Xu Hướng 6/2023 # Thực Trạng Và Giải Pháp: Phát Triển Du Lịch Đông Nam Bộ # Top 12 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Thực Trạng Và Giải Pháp: Phát Triển Du Lịch Đông Nam Bộ # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Thực Trạng Và Giải Pháp: Phát Triển Du Lịch Đông Nam Bộ được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Thực trạng và giải pháp: Phát triển du lịch Đông Nam bộ

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến 2020, tầm nhìn đến năm 2030; trong đó đã xác định Đông Nam Bộ là một trong bảy vùng du lịch phát triển du lịch có vai trò quan trọng đối với phát triển du lịch cả nước. Vùng Đông Nam Bộ gồm thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh: Bà Rịa Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh đây là vùng phát triển kinh tế năng động, dẫn đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, là hạt nhân then chốt của vùng trọng điểm kinh tế phía Nam.

Thời gian qua, du lịch vùng Đông Nam Bộ đã có những bước phát triển mạnh mẽ và đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội; tạo nên nhiều công ăn việc làm, góp phần vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo; củng cố quốc phòng – an ninh trên địa bàn… thể hiện qua các chỉ tiêu cơ bản như  đến năm 2013 đã đón được 4,5 triệu lượt khách du lịch quốc tế và 18,8 triệu lượt khách du lịch nội địa; tổng thu từ khách du lịch đạt 65,4 ngàn tỷ đồng (tương đương 3 tỷ USD); tạo ra được 87,9 ngàn lao động trực tiếp và 160 ngàn lao động gián tiếp…    1. Đánh giá tiềm năng, điều kiện phát triển du lịch.    – Tiềm năng về tự nhiên. Vùng Đông Nam Bộ nằm trên vùng đồng bằng và bình nguyên rộng, chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long; vùng khí hậu cận xích đạo với nền nhiệt độ cao và hầu như ít thay đổi trong năm, các diễn biến thất thường về khí hậu quanh năm rất nhỏ, ít có thiên tai, không quá lạnh, ít ảnh hưởng của bão; là khu vực có các sông lớn và dài với mật độ phân bố tương đối thấp 0,5km/km2, có nhiều hồ lớn và hệ sinh thái rừng đa dạng…thuận lợi cho phát triển du lịch. Tài nguyên biển, đảo: Vùng ĐNB có chiều dài bờ biển gần 180km với thềm lục địa rộng trên 100.000 km2 có các bãi biển đẹp, nước trong tại Bà Rịa-Vũng Tàu; hệ sinh thái đất ngập mặt tại Cần Giờ… Tài nguyên du lịch sinh thái gắn liền với VQG, khu dự trữ sinh quyển, khu bảo tồn, các khu rừng ngập mặn như: Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai, Khu dữ trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ đã được UNESCO công nhận, hệ thống VQG làCát Tiên (Đồng Nai), VQG.Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu), VQG.Bù Gia Mập (Bình Phước), VQG.Lò Gò – Xa Mát (Tây Ninh). Tài nguyên du lịch gắn liền với cảnh quan núi có ý nghĩa đối với phát triển du lịch như: Núi Bà Đen (Tây Ninh), còn được công nhận là Quần thể di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng núi Bà; Núi Bà Rá; Núi Dinh; Núi Chứa Chan … Tài nguyên du lịch tự nhiên gắn liền với cảnh quan, hệ sinh thái sông, hồ như: sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ Đông, sông Đồng Nai…; hồ Dầu Tiếng; hồ Trị An (Đồng Nai); hồ Thác Mơ (Bình Phước)…    – Tiềm năng về tài nguyên nhân văn. Đông Nam Bộ là vùng địa linh nhân kiệt, nôi của phong trào cách mạng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm nên đã để lại rất nhiều tài nguyên di tích lịch sử, văn hóa cách mạng, trong đó nhiều di tích lịch sử được công nhận cấp quốc gia đặc biệt gồm: Khu di tích Căn cứ Trung ương Cục miền Nam (Tây Ninh), di tích Dinh Độc Lập (TP.Hồ Chí Minh), di tích lịch sử Nhà tù Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu), di tích lịch sử Đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh (huyện Lộc Ninh, Bù Gia Mập – Bình Phước… Các di tích lịch sử – văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ: Có 150 loại di tích lịch sử – văn hóa, công trình kiến trúc có giá trị trên địa bàn đã được công nhận cấp quốc gia và địa phương, trong đó có 01 di sản văn hóa phi vật thể được công nhận cấp quốc tế như: Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ nói chung và ĐNB nói riêng được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, Quần thể di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng núi Bà tại Tây Ninh được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia, di chỉ khảo cổ di chỉ văn hóa Óc Eo, Bưng Bạc, Bưng Thơm… tại Bà Rịa – Vũng Tàu.. Lễ hội văn hóa dân gian gồm: Lễ hội, tâm linh và tín ngưỡng của các tôn giáo như: lễ hội Phật Giáo, Thiên chúa giáo, Cao Đài, Hòa Hảo…; lễ hội gắn liền với phong tục tập quán của các cộng đồng dân tộc Kinh, Chăm, Hoa, Tà Mun, S’tiêng, Mạ…; lễ hội gắn liền nghề biển như lễ hội Cầu Ngư tại các làng chài ven biển, lễ lên rẫy, lễ vào mùa…, trong đó lễ hội đang thu hút khách du lịch là lễ hội tại Toàn Thánh Cao Đài Tây Ninh, chàu Ông Cậu Bình Dương… Ẩm thực vùng ĐNB được thể hiện qua các món ăn truyền thống như:  bánh canh, báng tráng phơi sương Trảng Bàng (Tây Ninh); ẩm thực biển  (Bà Rịa-Vũng Tàu); gỏi măng cụt Lái Thiêu, bánh bèo bì (Bình Dương), chè bưởi Tân Triều (Đồng Nai), rau rừng Bình Phước. Nghề thủ công truyền thống đang được phục vụ du lịch và thu hút khách là nghề gốm tại xã Tân Vạn, nghề dệt thổ cẩm Tài Lài; tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có nghề đúc đồng xã Anh Nhứt, rượu Hòa Long, bánh cuốn An Ngãi; tỉnh Bình Dương có làng nghề sơn mài Tân Bình Hiệp, nghề gốm Bình Dương; tỉnh Tây Ninh có làng nghề báng tráng phơi sương Trảng Bàng, nghề đồng…    – Điều kiện về hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch Hàng không. Có hệ thống cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất và cảng hàng không nội địa Côn Sơn và Vũng Tàu (Bà Rịa – Vũng Tàu), cảng hàng không Biên Hòa (Đồng Nai). Đường bộ. Vùng có 13 đường quốc lộ kết nối với hệ thống đường quốc gia và quốc tế như đường quốc lộ 22, 22B và 13 nối với Campuchia qua cửa khẩu quốc tế Mộc Bài, Xa Mát (Tây Ninh) và Hoa Lư (Bình Phước), đường mòn Hồ Chí Minh; đường bộ nối với các vùng du lịch như: Quốc lộ 1A, 50. N2 nối các tỉnh vùng du lịch Nam Trung Bộ, duyên hải và Tây Nam Bộ, quốc lộ 20, 14, 13, 14C nối với vùng du lịch Tây Nguyên; đường bộ nối các tỉnh, đô thị, các khu vực trong vùng và hệ thống đường đến các khu tuyến điểm du lịch; nói chung tiêu chuẩn kỹ thuật hệ thống giao thông đạt tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Hệ thống đường thủy. Tuyến đường biển nối biển Đông với vùng ĐNB qua Vũng Tàu đến cảng Sài Gòn qua các sông Soài Rạp, Cái