Bạn đang xem bài viết Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Làng Nghề Truyền Thống Tại Tiền Giang được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Khắc phục những yếu kém
Tìm và xác định nguyên nhân khiến các làng nghề truyền thống lâm vào cảnh khó khăn để cùng tìm hướng tháo gỡ và đầu tư để phát triển là việc làm cấp thiết hiện đang được các cấp, các ngành trong tỉnh quan tâm. Thời gian qua, Chi cục Phát triển nông thôn đã tham mưu UBND tỉnh ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh.
Thực hiện chính sách này, hàng năm, chi cục làm việc với các địa phương có làng nghề về tình hình đầu tư, phát triển làng nghề, tình hình sản xuất kinh doanh, nắm những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động của các làng nghề để tham mưu đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn.
Hướng dẫn địa phương thành lập tổ chức đại diện cho làng nghề như tổ hợp tác, hợp tác xã để làm đầu mối tổ chức sản xuất, cung ứng nguyên liệu, thu mua, tiêu thụ, quảng bá sản phẩm cho làng nghề và tiếp nhận các chính sách hỗ trợ của nhà nước; hướng dẫn các làng nghề xây dựng kế hoạch đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng, lồng ghép vào đồ án quy hoạch, đề án xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã.
Sở NN&PTNT đã tổ chức cho các hợp tác xã, doanh nghiệp trong làng nghề như: Nón bàng buông Thân Cửu Nghĩa; dệt chiếu Long Định; tủ thờ Gò Công; Hợp tác xã Quang Minh tham gia Hội chợ triển lãm “Làng nghề Việt Nam năm 2013” tại Huế. Qua đó, giúp cho các cơ sở làng nghề giao lưu trao đổi thông tin, giới thiệu và quảng bá các sản phẩm, tạo điều kiện mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh.
Trong năm 2014, ngành chức năng sẽ đầu tư xây dựng mới hệ thống xử lý nước thải tập trung ở các làng nghề có nguy cơ gây ô nhiễm cao như: bánh phồng Cái Bè, bánh tráng Hậu Thành, bánh bún hủ tiếu Mỹ Tho. Tổ chức đào tạo 9 lớp dạy nghề, với 285 lao động để nâng cao tay nghề tại các làng đan lát ở ấp Tân Hội, xã Tân Phong (huyện Cai Lậy); làng nghề bó chổi Hòa Định, xã Hòa Định (huyện Chợ Gạo); làng nghề dệt chiếu Long Định, xã Long Định (huyện Châu Thành); làng nghề truyền thống thủ công mỹ nghệ xã Tân Lý Đông (huyện Châu Thành).
Đào tạo nâng cao kiến thức sản xuất, kinh doanh và hội nhập cho chủ doanh nghiệp, cơ sở trong làng nghề. Hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở làng nghề tham gia các hội chợ, triển lãm, quảng bá sản phẩm làng nghề trong và ngoài tỉnh. Hỗ trợ đăng ký nhãn hiệu hàng hóa cho sản phẩm làng nghề như: bánh tráng Hậu Thành, bánh phồng Cái Bè, dệt chiếu Long Định, sản phẩm thủ công mỹ nghệ Tân Lý Tây; đẩy mạnh quảng bá 2 làng nghề đã được công nhận nhãn hiệu là làng nghề bánh bún hủ tiếu và làng nghề truyền thống tủ thờ Gò Công.
Tổ chức cho cơ sở làng nghề Tủ thờ Gò Công, làng nghề Chạm khắc gỗ Lương Hòa Lạc tham quan, học tập kinh nghiệm tại các doanh nghiệp sản xuất, chế biến sản phẩm từ gỗ hoặc các làng nghề có cùng sản phẩm ở các tỉnh bạn.
Ngoài ra, tỉnh cũng có kế hoạch đầu tư 5 máy cắt, máy liên hợp, máy hơi cho làng nghề đan lát Tân Phong, với kinh phí 70 triệu đồng; 40 máy dệt chiếu cho làng nghề dệt chiếu Long Định, với kinh phí 1,2 tỷ đồng; 5 máy tráng bánh công nghệ mới cho làng nghề bánh tráng Hậu Thành, với kinh phí 150 triệu đồng; đầu tư 500 triệu đồng để nâng cấp và cải tiến trang thiết bị cho làng nghề bánh phồng Cái Bè; nghiên cứu thực hiện dự án chế tạo máy tuốt que dừa cho làng nghề bó chổi que dừa Hòa Định; đầu tư 1,5 tỷ đồng mua máy móc, thiết bị chạm khắc cho làng nghề chạm khắc gỗ Lương Hòa Lạc.
Tỉnh cũng đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất trong làng nghề có điều kiện phát triển, giao lưu hàng hóa giữa các vùng, địa phương trong cả nước; góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và xây dựng nông thôn mới. Ưu tiên đầu tư hệ thống đường giao thông, công trình cấp thoát nước, nâng cấp hệ thống điện ở các làng nghề trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, tỉnh sẽ hỗ trợ vốn vay cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, hộ trong làng nghề để đầu tư máy móc, thiết bị, xây dựng nhà xưởng, mua nguyên liệu. Đề nghị hỗ trợ vốn tín dụng cho các làng nghề trên 4,7 tỷ đồng.
