nam để đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy của Việt Nam. Đề tài có kết cấu như sau: Lời nói đầu, Chương I: Cơ sở khoa học về tổ chức bộ máy Quản lý đất đai. Chương II: Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý đất đai Việt Nam. Chương III: Quan điểm và những giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý đất đai Việt Nam. Kết luận
Quản Lý Nhà Nước Về Đất Đai Và Vấn Đề Quy Hoạch Sử Dụng Đất Đai
Quản lý nhà nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu nhà nước về đất đai,.. Cùng tìm hiểu về khái niệm quản lý nhà nước về đất đai và các nguyên tắc quản lý nhà nước về đất đai ở bài viết sau đây:
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên nhưng lại đóng vai trò quan trọng cho tồn tại và phát triển của loài người, lại là nguồn lực khan hiếm không thể tạo ra được. Vì vậy nó trở nên vô cùng quý giá của loài người, là điều kiện cho sự sống của động, thực vật và con người trên trái đất.
Quản lý Nhà nước về đất đai và vấn đề quy hoạch sử dụng đất đai
Đất đai tham gia mọi hoạt động kinh tế xã hội. Nó là địa điểm cho mọi hoạt động kinh tế xã hội, nó cung cấp mặt bằng cho một số ngành sản xuất vật chất như xây dựng, nông nghiệp, công nghiệp, khai khoáng ….Không những thế đất đai kết
hợp với một số điều kiện tự nhiên để hình thành các vùng kinh tế của đất nước nhằm khai thác sử dụng có hiệu quả các tiềm năng tự nhiên, kinh tế xã hội của vùng đó, tạo lợi thế các vùng kinh tế.
Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất của xã hội nhưng ở những vị trí khác nhau. Với ngành nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Nó vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động, công cụ lao động. Với ngành công nghiệp, đất đai là địa điểm không thể thiếu được và cũng không gì thay thế được. Với ngành vật liệu xây dựng, đất đai là nguyên liệu đầu vào rất quan trọng …
Đất đai còn là một trong những bộ phận lãnh thổ quốc gia, như vậy với mỗi quốc gia đều có lãnh thổ riêng, nên đất đai đều bị giới hạn bởi ranh giới giữa các quốc gia.
Từ sự quan trọng của đất đai đối với đời sống kinh tế xã hội, ta cần phải quản lý đất đai, phải có biện pháp để sử dụng đất đai một cách có hiệu quả nhất, hợp lý nhất tránh tình trạng để lãng phí tài nguyên, tránh sử dụng bừa bãi đất đai gây nên những hậu quả khó lường: như cạn kiệt tài nguyên, sử dụng không có hiệu quả, bỏ hoang hoá đất đai ….
Luật Đất đai năm 1993 của nước ta quy định “Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng”1;
Ta thấy rằng đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, có vai trò quyết định đến sự tồn vong của xã hội loài người nói chung và của mỗi quốc gia nói riêng. Bởi vì đất đai là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động và cùng với quá trình lịch sử phát triển kinh tế – xã hội, đất đai là điều kiện chung của lao động. Đất đai đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nếu không có đất đai thì rõ ràng không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, một quá trình lao động sản xuất nào, cũng như không thể nào có sự tồn tại cho loài người. Đất đai cũng là một trong những tài nguyên vô cùng quý giá của loài người, điều kiện cho sự sống của động thực vật và con người trên trái đất.
Do đất đai có vai trò quan trọng như thế nên quốc gia nào cũng cần phải tổ chức cho hợp lý hệ thống quản lý đất đai của nước mình nhằm mục đích phát triển kinh tế.
Trong hệ thống quản lý thì người ta luôn phải giải quyết tốt mối liên hệ giữa ba yếu tố: con người, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống tổ chức bộ máy. ở đây trong hệ thống quản lý đất đai thì mối liên hệ giữa ba yếu tố này lại càng quan trọng hơn. Trong một hệ thống thì yếu tố con người bao giờ cũng quan trọng nhất, vì con người chính là đối tượng làm ra văn bản, mà cũng là đối tượng tổ chức hệ thống tổ chức bộ máy. Trong hệ thống quản lý đất đai thì cần phải có những con người có đầy đủ năng lực và phẩm chất để làm ra các văn bản phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, của đất nước, phù hợp với xu thế của thời đại, có như thế thì mới đảm bảo được sự phát triển kinh tế và ổn định chính trị – kinh tế – xã hội đất nước. Vì đất đai có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế cũng như sự tồn vong của một quốc gia.
Nhân tố con người chính là nhân tố làm ra hệ thống chính sách và cũng là nhân tố thực thi các chính sách đó để điều hành bộ máy hoạt động một cách nhịp nhàng và có hiệu quả. Nếu chính sách đề ra là phù hợp với thực tế mà nhân tố con người thực thi chính sách không có đủ trình độ hay không có đủ phẩm chất thì sẽ dẫn đến tình trạng bộ máy vận hành không có hiệu quả.
