Bạn đang xem bài viết Thực Trạng Già Hóa Dân Số Ở Nhật Bản Và Những Ảnh Hưởng Đến Kinh Tế, Xã Hội được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Xã hội già, xã hội siêu già là gì?
Những thuật ngữ như xã hội già hóa, xã hội già hay xã hội siêu già đều đang được sử dụng trên thế giới. Tuy nhiên chúng lại chưa có một định nghĩa chính xác mang tính quốc tế.
Cụm từ “xã hội già hóa” được sử dụng trong báo cáo liên hợp quốc vào năm 1956. Chính phủ Nhật Bản dựa theo tiêu chuẩn các nước phát triển phương Tây bấy giờ để giả định trên 7% là “dân số già hóa”. Bắt nguồn từ đó, tỉ lệ già hóa được cho là thước đo chung cho cộng đồng quốc tế.
Độ tuổi từ 0-14 tuổi được gọi là thiếu niên, từ 15-64 tuổi là độ tuổi lao động, trên 65 tuổi là người cao tuổi. Khi đó, tỉ lệ già hóa là tỉ lệ phần trăm của người cao tuổi trong tổng dân số. Người ta dựa theo tỉ lệ này để phân biệt và định nghĩa:
Tỉ lệ già hóa vượt 7% sẽ được gọi là xã hội già hóa, trên 14% là xã hội già, và trên 21% gọi là xã hội siêu già.
Mặc dù không có một định nghĩa chính xác, các cụm từ trên được quy định để phân biệt dễ hiểu tình trạng già hóa của một xã hội.
Dựa theo quy chuẩn trên, Nhật Bản vào thời điểm năm 2018 với tỉ lệ già hóa chạm mức 28.1%, đã bước vào xã hội siêu già.
Độ tuổi từ 0-14 tuổi được gọi là thiếu niên, từ 15-64 tuổi là độ tuổi lao động, trên 65 tuổi là người cao tuổi. Tỉ lệ già hóa là phần trăm người cao tuổi trong tổng dân số.
Một xã hội khi tỉ lệ già hóa vượt 7% sẽ được gọi là xã hội già hóa, trên 14% là xã hội già, và trên 21% là xã hội siêu già.
Tình trạnh già hóa dân số ở Nhật đã vượt qua và bước vào xã hội siêu già hóa vào năm 2018, với tỉ lệ già hóa là 28.1%
Nguyên nhân chính và diễn biến tình trạng xã hội già ở Nhật Bản
Từ 25 năm trước Nhật Bản đã tiến vào xã hội già, với tỉ lệ người cao tuổi 14.6%, vượt mức 14% vào năm 1995. Và tỉ lệ này vào năm 2010 là 23%, trên mức 21%, bước tiếp vào xã hội siêu già.
Năm 2018, tỉ lệ người cao tuổi trong bối cảnh già hóa này là 28.1%, gần 30% tổng dân số.
Có 2 nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này.
Thứ nhất, do sự phát triển của y học và thay đổi của cuộc sống, tuổi thọ trung bình ngày càng tăng lên. Nhật Bản năm 2017 có tuổi thọ trung bình của nam giới là 81.09 và của nữ giới là 87.26
Cùng với sự gia tăng của lớp dân số trên 65 tuổi, số lượng người tử vong cũng có xu hướng tăng. Tuy nhiên, Age-adjusted Mortality Rate (tạm dịch: tỉ suất tử hiệu chỉnh cơ cấu tuổi) (tức tỉ lệ tử vong điều chỉnh cơ cấu độ tuổi) lại có xu hướng giảm.
Một nguyên nhân khác là do sự gia tăng hiện tượng giảm tỉ lệ sinh.
Số lượng trẻ em sinh ra đạt mức cao nhất trong cuộc bùng bổ sinh sản (baby boom) lần thứ hai vào những năm 1970, sau đó có xu hướng giảm. Năm 2019, con số này là 940 nghìn người, tỉ suất sinh thô (số lượng trẻ em sinh ra trong 1000 dân) là 7.6. Năm 2016 là năm đầu tiên số trẻ em sinh ra trong năm giảm xuống dưới 1 triệu trẻ, và đến giờ tình trạng giảm thiểu dân số này vẫn đang tiếp tục diễn biến.