Tuyên truyền, vận động các cơ sở, hộ trong làng nghề tham gia mô hình kinh tế tập thể theo hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã để có pháp nhân làm đầu mối tổ chức sản xuất, cung ứng nguyên liệu, thu mua, tiêu thụ và quảng bá sản phẩm ở các làng nghề: chạm khắc gỗ Lương Hòa Lạc, đan lát Tân Phong, bó chổi Hòa Định, bánh phồng Cái Bè, bánh tráng Hậu Thành, chế biến thủy sản Vàm Láng.
Giải pháp để “vực dậy” làng nghề
Theo Quy hoạch phát triển làng nghề Tiền Giang giai đoạn 2011-2023 và tầm nhìn đến năm 2023, mục tiêu hàng đầu là khôi phục và khuyến khích phát triển làng nghề một cách bền vững, gắn với quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Phát triển làng nghề phải gắn với thu hút và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn theo hướng công nghiệp và dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho nông dân; đồng thời gắn với bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa địa phương thông qua các sản phẩm phục vụ phát triển du lịch, cũng như bảo vệ môi trường sinh thái bền vững.
Để bảo tồn và phát triển có hiệu quả những làng nghề truyền thống, thiết nghĩ cần triển khai đồng bộ các giải pháp như: khẩn trương rà soát, khảo sát xây dựng quy hoạch tổng thể về phát triển ngành nghề nông thôn nằm trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh; tổ chức lập quy hoạch chi tiết xây dựng làng nghề, ngành nghề nông thôn phù hợp nhằm khai thác, phát huy những ngành nghề lợi thế của từng vùng, từng địa phương. Muốn phục hồi và duy trì phát triển bền vững của các làng nghề thì vấn đề quan trọng nhất là nguồn kinh phí.
Theo Đề án phát triển làng nghề thì chúng ta từng bước củng cố, phát triển các nghề, làng nghề hiện có; du nhập nghề mới nhằm tạo thêm việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn.
Cụ thể, tỉnh sẽ đầu tư 141,1 tỷ đồng (giai đoạn 2011-2023), đầu tư 296,8 tỷ đồng (giai đoạn 2023-2023) để bảo tồn và phát triển làng nghề; phát triển làng nghề gắn với du lịch, tỉnh đầu tư 26,5 tỷ đồng (giai đoạn 2011-2023), đầu tư 66,6 tỷ đồng (giai đoạn 2023-2023); phát triển nghề mới giai đoạn 2011-2023 là 31 tỷ đồng, giai đoạn 2023-2023 trên 50 tỷ đồng.
Theo đánh giá của Chi cục Phát triển nông thôn, các dự án thuộc chương trình này khi được triển khai sẽ góp phần thúc đẩy phát triển ngành du lịch của tỉnh. Do đó, một số dự án được lồng ghép với “Chương trình phát triển du lịch” của tỉnh như: Khu du lịch cù lao Thới Sơn, Đồng Tháp Mười, Cù lao Tân Phong, Công viên du lịch Vĩnh Tràng, du lịch sinh thái vườn, sông nước…
Nằm trong chương trình đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển ngành nghề nông thôn, tỉnh còn đầu tư 22,4 tỷ đồng (giai đoạn 2011-2023), 44,8 tỷ đồng (giai đoạn 2023-2023) để đào tạo cán bộ quản lý; đầu tư 35,8 tỷ đồng (giai đoạn 2011-2023), trên 64 tỷ đồng (giai đoạn 2023-2023) để đào tạo và tập huấn kỹ thuật cho người lao động; đầu tư 67,1 tỷ đồng (giai đoạn 2023-2023) để hỗ trợ các cơ sở đào tạo nghề ở nông thôn; đầu tư 19,2 tỷ đồng (giai đoạn 2023-2023) để tổ chức hội thi các tay nghề giỏi.
Bên cạnh đó, tỉnh còn đầu tư 172,3 tỷ đồng (giai đoạn 2023-2023) để ứng dụng, đổi mới khoa học công nghệ trong các lĩnh vực ngành nghề nông thôn; đầu tư 206,7 tỷ đồng (giai đoạn 2023-2023) để xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm ngành nghề, làng nghề nông thôn.
Hy vọng, với những đầu tư và có lộ trình cụ thể của các ngành chức năng, làng nghề truyền thống ở tỉnh ta sẽ tồn tại và phát triển để giữ lại cho thế hệ mai sau những tinh hoa văn hóa của dân tộc.
Nguồn: baoapbac.vn BTV Hồng Nhung
Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Làng Nghề Bến Tre
UBND tỉnh Bến Tre đã ban hành quyết định công nhận 54 làng nghề, trong đó có 20 làng nghề truyền thống. Lĩnh vực nông nghiệp có 36 làng nghề và 18 làng nghề tiểu thủ công nghiệp. Tỉnh Bến Tre hiện có 7 nhóm nghề với 63 ngành nghề nông thôn, chiếm số lượng nhiều nhất là nhóm kinh doanh sinh vật cảnh và sản xuất cây giống với trên 7.200 cơ sở, xếp thứ hai là nhóm ngành chế biến bảo quản nông lâm thủy sản 6.030 cơ sở và sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ có tỷ lệ thấp nhất với 305 cơ sở. Hiện nay, các ngành nghề được duy trì, phát triển thường là những ngành nghề tận dụng được thời gian lao động nhàn rỗi, không phải đầu tư quá nhiều cho chi phí sản xuất, lại có được nhu cầu thị trường ổn định. Với tỉnh Bến Tre, sự phát triển của các làng nghể trong thời gian qua đã đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh nhà, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp và dịch vụ, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho người lao động ở nông thôn. Các làng nghề đã đi vào sản xuất ổn định và đang trên đà phát triển như: Làng nghề sản xuất chỉ xơ dừa An Thạnh, Khánh Thạnh Tân; làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc; làng nghề dệt chiếu ở An Hiệp; làng nghề đan đát – sản xuất rượu Phú Lễ; làng nghề cá khô ở An Thủy, Bình Thắng; làng nghề kềm kéo Mỹ Thạnh; làng nghề cây giống hoa kiểng ở Vĩnh Thành, Sơn Định, Vĩnh Hòa;… Với sự đa dạng về ngành nghề, các sản phẩm làm ra được tiêu thụ trên khắp thị trường trong, ngoài tỉnh và được khách hàng, du khách rất ưa chuộng.
