Xu Hướng 12/2023 # Thực Trạng Và Giải Pháp Cây Xanh Đô Thị # Top 18 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Thực Trạng Và Giải Pháp Cây Xanh Đô Thị được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Tổng quan

Cây xanh đô thị có một vai trò quan trọng trong đời sống con người, giúp cải thiện môi trường sống, làm đẹp thành phố, làm phong phú cuộc sống văn hóa dân cư đô thị. Các mảng xanh tạo nên những khu nghỉ ngơi yên tĩnh cho người lớn, nơi hoạy động thể dục thể thao cho thanh thiếu niên, chỗ vui chơi giải trí cho trẻ em. Bên cạnh đó, cây xanh còn là một trong những yếu tố rất quan trọng trong kiến trúc cảnh quan. Về mặt thẩm mỹ cây xanh làm giảm bớt những nét khô ráp của kiến trúc, nhiều hình dáng đa dạng cùng với các màu sắc phong phú của hoa lá tạo nên sự hài hòa và sinh động trong cảnh quan.

Việt Nam là đất nước có bề dày kịch sử và văn hóa, trong đó truyền thống trồng cây xanh cho làng xã, và đô thị. Theo quan niệm của người Việt, cây xanh có tâm hồn, có ngữ nghĩa. Đất nước Việt Nam trải dài từ Bắc xuống Nam có các vùng khí hậu đa dạng, với các điều kiện tự nhiên, điều kiện nguồn nước và đất đai khác nhau giữa các địa phương, đó cũng chính là môi trường tốt cho sự phát triển đa dạng và phong phú của cây trồng.

Quá trình đô thị hóa đang diễn ra rất mạnh mẽ trên cả nước, hàng loạt các công trình kiến trúc mới xây dựng đang mọc lên nhanh chóng trong không gian đô thị. Trong khi đó, hệ thống cây xanh đô thị hiện vẫn còn trong tình trạng kém về hình thức và chất lượng cây trồng, chưa ăn nhập với cảnh quan kiến trúc, chưa thật sự góp phần tạo dựng đặc trưng cho các đô thị Việt Nam. Bởi vậy chúng ta cần phải nghiên cứu về quy hoạch cây xanh, không chỉ tăng về số lượng, mà đảm bảo lựa chọn loại cây xanh phù hợp với sinh thái, điều kiện tự nhiên và truyền thống của từng địa phương, để tạo bản sắc cho từng đô thị.

Thực trạng

Theo nội dung Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội đã đưa ra mục tiêu phát triển 1 triệu cây xanh vào năm 2023; quy hoạch phát triển hạ tầng đô thị, mục tiêu là tăng tỷ lệ cây xanh để cải thiện môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Xây dựng quy hoạch chiến lược hệ thống cây xanh đô thị nhằm phát triển dạng “đi tắt, đón đầu” trong quá trình phát triển đô thị, phù hợp với định hướng quy hoạch tổng thể thủ đô đến 2030, tầm nhìn đến 2050. Quy hoạch này cần chỉ rõ ba giai đoạn cụ thể: 1) ngắn hạn, 2) trung hạn, và 3) dài hạn. Các kịch bản hoạt động cần được cụ thể hóa trong các hoạt động thực tiễn và thường xuyên được cập nhất và điều chỉnh theo yêu cầu và điều kiện thực tế trong quá trình triển khai.

UBND thành phố Hồ Chí Minh cũng nhìn nhận, việc tỉa, cắt cành nhánh chính của cây trong quá trình chăm sóc trước đây ảnh hưởng đến sự phát triển của cây xanh ở giai đoạn sau, tạo ra nhiều chồi bất định, cành nhánh thứ cấp rất dễ bị tét, gãy khi bị nặng hoặc khi có mưa, giông. Tình trạng xâm hại cây xanh diễn biến phức tạp dưới nhiều hình thức từ chủ động phá hoại (vướng mặt tiền nhà, quan điểm “phong thủy”…) hay sự thiếu ý thức trong quá trình thi công các công trình khiến hệ thống cây xanh luôn phải đối mặt với những rủi ro bất ngờ. Ngoài ra, các đơn vị thường sử dụng phương tiện cơ giới trong quá trình thi công gần gốc cây, cây bị xâm hại, thân bị tróc vỏ, gãy cành nhánh, rễ bị đứt, phơi lộ rễ trên mặt đất, thậm chí gây nghiêng cây, buộc phải đốn hạ khẩn cấp để bảo đảm an toàn. Cạnh đó, nhiều tuyến đường vẫn chưa ngầm hóa được hệ thống lưới điện, xảy ra tình trạng xung đột lưới điện với cây xanh. Cây xanh bị khai quang nhiều lần để bảo đảm an toàn điện cho nên phần lớn cây xanh bị lệch tán, thân nghiêng… mất mỹ quan đô thị và dễ gây ra gãy đổ trong mùa mưa bão.

Nghiên cứu thử nghiệm, trồng bổ sung một số loài cây mới (cây từ tự nhiên và cây nhập nội) theo quy trình cụ thể và nghiêm ngặt nhằm tìm ra những loài cây phù hợp với các điểu kiện mới; cây cần được tạo tán từ vườn ươm từ 5-10 năm để đảm bảo thích ứng với mọi điều kiện thời tiết. Có thể trồng thử mỗi nằm một vài loài cây mới tại các khu vực đặc trưng khác nhau về môi trường, điều kiện tự nhiên (nước ngầm, ô nhiễm…), không gian kiến trúc cảnh quan để lựa chọn các loài phù hợp trước khi trồng đại trà.

Tình trạng ô nhiễm môi trường càng trở nên trầm trọng, đòi hỏi các nhà chuyên môn cần nghiên cứu giá trị sinh thái cây xanh đô thị; khả năng hấp thụ chất ô nhiễm môi trường của từng loài cây xanh với các chất độc hại có trong đó… góp phần hình thành các không gian cảnh quan mang lại giá trị thẩm mỹ và môi trường. Sự đa dạng của thành phần loài góp phần đa dạng sinh học cho môi trường đô thị và cũng góp phần nâng cao tính ổn định và hạn chế rủi ro về dịch bệnh của hệ sinh thái đô thị (đa dạng sinh học bao gồm cả phát triển các loài sinh vật mang vai trò thiên địch đối với các loài sâu bệnh hại đô thị ví dụ như: cóc, ếch, kiến và bọ ngựa).

Chuyên gia về phát triển đô thị của tổ chức JICA, ông Mizosicho rằng: Việc các đô thị Việt Nam thiếu cây xanh có nguyên nhân từ ý thức con người, từ người quy hoạch/quản lý đến người dân, trong việc phát triển và gìn giữ một môi trường xanh.

Còn theo TS-KTS. Nguyễn Trọng Hòa, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển TP. Hồ Chí Minh: Nhìn nhận chung, quy hoạch và quản lý đô thị ở nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng của tập quán bao cấp, chủ yếu dựa vào các nguyên tắc thiết kế tĩnh, thiếu linh hoạt theo hướng thị trường.

Đơn cử như quy định về tỷ lệ cây xanh ở đô thị cũng như quy hoạch đều rất chuẩn nhưng thực tế những quy hoạch đó, quy chuẩn đó có ai làm không? Nó có được tuân thủ không? Điều đó sẽ quyết định từ những con người quản lý, thực thi và ý thức của người dân.

Với kinh nghiệm từ những nước như Singapore, Malaysia… thì việc cây xanh là việc của toàn thể người dân ở đô thị. Người dân có ý thức thực sự trong việc phát triển cây xanh ở chính nơi họ sinh sống, làm việc. Họ ý thức được rằng điều này có được lợi ích cho chính bản thân họ và cho công đồng.