Ngoài ra, tổng tỉ suất sinh* kể từ sau cuộc bùng nổ sinh sản lần thứ nhất đã hạ xuống, vào năm 1947 vẫn là 4.32, giảm xuống mức thấp nhất vào năm 2005 là 1.26, và đến thời điểm năm 2017 vẫn duy trì ở con số khiêm tốn 1.43
Tổng tỉ suất sinh* = tổng các tỉ lệ sinh theo độ tuổi của nữ giới từ 15 đến 59 tuổi, tương ứng với số lượng trẻ em mỗi người phụ nữ sinh ra trong cuộc đời chia theo tỉ suất sinh độ tuổi trong mỗi năm.
Nhật Bản từ 25 năm trước đã bước vào xã hội già, tiến tới xã hội siêu già năm 2010 với tỉ lệ già hóa đạt 23%, vượt mốc 21%
Bên cạnh sự kéo dài tuổi thọ trung bình do tiến bộ y học, thì số lượng trẻ em sinh ra giảm, hay sự giảm tỉ lệ sinh được chỉ ra là nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng già hóa dân số gia tăng.
Những ảnh hưởng của già hóa dân số ở Nhật
“Tăng trưởng kinh tế” và “Chế độ phúc lợi xã hội” đang trở thành 2 vấn đề lớn gây ra bởi hiện tượng già hóa.
Tăng trưởng kinh tế bị chi phối bởi lực lượng lao động, song nguồn dân số này lại đang giảm thiểu nhanh chóng do sự gia tăng của già hóa và giảm tỉ lệ sinh.
Các chế độ phúc lợi xã hội như tiền lương hưu hay điều dưỡng cũng chịu sự tác động của lực lượng lao động. Dân số lao động giảm, số lượng người già tăng, kết quả là tỉ lệ phần trăm số người lao động trong tổng dân số giảm.
Ngoài ra, lực lượng lao động giảm cũng khiến thị trường nội địa bị thu hẹp, sức hấp dẫn đầu tư giảm. Tiềm năng tăng trưởng trong nhiều lĩnh vực, tiêu biểu là kinh tế cũng giảm sút theo. Chính vì vậy gần đây Nhật Bản đã mở của để các bạn đi du học Nhật Bản và xuất khẩu lao động Nhật Bản với thị trường Việt Nam nhều hơn
Một ảnh hưởng khác tới chế độ phúc lợi xã hội, là sự gia tăng gánh nặng lên mỗi cá nhân do dân số già hóa. Số người chăm sóc cho một người cao tuổi là 11.2 người vào năm 1960, 7.4 người năm 1980, và giảm còn 2.4 người năm 2004.
Nếu tình trạng này cứ tiếp tục diễn biến, đến năm 2060, sẽ chỉ còn khoảng 1 người để hỗ trợ cho mỗi người cao tuổi. Sự cân bằng giữa sự gánh nặng và trợ cấp trong phúc lợi xã hội (tiêu biểu là chi phí y tế, phí điều dưỡng) sẽ sụp đổ.
Hiện tượng già hóa dân số gia tăng phát sinh các vấn đề lớn về tăng trưởng kinh tế và chế độ phúc lợi xã hội.
Do già hóa dân số và giảm tỉ lệ sinh, lực lượng lao động giảm, dẫn tới sự trì trệ của tăng trưởng kinh tế.
Nguồn tham khảo https://gooddo.jp/
Kinh Tế Nhật Bản Trước Vấn Đề Dân Số Già
BNEWS Dân số giảm và ngày càng già hóa đang khiến Nhật Bản rơi vào tình trạng thiếu lao động trầm trọng, cùng với đó nhiều địa phương việc duy trì dịch vụ hành chính đang trở nên khó khăn bởi dân số quá ít.
Trước tình trạng trên, các nhà nghiên cứu cảnh báo cơ quan hành chính địa phương của Nhật Bản sẽ không thể duy trì được chức năng hỗ trợ cuộc sống của người dân và hoạt động sản xuất. Gánh nặng đối với người dân các địa phương của Nhật Bản sẽ ngày càng tăng.
Các trường học nhiều khả năng phải gộp lại do không đủ lượng học sinh cần thiết, các tuyến đường sắt, xe buýt phải đóng cửa, nhiều gói chính sách miễn phí cũng phải giảm bớt. Nhật Bản đang duy trì hai cấp hành chính quận, huyện thị xã và cấp tỉnh tại các địa phương. Tuy nhiên, nếu dân số giảm nhanh chóng, cấp hành chính này sẽ khó có thể duy trì tại tất cả các địa phương.