Mép, sông Tiền; tuyến đường thủy liên tỉnh; tuyến đường thủy nội vùng trên sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ Đông, sông Đồng Nai… thuận lợi cho việc bố trí các tuyến điểm du lịch cho khách tham quan du lịch. Đường sắt và nhà ga.Tuyến đường sắt quốc gia đi qua các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và TP.Hồ Chí Minh với chiều dài 110km có 13 nhà ga đạt tiêu chuẩn để phục vụ hành khách và khách du lịch.    2. Hiện trạng phát triển du lịch vùng Đông Nam Bộ.    2.1. Hiện trạng về khách du lịch Nguồn khách đến tham quan vùng phụ thuộc rất nhiều số lượng khách đến TP.Hồ Chí Minh là do chúng tôi là đầu mối giao thông  và tập trung các hãng lữ hành quốc tế, TP.Hồ Chí Minh là địa điểm thu hút khách du lịch quốc tế đến tham quan và TP.Vũng Tàu là nơi khách du lịch nội địa chọn nghỉ dưỡng biển. Sau đây, phân tích một số chỉ tiêu khách du lịch. Tốc độ tăng trưởng trung bình khách du lịch toàn vùng giai đoạn 2000 – 2013 đạt 11,2%, trong đó tăng trưởng khách du lịch quốc tế là 10,4%, khách du lịch nội địa là 11,4%;  năm 2000 đón được 5,9 triệu lượt khách, đến năm 2013 đạt 23,3 triệu lượt khách Tốc độ tăng trưởng trung bình khách du lịch quốc tế giai đoạn 2000 – 2013 đạt 10,4%; năm 2000 đón được 1,2 triệu lượt khách, đến năm 2013 đón được 4,5 triệu lượt khách tăng gấp 4 lần so với đầu; Cụ thể: du lịch TP.Hồ Chí Minh đón được hơn 4,009 triệu lượt khách quốc tế chiếm 89% số lượt khách Vùng, du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu đón được 380 ngàn lượt khách, du lịch Bình Dương đón được 54 ngàn lượt khách và du lịch Đồng Nai đón được 50 ngàn lượt khách… Phân tích thành phần khách đến: về độ tuổi thì số lượng khách du lịch có độ tuổi cao chiếm ưu thế vào các thị trường khách các nước Châu Âu và Châu Mỹ; phân tích điểm xuất phát thì khách từ các nước Châu Á và vùng lãnh thổ có số lượng khách cao nhất. Phân tích cửa khẩu và phương tiện nhập cảnh: Cửa khẩu quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất chiếm đến 76% lượng khách du lịch quốc tế đến vùng ĐNB, các cửa khẩu đường bộ Mộc Bài, Xa Mát (Tây Ninh) chiếm 12% lượng khách; ngoài ra, khách đến vùng ĐNB qua các cửa khẩu quốc tế của các vùng du lịch khác hoặc thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, tàu biển góp phần quan trọng tăng số lượng khách đến TP.Hồ Chí Minh và trên địa bàn. Tốc độ tăng trưởng trung bình khách du lịch nội địa giai đoạn đạt 11,4%, cụ thể: năm 2000 lượt khách đến đạt 4,5 triệu lượt khách, đến năm 2013 khách đến Vùng đạt 18,8 triệu lượt khách. Đặc điểm thị trường khách du lịch nội địa đến vùng ĐNB chủ yếu là khách du lịch nghỉ dưỡng kết hợp tham quan các điểm du lịch gắn liền với di tích lịch sử cách mạng, di tích văn hóa tại TP.Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh. Sản phẩm du lịch lễ hội gắn với tâm linh thu hút khách du lịch nội địa vào dịp nghỉ lễ tết, ngày lễ của các dân tộc, tôn giáo như: lễ hội chùa Bà (Tây Ninh), chùa Thái Sơn-Núi Cậu (Bình Dương.    Về ngày lưu trú trung bình và ngày khách Tốc độ tăng trưởng bình quân về ngày lưu trú đối với khách du lịch quốc tế trong giai đoạn là 0,4%/năm; năm có ngày lưu trú trung bình cao nhất là 2,36 ngày/khách; năm 2013 đạt 2,32 ngày/khách, đạt 10.464 ngàn ngày khách; năm thấp nhất là 1,89 ngày/khách (2003). Tốc độ tăng trưởng bình quân về ngày lưu trú đối với khách du lịch nội địa trong giai đoạn là 2,5%/năm; năm có ngày lưu trú trung bình cao nhất là 1,83 ngày/khách; năm 2013 có ngày lưu trú trung bình là 1,80 ngày/khách, đạt 33.844 ngàn ngày khách; năm thấp nhất là 1,30 ngày/khách (2000). Chi tiêu bình quân của khách du lịch và tổng thu từ khách du lịch Đối với khách du lịch quốc tế từ 80 – 130USD/ngày khách, đối với khách du lịch nội địa từ 25 – 55 USD. Tổng thu từ khách du lịch. Từ ngày khách và mức chi tiêu trên cho thấy tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 23%, mức tăng dần trong các năm, từ năm đầu kỳ nghiên cứu đạt 4 ngàn tỷ đồng, đến năm cuối kỳ 2013 đạt mức 65,3 ngàn tỷ đồng, trong đó tổng thu từ khách du lịch tại TP.Hồ Chí Minh chiếm tỷ trọng lớn nhất trong Vùng với chiếm 94% tổng thu từ khách du lịch toàn vùng đạt gần 61,2 ngàn tỷ đồng trong năm 2013. Cơ cấu thu từ khách du lịch bị chi phối bởi thu từ khách du lịch của TP.Hồ Chí Minh nơi tập trung số lượng khách du lịch lớn nhất nước, dịch vụ lưu trú có xu hướng tăng dần trong các năm đạt 12-15%/năm và chiếm 50-58% chi tiêu trung bình của khách, dịch vụ ăn uống nhà hàng chiếm 20-28%; doanh thu từ kinh doanh lữ hành chiếm 14-21%; còn lại là kinh doanh vận chuyển, vui chơi giải trí, mua sắm…, đối với dịch vụ vui chơi giải trí (VCGT) có xu hướng giảm.    2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch Cơ sở lưu trú. Tốc độ tăng trưởng trung bình số lượng cơ sở lưu trú đạt 11,73%/năm, mức tăng đều trong các năm và đến năm 2013 tổng số cơ sở trên địa bàn có 3.624 cơ sở; tốc độ tăng trưởng trung bình về buồng đạt 9,64%/năm và đến 2013 có 72 ngàn buồng, mức tăng giảm không đều trong các năm, nhiều cơ sở có số lượng phòng dưới 20 buồng/01 cơ sở. Theo địa bàn thì TP.Hồ Chí Minh có 1.980 cơ sở chiếm 54% số lượng cơ sở, với 45,95 ngàn buồng chiếm 63% về số lượng buồng; tiếp đến Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây Ninh và Bình Phước. Về chất lượng buồng từ 1-5 sao có 1.098 cơ sở, chiếm 30% số lượng cơ sở hiện có với 36.984 buồng, chiếm 51% số lượng buồng trong vùng. Phân loại chất lượng sao: loại 01 sao có 746 cơ sở, chiếm 68% số cơ sở được phân loại với 12.430 buồng; loại 2 sao có 231 cơ sở, chiếm 21% với 8.870 buồng; loại 3 sao có 92 cơ sở, chiếm 8,4% số cơ sở được phân loại với 6.952 buồng; loại 4 sao có 31 cơ sở với 6.952 buồng; loại 5 sao có 18 cơ sở, chiếm 1,6% số cơ sở được phân loại với 4.856 buồng. Công suất sử dụng buồng tại TP.Hồ Chí Minh, TP.Vũng Tàu đạt cao nhất trên 65%/năm, một số tỉnh Bình Phước, Tây Ninh có công suất sử dụng buồng hạn chế 30-32%. Tính chung toàn vùng chỉ đạt 52%. Dịch vụ ăn uống. Cơ sở đạt tiêu chuẩn chất lượng cao. Các cơ sở này đều ở các trung tâm du lịch, thường có 02 loại cơ bản là các cơ sở nhà hàng ăn uống trong các khách sạn từ 3 sao trở lên tại các thành phố, thị xã, tại quận 1,3,5 (TP.Hồ Chí Minh); Bãi Trước, Bãi Sau (TP.Vũng Tàu); TP.Biên Hòa (Đồng Nai); TP.Thủ Dầu Một (Bình Dương)… Cơ sở nhà hàng ăn uống đạt tiêu chuẩn trung bình (bình dân) có số lượng đạt nhiều nhất trong vùng, chủ yếu phục vụ khách nội địa có số lượng đông, chất lượng sản phẩm ở mức trung bình. Dịch vụ vui chơi giải trí. Tập trung tại các bãi biển; trên