Tổ chức bộ máy của một hệ thống quản lý, thì cần phải dựa trên cơ sở của nhân tố con người và hệ thống chính sách mà tổ chức cơ cấu của tổ chức bộ máy sao cho có hiệu quả. Tổ chức bộ máy phải tuân thủ các quy định của chính sách nhưng phải phù hợp với yếu tố con người sẵn có trong hệ thống quản lý. Tuỳ vào khả năng của từng cá nhân mà phân công nhiệm vụ một cách hợp lý đối với từng bộ phận của bộ máy. Để hệ thống hoạt động nhịp nhàng thì ngoài nhân tố con người và hệ thống chính sách tốt thì cần phải tổ chức bộ máy cũng phải tốt, đó chính là sự bố trí hợp lý từng cá nhân của bộ máy vào từng nhiệm vụ và vị trí.
Việc hình thành được tổ chức bộ máy trong hệ thống quản lý đất đai được tốt thì sẽ có vai trò quan trọng trong việc vận hành hệ thống quản lý đất đai một cách hợp lý. Một khi bộ máy quản lý đất đai vận hành một cách nhịp nhàng thì nó sẽ tạo ra một kết quả rất lớn trong việc quản lý đất đai. Tuy nhiên đối với thể chế chính trị của mỗi nước thì lại có một hệ thống quản lý đất đai riêng phù hợp với trình độ dân trí và điều kiện địa lý của nước đó. Trong mỗi hệ thống thì các yếu tố cơ bản để cấu thành hệ thống là giống nhau nhưng sự khác nhau của mỗi hệ thống chính là chính sách của mỗi nước, dẫn đến tổ chức bộ máy khác nhau.
Nếu bạn không có nhiều kinh nghiệm trong việc viết luận văn, luận án hay khóa luận tốt nghiệp. Bạn cần đến dịch vụ viết thuê luận văn cao học Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, … để giúp mình hoàn thành những bài luận đúng deadline? Khi gặp khó khăn về vấn đề viết luận văn, luận án hay khóa luận tốt nghiệp, hãy nhớ đến Tổng đài tư vấn luận văn 1080, nơi giúp bạn giải quyết những khó khăn mà chúng tôi đã từng trải qua.
2. Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai
Quản lý nhà nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu nhà nước về đất đai, đó là các hoạt động trong việc nắm chắc tình hình sử dụng đất đai, trong việc phân phối và phân phối lại theo quy hoạch, kế hoạch, trong việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng đất đai.
Đất đai là nhu cầu thiết yếu của loài người, là những yếu tố quan trọng bậc nhất cấu thành bất động sản. Trong những năm chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì những yếu tố thị trường trong đó có thị trường bất động sản đang trong quá trình hình thành và phát triển. Đó chính là các hoạt động kinh doanh, buôn bán đất đai nhà cửa đang diễn ra một cách rất sôi động.
Thực tế thị trường bất động sản đã có và hoạt động rất mạnh, nhưng chưa có thể chế rõ ràng, phát triển còn chậm chạp, tự phát thiếu định hướng. Cùng theo đó là thị trường hàng hoá, dịch vụ phát triển nhanh nhưng cũng thiếu định hướng và còn mang tính tự phát. Thị trường sức lao động cũng phát triển chậm chạp, thiếu quản lý và chưa có định hướng rõ ràng cho nó. Thị trường vốn công nghệ, thông tin còn yếu kém trong khi đó việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và trong cuộc sống còn rất yếu .
Vì vậy vai trò của nhà nước là quản lý các thị trường để bổ sung những lỗ hổng của thị trường và thúc đẩy sự hình thành đồng bộ các loại thị trường tạo sự vận động nền kinh tế đa dạng. Đồng thời quản lý nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường là cần thiết nhằm ngăn ngừa, hạn chế những mặt trái, các mặt tiêu cực của nền kinh tế, của thị trường và để sử dụng các tiềm năng có hiệu quả.
Đất đai cũng không nằm ngoài sự quản lý của nhà nước. Với nhu cầu khách quan của việc sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất – một tài nguyên có hạn và không sản xuất được – đã thúc đẩy nhà nước phải ngày càng tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu đời sống của nhân dân. Nhưng để quản lý chặt chẽ nguồn tài nguyên quý hiếm này, từ năm 1993 Luật Đất đai thông qua đã đánh dấu một bước ngoặt đáng kể trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Thông qua đó nhà nước đưa ra và thừa nhận các quyền của con người về đất đai: như quyền sử dụng đất đai, quyền thừa kế, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, cầm cố, góp vốn vào liên doanh …
Nhà nước đưa ra những quy định thị trường mua bán bất động sản để bảo vệ lợi ích của các bên tham gia thị trường một cách chính đáng. Nhà nước cũng hỗ trợ các hoạt động của các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường bất động sản, bằng cách tạo điều kiện thuận lợi thông qua các công cụ của mình, chính sách của mình. Đồng thời dựa vào các quy định pháp luật đất đai, Nhà nước thanh tra, xử lý các vụ tranh chấp, giải quyết khiếu nại, tố cáo về các vấn đề nảy sinh trong quan hệ đất đai.