Công tác phát triển hệ thống cây xanh không thể chỉ dựa vào nguồn lực của nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân đóng vai trò vô cùng to lớn và hiệu quả khi được phát huy. Tuyên truyền và vận động người dân trồng cây xanh theo định hướng quy hoạch chung và các hồ sơ thiết kế cảnh quan cây xanh đường phố cho các vị trí trồng cây xanh trước cửa nhà cũng là giải pháp nhằm tăng cường sự đóng góp của người dân, đồng thời tăng cường ý thức bảo vệ theo tinh thần “nhà nước và nhân dân cùng làm”. Tuy nhiên, sự tham gia của cộng đồng trong việc đầu tư hạ tầng cây xanh ở quy mô lớn cần gắn giữa lợi ích các bên. Giải pháp đổi đất lấy hạ tầng (xanh) hay cơ chế về lợi ích của các bên tham gia đầu tư cây xanh rõ ràng sẽ góp phần không nhỏ trong việc kêu gọi đầu tư phát triển hệ thống cây xanh đô thị của Hà Nội từ nguồn lực ngoài nhà nước.

Việc xã hội hoá phát triển cây xanh cho đô thị cũng là một hướng đi cần phải nhân rộng. Ví dụ như tại Hà Nội, một số dự án nhà ở đang là một điển hình tốt cho một khu đô thị xanh. Tại đó, chủ đầu tư đã đưa ra một bài toán đúng khi quyết định xây dựng một khu đô thị xanh, được nghiên cứu, quy hoạch với diện tích cây xanh, mặt nước chiếm tỷ lệ cao…

Bất Cập Cây Xanh Đô Thị Và Giải Pháp

Quy hoạch “hoành tráng”, thực trạng đáng buồn

Theo nội dung Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội đã đưa ra mục tiêu phát triển 1 triệu cây xanh vào năm 2023; quy hoạch phát triển hạ tầng đô thị, mục tiêu là tăng tỷ lệ cây xanh để cải thiện môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Còn theo quy hoạch công viên cây xanh TP. Hồ Chí Minh đến năm 2023 và tầm nhìn đến năm 2025, chỉ tiêu cây xanh khu vực nội thành là 2,4m2/người, khu vực nội thành mở rộng là 7,1m2/người, còn khu vực ngoại thành là 12m2/người.

Cùng với những bản quy hoạch của 2 thành phố đầu tàu của cả nước, việc quy hoạch hệ thông cây xanh cũng được nghiên cứu và đưa ra cho các thành phố, các tỉnh thành lớn nhỏ trên cả nước.

Để đưa ra những bản quy hoạch “hoành tráng” cho hiện tại và tầm nhìn cho thể hệ tương lai thì các nhà soạn thảo quy hoạch cũng phải tìm tới nhiều chuyên gia, nhiều mô hình của các nước và cùng với nhiều cuộc hội thảo lớn, nhỏ.

Tuy nhiên, KTS. Trần Ngọc Chính, Chủ tịch Hội Quy hoạch Phát triển đô thị Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Công viên cây xanh Việt Nam nhận định: diện tích cây xanh đô thị của các đô thị ở Việt Nam, trong đó bao gồm chỉ tiêu đất cây xanh, tổng diện tích đất cây xanh cho toàn đô thị, từng khu vực đô thị, diện tích đất để phát triển công viên – vườn hoa chưa được quan tâm và đầu tư thích đáng.

Cụ thể, tỷ lệ đất cây xanh, công viên so với quy chuẩn, tiêu chuẩn hiện đạt rất thấp. Việc các khu đô thị mới thiếu vắng các không gian công cộng như quảng trường, vườn dạo, vườn hoa, công viên, cây xanh… đã làm cho chất lượng cuộc sống của cư dân đô thị suy giảm.

KTS. Chinh kết luận: Gần như những quy hoạch cây xanh đô thị được đưa ra đều bị phá vỡ bởi nhiều lý do.

Chỉ cần nhìn ở 2 thành phố lớn nhất nước là Hà Nội và Hồ Chí Minh ta thấy một thực trạng là các cây xanh ngày càng thiếu vắng nhường chỗ cho các công trình đường xá, nhà cửa.

Những con đường xanh một thời được mệnh danh là đẹp nhất Thủ đô như Láng Hạ, Phạm Văn Đồng… cây cổ thụ đã không còn. Hệ quả là những mùa nóng vừa qua người dân Thủ đô đã phải đặt tên cho những con đường rợp bóng cây trước đây thành những tuyến đường “nóng dãy”.

Với TP. Hồ Chí Minh, tình trạng cũng tương tự, như những rặng xà cừ, hàng me có tuổi đời cả trăm năm trên đường Tôn Đức Thắng, Nguyễn Thị Minh Khai, Cách mạng Tháng tám, Phạm Ngọc Thạch… cũng đã biến mất; những khoảng không gian xanh công cộng từ các công viên cũng bị thu hẹp nhường chỗ cho các nhà hàng, các khu vui chơi giải trí, các bãi giữ xe…

Giải pháp nào cho cây xanh đô thị

Chuyên gia về phát triển đô thị của tổ chức JICA, ông Mizosicho rằng: Việc các đô thị Việt Nam thiếu cây xanh có nguyên nhân từ ý thức con người, từ người quy hoạch/quản lý đến người dân, trong việc phát triển và gìn giữ một môi trường xanh.

Còn theo TS-KTS. Nguyễn Trọng Hòa, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển TP. Hồ Chí Minh: Nhìn nhận chung, quy hoạch và quản lý đô thị ở nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng của tập quán bao cấp, chủ yếu dựa vào các nguyên tắc thiết kế tĩnh, thiếu linh hoạt theo hướng thị trường.

Đơn cử như quy định về tỷ lệ cây xanh ở đô thị cũng như quy hoạch đều rất chuẩn nhưng thực tế những quy hoạch đó, quy chuẩn đó có ai làm không? Nó có được tuân thủ không? Điều đó sẽ quyết định từ những con người quản lý, thực thi và ý thức của người dân.

Với kinh nghiệm từ những nước như Singapore, Malaysia… thì việc cây xanh là việc của toàn thể người dân ở đô thị. Người dân có ý thức thực sự trong việc phát triển cây xanh ở chính nơi họ sinh sống, làm việc. Họ ý thức được rằng điều này có được lợi ích cho chính bản thân họ và cho công đồng.

Việc xã hội hoá phát triển cây xanh cho đô thị cũng là một hướng đi cần phải nhân rộng. Ví dụ như tại Hà Nội, một số dự án nhà ở đang là một điển hình tốt cho một khu đô thị xanh. Tại đó, chủ đầu tư đã đưa ra một bài toán đúng khi quyết định xây dựng một khu đô thị xanh, được nghiên cứu, quy hoạch với diện tích cây xanh, mặt nước chiếm tỷ lệ cao…

Giải Pháp Phát Triển Cây Xanh Đô Thị Ở Thành Phố Việt Trì

Cùng với chủ trương xây dựng thành phố Việt Trì trở thành thành phố du lịch, thành phố Lễ hội về với cội nguồn Dân tộc Việt Nam, thời gian qua, công tác đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị được chú trọng, bộ mặt đô thị của thành phố ngày một khang trang. Đặc biệt hệ thống cây xanh trên một số tuyến phố, khu vực được cải tạo, trồng mới như: Công viên Văn Lang, đường Hùng Vương, khu đô thị Trầm Sào… đã góp phần xây dựng đô thị văn minh, hiện đại, cải tạo vi khí hậu, bảo vệ môi trường sống, tạo không gian kiến trúc, tăng thẩm mỹ cảnh quan đô thị.