Mô hình các khu vực liên kết gồm những quận, huyện, thị xã gần nhau, đặt trung tâm tại các đô thị có dân số trên 200.000 người đang là hướng đi được đề xuất tại Nhật Bản.
Thành công của chính sách kinh tế Abenomics trong tương lai có thể nói đang phụ thuộc nhiều vào chính sách nhập cư. Không có chính sách nhập cư phù hợp, tình trạng thiếu lao động sẽ cản trở sự phát triển bền vững của kinh tế Nhật Bản. Theo tạp chí “The Diplomat”, chính quyền ông Abe đang phải vật lộn với khả năng có thể thiếu hụt tới 7,9 triệu lao động vào năm 2030, cùng với chi phí an sinh xã hội gia tăng do tình trạng dân số già.
Để duy trì dân số ở mức 100 triệu, theo lý thuyết, Nhật Bản phải chấp nhận một con số khổng lồ khoảng 200.000 người nhập cư mỗi năm, và tỷ lệ sinh phải nâng từ mức 1,42 thành 2,07 vào năm 2030.
Mục tiêu thu hút 500.000 lao động nước ngoài vào năm 2025 được ông Abe đưa ra, đồng nghĩa với việc trong vòng 7 năm, mỗi năm Nhật Bản sẽ tiếp nhận trung bình 71.430 lao động. Thực hiện mục tiêu trên, ông Abe đã có hai điều chỉnh lớn trong quy định về lao động nước ngoài. Thứ nhất, đó là việc bổ sung thị thực lao động mới cho năm lĩnh vực như nông nghiệp, xây dựng, chăm sóc người cao tuổi…, dự kiến có hiệu lực từ tháng 4/2019. Ông Abe đã đưa ra gợi ý về chính sách mới này vào tháng Hai năm nay. Thứ hai, cho phép gia hạn thị thực của lao động nước ngoài thêm 2 năm, sau khi kết thúc thời gian lao động 3 năm. Như vậy, một lao động nước ngoài tại Nhật Bản có thể kéo dài thời gian lên tới 5 năm.
Các nhà kinh tế Nhật Bản từ lâu đã tìm cách đẩy mạnh thu hút lao động nhập cư vào nước này. Tuy nhiên, điều này đã gặp nhiều trở ngại bởi đây là vấn đề chính trị nhạy cảm xuất phát từ các nỗi sợ hãi như tội phạm gia tăng, sự phản ứng dữ dội của người dân giống như ở các nước châu Âu.
Kế hoạch thu hút lao động mới nhất mà ông Abe tuyên bố là một sự thay đổi đáng kể cách thức tiếp nhận lao động nước ngoài của Nhật Bản. Tuy nhiên, rõ ràng đây chỉ là giải pháp tạm thời bởi những lao động dù được gia hạn thị thực lên tới 5 năm, nhưng cuối cùng họ vẫn phải trở về nhà.
Trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình vào năm 2014, ông Abe cho biết Nhật Bản không chấp nhận chính sách nhập cư giống như Mỹ, tức lao động được ở lâu dài. Giáo sư Toru Shinoda, một chuyên gia về lao động tại Đại học Waseda ở Tokyo, cho rằng đề xuất mở rộng lực lượng lao động nước ngoài là một hướng đi đúng trong việc đảm bảo tương lai của đất nước, nhưng chính sách đã bị hiểu sai bởi một nguyên tắc huyền thoại của nước này đó là tính đồng nhất dân tộc.
Ông Shinoda cho biết trước Chiến tranh thế giới thứ II, trong lịch sử, Nhật Bản đã từng chấp nhận khoảng 1 triệu người nhập cư và đưa 100.000 người nước này định cư khắp thế giới.
Sáng kiến về “Phụ nữ” được ông Abe công bố vào năm 2015 với mục tiêu ban đầu đầy tham vọng là đưa tỷ lệ nữ chiếm 30% các vị trí lãnh đạo trong mọi lĩnh vực vào năm 2020.
Tuy nhiên, tại các doanh nghiệp đây là mục tiêu không thực tế, vì vậy đã phải giảm xuống còn 15% vào năm 2025. Giáo sư đại học Waseda cũng cho rằng cùng với sự nổi lên của Trung Quốc và Đông Nam Á, Nhật Bản phải thực tế hơn và nhìn nhận thẳng thắn vấn đề là nước này cần lao động nước ngoài hơn là lao động nước ngoài cần Nhật Bản.