sông nước, hồ; tại các công viên, VQG, khu bảo tồn; trong các cơ sở lưu trú…tại TP. Hồ Chí Minh: Khu công viên văn hóa Đầm Sen tại Q.1; Khu du lịch Văn hóa Suối Tiên tại Q.9; Khu du lịch sinh thái Vàm Sát tại Cần Giờ; Bình Dương: Khu du lịch Văn hiến Đại Nam; Tây Ninh: Các dịch vụ vui chơi giải trí tại khu du lịch núi Bà Đen, khu du lịch Long Điền Sơn, khu văn hóa thể thao Thiên Sơn…    2.3. Lao động ngành du lịch Tốc độ tăng trưởng lao động trực tiếp đạt 21,9%, với 87,9 ngàn lao động (2013); TP. Hồ Chí Minh có mức tăng trưởng nhanh nhất đạt 32% với 59 ngàn lao động chiếm 68% lao động trong Vùng; Đồng Nai đạt 23,9% với 7,3 ngàn lao động; tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có mức tăng trưởng đạt thấp là 13% do đã có quá trình phát triển các năm trước  với số lượng lao động đến năm 2013 là 15 ngàn lao động đứng thứ 2 sau TP. Hồ Chí Minh. Về lao động gián tiếp cung cấp sản phẩm du lịch trên địa bàn ước khoảng 160 ngàn lao động của các ngành. Cơ cấu lao động trực tiếptrong các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú và nhà hàng chiếm trên 58-62% lao động toàn ngành, doanh nghiệp vận chuyển chiếm 15%; doanh nghiệp lữ hành chiếm 8%; doanh nghiệp dịch vụ vui chơi giải trí có tỷ lệ thấp nhất. Về chất lượng đội ngũ lao động trên địa bàn không đều, TP.Hồ Chí Minh và Vũng Tàu có chất lượng tương đối cao còn các khu vực khác còn thấp.   3. Thực trạng thị trường khách và sản phẩm du lịch Thị trường khách du lịch quốc tế bị chi phối bởi cơ cấu thị trường khách du lịch tại TP.Hồ Chí Minh thông qua đường hàng không qua cửa khẩu sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất chiếm đến 68%, đường tàu biển khoảng 3-6%, tiếp đến chi phối bởi cơ cấu thị trường khách du lịch đường bộ qua cửa khẩu quốc tế Mộc Bài và Xa Mát (Tây Ninh) khoảng 15-20%, ngoài ra đường bộ và đường sắt chiếm 2-5%. Lượng khách đến TP.Hồ Chí Minh, sau đó đi tham quan các điểm du lịch chiếm 85-88% số lượng khách quốc tế, còn lại 15-20% khách du lịch đến các tỉnh trong Vùng, sau đó đi du lịch đến các tỉnh còn lại. Nguồn khách du lịch quốc tế đến từ các nước thuộc Châu Á, Bắc Mỹ, Châu Âu và một số nước ở Châu Đại Dương chiếm đến 55% lượng khách, cụ thể: Từ các nước và vùng lãnh thổ như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Công chiếm tỷ trọng lớn chiếm 26,3%;  thị trường Mỹ và Canada (Bắc Mỹ) chiếm tỷ trọng từ 8-11%;  thị trườngh Úc, NewZealand (Châu Đại Dương) chiếm từ 5-6%; thị trường các ASEAN chiếm từ 7-12% thị trường khách du lịch TP.Hồ Chí Minh, trong đó khách Malaysia, Singapore, Brunây chiếm từ 8-9% thị phần, khách Thái Lan có xu hướng giảm. Thị trường khách du lịch nội địa nội vùng chiếm tỷ trọng nhiều nhất, ngoài ra khách từ các vùng du lịch khác lân cận và các tỉnh phía bắc. Sản phẩm du lịch đặc trưng chính là sản phẩm du lịch MICE gắn với các đô thị, du lịch văn hóa lịch sử, du lịch nghỉ dưỡng biển, du lịch sinh thái, du lịch làng nghề; sản phẩm du lịch gắn liền với tham quan các công trình văn hóa, các di tích lịch sử; sản phẩm du lịch gắn liền với tài nguyên biển, đảo, suối nước nóng thu hút khách đi du lịch nghỉ; sản phẩm du lịch gắn liền với tài nguyên hệ sinh thái tại các VQG, KBTTN; sản phẩm du lịch gắn liền với tài nguyên văn hóa phi vật thể như: tâm linh, tín ngưỡng, phong tục tập quán, lễ hội của các dân tộc, tôn giáo Hạn chế và nguyên nhân phát triển du lịch – Tốc độ tăng trưởng về khách du lịch là 11,2%/năm, mức tăng trưởng này cao nhất nước nhưng chưa tương xứng với tiềm năng và điều kiện của vùng; tỷ trọng khách du lịch quốc tế còn thấp, chiếm 17% tổng số lượt khách. – Số ngày lưu trú trên địa bàn thấp dẫn đến tổng thu từ khách du lịch không cao. – Thị trường khách du lịch không ổn định, số lượng khách du lịch chủ yếu tập trung ở địa bàn TP.Hồ Chí Minh; các tỉnh khác chưa có thị trường tiềm năng về khách du lịch quốc tế. – Sản phẩm du lịch trên địa bàn còn trùng lặp, đơn điệu gây ra nhàm chán cho khách du lịch; chất lượng sản phẩm du lịch không cao chưa đủ sức hút khách du lịch và cạnh tranh với sản phẩm du lịch trong khu vực. Sản phẩm là dịch vụ vui chơi giải trí tại nhiều tỉnh chưa chưa được đầu tư xây dựng nên mức độ lôi kéo khách du lịch kéo dài ngày tham quan trên địa bàn rất hạn chế, chưa có sản phẩm du lịch nào mang thương hiệu cho du lịch Vùng. – Công tác đầu tư vẫn còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm nên chưa định hình được khu điểm du lịch có đầy đủ các yếu tố cần thiết cho việc  thu hút khách du lịch. Một số khu, điểm du lịch có tiềm năng tài nguyên du lịch nổi trội chưa định hướng đầu tư và ưu tiên đầu tư rõ rệt nên sản phẩm du lịch này vẫn dưới dạng tiềm năng. – Công tác quy hoạch chi tiết một số khu du lịch trên địa bàn tỉnh chưa kịp thời, ảnh hưởng tới việc triển khai các dự án đầu tư xây dựng sản phẩm du lịch mới hấp dẫn hơn. – Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh chủ yếu là cơ sở lưu trú, nhà hàng; chất lượng dịch vụ chưa đạt tiêu chuẩn quy định. Mặt khác, công ty lữ hành của địa phương còn thiếu về số lượng, chưa đủ khả năng và trình độ để cạnh tranh, vươn ra thị trường quốc tế. – Công tác đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực tuy đã có cố gắng nhiều song vẫn chưa theo kịp yêu cầu đặt ra cả về số lượng và chất lượng; trình độ năng lực của cán bộ quản lý nhà nước và doanh nghiệp còn thiếu và yếu; chưa có đội ngũ chuyên gia giỏi nghề trên địa bàn. – Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch của một số tỉnh, doanh nghiệp chưa đủ tầm vươn ra thị trường quốc tế; nội dung tuyên truyền quảng bá còn đơn điệu; kinh phí đầu tư cho công tác quảng bá, xúc tiến chưa nhiều, nội dung xúc tiến quảng bá chưa hiệu quả trong việc tìm kiếm thị trường khách du lịch…; một số tỉnh công tác xúc tiến, quảng bá du lịch trực thuộc Trung tâm Xúc tiến, Đầu tư Thương mại và Du lịch của tỉnh nên phần nào bị hạn chế. – Công tác liên kết cùng phát triển du lịch chưa hiệu quả rõ rệt, chưa rõ khả năng liên kết của các doanh nghiệp du lịch.    3. Định hướng phát triển du lịch Đông Nam Bộ    3.1 Quan điểm phát triển du lịch Phát huy cao nhất những lợi thế so sánh về vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, điều kiện tự nhiên và tiềm năng tài nguyên du lịch để phát triển các sản phẩm du lịch hội  nghị, hội thảo; du lịch biển, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, trong đó lấy du lịch hội  nghị, hội thảo là sản phẩm chủ đạo. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, huy động mọi nguồn lực để phát triển du lịch bền vững, hài hòa với các mục tiêu phát triển về kinh tế – xã hội, an sinh xã hội, quốc phòng – an ninh, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng cường liên phát triển du lịch giữa các địa phương trong Vùng để phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh về du lịch chung cho toàn Vùng.    3.2. Mục tiêu phát triển    Mục tiêu tổng quát Phát triển du lịch vùng Đông Nam Bộ với vai trò động lực phát triển du lịch Việt Nam, với hệ thống sản phẩm du lịch đa dạng, độc đáo, có thương hiệu và sức cạnh tranh với các nước trong khu vực.    Mục tiêu cụ thể.    a) Về tổ chức lãnh thổ: Phát triển du lịch TP. Hồ Chí Minh trở thành trung tâm và hạt nhân của Vùng. Đầu tư phát triển đô thị Vũng Tàu trở thành các đô thị du lịch biển hiện đại. Đầu tư phát triển 04 khu du lịch quốc gia, 05 điểm du lịch quốc gia với cơ sở dịch vụ cao cấp. Nâng cấp các tuyến du lịch quốc gia, tuyến du lịch liên vùng và nội vùng. Xây dựng và phát triển các khu, điểm du lịch địa phương để làm tăng tính đa dạng sản phẩm du lịch Vùng để tạo ra động lực phát triển du lịch cho toàn Vùng.    b) Các chỉ tiêu về phát triển ngành    + Về số lượng khách Phấn đấu đến năm 2015, đón được khoảng 25 triệu lượt khách, trong đó có 5 triệu lượt khách du lịch quốc tế . Đến năm 2020, đón được khoảng 30 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế là 6 triệu lượt; Đến năm 2025, đón được khoảng 37 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế là 8 triệu lượt; Đến năm 2030, phấn đấu đón được khoảng 43 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế là 10 triệu lượt.    + Về ngày lưu trú Ngày lưu trú trung bình khách du lịch quốc tế: Năm 2015 đạt khoảng 3,8 ngày; năm 2020 đạt khoảng 4,2 ngày; năm 2025 đạt khoảng 4,3 ngày và năm 2030 đạt khoảng 4,4 ngày. Ngày lưu trú trung bình khách du lịch nội địa: Năm 2015 đạt khoảng 2,2 ngày; năm 2020 đạt khoảng 2,4 ngày; năm 2025 đạt khoảng 2,5 ngày và năm 2030 đạt khoảng 2,6 ngày.    + Về mức chi tiêu Mức chi tiêu trung bình khách du lịch quốc tế: Năm 2015 khoảng 2.400.000 VNĐ (114 USD); năm 2020 khoảng 2.500.000 VNĐ (120 USD); năm 2025 khoảng 2.600.000 VNĐ (124 USD) và năm 2030 khoảng 2.700.000 VNĐ (126 USD). Mức chi tiêu trung bình khách du lịch nội địa: Năm 2015 khoảng 655.000 VNĐ (31USD); năm 2020 khoảng 1.000.000 VNĐ (48 USD); năm 2025 khoảng 1.250.000 VNĐ (59 USD) và năm 2030 khoảng 1.300.000 VNĐ (60 USD).    + Về tổng thu từ khách du lịch Năm 2015 đạt khoảng 68.000 tỷ đồng, tương đương 3,2 tỷ USD; năm 2020 đạt khoảng 123.000 tỷ đồng, tương đương 5,8 tỷ USD; năm 2025 đạt khoảng 176.000 tỷ đồng, tương đương 8,3  tỷ USD; năm 2030 đạt khoảng 221.000 tỷ đồng, tương đương 10,5 tỷ USD.    + Đóng góp của du lịch trong GDP: . Năm 2015 đạt 53.900 tỷ đồng, tương đương 2,2 tỷ USD; . Năm 2020 đạt 85.800 tỷ đồng, tương đương 4,0 tỷ USD; . Năm 2025 đạt 123.000 tỷ đồng, tương đương 5,8 tỷ USD; . Năm 2030 đạt 154.900 tỷ đồng, tương đương 7,3 tỷ USD.    + Về cơ sở lưu trú Năm 2015, nhu cầu buồng là 79.300 buồng, trong đó tỷ lệ buồng 3 sao đến 5 sao đạt khoảng 22%; năm 2020 nhu cầu buồng là  86.000 buồng khách sạn, tỷ lệ buồng 3 sao đến 5 sao đạt khoảng 25%; năm 2025 phát triển 109.000 buồng khách sạn, tỷ lệ buồng 3 sao đến 5 sao đạt 25%; năm 2030 phát triển khoảng 146.000 buồng khách sạn, tỷ lệ buồng 3 sao đến 5 sao đạt khoảng 30%.    + Về nhu cầu vốn đầu tư cho du lịch Đến năm 2015 nhu cầu vốn khoảng 59.000 tỷ đồng, tương đương  2,8 tỷ USD; đến năm 2020 nhu cầu vốn cho cả giai đoạn là 160.000 tỷ đồng, tương đương 7,5 tỷ USD; đến năm 2025 nhu cầu vốn cho cả giai đoạn là 162.201 tỷ đồng, tương đương 7,7 tỷ USD và đến năm 2030 nhu cầu vốn đầu tư cho cả giai đoạn là 167.792 tỷ đồng, tương đương 8,0 tỷ USD.    + Chỉ tiêu việc làm Đến năm 2015 là 278.000 lao động (trong đó lao động trực tiếp là 88.000 lao động); đến năm 2020 là 390.000 lao động (trong đó lao động trực tiếp là 130.000 lao động); đến năm 2025 là 870.000 lao động (trong đó lao động trực tiếp là 290.000 lao động) và đến năm 2030 khoảng 1 triệu lao động (trong đó lao động trực tiếp là 360.000 lao động).    4. Các giải pháp phát triển du lịch vùng Đông Nam Bô Để thực hiện các nội dung định hướng phát triển du lịch vùng ĐNB có hiệu quả đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, cần triển khai các nhóm giải pháp sau:1) Chính sánh, cơ chế phát triển du lịch; 2) Về Đầu tư và huy động vốn đầu tư; 3) Về Phát triển nhân lực; 4) Về Hợp tác, liên kết; 5) Về Quy hoạch và quản lý quy hoạch; 6) Về Xúc tiến quảng bá; 7) Về Ứng dụng khoa học và công nghệ; 8) Về Phát triển thị trường; 9) Về Phát triển sản phẩm và xây dựng thương hiệu; 10) Về Bảo vệ tài nguyên môi trường; 11) Về Bảo đảm quốc phòng, an ninh. Trong đó các nhóm giải pháp về Chính sách, cơ chế, về Đầu tư, về Phát triển nguồn nhân lực giữ vai trò then chốt.    a) Nhóm giải pháp cơ chế chính sách phát triển du lịch – Xây dựng chính sách về thuế cho phát triển du lịch. – Cơ chế, chính sách xã hội hóa du lịch. – Cơ chế chính sách về bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch. – Cơ chế chính sách đầu tư cho du lịch.    b) Giải pháp đầu tư và huy động vốn đầu tư cho phát triển du lịch –  Đầu tư du lịch + Xúc tiến đầu tư để thu hút nguồn vốn cho phát triển du lịch vùng thông qua các diễn đàn xúc tiến đầu tư du lịch; xây dựng chương trình, lộ trình và kinh phí xúc tiến đầu tư du lịch trong vùng; tạo ra sự liên kết, phối hợp các doanh nghiệp, các địa phương để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn vùng. + Cải thiện môi trường đầu tư để nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch.  