Số lượng cây cổ thụ, có giá trị về sinh thái, cảnh quan trên địa bàn thành phố còn ít, chưa xác định được các loại cây đặc trưng của vùng Đất Tổ để tạo ra những giá trị đặc trưng, riêng biệt của thành phố với ý nghĩa là thành phố về với cội nguồn dân tộc Việt Nam.

Bên cạnh những nguyên nhân yếu tố thiên nhiên, một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong việc phát triển cây xanh trên địa bàn thành phố Việt Trì đó là thiếu quy định riêng về quản lý cây xanh đô thị, chậm bổ sung, rà soát quy hoạch tổng thể về phát triển cây xanh đô thị và lập hồ sơ quản lý cây xanh đô thị trên địa bàn. Quỹ đất dành cho cây xanh chưa tương xứng; tỷ lệ diện tích cây xanh, vườn hoa, công viên chưa đáp ứng các định mức, tiêu chuẩn đối với đô thị loại I. Việc trồng cây xanh ở những nơi công cộng vẫn còn mang tính tự phát, manh mún, thiếu quy hoạch về lựa chọn, bố trí loại cây trồng phù hợp ở từng công trình. Sự tham gia, vào cuộc của các cấp, các ngành trong công tác quản lý, phát triển cây xanh đô thị chưa nhiều; chưa tạo được các phong trào về cải tạo, phát triển cây xanh đô thị trên địa bàn thành phố. Để thực hiện mục tiêu xây dựng thành phố xanh, sạch, đẹp, tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển cây xanh đô thị Việt Trì, cần ban hành Quy định về quản lý cây xanh đô thị trên địa bàn của thành phố Việt Trì, trong đó quy định cụ thể về công tác quản lý cây xanh, đồng thời phân công trách nhiệm cho các cơ quan chuyên môn và phân cấp quản lý cho Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thôn, xóm, phố, tổ dân phố về quản lý cây xanh đô thị trên địa bàn. Tiến hành quy hoạch tổng thể hệ thống cây xanh đô thị, triển khai lập hồ sơ quản lý cây xanh trên địa bàn thành phố, đồng thời quản lý tốt việc cải tạo, thay thế hoặc trồng mới cây xanh đô thị trên địa bàn. Các dự án đầu tư, cải tạo, chỉnh trang vỉa hè, xây dựng mới các tuyến đường, các dự án phát triển kinh tế – xã hội phải theo quy hoạch phát triển cây xanh đô thị, tiến tới đảm bảo các tiêu chí, tiêu chuẩn về cây xanh, vườn hoa, công viên đối với đô thị loại I. Vị trí, diện tích đất (kể cả dự phòng) dành cho cây xanh đô thị phải được đưa vào quy hoạch và công khai quy hoạch để quản lý. Trước mắt, thành phố cần rà soát quỹ đất hiện có và xây dựng lộ trình, kế hoạch để triển khai thực hiện. Lựa chọn các loại cây xanh đô thị nhằm đảm bảo phù hợp về thẩm mỹ, công năng, tính đặc trưng của từng khu vực. Đồng thời nghiên cứu xây dựng những tuyến phố có cây xanh mang tính đặc trưng, biểu tượng của thành phố Việt Trì, thành phố Lễ hội về với cội nguồn dân tộc Việt Nam để góp phần quảng bá và tạo ấn tượng đối với khách du lịch. Đặc biệt, tại Công viên Văn lang cần phải được quy hoạch, thiết kế cây xanh thật chi tiết, tỉ mỉ và khoa học. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về cây xanh đô thị, từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm và kêu gọi cộng đồng cùng chung tay quản lý, phát triển hệ thống cây xanh đô thị trên địa bàn thành phố. Đồng thời khuyến khích xã hội hóa công tác quản lý, trồng, chăm sóc, bảo vệ cây xanh đô thị; phát động phong trào các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, hộ gia đình tự trồng, chăm sóc, bảo vệ cây xanh khu vực nhà mình, trên các tuyến phố đã quy hoạch… Tăng cường sự giám sát của xã hội đối với bảo vệ và chăm sóc cây xanh. Có cơ chế khuyến khích các cá nhân, tập thể tích cực tham gia trồng, chăm sóc và bảo vệ cây xanh, biến việc trồng, chăm sóc cây xanh trở thành hoạt động thường xuyên, liên tục./. Theo dòng sự kiện

Đà Nẵng Thực Trạng Và Giải Pháp Quản Lý Quy Hoạch Và Xây Dựng Trong Khu Đô Thị Cũ ” Đô Thị & Phát Triển

Quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ trong nước đã làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế xã hội ở nhiều địa phương và các thành phố lớn. Nhiều khu đô thị mới mọc lên với điều kiện hạ tầng đồng bộ tạo ra không chỉ một bức tranh đô thị hiện đại mà còn là động lực to lớn để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan như không đủ nguồn lực, hạn chế về công tác dự báo, thiếu tầm nhìn trong công tác quy hoạch dẫn đến tình trạng ” xôi đỗ” trong quá trình phát triển đô thị. Hàng ngày trên các phương tiện thông tin chúng ta đã quá quen thuộc với những hình ảnh đối lập giữa một bên là những nhà cao tầng chót vót với những tiện nghi đầy đủ với một bên là những khu đô thị cũ thường xuyên chịu cảnh ngập nước bốn mùa, giao thông đi lại hết sức khó khăn do lấn chiếm đất công, điều kiện vệ sinh thấp kém. Sự tồn tại của các đô thi cũ, đặc biệt là đô thị ở các khu vực trung tâm của các thành phố lớn là một vấn đề khách quan, lâu dài. Làm thế nào để có thể đảm bảo được điều kiện sống cơ bản cho người dân ở các đô thị cũ là thách thức thường xuyên của những người làm công tác quản lý.

1. Thực trạng

Đà Nẵng từ khi trở thành Thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 1997 cho đến nay đã có 3 lần điều chỉnh quy hoạch vào các năm 2002, 2010 và 2013. Sau mỗi lần quy hoạch được điều chỉnh diện mạo đô thị có những biến đổi sâu sắc, nhiều khu đô thị mới đã được hình thành trở thành động lực chính cho sự phát triển, đáp ứng nhu cầu về ở, sinh hoạt và kinh doanh của người dân. Trong giai đoạn từ năm 2005 đến 2010, thành phố đã phê duyệt 1.200 đồ án quy hoạch mới, chọn 334 địa điểm xây dưng công trình, phủ kín quy hoạch chi tiết 1/2000 và 1/500 với tổng diện tích là 8000 ha, triển khai 1.300 dự án với diện tích đất phải thu hồi, giao và cho thuê là 17000 ha. Bên cạnh việc đầu tư các khu đô thị mới theo đúng qui hoạch đã được duyệt, thành phố cũng đặc biệt quan tâm đến việc quản lý và cải tạo các khu đô thị cũ. Rất nhiều các tuyến đường trong các khu dân cư được bê tông hóa, hệ thống thoát nước được cải tạo, đấu nối tương đối đồng bộ. Mạng lưới chiếu sáng kiệt, hẻm được quan tâm đầu tư. Công tác quản lý lộ giới và cấp phép xây dựng được tiến hành chặt chẽ. Tình trạng tắc nghẽn giao thông, ngập nước, đổ rác thải bừa bãi, lấn chiếm không gian công cộng trong các khu đô thị cũ từng bước được cải thiện và giảm đi rõ rệt. Khoảng cách về chất lượng hạ tầng giữa khu đô thị mới và các khu cũ mặc dù có tồn tại nhưng đã được thu hẹp đáng kể. Tuy nhiên, sự tồn tại của các khu đô thị cũ là một vấn đề khách quan. Một mặt các nhà quy hoạch và quản lý đều muốn giữ gìn một di sản, nhưng mặt khác chúng ta không có đủ nguồn lực để xóa bỏ nó. Những các khu đô thị cũ , đặc biệt là ở khu vực trung tâm hàng ngày hàng giờ đang chịu một áp lực rất lớn về điều kiện hạ tầng. Lực hấp dẫn của các khu đô thị cũ ở trung tâm đang kéo theo sự tăng trưởng rất “nóng” về dân số dẫn đến sự quá tải về hạ tầng, về chỗ ở, về giáo dục và y tế mà nếu không có giải pháp hiệu quả chúng ta sẽ phải đối mặt với sự hình thành những khu “ổ chuột” mới ở khu vực trung tâm. Số liệu thống kê cho thấy trong vòng 10 năm (1997 -2009) dân số Đà Nẵng đã tăng từ 672,5 nghìn người lên 890,5 nghìn người, mật độ dân cư ở các quận trung tâm là 18,38 nghìn người/km 2. Đây chính là thách thức to lớn mà chính quyền thành phố Đà Nẵng phải đối mặt giải quyết.