>>>Walmart dự định bán lại chuỗi siêu thị Seiyu tại Nhật Bản >>>Số người thiệt mạng do mưa lũ tiếp tục tăng tại Nhật Bản
Vấn Đề Già Hoá Dân Số Ở Nhật Bản Và Những Hệ Luỵ Của Nó
1. Tình trạng già hoá dân số ở Nhật Bản
Theo số liệu thống kê mới nhất của Liên Hợp Quốc, dân số hiện tại của Nhật Bản là 126.557.647 người. Dân số Nhật chiếm 1,63% dân số thế giới.
Trong năm 2020 này, người ta dự kiến rằng dân số Nhật Bản sẽ giảm 425.657 người. Gia tăng dân số tự nhiên được dự báo là âm, vì số lượng người sinh ra sẽ ít hơn số lượng người chết:
– Có 2.530 trẻ em được sinh ra trung bình mỗi ngày.
– 3.762 người chết trung bình mỗi ngày.
– 66 người di cư trung bình mỗi ngày.
Vậy ước tính dân số Nhật Bản sẽ giảm trung bình 1.166 người mỗi ngày trong năm 2020.
Hiện tại số người từ 65 tuổi chiếm tỷ lệ khá cao ở Nhật, trong khi đó số người trong độ tuổi từ 14 trở xuống tiếp tục có xu hướng giảm mạnh. Vấn đề này đã diễn ra ở Nhật Bản khá lâu và ngày càng nghiêm trọng.
2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng già hoá dân số ở Nhật bản
– Nguyên nhân hàng đầu đó là do thiếu ổn định về kinh tế: Tuy Nhật Bản là một nước có nền kinh tế hàng đầu, tỷ lệ người dân thất nghiệp khá thấp. Nhưng gần đây tỷ lệ công việc không ổn định càng nhiều, cộng với áp lực toàn cầu hoá bắt buộc các doanh nghiệp phải cắt giảm bớt nguồn nhân sự. Vì thế nhiều bạn trẻ rơi vào tình trạng thất nghiệp và không có khả năng nghĩ đến việc lập gia đình.
– Tỷ lệ không muốn kết hôn tăng: Trước đây tỷ lệ kết hôn và sinh con trước tuổi 30 khá là cao. Nhưng hiện tại tỷ lệ này đã suy giảm. Càng lúc càng có nhiều người không muốn kết hôn, cho nên đây chính là một trong những nguyên nhân khiến cho tỷ lệ trẻ em giảm mạnh trong những năm gần đây.
– Kết hôn muộn và sinh muộn: Hiện tại có rất nhiều bạn mong muốn kết hôn muộn, bởi vì các bạn điều mong muốn phải có được sự nghiệp và kinh tế ổn định. Chính điều đó đã dẫn đến kết hôn và sinh con muộn, thì dẫn đến tỷ lệ sinh con thứ 2 và thứ 3 rất thấp.
3. Những ảnh hưởng của vấn đề già hoá dân số đối với nhật Bản
– Kinh tế suy giảm: Chính Phủ Nhật Bản phải sử dụng nhiều ngân sách cho các chương trình phúc lợi xã hội, chính điều này đã làm cho cơ cấu tài chính quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
– Lỗ hổng giữa các thế hệ ngày càng gia tăng: Do nhiều người già có ảnh hưởng lớn trong các lĩnh vực chính trị nên chính sách quốc gia sẽ chú ý nhiều hơn tới các chương trình phúc lợi xã hội như y tế, lương hưu… Điều này đã làm dấy lên làn sóng phản đối từ các thế hệ trẻ, đe dọa đến sự thống nhất vốn có trong xã hội Nhật Bản.
– Địa vị trên quốc tế suy giảm.
4. Những giải pháp nhằm giải quyết tình trạng già hoá dân số và cải thiện nền kinh tế
– Gia tăng tỷ lệ sinh nở ở Nhật Bản: Giới trẻ ở Nhật hiện tại đang có xu hướng kết hôn muộn, bởi vì không đủ điều kiện kinh tế. Vậy trước hết để gia tăng tỷ lệ sinh nở, Nhật Bản cần giải quyết vấn đề việc làm cho các bạn trẻ, nhằm cải thiện cuộc sống từ đó gia tăng độ tuổi kết hôn.