Xây dựng và điều chỉnh các chủ trương, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển phù hợp với tình hình đặc điểm của vùng, có cơ chế mở để cho các địa phương vận dụng phù hợp với từng địa bàn cụ thể; có chính sách ưu tiên cho các địa phương còn khó khăn, chưa đủ năng lực phát triển du lịch; tổ chức định kỳ Hội nghị phát triển du lịch vùng nhằm thu hút được nhiều ý kiến từ các nhà quản lý, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu và các doanh nghiệp. – Huy động nguồn vốn cho du lịch + Huy động nguồn lực tài chính trong nhân dân, tiềm lực tài chính của các tổ chức trong và ngoài nước để đảm bảo đủ nguồn vốn đầu tư cho du lịch. + Mở rộng, đa dạng hóa các hình thức thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước như các hình thức BOT, BTO, BT, PPP. + Đẩy mạnh xúc tiến, thu hút và có cơ chế, chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Thu hút nguồn vốn đầu tư từ cộng đồng người Việt ở nước ngoài. + Tăng cường xã hội hóa đầu tư để thu hút nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ, tôn tạo di tích, thắng cảnh; bảo tồn và phục dựng các lễ hội, hoạt động văn hóa dân gian, các làng nghề phục vụ phát triển du lịch. + Đa dạng nguồn vốn đầu tư thông qua xã hội hóa các loại hình và sản phẩm du lịch; tạo môi trường thuận lợi cho huy động nguồn vốn cho du lịch.    c) Giải pháp phát triển nguồn nhân lực – Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên của các cơ sở đào tạo nghề du lịch; chú trọng đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo; tăng cường công tác đào tạo tại chỗ đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực của từng địa phương và phù hợp với hội nhập quốc tế… – Phát triển đội ngũ nhân lực du lịch đủ về số lượng theo yêu cầu, cân đối về cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo, đảm bảo về chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch cao và bền vững của vùng. – Nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý nhà nước du lịch, cán bộ quản lý các doanh nghiệp du lịch và quản lý các khu du lịch tại các địa phương trong vùng. Tăng cường năng lực chuyên môn về xúc tiến quảng bá cho các cán bộ của các Trung tâm xúc tiến du lịch tại các địa phương trong vùng.    d) Giải pháp liên kết phát triển du lịch – Tăng cường trao đổi kinh nghiệm về phát triển du lịch giữa các địa phương trong vùng. Phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong việc khai thác tài nguyên, xây dựng sản phẩm du lịch, xây dựng chương trình du lịch và xúc tiến, quảng bá du lịch thống nhất. – Tăng cường trao đổi, phối hợp và hỗ trợ cung cấp dịch vụ giữa các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn vùng, đặc biệt là liên kết cung cấp dịch vụ giữa các công ty lữ hành với các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú, vận chuyển khách… trong việc  đón, phục vụ khách du lịch. –  Mở rộng liên kết vùng hoặc các địa phương trong vùng với các vùng khác liền kề và với các trung tâm du lịch phát triển như: Đà Nẵng, Huế, Hà Nội.    đ) Giải pháp quy hoạch và quản lý quy hoạch vùng – Thực hiện đồng bộ các quy hoạch + Trên cơ sở nội dung quy hoạch, các tỉnh; thành phố trong vùng Đông Nam Bộ cần rà soát, điều chỉnh hoặc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch phù hợp. + Nhanh chóng triển khai xây dựng quy hoạch các khu du lịch quốc gia, đô thị du lịch trên địa bàn. + Cập nhật và đánh giá tiềm năng tài nguyên du lịch trên địa bàn để có thông tin cung cấp cho các nhà đầu tư. + Triển khai xây dựng quy hoạch cụ thể các khu du lịch chức năng và các dự án đầu tư cho từng khu vực cụ thể. – Tăng cường công tác quản lý quy hoạch + Tổ chức phổ biến quy hoạch du lịch đến mọi tầng lớp xã hội, cộng đồng, tôn giáo, dân. + Tiến hành cắm mốc giới, chỉ giới cho các dự án đã được xác định hoặc đã có nhà đầu tư và để bảo vệ đất và tài nguyên du lịch. + Tổ chức giám sát nội dung các chỉ tiêu về kinh tế du lịch, tiêu chuẩn về bảo vệ tài nguyên môi trường… + Quản lý tổng hợp các dự án đầu tư của các ngành khác trong khu vực đã được quy hoạch phát triển du lịch. + Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn chuyên sâu về quản lý quy hoạch, tài nguyên và môi trường du lịch thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.    e) Giải pháp xúc tiến quảng bá du lịch – Khẩn trương kiện toàn bộ máy tổ chức về xúc tiến, quảng bá du lịch và xây dựng chương trình, lộ trình cho hoạt động xúc tiến ở từng địa phương trong vùng. – Nghiên cứu xây dựng cơ chế xúc tiến, quảng bá du lịch chung cho toàn vùng. Đẩy mạnh xã hội hóa trong hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch và đa dạng các hình thức quảng bá. – Phát huy vai trò hỗ trợ xúc tiến, quảng bá của các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài cho du lịch vùng Đông Nam Bộ. – Đẩy mạnh công tác xúc tiến quảng bá du lịch tại các thị trường tiềm năng để nâng cao hình ảnh du lịch vùng.    f) Giải pháp ứng dụng khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế – Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và công tác thống kê về du lịch trên địa bàn. – Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực du lịch để nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Chú trọng nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ trong quá trình quản lý và khai thác tài nguyên du lịch, thống kê du lịch, đánh giá môi trường, biến đổi khí hậu.    g) Giải pháp phát triển thị trường và sản phẩm du lịch – Khuyến khích xây dựng các hãng lữ hành có thương hiệu mạnh và có năng lực trong việc thu hút các thị trường khách du lịch, trong đó chú trọng lữ hành quốc tế. – Xây dựng chiến lược về thị trường khách để phát triển du lịch một cách ổn định và mang tính bền vững. – Ưu tiên xây dựng và hình thành các khu, điểm du lịch quốc gia để tạo sức lan tỏa phát triển du lịch cho toàn vùng. – Tập trung phát triển “Du lịch hội nghị, hội thảo” thành sản phẩm du lịch chủ đạo của vùng Đông Nam Bộ; Phát triển sản phẩm du lịch gắn với tài nguyên du lịch biển, đảo, sông, hồ và các tài nguyên du lịch nhân văn để đa dạng hóa các loại hình du lịch. – Đầu tư và phát triển các khu dịch vụ vui chơi giải trí có chất lượng cao để tăng chi tiêu và kéo dài ngày lưu trú của khách.    h) Giải pháp bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch và ứng phó với biến đổi khí hậu – Giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa của du lịch, của tài nguyên và môi trường đối với hoạt động du lịch. – Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để kiểm soát các vấn đề về môi trường, để quản lý và phát triển tài nguyên. – Khuyến khích các hoạt động du lịch thân thiện với môi trường; khuyến khích và hỗ trợ cộng đồng tham gia đầu tư phát triển du lịch, chia sẻ lợi ích và trách nhiệm trong việc khai thác tài nguyên phục vụ phát triển du lịch. – Xây dựng các giải pháp kỹ thuật hữu hiệu nhằm bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch. – Có các biện pháp phòng chống thiên tai hữu hiệu. – Rà soát, điều chỉnh các quy hoạch phù hợp với kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng.    i) Giải pháp bảo đảm an ninh quốc phòng – Triển khai các dự án phát triển du lịch cần phải phối hợp với bảo vệ an ninh, quốc phòng gắn liền với chủ quyền quốc gia. – Tăng cường hợp tác quốc tế, đặc biệt là hợp tác, liên kết giữa các tỉnh có biên giới với nước bạn trong phát triển du lịch để góp phần giữ vững chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ.Bảng các phương án dự báo khách du lịch vùng ĐNB