2. Các giải pháp về quản lý và đầu tư cải tạo trong các khu đô thị cũ

a. Nâng cao ý thức của người dân : Người dân đô thị chính là người chủ sở hữu không gian đô thi, người chủ sử dụng hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị. Vì vậy họ cần phải biết được quyền lợi và nghĩa vụ của bản thân và gia đình đối với vấn đề này. Để dân có thể hiểu và nắm rõ những nguyên tắc bắt buộc phải tuân theo khi sống trong đô thị thì rất cần sự hướng dẫn một cách đầy đủ từ chính quyền cấp cơ sở. Công tác tuyền truyền nếp sống đô thị cho người dân không phải là vấn đề mới, nhưng để làm sao cho có hiệu quả thì không phải ở đâu cũng làm được. Ở Đà Nẵng để nâng dần ý thức đô thị cho người dân, thành phố đã ban hành và triển khai Đề án “Xây dựng nếp sống văn hóa – văn minh đô thị” với rất nhiều tiêu chí cụ thể qui định các hành vi được làm và không được làm của người dân đô thị. Chính quyền cấp quận, phường thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về trật tự đô thị, môi trường…cho đội ngũ cán bộ làm tổ trưởng dân phố (hình 1). Và các tổ trưởng tổ dân phố có nhiệm vụ hướng dẫn giới thiệu cho từng hộ gia đình và từng người dân cách thức giữ gìn vệ sinh chung, giữ gìn trật tự khu phố … Thông qua cách làm này ý thức về lối sống trong đô thị của người dân dần được nâng lên. Họ tự mình và hướng dẫn những người ở nơi khác đến cách giữ gìn môi trường sống, hình thành nên nét văn hóa của một thành phố du lịch.

b. Ban hành các văn bản phục vụ công tác quản lý : Nhằm quản lý các khu đô thị cũ có hiệu quả trước yêu cầu tăng nhanh của dân số, đồng thời không tạo ra những điểm quy hoạch treo gây bức xúc cho đời sống của nhân dân. Thành phố Đà Nẵng đã ban hành nhiều văn bản qui định phục vụ công tác quản lý như Quyết định 198/QĐ-UBND ngày 11 tháng 01 năm 2010 về quản lý lộ giới kiệt hẻm, Quyết định 47/2012/QĐ-UBND ngày 12/10/2012 của UBND thành phố Đà Nẵng về ban hành Quy định quản lý kiến trúc công trình, Đề án về thu gom và xử lý rác thải … Đến nay, 100% các kiệt hẻm, 100% diện tích vỉa hè của các tuyến đường trong thành phố đều được đưa vào quản lý về lộ giới xây dựng, về diện tích sử dụng. Các trường hợp xây dựng mới, xây dựng cải tạo nhà ở, đấu nối thoát nước, cấp nước tại các khu đô thị cũ đều phải lập thủ tục cấp phép xây dựng, đảm bảo xây dựng đúng lộ giới, quy mô và các quy định quản lý kiến trúc.

c. Nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy : Có ba vấn đề cần được quan tâm trong nội dung này. Thứ nhất, hoàn thiện bộ máy quản lý về đô thị ở các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở. Trong khi chờ đợi chủ trương về xây dựng chính quyền đô thị thì hiện nay việc quản lý đô thị ở cấp thành phố được giao cho 3 sở Xây dưng, Giao thông – Vận tải, và Tài nguyên – Môi trường, ở cấp quận giao cho phòng Quản lý đô thị và phòng Tài nguyên – Môi trường, còn ở cấp phường thì giao chung cho cán bộ Xây dựng- Nhà đất. Sự chồng chéo về nhiệm vụ gây ra rất nhiều khó khăn cho người dân, cũng như cho công tác quản lý ở chính quyền địa phương. Vì vậy cần nhanh chóng rà soát điều chỉnh, hình thành nên bộ máy gọn nhẹ, chuyên sâu theo hướng chỉ có một cơ quan làm nhiệm vụ quản lý đô thị. Thứ hai, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ làm công tác quản lý đô thị. Bên cạnh việc tuyển dụng chặt chẽ, đảm bảo yêu cầu về trình độ thì việc hàng năm đưa đi đào tạo, tập huấn đã được chính quyền thành phố hết sức quan tâm. Hiện nay, hầu hết cán bộ làm công tác quản lý đô thị ở các cấp kể cả cấp cơ sở đều có trình độ đại học hoặc trên đại học. Thứ ba, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả phục vụ người dân. Thành phố đã triển khai ứng dụng nhiều phần mềm hiện đại trong việc quản lý hệ thống hạ tầng, quản lý đất đai, môi trường, từ đó giảm bớt được thời gian cấp phép, giảm thiểu thiệt hại về kinh tế do phải đào xới công trình hạ tầng nhiều lần, quản lý chặt chẽ tình trạng lấn chiếm không gian công cộng phục vụ mục đích cá nhân.

d. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm: Các số liệu thông kê cho thấy tỷ lệ số lần vi phạm về trật tự đô thị, xây dựng nhà trái phép…trong các khu đô thị cũ giảm dần qua các năm. Ví dụ, tại quận Hải Châu là quận trung tâm của thành phố, số lượng nhà xây dựng không phép: 19 trường hợp, số lượng nhà xây dựng sai nội dung giấy phép: 50 trường hợp trong năm 2013. Trong khi số liệu tương ứng trong năm 2014 là 16 trường hợp và 10 trường hợp. Có ba giải pháp đã được thực hiện trong nội dung này. Thứ nhất, tăng cường tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ thông qua một loạt các cuộc vận động. Thứ hai, tăng cường công tác kiểm tra ngay từ cơ sở bằng cách giao cho dân tự kiểm tra và nhắc nhở lẫn nhau, đặc biệt là phát huy tốt vai trò của tổ trưởng dân phố. Thứ ba, xử lý nghiêm, kịp thời tất cả các trường hợp vi phạm đảm bảo tính công bằng, công khai tạo sự tin tưởng cho người dân (hình 2).

e. Tập trung đầu tư nâng cấp cải tạo hệ thống hạ tầng nhằm cải thiện điều kiện sống cho người dân. Trong các khu đô thị cũ hệ thống hạ tầng không những đã hết sức lạc hậu mà còn luôn phải làm việc trong tình trạng quá tải kéo dài. Trong khi chính quyền luôn có tâm lý e ngại tiến hành chỉnh trang do vướng giải phóng mặt bằng, do khó khăn trong việc đầu tư có tính động bộ, do ảnh hưởng đến điều kiện sinh hoạt và kinh doanh của người dân. Đây chính là nguyên nhân làm cho khoảng cách chênh lệch về điều kiện sống của người dân giữa các khu đô thị mới và cũ ngày càng lớn dẫn đến những bức xúc trong xã hội. Để khắc phục, hàng năm chính quyền thành phố đầu tư một khoản ngân sách đáng kể để nâng cấp, duy tu hệ thống hạ tầng cho các khu đô thị cũ. Điều đáng nói ở đây là không chỉ có nhà nước đầu tư mà nhân dân ở khu vực có dự án thường tham gia hiến đất theo phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhờ đó mà các công trình được tiến hành một cách hết sức nhanh chóng (hình 3).