3. Các phương pháp và công cụ quản lý nhà nước về đất đai
3.1. Các phương pháp thu thập thông tin về đất đai
Phương pháp thống kê: là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong quá trình nghiên cứu các vấn đề kinh tế, xã hội. Đây là phương pháp mà các cơ quan quản lý nhà nước tiến hành điều tra, khảo sát, tổng hợp và sử dụng các số liệu trên cơ sở đã tính toán các chỉ tiêu. Qua số liệu thống kê phân tích được tình hình, nguyên nhân của sự vật và hiện tượng có thể tìm ra được tính quy luật và rút ra những kết luận đúng đắn về sự vật, hiện tượng đó. Trong công tác quản lý đất đai các cơ quan quản lý sử dụng phương pháp thống kê để nắm được tình hình số lượng, chất lượng đất đai, nắm bắt đầy đủ các thông tin về đất đai cho phép các cơ quan có kế hoạch về quản lý đất đai.
Phương pháp toán học: là phương pháp quan trọng do sự tác động của tiến bộ khoa học công nghệ và ngày càng chứng tỏ tính cấp thiết của nó trong công tác quản lý nói chung và quản lý đất đai nói riêng. Phương pháp toán học sử dụng ở đây là phương pháp toán kinh tế, các công cụ tính toán hiện đại được dùng để thu thập, xử lý và lưu trữ thông tin… giúp cho việc nghiên cứu các vấn đề xã hội phức tạp. Trong công tác quản lý đất đai, phương pháp toán học được sử dụng nhiều ở các khâu công việc như: thiết kế, quy hoạch; tính toán quy mô, loại hình sử dụng đất tối ưu…
Phương pháp điều tra xã hội học: Đây là phương pháp hỗ trợ, bổ sung, nhưng rất quan trọng. Thông qua điều tra xã hội học, Nhà nước sẽ nắm bắt được tâm tư,nguyện vọng của các tổ chức và các cá nhân sử dụng đất đai. Mặt khác qua điều tra xã hội học, Nhà nước có thể biết sâu hơn diễn biến tình hình đất đai, đặc biệt là nguyên nhân của tình hình đó. Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, phạm vi, quy mô về vốn và người thực hiện mà trong điều tra có thể lựa chọn các hình thức như: điều tra chọn mẫu, điều tra toàn diện, điều tra nhanh, điều tra ngẫu nhiên…
3.2. Các phương pháp tác động đến con người trong quản lý đất đai
Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động gián tiếp lên đối tượng bị quản lý không trực tiếp như phương pháp hành chính. Phương pháp quản lý kinh tế của Nhà nước về quản lý đất đai là cách thức tác động của Nhà nước một cách giản tiếp vào đối tượng bị quản lý, thông qua các lợi ích kinh tế để đối tượng bị quản lý tự lựa chọn phương án hoạt động của mình sao cho có hiệu quả nhất. Trong công tác quản lý, phương pháp kinh tế là phương pháp mềm dẻo nhất, dễ thu hút đối tượng quản lý, do vậy nó ngày càng mang tính phổ biến và được coi trọng. Mặt mạnh của phương pháp kinh tế là ở chỗ nó tác động vào lợi ích của đối tượng bị quản lý làm cho họ phải suy nghĩ, tính toán và lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất vừa đảm bảo lợi ích của mình, vừa đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội.
Phương pháp kinh tế nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân giúp cho Nhà nước giảm bớt được nhiều công việc hành chính như công tác kiểm tra, đôn đốc có tính chất sự vụ hành chính. Vì vậy, sử dụng phương pháp này vừa tiết kiệm được chi phí quản lý, vừa giảm được tính chất cứng nhắc hành chính, vừa tăng cường tính sáng tạo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Một trong những thành công lớn của Nhà nước trong công tác quản lý đất đai là việc áp dụng phương pháp khoán trong nông nghiệp và giao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân, đã tạo ra động lực to lớn cho phát triển sản xuất nông nghiệp và cho phép sử dụng có hiệu quả đất đai. Đây chính là Nhà nước đã áp dụng phương pháp kinh tế trong quản lý đất đai.