TT Chỉ tiêu ĐV tính Hiện trạng Phương án 1 Phương án 2 Phương án 3

A Giai đoạn ngắn hạn

Năm 2013 Giai đoạn 2014 – 2015

1 Tổng số lượt khách Ngàn lượt 23.301,0 23.561,0 23.818,0 24.960,0

– Khách DL quốc tế Ngàn lượt 4.510,0 4.638,0 4.638,0 4.831,0

Mức tăng trưởng % 10,4 0,8 2,0 3,5

– Khách DL nội địa Ngàn lượt 18.791,0 19.180,0 19.180,0 20.129,0

Mức tăng trưởng % 11,4 0,5 2,5 3,5

B Giai đoạn 2016-2020

Năm 2015 Giai đoạn 2016 – 2020

1 Tổng số lượt khách Ngàn lượt 24.429,0 28.319,0 30.046,0 32.193,0

– Khách DL quốc tế Ngàn lượt 4.698,0 5.446,0 6.028,0 6.436,0

Mức tăng trưởng % 2,0 3,0 5,1 6,5

– Khách DL nội địa Ngàn lượt 19.731,0 22.873,0 24.018,0 25.757,0

Mức tăng trưởng % 2,5 3,0 4,0 5,0

C Giai đoạn 2021-2025

Năm 2020 Giai đoạn 2021 – 2025

Tổng số lượt khách Ngàn lượt 30.039,0 35.527,0 36.761,0 38.180,0

Khách DL quốc tế Ngàn lượt 6.026,0 7.690,0 7.961,0 8.256,0

Mức tăng trưởng % 5,1 5,0 5,7 6,5

Khách DL nội địa Ngàn lượt 24.013,0 27.837,0 28.800,0 29.924,0

Mức tăng trưởng % 4,0 3,0 3,8 4,5

D Giai đoạn 2026-2030

Năm 2025 Giai đoạn 2026 – 2030

Tổng số lượt khách Ngàn lượt 36.775,0 41.267,0 43.212,0 46.302,0

Khách DL quốc tế Ngàn lượt 7.965,0 9.459,0 9.873,0 10.409,0

Mức tăng trưởng % 5,7 3,5 4,1 5,5

Khách DL nội địa Ngàn lượt 28.810,0 31.808,0 33.339,0 35.902,0

Mức tăng trưởng % 3,8 2,0 3,0 4,5

Yêu cầu đáp ứng

Thị trường khách du lịch

Phát triển bình thường Cần phải tạo thêm thị trường tiềm năng Thị trường khách quốc tế chiếm ưu thế

Sản phẩm du lịch

Phát triển bình thường Xây dựng nhiều sản phẩm du lịch đặc thù Hàu hết các sản phẩm du lịch đạt chất lượng cao

Nguồn lực nội tại ( vốn, lao động, quản lý

Đáp ứng hơn Đáp ứng đầy đủ Đáp ứng tuyệt đối

Nguồn : Dự báo của các chuyên gia dự án

TS. Võ Quế – Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch

Luận Văn Đề Tài Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Nguồn Nhân Lực Du Lịch Việt Nam

1.Tính cấp thiết của đề tài. Nghị quyết đại hội IX của đảng đã xác định ‘phát triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá, lịch sử đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch khu vực để đưa Du lịch Việt Nam thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, việc phát triển nguồn nhân lực Du lịch có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi lẽ, đây chính là lực lượng trực tiếp thực hiện đường lối, chính sách, phương hướng phát triển du lịch của đảng và Nhà nước ta Năng lực và phẩm chất của đội ngũ lao động trong ngành Du lịch có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc khai thác có hiệu quả cũng như bảo tồn lâu dài các nguồn tiềm năng du lịch của đất nước, tạo ra những sản phẩm du lịch đặc sắc, có chất lượng, hấp dẫn khách. Đội ngũ này cũng thể hiện khả năng tiếp thu kinh nghiệm Du lịch quốc tế, cũng như khả năng tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế về du lịch. Phát triển nguồn nhân lực Du lịch cũng là nhằm bảo đảm cho Dulịch Việt Nam phát huy nội lực, nắm bắt cơ hội vượt qua những thách thức trong thế kỷ XXI.đây chính là quá trình cụ thể hoá yêu cầu về nhân tố con người trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Giao lưu thương mại và đầu tư quốc tế phát triển là cầu nối để bạn bè quốc tế đến việt nam ngày càng tăng. nguồn nhân lực du lịch cần nâng cao trình độ học vấn, ngôn ngữ, hiểu biết, chuyên môn nghiệp vụ để có thể phục vụ tốt, thu hút số lượng ngày càng tăng khách Du lịch Quốc tế đến Việt Nam. Việt Nam từ năm 1991-2001. Tổng sản phẩm quốc nội tăng gấp đôi, đạt mức tốc độ bình quân trên 7% mỗi năm, không chỉ đủ ăn, mặc, ta còn đạt mức tích luỹ nội địa 27% GDP. Đời sống nhân dân tăng. Việt Nam là quốc gia có tài nguyên thiên nhiên, nhân văn phong phú và là điểm đến an toàn với khách du lịch, an ninh, chính trị ổn định, điều này thuận lợi việc thu hút càng đông lượng khách du lịch trong nước và quốc tế. Điều này đòi hỏi phải có nguồn nhân lực du lịch tăng cả về số lượng và chất lượng. Từ 1990-2003 lượng khách du lịch trong nước tăng xấp xỉ 12 lần từ 1 triệu lên 12 triệu. khách quốc tế tăng hơn 10 lần từ 250000 lên 2.3 triệu năm 2003. Điều này đòi hỏi có số lượng lao động đủ lớn để đáp ứng việc phục vụ khách du lịch. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, muốn đứng vững trên thị trường trong và ngoài nước cần phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch. Do vậy cả lý luận và thực tiễn thấy rằng nâng cao số lượng và chất lượng nguồn nhân lực du lịch là yêu cầu cần thiết và cấp bách. 2. Đối tượng và phạm vi. Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch việt nam. Thời gian nghiên cứu từ 1990-2004và tương lai đến năm 2010 Phạm vi nghiên cứu của đề tài là trên địa bàn Hà Nội, thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực của công ty du lịch việt nam- Hà Nội, doanh. 3. Mục tiêu nghiên cứu. 3.1 Lý luận cơ bản về nguồn nhân lực du lịch. 3.2 Thực trạng nguồn nhân lực du lịch ở Việt Nam, Hà Nội 1990-2004. 3.3 Phương hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực Du lịch Việt Nam đến năm 2010.

Giải Pháp Phát Triển Thương Hiệu Du Lịch Việt Nam

Xây dựng và quảng bá thương hiệu du lịch hiện nay là nhu cầu cấp bách của các quốc gia để tăng cường khả năng cạnh tranh, tạo dựng uy tín và thực hiện thành công phát triển du lịch. Du lịch Việt Nam trong những năm qua đã bước đầu xây dựng được những hình ảnh tích cực.

Tuy nhiên, các hoạt động xúc tiến quảng bá mới chỉ thực hiện một cách đại trà với mục đích thông tin, chưa có chiến lược rõ ràng trong xây dựng thương hiệu du lịch quốc gia. Với nhu cầu phát triển hiện tại, nếu không được định hướng và quản lý kịp thời, hình ảnh và thương hiệu du lịch Việt Nam có thể không hình thành theo hướng tích cực hoặc không đảm bảo được tính bền vững sẽ ảnh hưởng lâu dài đến phát triển du lịch.