– Nhật Bản cần gia tăng xây dựng các hệ thống y tế, dịch vụ chăm sóc cho trẻ em, thay vì cứ chú trọng quá nhiều cho người cao tuổi.
– Có nhiều biện pháp giúp phụ nữ và người già tham gia vào quá trình lao động thông qua việc cải thiện môi trường làm việc và môi trường xã hội.
– Phải có những biện pháp nhằm thu hút nguồn lao động nước ngoài đến làm việc và cống hiến. Nếu thu hút được đội ngũ tri thức trình độ cao, Nhật Bản sẽ có nhiều chương trình thúc đẩy kinh tế cũng như các lĩnh vực khác, và khi đó vị thế của Nhật Bản trên trường quốc tế cũng được cải thiện với những đóng góp xứng đáng.
Không chỉ riêng gì Nhật Bản mà các nước khác trên thế giới cũng đang dần dần rơi vào tình trạng già hoá dân số này. Các nước càng đẩy mạnh thêm nhiều giải pháp nhằm ngăn chặn tình trạng này xảy ra. Mong rằng bài viết này đã cập nhật cho các bạn được những thông tin hữu ích.
Chính Sách An Sinh Xã Hội Đối Với Già Hóa Dân Số Ở Việt Nam
ĐỖ THỊ THU Học viện Ngân hàng.
Tóm tắt: Già hóa dân số là một thành tựu xã hội to lớn của nhân loại và của mỗi quốc gia trong nỗ lực kéo dài tuổi thọ của con người. Tuy nhiên, già hoá dân số sẽ làm cho gánh nặng kinh tế – xã hội trở nên nghiêm trọng nếu quốc gia không có những bước chuẩn bị và thực hiện các chiến lược, chính sách thích ứng. Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn già hóa dân số với tốc độ cao trong khi thời gian chuẩn bị thích ứng không còn nhiều. Do vậy, cần phải hoạch định các chiến lược, chính sách thực tế, xác đáng để thích ứng.
Từ khoá: an sinh xã hội, già hóa dân số, quá độ dân số
Abstract: Population aging is a great social achievement of mankind and of every country in an effort to extend the life of people. However, population aging will make the socio-economic burden serious if any country does not take proper steps to develop and adopt adaptive strategies and policies. Vietnam will enter a period of high population aging while adaptive preparation time is not much. Therefore, it is necessary to plan realistic, appropriate strategies and policies for adaption.
Keywords: social security, population aging, population transition.
1. Già hóa dân số ở Việt Nam
Việt Nam đang trong giai đoạn “quá độ dân số” với hai xu hướng dân số diễn ra cùng lúc là “cơ cấu dân số vàng” và “dân số già hóa”. Xu hướng đầu thể hiện số lượng và tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tăng lên, trong khi xu hướng sau thể hiện số lượng và tỷ lệ người cao tuổi (NCT) tăng lên. Già hóa dân số ở Việt Nam là kết quả của hai xu hướng dân số nổi bật trong ba thập kỷ gần đây, đó là tỷ suất sinh giảm và tuổi thọ tăng. Kết quả là dân số trẻ em có xu hướng giảm, dân số trong độ tuổi lao động tăng và dân số cao tuổi tăng.
Theo UNFPA (2011), một nước sẽ bước vào giai đoạn “bắt đầu già” khi dân số cao tuổi chiếm 10% tổng dân số và giai đoạn “già” khi dân số cao tuổi chiếm 20% tổng dân số. Với định nghĩa này, các dự báo dân số của Tổng cục Thống kê (TCTK, 2016) cho giai đoạn 2014-2049 cho thấy dân số Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn “bắt già hóa” từ trước năm 2014 và chỉ khoảng 20 năm để dân số Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn “già” (Giang Thanh Long, 2018);. Đây là một khoảng thời gian rất ngắn so với nhiều nền kinh tế phát triển khác bởi các nước này phải mất vài chục năm, thậm chí cả thế kỷ, để thay đổi như vậy. Về số lượng NCT, Việt Nam hiện có khoảng 10,1 triệu người, trong đó số người từ 80 tuổi trở lên là khoảng 2 triệu người. Với cùng dự báo dân số, tỉ số phụ thuộc dân số (tính bằng số người từ 60 tuổi trở lên so với số người trong độ tuổi lao động 15-59) được dự báo tăng gấp hơn ba lần, từ 14% năm 2014 lên 43% năm 2049. Tỷ lệ NCT chính thức vượt tỷ lệ trẻ em (từ 0-14 tuổi) vào năm 2040.