Thời gian qua, ngành nông nghiệp đã tác động tích cực cho các làng nghề phát triển thông qua nhiều hoạt động như: triển khai kế hoạch nâng chất các làng nghề, tổ, nhóm hợp tác liên kết nhằm tăng cường công tác quản lý và định hướng để các làng nghề hoạt động hiệu quả; đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao chất lượng sản phẩm, hỗ trợ cho các làng nghề tham gia quảng bá, giới thiệu sản phẩm công nghiệp tại các kỳ hội chợ triển lãm trong và ngoài tỉnh; tư vấn đăng ký nhãn hiệu, lo-go; tổ chức các lớp đào tạo nghề, truyền nghề,… Qua đó, giúp cho các cơ sở, doanh nghiệp trong làng nghề có thêm kiến thức, kinh nghiệm, góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, thực trạng việc sản xuất kinh doanh, bảo tồn và phát triển làng nghề vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế như: hoạt động chủ yếu dựa trên kinh nghiệm cha truyền con nối, mang tính thủ công là chính nên mức độ đầu tư máy móc thiết bị vào sản xuất còn thấp, việc áp dụng khoa học kỹ thuật còn hạn chế. Phần lớn các cơ sở sản xuất với quy mô hộ gia đình, đặt tại nhà và nằm trong khu dân cư nên việc thu gom và xử lý chất thải của làng nghề còn rất khó khăn dẫn đến ô nhiễm môi trường diễn ra ngày càng nghiêm trọng, nhất là ở các làng nghề kiềm kéo, chỉ xơ dừa. Hạ tầng nông thôn và làng nghề còn nhiều bất cập; chưa gắn phát triển làng nghề với du lịch và chưa quan tâm đến khai thác giá trị lịch sử văn hoá của làng nghề, thiếu khu vực trưng bày giới thiệu lịch sử truyền thống làng nghề. Đặc biệt, việc liên kết giữa các cơ sở, giữa các làng nghề còn rất nhiều hạn chế, chủ yếu là kinh doanh hộ, ít mô hình doanh nghiệp và hợp tác xã. Đây là một nhược điểm rất lớn của làng nghề. Nhiều hộ gia đình rất ít trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trong các hoạt động sản xuất cũng như tiêu thụ, dẫn đến thương hiệu làng nghề ít được xây dựng, sản phẩm chậm được cải tiến, sức cạnh tranh kém, thu nhập thấp kéo dài. Bên cạnh đó, các làng nghề truyền thống hiện nay phải đương đầu với giá nguyên liệu không ổn định, làm cho giá thành phẩm cũng dao động theo, nên chủ cơ sở không dám ký những hợp đồng dài hạn với giá trị lớn. Nhiều chủ cơ sở muốn mua trữ nguyên liệu nhưng lại thiếu vốn. Vòng tròn luẩn quẩn ấy khiến cho các cơ sở không thể đảm bảo cho người lao động có việc làm thường xuyên và liên tục, công việc tại làng nghề dần trở thành một công việc thời vụ thay vì việc mang tính chuyên môn hóa tay nghề cao.
Nguồn: bentre.dcs.vn BTV Hồng Nhung
Đắk Nông: Giải Pháp Bảo Tồn Và Phát Triển Các Làng Nghề Truyền Thống
Bên cạnh đó, các đại biểu cũng đã bàn bạc về giải pháp tháo gỡ khó khăn và phương thức phối hợp để tổ chức thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ theo Quy hoạch phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh Đắk Nông đến năm 2023, định hướng đến năm 2030; quan điểm về việc khôi phục, bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống; quy hoạch các làng nghề gắn với phát triển du lịch…
Đắk Nông nhiều giải pháp bảo tồn và phát triển các ngành nghề nông thôn.
Theo báo cáo hiện trên địa bàn tỉnh có 4 nghề truyền thống chưa được công nhận bao gồm: Dệt thổ cẩm; đan lát, mây tre đan; thêu ren và rượu cần. Các nghề này phân bố tại các bon, buôn trên địa bàn một số xã tại 4 huyện, thị xã gồm: Cư Jút, Tuy Đức, Krông Nô, Gia Nghĩa. Đây là các nghề do một số nghệ nhân người đồng bào thiểu số tại chỗ tự sản xuất để phục vụ trong gia đình hoặc tại các lễ hội truyền thống, hoạt động không liên tục, đang có nguy cơ bị mai một.
Các ngành nghề nông thôn như: sản xuất mộc thủ công mỹ nghệ, dệt thổ cẩm, mây tre đan, cơ khí nhỏ, sinh vật cảnh và dịch vụ… tuy đã có những bước phát triển nhưng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhìn chung, sản phẩm của ngành nghề nông thôn Đắk Nông còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa theo kịp với yêu cầu của đời sống xã hội và thị hiếu của người tiêu dùng.