Phương pháp tuyên truyền, giáo dục là cách thức tác động của Nhà nước vào nhận thức và tình cảm của con người nhằm nâng cao tính tự giác và lòng nhiệt tình của họ trong quản lý đất đai nói riêng và trong hoạt động kinh kế – xã hội nói chung. Tuyên truyền, giáo dục là một trong các phương pháp không thể thiếu được trong công tác quản lý nhà nước bởi vì mọi đối tượng quản lý suy cho cùng cũng chỉ là quản lý con người mà con người là tổng hoà của nhiều mối quan hệ xã hội và họ có những đặc trưng tâm lý rất đa dạng. Do đó, cần phải có nhiều phương pháp tác động khác nhau trong đó có phương pháp giáo dục. Trong thực tế, phương pháp giáo dục thường được kết hợp với các phương pháp khác, hỗ trợ cùng với phương pháp khác để nâng cao hiệu quả công tác. Nếu chúng ta tách rời phương pháp giáo dục với các phương pháp khác, tách rời giáo dục với khuyến khích lợi ích vật chất, tách rời giáo dục với sự cưỡng chế bắt buộc thì hiệu quả của công tác quản lý không cao, thậm chí có những việc còn không thực hiện được. Nhưng nếu chúng ta kết hợp tốt, kết hợp một cách nhịp nhàng, linh hoạt phương pháp giáo dục với các phương pháp khác thì hiệu quả của công tác quản lý sẽ rất cao. Nội dung của phương pháp giáo dục rất đa dạng, nhưng trước hết phải giáo dục đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung; chính sách, pháp luật về đất đai nói riêng thể hiện qua các luật và các văn bản dưới luật.
3.3. Các công cụ quản lý nhà nước về đất đai
3.3.1. Công cụ pháp luật
Pháp luật là công cụ quản lý không thể thiếu được của một Nhà nước. Từ xưa đến nay, Nhà nước nào cũng luôn thực hiện quyền cai trị của mình trước hết bằng pháp luật. Nhà nước dùng pháp luật tác động vào ý chí con người để điều chỉnh hành vi của con người.
Pháp luật là công cụ duy trì trật tự an toàn xã hội trong lĩnh vực đất đai. Trong hoạt động xã hội, vấn đề đất đai gắn chặt với lợi ích vật chất và tinh thần của mọi chủ thể sử dụng đất nên vấn đề này dễ nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Trong các mâu thuẫn đó có những vấn đề phải dùng đến pháp luật mới xử lý được. Pháp luật là công cụ bắt buộc các tổ chức và cá nhân thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước và các nghĩa vụ khác. Trong sử dụng đất đai, nghĩa vụ nộp thuế là nghĩa vụ bắt buộc, nhưng không phải lúc nào nghĩa vụ đó cũng được thực hiện một cách đầy đủ có rất nhiều trường hợp phải dùng biện pháp cưỡng chế và bắt buộc thì nghĩa vụđó mới được thực hiện. Pháp luật là công cụ mà qua đó Nhà nước bảo đảm sự bình đẳng, công bằng giữa những người sử dụng đất. Nhờ những điều khoản bắt buộc, thông qua các chính sách miễn giảm, thưởng, phạt cho phép Nhà nước thực hiện được sự bình đẳng cũng như giải quyết tết mối quan hệ về lợi ích trong lĩnh vực đất đai giữa những người sử dụng đất.
3.3.2. Công cụ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai
Trong công tác quản lý nhà nước về đất đai, công cụ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là công cụ quản lý quan trọng và là một nội dung không thể thiếu được trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Vì vậy, Luật Đất đai 2003 quy định “Nhà nước quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật”. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai là một nội dung quan trọng trong việc quản lý và sử dụng đất, nó đảm bảo cho sự lãnh đạo, chỉ đạo một cách thống nhất trong quản lý nhà nước về đất đai.
Thông qua quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt, việc sử dụng các loại đất được bố trí, sắp xếp một cách hợp lý. Nhà nước kiểm soát được mọi diễn biến về tình hình đất đai. Từ đó, ngăn chặn được việc sử dụng đất sai mục đích, lãng phí. Đồng thời, thông qua quy hoạch, kế hoạch buộc các đối tượng sử dụng đất chỉ được phép sử dụng trong phạm vi ranh giới của mình. Quy hoạch đất đai được lập theo vùng lãnh thổ và theo các ngành. Quy hoạch sử dụng đất đai theo vùng lãnh thổ là quy hoạch sử dụng đất đai được lập theo các cấp hành chính, gồm: quy hoạch sử dụng đất đai của cả nước, quy hoạch sử dụng đất đai cấp tỉnh, quy hoạch sử dụng đất đai cấp huyện, quy hoạch sử dụng đất đai cấp xã -Quy hoạch sử dụng đất đai theo ngành là quy hoạch sử dụng đất đai được lập theo các ngành như: quy hoạch sử dụng đất đai ngành nông nghiệp, quy hoạch sử dụng đất đai ngành công nghiệp, quý hoạch sử dụng đất đai ngành giao thông.
3.3.3. Công cụ tài chính
Tài chính là tổng hợp các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính của các chủ thể kinh tế – xã hội.