III. Kết luận

Sự tồn tại của các đô thị cũ ở các khu vực trung tâm là vấn đề khách quan. Trong khi chưa đủ điều kiện để tiến hành cải tạo triệt để hoặc đầu tư xây dựng một khu đô thị mới thì việc quản lý và vận hành có hiệu quả hoạt động đô thị tại các khu đô thị cũ là một việc làm cần thiết trước mắt. Việc làm này không chỉ đem lại những hiệu quả kinh tế to lớn về sau mà còn gián tiếp nâng cao ý thức cho người dân đô thị. Vai trò của chính quyền đô thị có ý nghĩa quyết định trong công tác quản lý xây dựng đô thị ở các khu dân cư cũ và các đô thị cải tạo, trong đó các bài học của thành phố Đà Nẵng rất cần được nghiên cứu trao đổi.

Thực Trạng Và Giải Pháp Về Đô Thị Hoá Vùng Ven Đô Thành Phố Hồ Chí Minh Từ Sau Đổi Mới

Thực trạng và giải pháp về đô thị hoá vùng ven đô thành phố Hồ Chí Minh từ sau đổi mới

1. Đặt vấn đề

Đô thị hoá là một quá trình tập trung dân cư đô thị, đồng thời đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất nông nghiệp giảm, sản xuất phi nông nghiệp tăng. Bộ mặt đô thị ngày càng hiện đại, không gian đô thị mở rộng.

Ở Việt Nam, trước 1975, Đất nước liên tục bị chiến tranh nên ở Miền Bắc, quá trình đô thị hoá diễn ra hết sức chậm chạp. Ở miền Nam dưới thời Mỹ – Nguỵ, đô thị hóa diễn ra ồ ạt ở Sài Gòn (nay là Tp. Hồ Chí Minh) nhưng mang tính cưỡng bức nên đã để lại hậu quả nặng nề sau chiến tranh.

Sau năm 1975, cả nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ trọng tâm của các tỉnh miền Nam là khắc phục mọi khó khăn, khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định xã hội và đời sống nhân dân. Do vậy, những năm đầu sau giải phóng, đô thị hoá ở Sài Gòn về cơ bản không có gì đáng kể.

 Từ năm 1986, khi Đảng và Nhà nước chủ trương đổi mới, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, Sài Gòn với ưu thế là một thành phố trẻ có tiềm năng về khoa học kỹ thuật, về quan hệ buôn bán với nước ngoài và tiềm ẩn nền kinh tế đa thành phần đã nhanh chóng trở thành trung tâm công nghiệp – thương mại – dịch vụ – du lịch và quan hệ quốc tế. Đây cũng là thành phố đi đầu cả nước về tốc độ đô thị hoá, diễn ra trong không gian rộng lớn cả nội ô và vùng ven đô.

Ven đô Tp. Hồ Chí Minh là một vùng rộng lớn bao gồm các quận ven nội và các huyện cửa ngõ của thành phố như Bình Thạnh, Tân Bình, Gò Vấp, Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh. Khu vực ven đô Tp. Hồ Chí Minh chiếm 79% diện tích và 17% dân số thành phố (tính tới thời điểm 1996). Trong chiến tranh cũng như lúc hoà bình, vùng ven đô có một vị trí hết sức quan trọng đối với sự trường tồn của thành phố. Khi chiến tranh xảy ra, vùng ven là pháo đài xanh để bảo vệ cho sự bình yên của thành phố. Hoà bình lập lại, vùng ven đô là nơi cung cấp lao động, lương thực thực phẩm để xây dựng phát triển thành phố. Đồng thời, đây còn là “vành đai xanh” để chắn lọc gió bụi cho nội ô. Trong quá trình đô thị hóa Tp. Hồ Chí Minh, vùng ven đô là nơi trực tiếp chịu sự tác động của làn sóng di dân nông thôn – thành thị. Nơi đây cũng đã xảy ra quá trình đô thị hoá mạnh mẽ. Trong phạm vi bài viết này xin được đề cập đến một số nét nổi bật trong quá trình đô thị hóa vùng ven đô Tp. Hồ Chí Minh (chủ yếu là các quận vùng ven).

2. Quá trình đô thị hoá của các quận ven đô TP. Hồ Chí Minh

Quá trình tập trung dân cư đô thị

Trong quá trình đô thị hoá, vấn đề di dân nông thôn – thành thị xảy ra với hầu hết các nước trên thế giới và trong khu vực Thái Lan, Indonesia, Philippine. Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới của đất nước đã làm cho quan hệ sản xuất được cải thiện, năng lực sản xuất được giải phóng, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được đẩy mạnh đã thu hút lao động từ nông thôn ra thành thị kiếm việc làm. Vì vậy, sau đổi mới, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh đều có sự gia tăng dân số đột ngột, đặc biệt là Tp. Hồ Chí Minh. Theo điều tra của các nhà xã hội học, mỗi ngày có hàng trăm người đủ các thành phần trí thức đến công nhân, nông dân đủ mọi lứa tuổi từ cụ già đến em nhỏ khắp các địa phương trong nước đổ về thành phố với ước muốn khác nhau: Tìm kiếm công ăn việc làm, thăng quan tiến chức, tìm đất dụng võ. Do đó đã làm cho sự gia tăng dân số cơ học của Tp. Hồ Chí Minh vượt trội so với các thành phố khác. Năm 1980 Tp. Hồ  Chí Minh có khoảng 3.202.000 người. Năm 1990 là 4.005.000 người và đến năm 2000 là hơn 6.000.000 người. Nếu xét về dân nhập cư: năm 1996 có khoảng 600.000 người, trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên của thành phố chỉ khoảng 1,5% mỗi năm thì tăng dân số cơ học lên đến 2%. Sự gia tăng dân số nhanh đã làm cho mật độ dân số quá đông. Bình quân là 23.800 người/km2. Trong thực tế lên tới 35.900 người/km2. Một số quận trung tâm mật độ còn cao hơn; ở quận 5 là 52.900 người/km2, các quận ven nội đô mật độ dân thấp hơn; Gò Vấp mật độ dân số cao nhất là 29.945 người/km2 (phường 1). Dần dần, các quận nội đô trở nên quá tải, di dân nông thôn – thành thị bành trướng về các quận ven. Trong 600.000 người nhập cư năm 1996 có 65.609 người tạm trú ở Thủ Đức, tập trung tại một số phường như Phước Bình 2.426 người, Hiệp Bình Chánh 5.816 người. Phường 26 quận Bình Thạnh có 4.283 người; phường 12 (Bình Thạnh) có 7.576 người.