Trong khi đó, một số nghề truyền thống mang đậm nét văn hóa của các dân tộc nhưng đang có nguy cơ mai một, thất truyền do sự cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại được sản xuất công nghiệp và ngày càng ít được sử dụng trong đời sống hàng ngày như: Dệt thổ cẩm, đan lát mây tre, hàng thủ công mỹ nghệ.
Tuy vậy, ngành nghề nông thôn cũng đã chứng tỏ vai trò của nó trong việc phát triển kinh tế, xã hội vùng nông thôn, thu hút lao động dư thừa, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp, tạo ra giá trị sản lượng không nhỏ trong kinh tế nông thôn, nhất là ở các thị trấn, thị tứ, cụm kinh tế xã, liên xã. Do đó, công tác hỗ trợ để ngành nghề nông thôn phát triển, phát huy vai trò của nó trong đời sống xã hội là hết sức quan trọng và cần thiết.
Theo đó, nhằm bảo tồn và phát triển các ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh, hiện nay, tỉnh Đắk Nông đã xây dựng và phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh Đắk Nông đến năm 2023 và định hướng đến năm 2030 tại Quyết định 1236/QĐ-UBND ngày 17/8/2023. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số 52/2023/NĐ-CP ngày 12/4/2023 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh.
Việc phát triển các nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống nhằm mục đích bảo tồn bản sắc dân tộc đồng bào thiểu số tại chỗ là một việc làm có ý nghĩa không chỉ góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho các hộ dân trên địa bàn tỉnh, góp phần vào việc giảm nghèo mà nó còn đóng vai trò lớn trong việc phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh.
Đắk Nông Tìm Giải Pháp Bảo Tồn Và Phát Triển Các Làng Nghề Truyền Thống
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông Tôn Thị Ngọc Hạnh vừa chỉ đạo UBND các huyện, thị xã căn cứ các tiêu chí theo quy định để lập hồ sơ về nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống trên địa bàn trình UBND tỉnh xem xét, công nhận. (Cinet) – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Nông Tôn Thị Ngọc Hạnh vừa chỉ đạo UBND các huyện, thị xã căn cứ các tiêu chí theo quy định để lập hồ sơ về nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống trên địa bàn trình UBND tỉnh xem xét, công nhận.
Nhiều làng nghề truyền thống có nguy cơ bị mai một
Bên cạnh đó, các đại biểu cũng đã bàn bạc về giải pháp tháo gỡ khó khăn và phương thức phối hợp để tổ chức thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ theo Quy hoạch phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh Đắk Nông đến năm 2023, định hướng đến năm 2030; quan điểm về việc khôi phục, bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống; quy hoạch các làng nghề gắn với phát triển du lịch…
Theo báo cáo hiện trên địa bàn tỉnh có 4 nghề truyền thống chưa được công nhận bao gồm: Dệt thổ cẩm; đan lát, mây tre đan; thêu ren và rượu cần. Các nghề này phân bố tại các bon, buôn trên địa bàn một số xã tại 4 huyện, thị xã gồm: Cư Jút, Tuy Đức, Krông Nô, Gia Nghĩa. Đây là các nghề do một số nghệ nhân người đồng bào thiểu số tại chỗ tự sản xuất để phục vụ trong gia đình hoặc tại các lễ hội truyền thống, hoạt động không liên tục, đang có nguy cơ bị mai một.
Các ngành nghề nông thôn như: sản xuất mộc thủ công mỹ nghệ, dệt thổ cẩm, mây tre đan, cơ khí nhỏ, sinh vật cảnh và dịch vụ… tuy đã có những bước phát triển nhưng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhìn chung, sản phẩm của ngành nghề nông thôn Đắk Nông còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa theo kịp với yêu cầu của đời sống xã hội và thị hiếu của người tiêu dùng.
Trong khi đó, một số nghề truyền thống mang đậm nét văn hóa của các dân tộc nhưng đang có nguy cơ mai một, thất truyền do sự cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại được sản xuất công nghiệp và ngày càng ít được sử dụng trong đời sống hàng ngày như: Dệt thổ cẩm, đan lát mây tre, hàng thủ công mỹ nghệ.
Tuy vậy, ngành nghề nông thôn cũng đã chứng tỏ vai trò của nó trong việc phát triển kinh tế, xã hội vùng nông thôn, thu hút lao động dư thừa, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp, tạo ra giá trị sản lượng không nhỏ trong kinh tế nông thôn, nhất là ở các thị trấn, thị tứ, cụm kinh tế xã, liên xã. Do đó, công tác hỗ trợ để ngành nghề nông thôn phát triển, phát huy vai trò của nó trong đời sống xã hội là hết sức quan trọng và cần thiết.
Theo đó, nhằm bảo tồn và phát triển các ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh, hiện nay, tỉnh Đắk Nông đã xây dựng và phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh Đắk Nông đến năm 2023 và định hướng đến năm 2030 tại Quyết định 1236/QĐ-UBND ngày 17/8/2023. Sở NN&PTNT cũng đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số 52/2023/NĐ-CP ngày 12/4/2023 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh.