Các công cụ tài chính trong quản lý đất đai
-Thuế và lệ phí: là công cụ tài chính chủ yếu được sử dụng rộng rãi trong công tác quản lý đất đai. Theo Luật Đất đai năm 2003, Nhà nước ban hành các loại thuế chủ yếu trong lĩnh vực đất đai như sau:
Thuế sử dụng đất;
Thuế chuyển quyền sử dụng đất;
Thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất (có thể có);
Các loại lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai như lệ phí trước bạ, lệ phí địa chính.
Giá cả: Đối với đất đai hiện nay, Nhà nước đã ban hành khung giá chung cho các loại đất cụ thể được quy định tại Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ để làm cơ sở chung cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh làm căn cứ tính giá đất và thu thuế sử dụng đất; thu tiền khi giao đất, khi cho thuê đất, khi cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất.
Ngân hàng là công cụ quan trọng của quan hệ tài chính. Ngoài nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ nói chung nó còn được hình thành để cung cấp vốn cho các công lệnh về khai hoang, cải tạo đất…
* Vai trò của công cụ tài chính trong quản lý đất đai
Tài chính là công cụ để các đối tượng sử dụng đất đai thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của họ.
Tài chính là công cụ mà Nhà nước thông qua nó để tác động đến các đối tượng sử dụng đất làm cho họ thấy được nghĩa vụ và trách nhiệm của họ trong việc sử dụng đất đai. Các đối tượng sử dụng đất đều phải có trách nhiệm và nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Tài chính là công cụ quản lý quan trọng cho phép thực hiện quyền bình đẳng giữa các đối tượng sử dụng đất và kết hợp hài hoà giữa các lợi ích.
Tài chính là công cụ cơ bản để Nhà nước tăng nguồn thu ngân sách.
4. Quy hoạch sử dụng đất đai
4.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất đai
Trước tiên ta có thể đặt câu hỏi quy hoạch đất đai là gỡ? Thật vậy về mặt thuật ngữ quy hoạch là việc xác định một trật tự nhất định bằng những hoạt động như phân bố, bố trí, sắp xếp, tổ chức một đối tượng nào đó nhằm sử dụng theo như mong muốn. Cũn “đất đai” là một phần lãnh thổ nhất định, có vị trí hình thể, diện tích với những tính chất tự nhiên theo thời gian hoặc mới tạo thành ( đặc tính thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, địa chất thảm thực vật … ) tạo ra những điều kiện nhất định cho việc sử dụng theo các mục đích khác nhau.
Muốn sử dụng đất phù hợp với từng mục đích phải trải qua một quá trình nghiên cứu lao động sáng tạo, nhằm xác định ý nghĩa, mục đích của từng phần lãnh thổ và đề xuất một trật tự sử dụng đất nhất định, đó cũng là nội dung của quy hoạch sử dụng dất đai.
Về mặt bản chất cần được xác định dựa trên quan điểm nhận thức đất đai là đối tượng của các mối quan hệ sản xuất trong lĩnh vực sử dụng đất đai ( gọi là các mối quan hệ đất đai ) và việc tổ chức sử dụng đất (coi đất đai như là tư liệu sản xuất đặc biệt ) gắn chặt với phát triển kinh tế- xã hội. Mọi hoạt động sản xuất sinh hoạt của con người đều gắn với một đơn vị lãnh thổ nhất định. Điều này cũng đồng nghĩa với quy hoạch sử dụng đất đai là một hiện tượng kinh tế xã hội thể hiện đồng thời ba tính chất kinh tế, kỹ thuật và pháp chế.
-Tính kinh tế: Thể hiện bằng hiệu quả sử dụng đất.
-Tính kỹ thuật: Bao gồm các tác nghiệp chuyên môn kỹ thuật trong điều tra khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh định xử lý số liệu …
-Tính pháp chế: Xác nhận tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng đất theo quy hoạch nhằm đảm bảo sử dụng và quản lý đất đai theo đúng pháp luật.
-Từ đó có thể đưa ra định nghĩa: ” Quy hoạch sử dụng đất đai là hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của nhà nước về tổ chức sử dụng và quản lý đất đai đầy đủ, hợp lý, khoa học và có hiệu quả caonhất thông qua việc phân bổ quỹ đất đai ( khoanh định cho các mục đích và các ngành ) và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất ( các giải pháp sử dụng cụ thể ) nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất đai và môi trường…”
Như vậy, thực chất quy hoạch sử dụng đất đai là quá trình hình thành các quyết định để đưa đất đai vào sở dụng bền vững mang lại lợi ích cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng: Điều chỉnh các mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt.
Quản lý quy hoạch sử dụng đất đai hợp lý sẽ ngăn chặn được các hiện tượng tiêu cực, tranh chấp lấn chiếm, huỷ hoại đất, phá vỡ sự cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi trường dẫn đến những tổn thất hoặc kìm hãm sức sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội và các hậu quả khó lường về tình hình bất ổn định về chính trị, an ninh quốc phòng ở từng địa phương, đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế vận hành theo chính sách nền kinh tế thị trường hiện nay.