Đề tài Giải pháp phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam là đề tài mang tính đột phá được Bộ trưởng Bộ VHTTDL giao Viện NCPT Du lịch thực hiện nhằm giải quyết mục tiêu: làm rõ cơ sở khoa học và đề xuất giải pháp phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam đáp ứng xu thế, yêu cầu phát triển của ngành du lịch trong giai đoạn tới.

Đề tài đã tiếp cận theo một quy trình nghiên cứu toàn diện từ lý luận đến thực tiễn, so sánh quốc tế, áp dụng các phương pháp và kỹ thuật trong nghiên cứu xây dựng thương hiệu, nghiên cứu thị trường và xúc tiến quảng bá. Đề tài thực hiện phân tích hai chiều, một mặt đánh giá thực trạng công tác phát triển sản phẩm, xúc tiến quảng bá, quá trình hình thành thương hiệu du lịch Việt Nam ở cấp quốc gia, vùng, địa phương, doanh nghiệp; mặt khác nghiên cứu nhận định của thị trường đối với thương hiệu du lịch Việt Nam thông qua các kết quả nghiên cứu tham khảo trong nhiều năm và thực hiện 1.000 cuộc phỏng vấn, điều tra đa đối tượng gồm: khách du lịch quốc tế và nội địa, quản lý nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng tham gia du lịch, từ đó so sánh để tìm ra nhận thức thương hiệu của thị trường. Kết quả nghiên cứu được tiếp tục so sánh với các quốc gia cạnh tranh trong khu vực để đúc rút các yếu tố cốt lõi thương hiệu du lịch Việt Nam được nhận diện tốt nhất. Đề tài cũng bám sát các định hướng phát triển của Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 để đề xuất các định hướng và các giải pháp phát triển thương hiệu du lịch.

Các kết quả chính của đề tài: (1) Tổng hợp được toàn bộ các lý luận cơ bản về phát triển thương hiệu điểm đến du lịch; đề xuất quy trình xây dựng và phát triển, nguyên tắc phát triển thương hiệu điểm đến du lịch. (2) Phân tích, đánh giá hai chiều, làm rõ thực trạng thương hiệu du lịch Việt Nam được phát triển và nhận thức; so sánh cạnh tranh khu vực và đúc rút được các giá trị đặc trưng và cốt lõi thương hiệu phù hợp; tìm hiểu được một số bài học quốc tế quan trọng. (3) Đề xuất được định hướng chi tiết về phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam đến 2020 gồm: giá trị cốt lõi và tính cách thương hiệu, cấu trúc thương hiệu, các định hướng phát triển thương hiệu 7 vùng du lịch, lộ trình định vị, phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam. (4) Đề xuất các giải pháp cụ thể về quản lý phát triển sản phẩm và quảng bá truyền thông để triển khai các giá trị thương hiệu phù hợp cấu trúc và lộ trình; giải pháp quan trọng về quản trị thương hiệu và đầu tư phát triển thương hiệu phù hợp yêu cầu phát triển. (5) Đề xuất các giải pháp hỗ trợ phát triển thương hiệu: nâng cao nhận thức về thương hiệu du lịch; phối hợp liên ngành và hợp tác quốc tế để thúc đẩy phát triển thương hiệu du lịch.

(

Phát Triển Du Lịch Xanh Việt Nam

Du lịch xanh

Trước hết, chúng ta cần hiểu khái niệm du lịch xanh là gì? Du lịch xanh là loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hóa, có giáo dục môi trường, đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, có sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Có thể nói, phát triển du lịch xanh là chìa khóa để phát triển du lịch có trách nhiệm, đảm bảo du lịch bền vững.

Cốt lõi của du lịch xanh là sản phẩm du lịch xanh. Để đảm bảo là sản phẩm xanh cần đạt các tiêu chí sau: sản phẩm được tạo ra từ các vật liệu thân thiện với môi trường; sản phẩm đem đến những giải pháp an toàn đối với môi trường và sức khỏe; sản phẩm giảm tác động đến môi trường trong quá trình sử dụng; sản phẩm tạo ra một môi trường thân thiện và an toàn đối với sức khỏe. Như vậy, tất cả các dịch vụ, sản phẩm du lịch như tour, sản phẩm, dịch vụ của khách sạn, nhà hàng muốn được công nhận là sản phẩm du lịch xanh đều phải đạt (thực hiện) được các nội dung cơ bản của các tiêu chí trên. Mức độ “xanh” của một sản phẩm du lịch sẽ phụ thuộc nhiều vào mức độ thân thiện môi trường của những yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến tính chất tham gia vào việc hình thành nên sản phẩm du lịch.

Với cách tiếp cận trên, sản phẩm du lịch xanh được hiểu là những sản phẩm du lịch có hàm lượng cao các yếu tố đặc biệt là dịch vụ, thân thiện môi trường, được phát triển phù hợp với các nguyên tắc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Trong xu thế hiện nay, khi sự quan tâm của du khách đến môi trường tự nhiên ngày tăng thì việc phát triển những sản phẩm du lịch xanh có chất lượng cao sẽ góp phần quan trọng vào việc tạo ra tính cạnh tranh và hấp dẫn cao của điểm đến du lịch bên cạnh một số yếu tố khác như mức độ thuận lợi trong tiếp cận điểm đến (thủ tục ra, vào phương tiện); hình ảnh, thông tin về điểm đến.

Du lịch xanh được áp dụng trong hệ thống khách sạn, đơn vị vận chuyển, kinh doanh lữ hành, nhà hàng bằng các biện pháp bảo vệ môi trường: xử lý nước thải tránh ô nhiễm, thu gom triệt để rác thải, giảm tiếng ồn, hạn chế sử dụng túi ni lông, trồng cây xanh.

Sự phát triển du lịch xanh ở Việt Nam những năm qua

Việt Nam có tài nguyên du lịch tự nhiên và văn hóa – nhân văn rất phong phú, đa dạng. Đó là điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch xanh. Mặt khác, Việt Nam cũng là một quốc gia chịu ảnh hưởng lớn của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Do vậy, chúng ta càng cần phải phát triển du lịch xanh, góp phần phát triển một nền kinh tế xanh bền vững.

Thời gian qua, một số địa phương, công ty lữ hành, khách sạn đã có sự chú phát triển du lịch xanh, như một số tỉnh Tây Bắc, Quảng Bình, Nghệ An… phát triển du lịch cộng đồng; Huế phát triển du lịch nhà vườn; Nha Trang phát triển du lịch biển đảo; một số tỉnh Nam Bộ phát triển du lịch miệt vườn. Nhiều công ty lữ hành xây dựng các tour du lịch xanh; khách sạn đạt chứng chỉ xanh…

Tuy nhiên, hoạt động du lịch còn tồn tại một số vấn đề khiến cho du lịch xanh chưa được phát triển, cụ thể: phát triển du lịch chưa gắn với khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên, hiệu suất sử dụng tài nguyên thấp; phát triển du lịch chưa gắn kết chặt chẽ với bảo vệ môi trường; phát triển du lịch chưa tính đến biến đổi khí hậu… Việc phát triển quá nhanh đã gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường du lịch. Tại nhiều khu, điểm du lịch xuất hiện các chất thải rắn, rác thải, nước thải chưa thu hồi, xử lý triệt để, việc phát triển du lịch làm gia tăng mức độ tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm không khí, nước, tiếng ồn, thay đổi cảnh quan thiên nhiên và thay đổi quân bình môi sinh đối với môi trường sống của sinh vật. Ngày càng có nhiều cơ sở lưu trú, dịch vụ du lịch xây dựng trên các đảo không theo quy hoạch, đã làm tăng nguy cơ xói mòn đường bờ biển, làm suy thoái hệ sinh thái biển đảo. Nước thải chưa qua xử lý từ các cơ sở lưu trú, dịch vụ du lịch xả trực tiếp vào môi trường, làm tăng mức độ hữu cơ nước biển ven bờ. Sự xung đột về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh tế và các ngành, tầm nhìn ngắn hạn và hạn chế về công nghệ dẫn tới một số tài nguyên du lịch bị tàn phá, sử dụng sai mục đích; những tệ nạn xã hội, văn hóa ngoại lai và những hạn chế trong nhận thức về bảo vệ môi trường đã làm giảm hiệu quả kinh tế do du lịch mang lại, làm môi trường xuống cấp, gây ảnh hưởng xấu tới hình ảnh và sự phát triển bền vững của Du lịch Việt Nam. Đây là nguy cơ chính cho du lịch trong giai đoạn tới.