Việc phát triển các nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống nhằm mục đích bảo tồn bản sắc dân tộc đồng bào thiểu số tại chỗ là một việc làm có ý nghĩa không chỉ góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho các hộ dân trên địa bàn tỉnh, góp phần vào việc giảm nghèo mà nó còn đóng vai trò lớn trong việc phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh.
Các Giải Pháp Nhằm Phát Triển Làng Nghề Truyền Thống Ở Tỉnh Hà Nam
1.Mở rộng thị trường tiêu thụ.
Thị trường là vấn đề sống còn quyết định sự thành bại của các làng nghề. Thực tiễn, những cơ sở, những làng nghề đẩy mạnh và phát triển sản xuất đều là những nơi giải quyết tốt được đầu ra. Trong những năm gần đây, thị trường xuất khẩu sang các nước, vùng lãnh thổ như: Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo, Nhật Bản và một số nước Tây Âu đã được khai thông, song nhìn chung vẫn chưa tạo lập được các thị trường ổn định và lâu dài. Hầu hết các cơ sở sản xuất vẫn phải tự thân lo liệu tìm kiếm thị trường.
Những hạn chế lớn về thị trường đặc biệt là thị trường tiêu thụ sản phẩm đang là nguyên nhân chủ yếu làm giảm tốc độ phát triển của các ngành nghề. Phát triển thị trường ở đây phải căn cứ vào nhiều yếu tố như: Thu nhập của người dân, nhu cầu đối với sản phẩm hiện tại và trong tương lai, cũng như mẫu mã, giá thành sản phẩm… Gắn kết sản phẩm với thị trường là một trong những nội dung quan trọng nhất của chiến lược thị trường. Phát triển thị trường đầu vào (lao động, thông tin, khoa học công nghệ, nguyên vật liệu…) và thị trường sản phẩm cho các làng nghề. Hiện nay doanh nghiệp Nhà nướcbỏ ngỏ thị trường cho các làng nghề, đang để tư thương thao túng. Cần phát triển đa dạng các thành phần kinh tế hoạt động trên thị trường này trong đó nêu cao vai trò của thương nghiệp Nhà nước. Thông qua các hình thức gia công, đặt hàng và hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp ở thành thị với các cơ sở kinh doanh ở nông thôn để tạo thị trường lớn và ổn định cho các ngành nghề.
Tóm lại, để giải quyết tốt vấn đề thị trường cho các ngành nghề truyền thống cần phải có sự nỗ lực từ hai phía, đó là các cơ quan chức năng và các đơn vị sản xuất kinh doanh.
– Đối với các cơ quan chức năng.
Thứ nhất: Thường xuyên tổ chức hội chợ (trong và ngoài nước), hàng năm dành một phần ngân sách cho hoạt động này. Các huyện, thị nen dành vị trí thuận lợi để tổ chức các trung tâm, các cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm của các ngành nghề.
Thứ hai: Tổ chức thông tin, dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm chống ép giá. Sở Thương mại chủ trì phối hợp với các cơ quan quản lý chuyên ngành và các đơn vị sản xuất để có biện pháp cùng nhau tháo gỡ những mướng mắc về thị trường. Tỉnh nên tạo điều kiện cho các đơn vị sản xuất có đủ năng lực được phép xuất khẩu trực tiếp hạn chế các khâu trung gian.
Thứ ba: Tỉnh cần có chính sách thông thoáng tạo điều kiện cho việc thành lập các cơ sở chuyên nghề ở nông thôn. Thực tế cho thấy, các cơ sở ngành nghề rất nhanh nhạy trong việc mở rộng tìm kiếm thị trường. Ngành nghề phát triển tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra đời ngược lại chính các doanh nghiệp đã thúc đẩy các hoạt động ngành nghề phát triển trong thời gian vừa qua.
Thứ tư: Cần thực hiện chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất của các ngành nghề, lành mạnh hoá thị trường trong cả nước. Các ngành công an, hải quan, quản lý thị trường cần có biện pháp kiên quyết chống buôn lậu, làm hàng giả và gian lận thương mại.
-Đối với các đơn vị sản xuất ngành nghề.
Thứ nhất: Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ nghiên cứu thị trường để có được những thông tin nhanh nhất, chính xác nhất về thị trường đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Phải chú ý nghiên cứu khai thác các thị trường ngách, phát triển quan hệ gia công cho các doanh nghiệp lớn ở thành thị. Xây dựng một mạng lưới phân phối sản phẩm rộng khắc chú ý tập trung vào các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng…. vì ở đây có sức mua lớn.
Thứ hai: Chủ động, tích cực thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã sản phẩm, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất ngành nghề.
Thứ ba: Cùng với kế hoạch tiêu thụ cũng cần quan tâm tới việc bảo đảm nguồn vật tư ổn định lâu dài tại địa phương. Một nguồn nguyên liệu sẵn có tại chỗ, có chất lượng chắc chắn sẽ tạo ra được những sản phẩm có sức cạnh tranh cao trên thị trường. Mối quan hệ giữa người cung cấp nguyên liệu và người sản xuất cũng phải củng cố theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi.
2 Đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất
Qua thực tế cho thấy trang thiết bị, công cụ sản xuất đối với các ngành nghề nhìn chung là thô sơ và đơn giản, dùng nhiều sức lao động nên có ưu điểm tận dụng được nhân công rẻ giá thành hạ. Chỉ đổi mới công nghệ sản xuất mới giúp các ngành nghề nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh trên thị trường, mới giúp cho các làng nghề đứng vững và cạnh tranh được với hàng công nghiệp thành thị. Nhưng cũng cần lưu ý rằng việc đổi mới thiết bị và công nghệ mới phải kết hợp chặt chẽ với công nghệ truyền thống thì mới giữ được nét đặc sắc của sản phẩm.