4.2. Các loại hình quy hoạch sử dụng đất
4.2.1. Quy hoạch sử dụng đất dai theo lãnh thổ
Đây là loại hình quy hoạch theo các đơn vị cấp hành chính. Mỗi cấp đều tiến hành quy hoạch sử dụng đất đai cho đơn vị mình.
Đối tượng của quy hoạch sử dụng đất đai theo lãnh thổ là toàn bộ diện tích tự nhiên của lãnh thổ. Loại hình này được thực hiện theo nguyên tắc: Từ trên xuống dưới, từ toàn cục đến bộ phận, từ cái chung đến cái riêng, từ vĩ mô đến vi mô và bước sau chỉnh lý bước trước.
Mục đích của quy hoạch sử dụng đất đai theo các cấp lãnh thổ hành chính là:
Cụ thể hoá một bước quy hoạch sử dụng đất đai của các ngành và đơn vị hành chính cấp cao hơn.
Làm căn cứ để các ngành (cùng cấp) và các đơn vị hành chính cấp dưới triển khai quy hoạch sử dụng đất đai của địa phương.
Phục vụ cho công tác thống nhất quản lý nhà nước về đất đai.
4.2.2. Quy hoạch sử dụng đất đai theo ngành
Các ngành kinh tế cũng chỉ là các ngành sản xuất do con người thực hiện trên một đơn vị đất đai nào đó, luôn gắn với đất đai nên mỗi ngành không thể thiếu quy hoạch sử dụng đất đai cho ngành mình, nhằm đảm bảo cơ cấu sử dụng đất hợp lý trong mỗi ngành. Tuy nhiên khi quy hoạch phải có sự phối hợp của nhiều ngành.
Đối tượng của quy hoạch sử dụng đất đai theo ngành là diện tích đất trong phạm vi ranh giới đã được xác định rõ mục đích cho từng ngành ở các cấp lãnh thổ tương ứng.
Quy hoạch sử dụng đất đai theo lãnh thổ và theo ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -xã hội mang tính chiến lược, xác định mục tiêu phát triển nhiều ngành. Các ngành chức năng căn cứ vào quy hoạch tổng thể này để xây dựng quy hoạch sử dụng đất đai cho ngành mình.
Như vậy quy hoạch tổng thể đất đai phải đi trước và có định hướng cho quy hoạch sử dụng đất đai theo ngành.
Quy hoạch sử dụng đất đai có nhiệm vụ xác định cơ cấu sử dụng đất đai và vị trí những khoanh đất dùng cho các mục đích khác nhau và là một trong những yếu tố chủ yếu xác định bố cục không gian của khu vực đô thị.
4.3. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất đai
(1) Tính lịch sử- xã hội
Xã hội loài người từ trước tới nay, Mỗi hình thái kinh tế-xã hội đều có một phương thức sản xuất nhất định, đặc trưng bởi mối quan hệ giữa người với sức tự nhiên và quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Trong quy hoạch sử dụng đất đai luôn nảy sinh mối quan hệ giữa người với đất đai- là sức tự nhiên thông qua việc đo đạc khoanh định, thiết kế … và mối quan hệ giữa người với người ( xác nhận bằng văn bản- giấy CNQSDĐ ). Quy hoạch sử dụng đất đai vừa thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, vừa là yếu tố thúc đẩy phát triển các mối quan hệ sản xuất. Do đó nó luôn là một bộ phận quan trọng của phương thức sản xuất xã hội.
Nội dung của quy hoạch sử dụng đất đai luôn phát triển, biến đổi và hoàn thiện phù hợp với từng giai đoạn phát triển lịch sử-xã hội đáp ứng cho các nhiệm vụ kinh tế xã hội và chính trị khác nhau. Trong xã hội có phân chia giai cấp, quy hoạch sử dụng đất mang tính tự phát, hướng tới mục tiêu vì lợi nhuận tối đa, nặng về mặt pháp lý là phương tiện mở rộng củng cố, bảo vệ quyền tư hữu đất đai… ở nước ta đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do đó quy hoạch sử dụng đất đai đảm bảo lợi ích cho người sử dụng đất và phục vụ quyền lợi của toàn xã hội. Đặc biệt là góp phần tích cực thay đổi quan hệ sản xuất ở nông thôn ( nếu như trong sản xuất nông nghiệp người nông dân gắn chặt với ruộng đồng, với đất đai thì khi có sự chuyển cơ cấu sử dụng đát sẽ làm thay đổi hình thức quan hệ sử dụng đất từ bị động sang chủ động.