Nguồn: Các tác giả tự minh họa bằng số liệu của Tổng cục Thống kê (2016)
Quá trình già hóa dân số ở Việt Nam có một số đặc trưng như sau:
Thứ nhất, dân số cao tuổi ở Việt Nam có xu hướng “già ở nhóm già nhất”, tức là tỷ lệ NCT ở nhóm lớn tuổi nhất (từ 80 trở lên) đã và đang tăng lên nhanh chóng;
Thứ hai, tỷ số giữa phụ nữ cao tuổi và nam giới cao tuổi tăng mạnh khi xét theo từng lứa tuổi (UNFPA, 2011; TW Hội LHPN Việt Nam, 2012). Trong nhân khẩu học, hiện tượng này được gọi là “nữ hóa dân số cao tuổi”. Tính toán của các tác giả từ Điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) 2016 cho thấy tỷ số giữa số phụ nữ cao tuổi với số nam giới cao tuổi theo các nhóm tuổi 60-69; 70-79 và 80 trở lên tương ứng là 128/100; 141/100 và 183/100. Dự báo dân số của TCTK (2016) cũng cho kết quả tương tự trong các năm dự báo.
Thứ ba, “già hóa” dân số không đồng đều giữa các tỉnh và vùng. Một số địa phương có tốc độ già hóa nhanh do tỷ suất sinh thấp hoặc do dân số trẻ di cư, trong khi một số địa phương lại có tốc độ già hóa chậm do tỷ suất sinh và tỷ lệ trẻ em còn cao và rất cao.
Tốc độ “già hóa dân số” nhanh sẽ tác động tới nhiều lĩnh vực đời sống xã hội như hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe, hệ thống an sinh xã hội, việc làm, tuổi nghỉ hưu, quan hệ gia đình, tâm lý, lối sống… đặt ra yêu cầu, thách thức là cần phải xây dựng một xã hội thích ứng với giai đoạn “già hóa dân số” của đất nước. Chúng ta cũng nhận thức chưa đầy đủ về việc đảm bảo quyền và khả năng tiếp cận, thụ hưởng chăm sóc sức khỏe, an sinh xã hội, an toàn và môi trường thân thiện với NCT. Theo một số chuyên gia của Ngân hàng Thế giới (Ronald Lee, Andrew Mason và Daniel Cotlear, 2010) thì già hóa dân số sẽ gây nên nhiều tác động kinh tế, xã hội sâu rộng. Nó sẽ ảnh hưởng lên thị trường lao động và mang lại nhiều thách thức đối với các nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp và toàn bộ người dân nói chung.
Hiện nay, Chính phủ đã và đang tiếp tục nghiên cứu xây dựng chính sách chăm sóc sức khỏe dài hạn. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức về kinh tế khi triển khai chính sách này, nhất là khi phần lớn NCT luôn có ít nhất một bệnh mạn tính trở lên và điều kiện kinh tế khá khó khăn. Vì thế, thích ứng với già hóa dân số, là một công việc nhiều thách thức đòi hỏi sự tham gia của các ngành, các cấp.
Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã ban hành Đề án chăm sóc sức khỏe NCT với nhìn nhận một cách toàn diện, tăng cường chăm sóc NCT ngay tại cộng đồng. Nếu chỉ dựa vào bệnh viện hay nhà dưỡng lão chi phí sẽ cao và tốn kém hơn. Người Việt Nam có văn hóa gia đình, là việc các thế hệ cùng chung sống trong một gia đình được thế giới đánh giá là nét văn hóa tốt, là điểm mạnh để tiến hành tốt công tác chăm sóc sức khỏe cho NCT tại cộng đồng. Bộ Y tế cũng đang triển khai mô hình chăm sóc NCT tại cộng đồng và khuyến khích các doanh nghiệp và tư nhân cùng tham gia.