Để giúp cho các cơ sở sản xuất có thể đổi mới thiết bị và công nghệ ngoài sự hỗ trợ về vốn để người sản xuất có điều kiện đầu tư mua sắm trang thiết bị Nhà nước cần có sự hỗ trợ trong việc nghiên cứu hoàn thiện công nghệ mới, chế tạo máy móc thiết bị mới hướng dẫn cung cấp thông tin về thiết bị công nghệ ngoại nhập, để người sản xuất có điều kiện chon lọc cho phù hợp.
Tổ chức các trung tâm tư vấn chuyển giao công nghệ và các hoạt động hỗ trợ về mặt kỹ thuật và công nghệ cho các ngành nghề truyền thống. Các trung tâm này sẽ tư vấn cho các làng nghề nên sử dụng công nghệ gì, đổi mới ở khâu nào, sử dụng kỹ thuật ra sao … để giúp các làng nghề có thể áp dụng công nghệ thích hợp vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm .
Môi giới tổ chức khâu nối các quan hệ hợp tác giữa làng nghề với các cơ quan nghiên cứu khoa học để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. Cần khuyến khích mối quan hệ chắt chẽ giữa những cơ sở nghiên cứu với các làng nghề. Đồng thời trong mối quan hệ này cũng cần tạo ra sự liên kết trao đổi thông tin công nghệ giữa các làng nghề với các hình thức tổ chức thích hợp để liên kết chính ngay những người sản xuất trong các làng nghề với nhau.
Tuy vậy, cần phải căn cứ vào từng điều kiện cụ thể của từng ngành nghề để lựa chọn phương hướng đổi mới công nghệ cho phù hợp. Cần phải đổi mới công nghệ ở cả phần cứng và phần mềm. Có nghĩa là song song với việc nhập máy móc thiết bị, cần phải nâng cao khả năng tiếp thu sử dụng thiết bị cho người lao động. Trong đổi mới công nghệ nên theo hướng lựa chọn những công nghệ thích hợp là chủ yếu.
Cùng với các hoạt động nhằm đổi mới hoặc cải tiến công nghệ sản xuất, các cơ sở ngành nghề phải kết hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương để có biện pháp xử lý tình trạng ô nhiễm một cách tốt nhất.
3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho ngành nghề
Để có thể vừa tăng nhanh về số lượng vừa nâng cao được trình độ kỹ thuật tay nghề cho người lao động đáp ứng yêu cầu mở rộng phát triển sản xuất của các làng nghề, đòi hỏi trước hết Nhà nước cần phải mở rộng quy mô đào tạo và đa dạng các hình thức dạy nghề thành lập các trường dạy nghề truyền thống ở bậc Cao đẳng nhằm tạo ra được một đội ngũ những người quản lý những cố vấn kỹ thuật những giám đốc doah nghiệp nhỏ trong các làng nghề. Thành lập các viện nghiên cứu về nghề truyền thống, tổ chức các dịch vụ tư vấn giúp đỡ các cơ sở về mặt kỹ thuật, quản lý kinh doanh, xuất nhập khẩu hoặc pháp luật.
Hàng năm tỉnh nên dành một phần kinh phí đầu tư phát triển để hỗ trợ cho việc đào tạo dạy nghề. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể có thể dùng các hình thức sau đây:
– Các trung tâm tự dạy nghề do tư nhân tự mở lớp, đào tạo nghề cho những người có nhu cầu.
– Khuyến khích các nghệ nhân thợ giỏi dạy nghề, truyền nghề.
– Các hiệp hội nghề nghiệp có thể tổ chức ra các trường lớp đào tạo về kỹ thuật quản lý ở trình độ cao nhằm tạo ra những người có trình độ sản xuất kinh doanh giỏi, có khả năng tiếp nhận những nghề mới, cải tiến nghề truyền thống làm hạt nhân cho các làng nghề ở những vùng thuần nông nên lựa chọn hình thức thích hợp để “cấy nghề”. Hướng phát triển nghề là là dạy cho một số hộ làm điểm sáng để lôi kéo những hộ khác trong làng làm theo theo nguyên lý “vết dầu loang”.
– Đối với những nghệ nhân là những người tâm huyết với nghề nắm vững bí quyết và kỹ thuật sản xuất phải có chính sách ưu đãi đặc biệt. Hàng năm hoặc vài năm cần tổ chức xét và công nhận trao tặng danh hiệu cao quý tôn vinh nghề nghiệp cũng như thưởng vật chất xứng đáng cho những người thợ giỏi, nghệ nhân, những nhà kinh doanh có tài làm ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao xuất khẩu nhiều cũng như những người có phát minh sáng kiến cải tiến máy móc thiết bị công nghệ sản xuất, góp phần nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
– Nâng cao trình độ văn hoá cho dân cư trong toàn tỉnh nói chung và các làng nghề nói riêng. Cần nghiên cứu kết hợp dạy văn hoá với dạy nghề ở những năm học cuối cấp II,III sao cho họ có thể sống được bằng nghề đó khi thôi không đi học.
– Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh các chủ cơ sở ngành nghề nhất là kiến thức về thị trường.