Bên cạnh đó, vì mục đích kinh tế, với mục tiêu kinh doanh ngắn hạn là nhằm giảm chi phí và tăng thu, tăng lợi nhuận, nhiều công ty du lịch thay vì phải tiến hành điều tra khảo sát xây dựng chương trình tour, đánh giá cung – cầu… để xây dựng sản phẩm du lịch phù hợp với xu thế hướng tới du lịch xanh đã tiến hành việc “sao chép” sản phẩm du lịch của các công ty khác mà chưa thực sự chú ý đến bảo vệ môi trường và sự phát triển lâu dài, bền vững. Đây là tình trạng khá phổ biến hiện nay ở Việt Nam trong phát triển sản phẩm du lịch.

Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định: “Tập trung đầu tư phát triển các loại hình, sản phẩm du lịch có thể là thế mạnh về tài nguyên du lịch của đất nước và của từng địa phương. Ưu tiên phát triển loại hình du lịch gắn với biển, hải đảo; nhấn mạnh yếu tố văn hóa và sinh thái đặc sắc trong sản phẩm du lịch. Tập trung phát triển các khu du lịch biển tầm cỡ, chất lượng cao, tạo thương hiệu và có sức cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới”.

Những năm vừa qua, khách du lịch đến Việt Nam có xu hướng chọn các tour, các khách sạn, khu du lịch và các dịch vụ, hàng hóa bền vững, có nhãn sinh thái, thân thiện với môi trường. Đó là xu hướng của khách du lịch quốc tế, nhất là khách đến từ các nước châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan. Họ có ý thức và nhu cầu cao về an toàn và sức khỏe, ngày càng nhiều người muốn quay về với thiên nhiên. Theo nghiên cứu của Tổ chức SNV của Hà Lan, 52% du khách có xu hướng thích đặt tour qua các hãng lữ hành được chứng nhận có điều kiện làm việc tốt, tham gia bảo vệ môi trường và hỗ trợ hoạt động từ thiện ở địa phương. Nghiên cứu của Tổ chức Trip Advisor cho thấy, 34% du khách sẵn sàng chi trả thêm để ở những khách sạn thân thiện với môi trường và cho các lựa chọn du lịch bền vững (WEF), 50% du khách quốc tế sẵn sàng chi trả thêm cho những công ty mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương và hoạt động bảo tồn (CESD và TIES). Vì vậy, các cơ sở lưu trú du lịch cần triển khai thực hiện và tập trung tuyên truyền cho những chương trình, dịch vụ thân thiện với môi trường để thu hút khách.

Từ chiến lược, chính sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước ta cũng như xu hướng nhu cầu của du lịch thế giới như trên, có thể thấy rằng việc phát triển du lịch xanh được đặt ra như một nội dung chiến lược quan trọng của Du lịch Việt Nam nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập của Du lịch Việt Nam với khu vực và quốc tế và phát triển du lịch xanh, tăng trưởng xanh là hướng phát triển du lịch bên vững của tương lai.

Để thực hiện được chiến lược trên cần phải thực hiện nhiều giải pháp. Bài viết này chỉ xin nêu một số giải pháp chủ yếu:

Hai là, nhận thức trên cần được biến thành hành động cụ thể trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện và quản lý quy hoạch, trong thẩm định và thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản phẩm du lịch ở các cấp từ trung ương đến địa phương trên phạm vi toàn quốc.

Những chương trình này cần được xây dựng trên cơ sở những nghiên cứu cơ bản có định hướng về tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn đặc thù, đặc biệt chú trọng đến việc khai thác giá trị di sản thế giới gắn với các văn hóa bản địa; các giá trị văn hóa truyền thống của các vùng, miền, các làng quê Việt Nam và gắn với quá trình xây dựng nông thôn mới. Mặt khác, nhà nước cần có chính sách khuyến khích tăng cường tính “xanh” trong phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, trong các dịch vụ du lịch với những điều kiện cụ thể ở mỗi nơi như ứng dụng năng lượng gió, mặt trời, sử dụng vật liệu tái chế, vật liệu tự nhiên, chế biến rác thải, xử lý nước thải, giảm thiểu tiêu hao xăng, dầu trong giao thông, trong tiêu dùng, an toàn vệ sinh thực phẩm… hoặc khuyến khích các chương trình bảo tồn và truyền bá văn hóa dân gian, dân tộc trong phát triển du lịch. Cần kết hợp chặt chẽ giữa quá trình xây dựng nông thôn mới với phát triển du lịch xanh.

Ba là, Nhà nước cần xây dựng và ban hành “bộ tiêu chí du lịch xanh”. Trên cơ sở đó các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp du lịch vận dụng trong quá trình đầu tư, quy hoạch và kinh doanh. Đồng thời đó cũng là căn cứ để công nhận sản phẩm du lịch xanh như “tour xanh”, “khách sạn xanh”, “nhà hàng xanh”, “khu nghỉ dưỡng xanh”…

Bốn là, Nhà nước cần tiếp tục mở rộng, phát triển các ý tưởng và tham gia tích cực vào các hoạt động của Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, xây dựng nền kinh tế xanh. Phối hợp với UNESCO để làm tốt hơn công tác bảo tồn, phát huy, quảng bá nền văn hóa Việt Nam ra thế giới. Tiếp cận nhanh những kiến thức xanh và công nghệ sạch của cộng đồng khoa học thế giới, của các nước có nền du lịch xanh phát triển, từ đó vận dụng vào phát triển du lịch xanh Việt Nam. Ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào việc quản lý phát triển du lịch xanh, chú ý đến quản lý sức chứa của các điểm, khu du lịch; lựa chọn các nguồn khách có chất lượng và khả năng thanh toán cao để giảm quá tải, ô nhiễm cho những vùng nhất định. Có kế hoạch đào tạo ở nước ngoài đối với các cán bộ chuyên môn và cán bộ quản lý để quản lý du lịch xanh, tăng trưởng xanh và kinh tế xanh.

Năm là, Nhà nước cũng như doanh nghiệp cần đẩy mạnh hơn nữa và đầu tư xứng đáng cho quảng bá, xúc tiến mạnh hơn về du lịch xanh trong phạm vi toàn xã hội, cho khách du lịch bằng nhiều hình thức khác nhau, phương tiện khác nhau nhằm xây dựng một hình ảnh du lịch xanh Việt Nam, một điểm đến thân thiện thu hút đối với du khách.

Mặc dù có tiềm năng phát triển, song du lịch xanh ở Việt Nam mới ở giai đoạn khởi đầu. Đối với nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, du lịch xanh còn là loại hình du lịch mới cả về khái niệm lẫn tổ chức quản lý và khai thác tài nguyên phục vụ cho mục đích du lịch. Do đó, nâng cao nhận thức, có chiến lược, có giải pháp đúng đắn để phát triển du lịch xanh là điều có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng.

Phát triển du lịch xanh, tăng trưởng xanh là cơ hội và cũng là thách thức, là mục tiêu quan trọng trong phát triển du lịch bền vững, góp phần phát triển kinh tế đất nước.

2. Trang thông tin của TCDL Việt Nam, Viện NCPT Du lịch

3. Web: chúng tôi 10/02/2018…

GS.TS. Nguyễn Văn Đính

Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Trạng Và Giải Pháp: Phát Triển Du Lịch Đông Nam Bộ trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!