Nguồn: Điều tra về NCT Việt Nam (VNAS) năm 2011
Cùng lúc đó, NCT Việt Nam cũng đối mặt với tình trạng khó khăn trong thực hiện các công việc hàng ngày (ADLs – activities of daily living). Tỷ lệ NCT đối mặt với việc khó khăn có sự khác biệt lớn theo nhóm tuổi và giới tính. Điều này đòi hỏi phải có sự chăm sóc thường xuyên của gia đình, cộng đồng hoặc cơ sở chăm sóc. Một thách thức không nhỏ là gia đình NCT đang chuyển nhanh từ gia đình truyền thống nhiều thế hệ sang gia đình hạt nhân, trong đó tỷ lệ hộ gia đình chỉ có vợ chồng NCT sống với nhau ngày càng tăng lên và dẫn tới tình trạng người già chăm sóc người già. Xét theo khía cạnh giới, tỷ lệ phụ nữ cao tuổi sống một mình, góa chồng cao hơn nhiều tỷ lệ nam giới sống một mình, góa vợ. Sự rủi ro về sức khỏe thể chất cũng như tinh thần và khả năng tự chăm sóc ngày càng giảm đòi hỏi phải có hệ thống chăm sóc dài hạn rộng rãi, tốt thì mới đảm bảo chất lượng cuộc sống của NCT.
2. Già hoá dân số đối với vấn đề chế độ hưu trí và trợ cấp cho NCT: Tỷ lệ NCT đang hưởng hưu và trợ cấp xã hội tăng lên nhưng vẫn còn thấp. Tỷ lệ “nhóm giữa mất tích” (missing middle) (tức là NCT không phải giàu, cũng không phải nghèo không được hưởng bất kỳ khoản hưu trí hoặc trợ cấp nào) chiếm gần 50% NCT (Vụ BHXH, Bộ LĐ-TB&XH, 2017) (Hình 3). Mức hưởng trợ cấp còn thấp và chậm điều chỉnh nên sức mua của khoản trợ cấp giảm đi theo thời gian. Tổng lương hưu và trợ cấp của NCT chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng thu nhập của hộ gia đình cao tuổi.
Hình 3: Độ bao phủ của hưu trí đối với NCT Nguồn: Vụ BHXH, Bộ LĐ-TB&XH (2017)
Do chính sách an sinh xã hội vẫn còn những khoảng trống, tình trạng người lao động rút khỏi hệ thống an sinh xã hội gia tăng trong thời gian gần đây khiến NCT mất cơ hội có lương hưu khi tới độ tuổi quy định. Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, số lượng người lao động làm thủ tục bảo hiểm xã hội (BHXH) hưởng chính sách trợ cấp một lần đang gia tăng. Những năm gần đây, theo báo cáo thống kê của Cơ quan BHXH Việt Nam, bình quân mỗi năm có khoảng hơn 600.000 người làm thủ tục BHXH một lần. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó phải kể đến điều kiện để được hưởng BHXH một lần quá rộng rãi (chỉ cần nghỉ việc một năm không tiếp tục tham gia BHXH). Mặt khác, điều kiện tối thiểu về thời gian đóng BHXH để được hưởng lương hưu khá dài (20 năm), làm nản lòng một số bộ phận người lao động. Bên cạnh đó, tâm lý của người Việt Nam là “trẻ cậy cha, già cậy con” vẫn còn nặng nề, chưa hình thành văn hóa đóng – hưởng để tự bảo đảm an sinh khi về già. Đời sống người lao động nói chung còn khó khăn, nhiều người lao động mong muốn có một khoản chi tiêu trước mắt (như khám, chữa bệnh, xây nhà…).
Theo kết quả báo cáo nghiên cứu do Tổ chức Dịch vụ hưu trí toàn cầu Ernst&Young phối hợp thực hiện với BHXH Việt Nam mới đây, BHXH đang gặp nhiều thách thức trước bối cảnh già hóa dân số tại Việt Nam. Mức độ cam kết tham gia của người sử dụng lao động với chế độ hưu trí nói riêng hay chính sách BHXH nói chung của Việt Nam còn thấp; tuổi nghỉ hưu thấp nên tỷ lệ hưởng lương hưu ở mức tối đa cao và dài. Hiện nay, số người được hưởng lương hưu mới có khoảng gần 2,3 triệu; số tiền tuyệt đối đóng vào quỹ BHXH không cao do tiền lương làm căn cứ đóng BHXH chỉ chiếm khoảng 60% thu nhập thực tế. Theo BHXH Việt Nam, 70% NCT không có tích lũy vật chất; 2,3% gặp khó khăn, thiếu thốn; trên 70% NCT vẫn tự lao động kiếm sống cùng với sự hỗ trợ của con cháu và gia đình và chỉ có hơn 25,5% sống bằng lương hưu hay trợ cấp xã hội.