Hiện nay trong nền kinh tế thị trường quy hoạch sử dụng đất đai góp phần giải quyết các mâu thuẫn nội tại của từng lợi ích kinh tế, xã hội, môi trường nảy sinh trong quá trình sử dụng đất cũng như mâu thuẫn giữa các lợi ích trên với nhau. Vì vậy có thể nói sự phát triển của xã hội là lịch sử phát triển của quy hoạch sử dụng đất đai.
Quy hoạch sử dụng đất đai điều hoà các mâu thuẫn về đất đai của các nghành, lĩnh vực xác định phương thức phân bố sử dụng đất phù hợp với mục tiêu kinh tế-xã hội đảm bảo phát triển bền vững.
(3) Chiến lược dài hạn sử dụng đất
Quy hoạch sử dụng đất đai được xây dựng trong 10 năm nhung có tính chiến lược từ 15-20 năm và trên phạm vi lãnh thổ rộng lớn. Do vậy, cần phải lập dự báo cáo cho việc sử dụng đất đai trong thời gian dài hơn là 15- 20 năm. Việc dự báo không đòi hỏi chi tiết, chính xác cao mà cơ bản, nó xác định được đường lối sử dụng đất trong thời gian dài. Sau đó, dựa vào số liệu thống kê và đánh gia hiện trạng mới đưa ra phưong án quy hoạch, kế hoạch phân bổ, sử dụng và bảo vệ quỹ đất đai trong thời gian trước mắt và lâu dài.
(4) Tính chiến lược và chỉ đạo vĩ mô
Đây là đặc điểm do đặc tính trung và dài hạn của giai đoạn quy hoạch quy định. Quy hoạch sử dụng đất đai chỉ dự kiến trước các xu thế thay đổi phương hướng, cơ cấu và phân bố sử dụng đất đai chỉ dự kiến trước các xu thế thay đổi phương hướng, cơ cấu và phân bố sử dụng đất ở mức độ khái quát. Vì vậy quy hoạch sử dụng đất đai là quy hoạch mang tính chiến lược, các chỉ tiêu quy hoạch mang tính vĩ mô. Do khoảng thời gian dự báo dài, khó xác định các yếu tố ảnh hưởng nên chỉ tiêu quy hoạch càng khái quát thì quy hoạch sẽ càng ổn định và có tính thực tiễn cao.
(6) Tính khả thi
Quy hoạch sử dụng đất đai chỉ là một giải pháp biến đổi hiện trạng sử dụng đất sang trạng thái mơí thích hợp hơn trong một thời kỳ nhất định. Sự biến động của các nhân tố trong quy hoạch sử dụng đất theo nhiều phương diện khác nhau ta không dự báo trước được và khi xã hội phát triển, khoa học kỹ thuật tiến bộ, những dự báo trước đây không còn phù hợp thì phương án quy hoạch sẽ được chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện. Quy hoạch sử dụng đất đai luôn là một quy hoạch động, một quá trình lặp lại theo chiều xoắn ốc: quy hoạch-thực hiện-quy hoạch lại-tiếp tục thực hiện với tính khả thi ngày càng cao.
Từ các đặc điểm trên cho thấy quy hoạch sử dụng đất đai có sự kế thừa và có sự tham gia của nhiều nghành được hoạt động dưới sự chỉ đạo của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai thông qua các chính sách cụ thể. Mức độ phù hợp của chính sách đất đai có tác động lớn đến tính khả thi của một phương án quy hoạch.
Đối tượng của quy hoạch sử dụng đất đai là đất đai, vì vậy để đạt được tính đầy đủ, hợp lý, khoa học, và có hiệu quả đòi hỏi công tác quy hoạch sử dụng đất đai phải được nghiên cứu một cách nghiêm túc, xem xét chi tiết các yếu tố tác động đến sử dụng đất, nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu quả sản xuất, bảo vệ đất và môi trường.
Tuy nhiên sự ảnh hưởng của các yếu tố trên luôn được xem xét trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật. Một phương án quy hoạch không thể thực hiện được khi nó đi ngược với những quy định của pháp luật. Vì vậy xem xét những căn cứ pháp lý là cần thiết và được xem là điều kiện đủ trong quy hoạch sử dụng đất đai.
Khai Thác Và Sử Dụng Hiệu Quả Tài Nguyên Đất
Đánh giá chung cho thấy Dự thảo luật đất đai sửa đổi lần này đã bổ sung những quy định nhằm khắc phục những hạn chế bất cập trong Luật Đất đai hiện hành về các vấn đề quy hoạch sử dụng đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, xác định giá đất, hỗ trợ tái định cư. Dự thảo sửa đổi theo hướng lợi ích của nhà nước và người dân có đất bị thu hồi được đảm bảo tương xứng, nguồn lực về đất đai được phát huy để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Bà Nguyễn Thanh Thụy, đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Định, đồng tình với việc Dự thảo luật đất đai sửa đổi quy định các trường hợp thu hồi đất vì lợi ích quốc gia, quốc phòng an ninh, lợi ích công cộng và thực hiện các dự án phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, bà cho rằng: V ề các trường hợp thu hồi đất, tôi đề nghị riêng đối với thu hồi cho các dự án phát triển kinh tế – xã hội cần có quy định chặt chẽ hơn để chứng minh các dự án này là vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, còn các dự án mang tính kinh tế đơn thuần vì lợi ích của nhà đầu tư thì để nhà đầu tư thoả thuận với người sử dụng đất để nhận góp vốn, phù hợp với quy định sử dụng đất.”