Ngoài bộ phận dân nhập cư từ nông thôn đến, ven đô còn là nơi giãn dân của nội thành. Với chính sách chỉnh trang đô thị, giải phóng nhà ổ chuột, nhà trên kênh rạch của thành phố, ven đô đã tiếp nhận thêm một bộ phận dân cư từ các quận nội thành chuyển ra. Sau đó là những người dân giàu có từ các quận trung tâm cũng tìm đến ven đô để tậu đất, tậu nhà, xây dựng biệt thự làm nơi thư giãn cuối tuần hoặc vào các ngày tết, lễ. Hơn nữa, cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều các cơ sở công nghiệp, xí nghiệp liên doanh với nước ngoài ở ven càng nhiều. Chủ yếu là dân di cư từ nông thôn ra thành thị làm các nghề thợ hồ, may mặc, dệt da, chế biến lương thực, thực phẩm. Tất cả những yếu tố trên đã góp phần làm cho dân số ven đô tăng lên nhanh chóng.

Tình hình cơ sở hạ tầng đô thị

Như đã trình bày, đặc điểm chung của các quận ven đô sau giải phóng là cơ sở hạ tầng nghèo nàn, yếu kém. Trong quá trình đô thị hóa, việc gia tăng dân số đã kéo theo tình trạng lấn chiếm lòng lề đường, cơ sở hạ tầng đô thị xuống cấp nhanh chóng.

Những năm sau đổi mới, khi kinh tế phát triển, hầu hết các quận ven đô đều chăm lo đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông: đường Phan Văn Trị, Đinh Bộ Lĩnh, Điện Biên Phủ (quận Bình Thạnh), đường Nguyễn Thái Sơn, Nguyễn Văn Lượng, Nguyễn Oanh (Gò Vấp), đường liên phường 10 – 19 – 18 nút giao thông Bà Quẹo (Tân Bình). Hệ thống cấp thoát nước được chú ý nạo vét, xây dựng kè kênh Nhiêu Lộc, kênh Tham Lương, hệ thống cống xả được khôi phục. Ngoài ra, các quận đều chú ý lắp đặt thêm đường ống nước sạch, cải tạo lưới điện trung thế, hạ thế cho các khu dân cư. Đặc biệt là các quận trung tâm xây dựng mở mang trường học, bệnh viện, khu công thự, nhà ở, khu vui chơi nhằm cải thiện đời sống nhân dân. Một số quận đã thực hiện chương trình nhà ở cho người nghèo. Riêng quận Bình Thạnh từ năm 1994 – 1999 đã xây dựng hoàn chỉnh khoảng 1000 căn hộ tại các khu chung cư để phục vụ cho việc giải toả kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè và nhà ở cho người có thu nhập thấp. Tính đến năm 1995, Tp. Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước về tốc độ xây dựng nhà ở với 2.618.640 m2. Dự tính đến năm 2010 thành phố sẽ đầu tư xây dựng 9 khu dân cư với diện tích 8.450 ha, tổng diện tích xây dựng nhà: 67 triệu m2. Tổng vốn đầu tư ước tính 161 nghìn tỷ đồng.

Kết quả sau 10 năm đô thị hoá, nhiều khu đô thị mới xuất hiện: Khu thương mại chợ Bà Chiểu, khu dân cư công nghiệp Bình Hoà (Bình Thạnh), khu Ngã 6, khu Căn cứ 26, khu Chợ Tân Sơn Nhất (Gò Vấp), khu công nghiệp phường 20, khu dân cư Tân Trụ, khu Cư xá Nhiêu Lộc, khu công nghiệp tập trung phường 15 – 16 (Tân Bình). Các công trình văn hoá du lịch được xây dựng với quy mô lớn, thu hút nhiều khách tham quan như khu Văn Thánh, Bình Thới, Thanh Đa, Suối Tiên. Các khu chung cư mới như Xóm Cải, Xóm Đầm, Thị Nghè xuất hiện thay thế dần các khu nhà ở tồi tàn lụp xụp.

Với những chuyển biến về kinh tế xã hội như đã nêu, quận ven đô đã dần chuyển hoá thành nội ô, các huyện ngoại thành chuyển biến thành vùng ven. Đến năm 1997, một số quận mới được hình thành, bao gồm Quận 12 được tách ra từ huyện Hóc Môn, quận 7 được tách ra từ huyện Nhà Bè, quận 2, quận 9, quận Thủ Đức được tách ra từ huyện Thủ Đức.

Sự chuyển biến về tâm lý – lối sống của cư dân đô thị

Trước những thay đổi về kinh tế – xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của người dân đô thị được nâng cao. Mở cửa hội nhập và giao lưu làm cho người dân ven đô tiếp cận nhiều điều mới lạ. Họ học tập được kinh nghiệm làm ăn sinh sống với khoa học kỹ thuật, với cung cách làm ăn mới, nhận thức họ mở mang, giao tiếp ứng xử tế nhị, lịch lãm hơn, tự tin hơn. Những phong tục tập quán lạc hậu, tuỳ tiện được rũ bỏ dần. Ngày nay, thanh niên vùng ven đã quen với lối sống mới, với các tác phong công nghiệp. Họ lao vào học tập văn hoá, rèn luyện tay nghề, làm việc có năng suất, chất lượng hơn, chính vì thế thu nhập cũng cao hơn, mức độ chi tiêu cũng tăng lên. Theo số liệu thống kê của Phòng Thống kê quận Gò Vấp cho thấy chỉ tiêu bình quân đầu người tăng dần.

Năm

1985

1995

1999

2000

Số tiền đồng

201.346đ

386.084đ

492.297 đ

560.000 đ

Ở Tân Bình: Năm 1995 là 290.000đ/người/tháng. Năm 2005 là 660.000đ/người/tháng.

Việc chi tiêu cũng hợp lý hơn. Tỷ lệ chi cho nhà, thiết bị, đồ dùng tăng, chi phí cho ăn uống giảm.

Ngược lại, một bộ phận dân cư làm ăn phát đạt hoặc được đền bù giải toả, bán đất, bán nhà có thu nhập cao đã xuất hiện tâm lý ăn chơi, hưởng thụ, chạy đua theo mốt. Một số người do nhận thức không đầy đủ đã quá đề cao giá trị đồng tiền, đôi lúc, vì đồng tiền đã chà đạp lên nhân phẩm của người thân trong gia đình, anh em họ hàng, tình làng nghĩa xóm phai nhạt.

3. Một số tồn tại và giải pháp

Tồn tại:

– Vấn đề di dân nông thôn – thành thị và gia tăng dân số cơ học.

Gia tăng dân số trong quá trình đô thị hoá ven đô Tp. Hồ Chí Minh đã đặt ra những vấn đề nan giải về giải quyết công ăn việc làm, thất nghiệp tại chỗ, nhà ở và tệ nạn xã hội làm cho trật tự xã hội ven đô ngày càng thêm phức tạp.

– Tình trạng thất học, thất nghiệp và phân hoá giàu nghèo.

Trong quá trình đô thị hoá hội nhập và phát triển, người dân đô thị cần có trình độ văn hóa tay nghề cao để tiếp cận với nhu cầu tuyển dụng lao động. Song thực tế cho thấy ven đô thành phố còn nhiều người thất học. Theo số liệu thống kê của Sở Lao động – Thương binh xã hội thành phố, năm 1995 ngoại thành có gần 755.000 người trong hạn tuổi lao động. Số không có việc làm và làm việc không ổn định gần 99.000, tính bình quân mỗi huyện có từ 12.000 đến 15.000 người chưa có việc làm, hầu hết không có nghề chuyên môn và trình độ học vấn bình quân lớp 7/12. Nhà Bè có gần 60.000 người trong độ tuổi từ 15 đến 34, trong đó có khoảng 3000 người không qua lớp 5, 20.000 người chưa học hết Trung học cơ sở. Vì vậy, khu chế xuất Tân Thuận đóng trên địa bàn Nhà Bè rất cần tuyển công nhân, nhưng thực tế số người dân Nhà Bè được tuyển vào rất ít. Thất học, thất nghiệp, đói nghèo sẽ dẫn đến phân tầng xã hội và phân hoá giai cấp. Đây là sự bất ổn đối với mong muốn phát triển một xã hội đô thị công bằng, ổn định và văn minh của nhân dân ta.