4. Giải pháp về vốn
Với quy mô sản xuất nhỏ như hiện nay, vốn đầu tư sản xuất cho các ngành nghề không lớn nhưng việc đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm rất khó khăn. Để có vốn sản xuất kinh doanh thì người sản xuất phải dám mạnh dạn vay vốn, phải có phương án kinh doanh khả thi, có lãi đó là điều quan trong nhất. Như vậy, vốn đầu tư cho các ngành nghề có thể huy động từ các nguồn sau:
Thứ nhất, huy động vốn tự có của người lao động, theo thống kê hiện nay mức huy động vốn nhàn rối trong dân mới chỉ đạt 36%. ở những làng, xã nghề tuy mức huy động cao hơn song ta có thể thấy rằng vẫn còn một lượng rất lớn vốn nhàn rỗi chưa được huy động ở nông thôn. Vấn đề ở đây là phải tạo được niền tin để thu hút nguồn vốn tồn đọng đó đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, có thể đi vay từ các tổ chức tín dụng, các quỹ hỗ trợ của Nhà nước. Mở rộng hệ thống dịch vụ tín dụng cho khu vực nông thôn tổ chức các quỹ tín dụng chuyên doanh phục vụ phát triển TTCN nông thôn. Hàng năm tỉnh nên có kế hoạch dành một phần vốn nhất định từ nguồn vốn đầu tư phát triển cho vay với lãi suất ưu đãi cho các cơ sở sản xuất TTCN trong các làng nghề mới khôi phục…
Đơn giản hoá thủ tục cho vay vốn của các ngân hàng, các quỹ tín dụng hiện nay, các thủ tục cho vay vốn còn nhiều phiền hà tốn nhiều thời gian. Trong các làng nghề, nên phát triển hình thức cho vay qua các tổ chức đoàn thể ở địa phương, thực tế cho thấy đây là mô hình cho vay có hiệu quả. Các ngân hàng thương mại và các quỹ đầu tư phát triển cần phải nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện cho các cơ sở, hộ gia đình làm nghề vay vốn để phát triển sản xuất trên cơ sở thẩm định hiệu quả của các dự án.
Giải pháp cuối cùng rất quan trọng là Nhà nước cần tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định mà trưóc hết là “hâm nóng lại nền kinh tế ” tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Ngoài việc tăng thêm vốn đầu tư của Ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất, cần tranh thủ sự đầu tư giúp đỡ của các tổ chức quốc tế qua các dự án đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn.
5. Nhà nước cần hỗ trợ các làng nghề trong việc giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường
Sự phát triển sản xuất của các làng nghề đã và đang làm ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái ở nông thôn. Không giống như các cơ sở công nghiệp thành thị chúng ta không thể chỉ dùng biện pháp hành chính để sử lý tình trạng ô nhiễm mà trước hết phải tuyên truyền giáo dục cho người dân hiểu để cùng hợp tác tìm biện pháp giải quyết. Thông thường trong các làng nghề chỉ một vài công đoạn có gây ra ô nhiễm vd: làng dệt Nhật Tân, Hoà Hậu thì gây ô nhiễm chủ yếu ở khâu tẩy, nhuộm còn làng Thanh Hà thì chủ yếu ở khâu nhuộm, in. Tình trạng ô nhiễm hiện nay chủ yếu do công nghệ sử dụng thủ công quá lạc hậu chính. Mặc dù vậy, trong điều kiện còn nhiều hạn chế các biện pháp ít phức tạp, đỡ tốn kém như đưa nguồn nước thải ra ngoài cánh đồng, xử lý nguồn nước ô nhiễm qua các ao hồ bằng phương pháp tự nhiên vẫn được coi trọng. Tuy nhiên, khả năng đồng hoá chất thải của tự nhiên chỉ có giới hạn, biện pháp lâu dài và chủ yếu là phải xây dựng được hệ thống công trình sử lý chất thải ở trong từng địa phương. Trong đổi mới công nghệ ưu tiên lựa chọn công nghệ ít gây ô nhiễm.
6. Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật tạo môi trường lành mạnh cho các ngành nghề tồn tại và phát triển
Đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, nâng cao chất lượng của hệ thống giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc
Cần có chính sách miễn giảm thuế cho những cơ sở ngành nghề nông thôn mới được thành lập, hoặc mới được khôi phục tuỳ thuộc vào loại nghề loại sản phẩm. Cần có biện pháp khuyến khích các chủ đầu tư người thành phố hoặc ngươi nước ngoài bỏ vốn đầu tư cho công nghiệp nông thôn
Chính quyền địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho cho việc thuê đất để phát triển ngành nghề nông thôn, giải quyết việc làm cho người lao động
Quy hoạch, xây dựng và thực hiện các chương trình tổng quan phát triển nghề và làng nghề ở nông thôn trong thời kỳ dài cho toàn tỉnh, cho từng làng nghề
Cần nâng cao vai trò, năng lực của đội ngũ cán bộ ở các xã vì thực tế cho thấy đây là lực lượng có quyết định rất lớn tới sự phát triển của các làng nghề nhất là việc tiếp thu nghề mới.