Theo một số đại biểu cần phải đảm bảo hài hoà mục tiêu thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội với chính sách an dân. Nếu không sẽ tiếp tục tình trạng khiếu kiện tranh chấp về đất đai, tình trạng hoang phí, lãng phí đất đai tiếp tục tồn tại. Vì vậy, Ban soạn thảo cần nghiên cứu thấu đáo vấn đề này để bảo đảm phát triển kinh tế ổn định và bền vững.
Về bồi thường hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, theo một số đại biểu, đây chính là điểm mấu chốt khiến việc khiếu kiện đất đai diễn ra ngày một gia tăng, vì vậy sửa đổi luật đất đai lần này cần phải sửa đổi toàn diện các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Dự thảo còn đề cập chung chung, mờ nhạt vấn đề sinh kế của người dân ra sao sau khi đất và nhà của họ bị thu hồi, một vấn đề quan trọng mà bất cứ người có đất nào bị thu hồi cũng quan tâm. Vì vậy, khi tính toán bồi thường tái định cư phải đặc biệt quan tâm tới kế sinh nhai cho người có đất bị thu hồi, phải có quy định đặc thù để áp dụng cho các đối tượng chính sách. Trên cơ sở đó, ông Trần Ngọc Vinh, đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng, nêu ý kiến: Đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu áp dụng cơ chế giá công bằng đất đổi đất, nhà đổi nhà. Người dân không phải bỏ thêm tiền đồng thời Nhà nước phải hỗ trợ thêm kinh phí để người dân bị thu hồi đất sớm ổn định cuộc sống. Thứ hai nâng mức bồi thường cho người nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp đồng thời Nhà nước bắt buộc phải đào tạo nghề để chuyển đổi nghề nghiệp cho người nông dân sau khi bị thu hồi đất. Thứ ba, xây dựng cơ chế trưng mua quyền sử dụng đất và cơ chế tự thoả thuận về giá đất bồi thường giữa doanh nghiệp và người có đất bị thu hồi.”
Về giá đất, tuy Ban soạn thảo đã thiết kế một điều luật riêng quy định cụ thể về nguyên tắc định giá đất, bảng giá đất và giá đất cụ thể nhưng theo một số đại biểu nội dung quy định về giá đất trong Dự thảo luật đất đai sửa đổi lần này chưa có bước đột phá căn bản.Vì vậy để hoàn thiện các quy định về giá đất, theo ông Ngọc Vinh cần phải quy định cụ thể hơn. Ông cho rằng: Các quy định về giá đất phải đảm bảo giữa lợi ích của các chủ thể trong quan hệ pháp luật đất đai, giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Cần thiết phải xây dựng cơ quan có thẩm quyền quyết định về giá đất độc lập với các cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai. Cần xây dựng trong luật cơ chế tự thoả thuận giữa doanh nghiệp và người dân.
Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nhiều đại biểu tán thành với quy định trong dự thảo lập kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất gồm 3 cấp: cấp quốc gia, cấp tỉnh và cấp huyện. Tuy nhiên cũng còn không ít ý kiến muốn giữ nguyên 4 cấp lập quy hoạch sử dụng đất là cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã như trong luật hiện hành. Ông Bùi Văn Phương, đại biểu Quốc hội tỉnh Ninh Bình, kiến nghị: Đề nghị phải giữ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở cấp xã như Luật hiện hành vì những lý do sau: Một là xuất phát từ nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải đảm bảo sự phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh của địa phương trong khi đó xã là cấp chính quyền với hệ thống chính trị đầy đủ có chức năng lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế – xã hội 5năm và hàng năm, như vậy để thực hiện được những điều này đòi hỏi phải có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tương ứng. Vì vậy, chủ thể xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải là cấp xã. Thứ 2, cũng xuất phát từ nguyên tắc lập quy hoạch kế hoạch sử dụng đất phải đi từ tổng thể đến chi tiết như vậy trên cơ sở quy hoạch tổng thể của cấp huyện, các xã sẽ xây dựng quy hoạch chi tiết, như thế sẽ không sợ thiếu tính liên kết và trùng lặp quy hoạch giữa các xã.
Hồng Vân
Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Trạng Và Một Số Giải Pháp Nhằm Quản Lý, Sử Dụng Đất Đai Có Hiệu Quả Ở Tây Nguyên trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!