– Vấn đề ô nhiễm môi trường:

Tại các quận, huyện ven đô, việc chiếm dụng đất công, san lấp mặt bằng, kênh rạch lấn chiếm lòng lề đường để làm nhà và xây dựng trái phép đang diễn ra hàng ngày làm cản trở đến việc tiêu, thoát nước đô thị. Ở quận 12 sông Vàm Thuật bị lấp chiếm hơn 1.500 m2 vi phạm tuyến hành lang giao thông đường thuỷ. Kênh Tân Trụ (phường 17 – Tân Bình) bị san lấp xây dựng nhà với quy mô lớn. Điều đó đã làm cho nước ngập úng nhà dân sau mỗi cơn mưa, ảnh hưởng đến sinh hoạt của nhân dân và môi trường đô thị.

Ô nhiễm môi trường còn do lượng người nhập cư quá đông, trình độ học vấn có hạn, quen với lối sống tiểu nông, tuỳ tiện vứt xác động vật, vứt rác ra đường, ra các mảnh đất lưu không xen lẫn trong khu dân cư. Mức sống cao cũng góp phần làm ô nhiễm môi trường. Rác thải trong mỗi gia đình, khu phố ngày càng nhiều nếu không được xử lý tốt, vi trùng sẽ sinh sôi nảy nở, bệnh tật sẽ dễ dàng lây lan.

Ô nhiễm môi trường luôn luôn gắn liền với ô nhiễm nguồn nước. Trong khi tại Tp. Hồ Chí Minh có hơn 6 triêu người; hơn 1 triệu hộ dân chỉ có 300.000 đồng hồ nước. Ở các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng tỷ lệ cấp nước sạch chỉ đạt tới 60-70%. Ô nhiễm nguồn nước là vấn đề hết sức bức xúc đối với ven đô Tp. Hồ Chí Minh bởi vì đa số người dân vùng ven đều dùng nước máy tự khoan chưa qua kiểm nghiệm và không qua xử lý.

– Vấn đề nhà ở và quản lý trật tự an toàn xã hội ở đô thị

Nhìn chung hầu hết ở các đô thị hiện nay đều xảy ra tình trạng thiếu nhà ở. Đặc biệt là dân nghèo đô thị và những người mới nhập cư vào thành phố. Cho nên một số người đã bất chấp tất cả những quy định về quản lý đô thị. Nhiều hộ tự ý san lấp, lấn chiếm, sang nhượng đất để xây nhà một cách tạm bợ, tuỳ tiện. Việc xây cất không theo quy hoạch làm xuất hiện “nhà không số, phố không tên” chen lấn hỗn độn, đường lối đi lại tối tăm, quanh co. Do đó tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng hình sự lẩn trốn pháp luật. Theo số liệu năm 2005 của Cục Thống kê Tp. Hồ Chí Minh, tệ nạn xã hội ở thành phố ngày càng tăng, nhất là ở lứa tuổi thanh thiếu niên (chiếm trên 80% vụ phạm pháp hình sự). Địa bàn có số vụ phạm pháp hình sự cao là quận Tân Bình và quận Bình Thạnh. Mặt khác, xây cất không theo quy hoạch đã ảnh hưởng đến mỹ quan của thành phố. Chắc chắn điều đó sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển thành phố, trường tồn bền vững.

Giải pháp:

Để hạn chế những yếu tố tiêu cực trong quá trình đô thị hoá ven đô Tp. Hồ Chí Minh, thiết nghĩ còn nhiều vấn đề cần giải quyết, trước mắt cần xem xét một số mặt sau đây:

– Tăng cường đầu tư cho giáo dục nhằm nâng cao mặt bằng dân trí, nâng cao nhận thức của người dân. Đồng thời đó là biện pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề lao động, việc làm để đảm bảo cho người dân ven đô được làm việc có thu nhập ổn định, làm chủ cuộc sống của mình, tránh mọi phiền toái cho xã hội.

– Hạn chế và quản lý tốt hơn đối với dân nhập cư, góp phần lập lại trật tự xã hội đảm bảo cho việc xây dựng xã hội đô thị ổn định, bền vững.

– Bảo vệ môi trường đô thị thông qua công tác đồng bộ trên các mặt luật pháp, hành chính, kinh tế xã hội nhằm tạo điều kiện tổ chức tốt môi trường ở và môi trường lao động, giảm thiểu tác động xấu ảnh hưởng đến các yếu tố tự nhiên và xã hội đô thị. Việc bảo vệ môi trường đô thị là nhiệm vụ của toàn xã hội, của các cấp các ngành, các tổ chức, các cộng đồng và sự tham gia của người dân. Bảo vệ môi trường phải trên cơ sở tăng cường quản lý nhà nước, thể chế và pháp luật đi đôi với việc nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của mọi người dân, của toàn xã hội.

– Tăng cường giáo dục nếp sống văn minh, gia đình văn hóa mới đối với cư dân đô thị, hạn chế những hành vi xấu làm ảnh hưởng đến lối sống văn minh lịch sự của cư dân đô thị.

– Đổi mới trong lĩnh vực quản lý nhà đất đô thị; Tăng cường các biện pháp quản lý đô thị một cách hữu hiệu nhằm giữ gìn bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá của đô thị đảm bảo cho việc quy hoạch, phát triển đô thị lâu dài và bền vững.

Hội Thảo “Chất Lượng Công Tác Vệ Sinh Môi Trường Đô Thị: Thực Trạng Và Giải Pháp”

“Hiện nay, ngành môi trường đô thị phải đối mặt với không ít khó khăn do tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu gây ra cũng như sự gia tăng khối lượng chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải y tế ở các đô thị, trong các khu công nghiệp năm sau tăng hơn năm trước…”. Đó là ý kiến của chúng tôi Nguyễn Văn Liên – Nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Xây dựng, Chủ tịch Hiệp hội MTĐT&KCN Việt Nam đưa ra tại hội thảo

Sáng ngày 04/08, tại Trung tâm Hội nghị, TP mới Bình Dương, tỉnh Bình Dương đã diễn ra buổi Hội thảo “Chất lượng công tác vệ sinh môi trường đô thị: Thực trạng và giải pháp”. Hội thảo do Hiệp hội Môi trường đô thị và Khu công nghiệp ViệtNam(Hiệp hội MTĐT&KCN ViệtNam) tổ chức. Tham dự buổi Hội thảo có sự chỉ đạo của chúng tôi Nguyễn Văn Liên – Nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Xây dựng, Chủ tịch Hiệp hội Môi trường đô thị & Khu công nghiệp Việt Nam; Ông Trần Thanh Liêm- Phó Chủ tịch tỉnh Bình Dương cùng gần 400 đại biểu hoạt động trong lĩnh vực môi trường trên toàn quốc. Ngoài ra, tham dự còn có đại diện của Bộ Xây dựng, Bộ Tài Nguyên và Môi Trường và một số Hội chuyên ngành…

chúng tôi Nguyễn Văn Liên (Nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Xây dựng, Chủ tịch Hiệp hội Môi trường đô thị & Khu công nghiệp Việt Nam) tại hội thảo. Hội thảo diễn ra với các nội dung quan trọng, mang tính chất định hướng. Trong đó, các đại biểu bàn về vấn đề công tác đấu thầu trong lĩnh vực môi trường đô thị nói chung và nói riêng tại hai TP lớn là chúng tôi và TP Cần Thơ; hoạt động xử lý chất thải ở Bình Dương và những điều bất cập… Ngoài ra, Hội thảo còn là dịp để các đại biểu các chuyên gia trao đổi về vấn đề công tác cổ phần hóa – thực trạng, sự cần thiết, giải pháp và triển khai cổ phần hóa doanh nghiệp.