biện pháp phát triển nghề truyền thống
làm gì để phát triển nghề truyền thốmg
,
Thực Hiện Các Giải Pháp Phát Triển Làng Nghề
Trong quá trình CNH, HĐH, sản phẩm của các làng nghề chịu sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, việc tìm giải pháp để phát triển bền vững các làng nghề là cần thiết…
Năm 2005 làng nghề rèn Tất Tác, xã Tiến Lộc (Hậu Lộc) đã được quy hoạch thành cụm làng nghề rèn cơ khí Tiến Lộc với diện tích hơn 3,5 ha. Bên lò lửa rực hồng, anh Kiều Văn Quang, chủ cơ sở rèn Quang Tân, cho biết: Có thời gian, các sản phẩm làng nghề rèn gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm do phải cạnh tranh với các mặt hàng cùng chủng loại được nhập từ các nước như Thái Lan, Trung Quốc… Không những thế, mẫu mã của các sản phẩm này đa dạng, giá thành lại rẻ hơn. Cũng theo anh Quang, để duy trì và phát triển nghề truyền thống của gia đình, anh đã nghiên cứu, đầu tư máy móc, áp dụng khoa học – kỹ thuật để tiết kiệm chi phí đầu vào, giảm giá thành sản phẩm, lại không độc hại cho người lao động và bảo vệ môi trường; sản phẩm tạo ra có chất lượng và mẫu mã đẹp. Những khâu gia công yêu cầu nhiều sức lao động đã được máy móc thay thế, như: Rèn bằng búa máy… Nhờ vậy, số lượng và chất lượng sản phẩm đã được nâng lên rõ rệt. Cũng theo anh Quang, nhờ đầu tư máy móc, nhiều gia đình trong làng nghề đã mở rộng sản xuất với quy mô lớn.
Ông Phạm Anh Khoa, Chủ tịch UBND xã Tiến Lộc, cho biết: Hiện nay, trên địa bàn xã Tiến Lộc có gần 1.500 hộ phát triển nghề rèn, tạo việc làm cho khoảng 2.500 lao động với thu nhập từ 4 đến 5 triệu đồng/tháng. Để phát triển làng nghề bền vững, bên cạnh hỗ trợ người dân về kỹ thuật rèn, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, UBND xã còn tích cực tuyên truyền, kêu gọi người dân thay đổi phương thức sản xuất từ thủ công sang máy móc, công nghệ hiện đại. Theo đó, toàn xã hiện có 6 tổ hợp máy cán rút thép, 20 xưởng sản xuất bánh lồng, 300 máy búa… Phát triển của các loại máy móc đã kéo theo sự thay đổi về hình thức sản xuất theo hướng chuyên môn hóa, liên kết sản xuất. Hiện nay, mỗi ngày người thợ rèn Tiến Lộc có thể mài hàng trăm con dao chất lượng cao cùng với rất nhiều các sản phẩm khác để bán rộng rãi trên khắp cả nước và xuất khẩu đi các nước Thái Lan, Lào, Campuchia… Nhờ hiệu quả kinh tế mang lại mà đời sống của người dân địa phương ngày càng được nâng lên.
Hiện nay, một số làng nghề đang phát triển mạnh tại các địa phương trong tỉnh, như: Làng nghề đúc đồng Trà Đông, xã Thiệu Trung (Thiệu Hóa); làng nghề mây tre đan, xã Hoằng Thịnh, làng nghề mộc Đạt Tài, xã Hoằng Đạt, làng nghề nước mắm Khúc Phụ, xã Hoằng Phụ (Hoằng Hóa)… Tuy đa dạng, phong phú về số lượng, nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để bảo tồn và phát triển các làng nghề, sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường để tiếp tục tồn tại và phát triển. Khó khăn của các làng nghề truyền thống hiện nay là nguồn vốn đầu tư cho sản xuất còn hạn chế, hoạt động chủ yếu dựa trên kinh nghiệm cha truyền con nối, mang tính thủ công là chính nên chưa đầu tư máy móc thiết bị, thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực cũng đang là một bài toán khó đối với các làng nghề vì đa phần người lao động chọn làm công nhân ở các doanh nghiệp vì có nguồn thu nhập ổn định. Đồng thời, việc liên kết giữa các cơ sở, các làng nghề còn nhiều hạn chế, chủ yếu là kinh doanh hộ, ít mô hình doanh nghiệp và HTX.
Đại diện lãnh đạo Chi cục Phát triển nông thôn Thanh Hóa cho biết: Nhận rõ thực trạng ấy, những năm gần đây, các cơ quan chức năng đã có một số biện pháp thiết thực tạo động lực cho phát triển làng nghề, như: Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển làng nghề gắn với xây dựng nông thôn mới; tăng cường nguồn vốn hỗ trợ xây dựng hạ tầng cụm công nghiệp, bảo tồn và phát triển làng nghề, kết hợp sản xuất gắn với du lịch làng nghề nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư. Bên cạnh đó, cần hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở trong làng nghề ứng dụng khoa học – kỹ thuật, cải tiến thiết bị, đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Mở rộng quy mô đào tạo và đa dạng các hình thức dạy nghề nhằm tạo ra những người có trình độ sản xuất, kinh doanh giỏi, có khả năng tiếp nhận những nghề mới, khuyến khích các nghệ nhân, thợ giỏi dạy nghề, truyền nghề. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các làng nghề, cụm công nghiệp tham gia hoạt động xúc tiến thương mại để quảng bá các sản phẩm truyền thống của địa phương, các hội chợ triển lãm, khai thác thị trường tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, đơn giản hóa thủ tục vay vốn để các hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác trong lĩnh vực ngành nghề nông thôn được tiếp cận vốn để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.
Bài và ảnh: Lê Ngọc
Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Làng Nghề Truyền Thống Tại Tiền Giang trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!