Mở đầu Hội thảo, chúng tôi Nguyễn Văn Liên (Chủ tịch Hiệp hội MTĐT&KCN Việt Nam) đã phát biểu chỉ đạo: “Hiện nay, ngành môi trường đô thị phải đối mặt với không ít khó khăn do tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu gây ra cũng như sự gia tăng khối lượng chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải y tế ở các đô thị, trong các khu công nghiệp năm sau tăng hơn năm trước…

Toàn cảnh Hội thảo Tại Hội thảo lần này, Hiệp hội đề cập đến một số vấn đề “nóng” về thực trạng và những giải pháp để tháo gỡ. Đó là, tham gia đấu thầu trong lĩnh vực môi trường đô thị; công tác cổ phần hóa doanh nghiệp môi trường đô thị. chúng tôi Nguyễn Văn Liên cũng mong muốn các đơn vị hội viên sẽ nhận thức được về kỹ năng, kinh nghiệm tổ chức thực hiện các hoạt động một cách bài bản và hiệu quả hơn trong bối cảnh hiện nay.

Cũng trong buổi hội thảo, chúng tôi Nguyễn Hữu Dũng (Viện trưởng Viện MTĐT&KCN Việt Nam) cũng đã nêu ra một số hiện trạng trong công tác đấu thầu trong lĩnh vực Môi trường đô thị như: Hệ thống văn bản pháp lý về đấu thầu dịch vụ công ích còn thiếu, chưa đi vào thực tế; tổ chức đấu thầu trong một số dự án còn thiếu công khai minh bạch và đảm bảo sự công bằng; đấu thầu giá thấp và trúng thầu giá thấp đã dẫn tới hệ lụy tiêu cực về chất lượng công trình và dịch vụ công ích; mối quan hệ giữa bên mời thầu và bên dự thầu, đấu thầu mang tính chất hình thức. Một số trường hợp thực tế tại TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ… Cho thấy một số đơn vị trúng thầu không đủ năng lực lại thuê lại các đơn vị khác, hoặc trúng thầu xây lắp, dịch vụ vệ sinh môi trường với trang thiết bị và công nghệ đã lạc hậu.

Báo cáo về vấn đề “Chất lượng công tác vệ sinh môi trường đô thị: Thực trạng và giải pháp”, TS Nghiêm Xuân Đạt (Phó Chủ tịch Hiệp hội MTĐT&KCN Việt Nam) đề nghị các đại biểu đi sâu trao đổi về quản lý rác thải (chất thải rắn) ở các đô thị của nước ta trên các mặt: “Kinh nghiệm lựa chọn và áp dụng công nghệ phù hợp với các vùng, miền, địa phương, cách tổ chức thực hiện hiệu quả công nghệ được lựa chọn; Giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp làm vệ sinh môi trường đô thị, kinh nghiệm cổ phần hóa các doanh nghiệp, liên kết các doanh nghiệp, chuẩn bị hồ sơ về các bước tham gia đấu thầu quản lý chất thải rắn và ứng phó sự cố trong công tác này; các cơ chế chính sách, các văn bản pháp quy cần bổ sung, sửa đổi để quản lý, hướng dẫn của Nhà nước, chính quyền địa phương cho phù hợp với thực tế, thu hút được các nguồn lực, công nghệ tiên tiến của các tổ chức trong nước và nước ngoài, công tác quản lý đấu thầu vệ sinh môi trường… Kinh nghiệm thực hiện xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường đô thị”.

Ông Trần Thanh Liêm – Phó Chủ tịch tỉnh Bình Dương phát biểu tại buổi hội thảo

Công tác đấu thầu trong lĩnh vực Môi trường và Đô thị tại TP Hồ Chí Minh cũng đã được nêu trong báo cáo tham luận: “Công tác thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt, chất thải y tế trên địa bàn TP Hồ Chí Minh được thực hiện bởi Công ty TNHH MTV Dịch vụ công ích Quận, Huyện; Hợp tác xã Vận tải Công Nông và hệ thống dân lập thực hiện thu gom vân chuyển từ hơn 300 điểm hẹn và 16 trạm trung chuyển hợp vệ sinh, trong đó có 03 trạm trung chuyển quy mô lớn và hiện đại (Trạm trung chuyển Quang Trung, Tống Văn Trân, Phạm Văn Bạch) vận chuyển về xử lý tại Khu liên hợp Xử lý chất thải rắn Phước Hiệp – huyện Củ Chi, Đa Phước – huyện Bình Chánh và Công trường xử lý chất thải Đông Thạnh – huyện Hóc Môn.

Các đại biểu tham dự đại hội thảo. Tình hình quản lý chất thải rắn tại TP cần Thơ theo số liệu tổng hợp năm 2023, khối lượng chất thải sinh hoạt được thu gom và xử lý trên địa bàn TP Cần Thơ ước đạt khoảng 700 tấn/ngày; chất thải rắn công nghệ thông thường ước đạt 150 tấn/ngày. Việc xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại TP Cần Thơ thời gian qua luôn được lãnh đạo TP quan tâm, ưu tiên đầu tư và bước đầu đã đạt được một số kết quả khả quan như xây dựng các nhà máy xử lý chất thải rắn bằng phương pháp đốt tại huyện Cờ Đỏ, Thới Lai; giảm thiểu việc chon lấp và xử lý các vấn đề phát sinh do chôn lấp… Còn một số khó khăn như: Công tác phân loại rác tại nguồn trước khi thu gom đã có đề án và đang được triển khai; tìm kiếm các giải pháp xử lý rác bằng các công nghệ tiên tiến nhằm đảm bảo vững chắc về môi trường phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương; nhà máy xử lý chất rắn công nghiệp, nguy hại và y tế…

Tham gia triển lãm tại Hội thảo

Nội dung báo cáo tham luận triển khai cổ phần hóa doạnh nghiệp của Công ty CP Công trình công cộng Hội An đưa ra một số mục tiêu: Chuyển hình thức sở hữu 100% vốn Nhà nước thành hình thức đa sở hữu. Tạo thay đổi căn bản về phương thức quản lý, từng bước đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển quy mô, nâng cao năng lực tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hiện nay và trong tương lai; Huy động vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, của cá nhân, của các tổ chức kinh tế trong nước và ngoài nước để đầu tư phát triển, mở rộng phạm vi hoạt động trong nhiều lĩnh vực nhằm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và phát triển ổn định trong tương lai với phương châm “duy trì sản xuất kinh doanh + phát triển bền vững tăng thu nhập”.

Tham gia triển lãm tại Hội thảo

Phát biểu tại hội thảo chúng tôi Nguyễn Văn Liên (Chủ tịch Hiệp hội MTĐT&KCN Việt Nam) khẳng định: “Những đề xuất kiến nghị tại Hội thảo sẽ được Hiệp hội tổng hợp để chuyển đến một số cơ quan chức năng quản lý Nhà nước như Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư các cấp chính quyền địa phương. Với niềm tin sẽ được các cơ quan chức năng đảm bảo sự công bằng, minh bạch tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các đơn vị thực hiện công tác vệ sinh môi trường đô thị hoạt động ngày càng hiệu quả. Góp phần tích cực cho công tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững của đất nước”.

Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Trạng Và Giải Pháp Cây Xanh Đô Thị trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!