Về trợ cấp xã hội, trợ cấp cho NCT được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP với mức trợ cấp thấp nhất là 270.000 đồng/tháng. Mức trợ cấp tối thiểu này mới chỉ bằng 45% chuẩn nghèo chung (lương thực) và bằng khoảng 22% chuẩn nghèo phi lương thực. Cùng với sự trượt giá của đồng tiền trong thời gian qua, sức mua của khoản trợ cấp đối với NCT bị giảm đáng kể trong những năm qua: nghiên cứu của Bộ LĐ-TB&XH và UNDP (2015) cho thấy sức mua của khoản trợ cấp xã hội cho NCT đã từ năm 2007 đến năm 2014 đã giảm hơn 25%.
Thứ nhất, nâng cao ý thức và hiểu biết của các nhà quản lý, hoạch định chính sách cũng như của toàn bộ cộng đồng về những thách thức của già hóa dân số và đời sống của NCT. Thực tế cho thấy, khi thực hiện thay đổi chính sách nào, chúng ta cần nâng cao nhận thức của các nhà hoạch định chính sách và toàn xã hội về vấn đề đó. Do vậy, nếu vấn đề già hóa dân số và thực trạng dân số cao tuổi không được đánh giá, quan tâm sâu sắc thì sẽ không có sự thay đổi các chính sách hiện có hoặc đề xuất xây dựng chính sách mới phù hợp với xu hướng già hóa và thực trạng dân số cao tuổi. Những thách thức mà các quốc gia có dân số già và rất già như Nhật Bản, các nước Châu Âu (như Ý, Đan Mạch, Phần Lan…) là những bài học thực tiễn cho Việt Nam, đó là cần phải chuẩn bị ngay các chính sách, chương trình hướng tới một dân số già nhưng phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế còn thấp.
Thứ hai, cần giải quyết đồng bộ các chính sách tăng trưởng, phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội nhằm đảm bảo và cải thiện thu nhập của NCT từ lao động và hưu trí. Theo đó, phát triển kinh tế phải gắn liền với các mục tiêu xã hội và phải được coi là chiến lược quan trọng hàng đầu. Để làm được điều này, chúng ta phải tận dụng tốt cơ hội “dân số vàng” ngay từ hiện tại, điều này sẽ giúp dân số già ở nước ta có thu nhập và sức khỏe tốt trong tương lai. Nguồn thu nhập ổn định nhất của NCT chính là tiền lương hưu được hưởng từ việc họ đã đóng góp trong suốt thời gian làm việc. Do đó, cần phải cải cách hệ thống hưu trí theo một lộ trình nhất định nhằm đảm bảo sự công bằng, ổn định, phát triển quỹ và phù hợp với tình hình phát triển thị trường tài chính. Ngoài việc đảm bảo mối quan hệ đóng – hưởng sát thực hơn thì việc chuyển đổi cơ chế hoạt động của hệ thống hưu trí sẽ góp phần cải thiện cân bằng quỹ hưu trí một cách đáng kể, đặc biệt việc đầu tư quỹ hưu trí được chú trọng và có hiệu quả hơn. Các loại hình bảo hiểm cũng cần được đa dạng nhằm tăng cường khả năng tiếp cận của các nhóm dân số, đặc biệt chú trọng đến mở rộng hệ thống bảo hiểm tự nguyện với thiết kế linh hoạt, phù hợp với khả năng đóng góp và chi trả của đối tượng và có khả năng liên thông với các loại hình bảo hiểm khác. Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội cũng đã thể hiện rõ quan điểm đổi mới là “Phát triển hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế; huy động các nguồn lực xã hội theo truyền thống tương thân tương ái của dân tộc; hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội; kết hợp hài hoà các nguyên tắc đóng – hưởng; công bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững.”
Bên cạnh đó, Chính phủ cần triển khai các chương trình thu hút NCT tham gia hoạt động kinh tế, đặc biệt với các ngành, lĩnh vực mà đào tạo thông qua thực hành là chủ yếu nhằm tiết kiệm được một nguồn lực lớn cho đào tạo.
Trợ cấp xã hội cho nhóm NCT có điều kiện khó khăn cũng cần được mở rộng và tiến tới một hệ thống phổ cập cho mọi NCT, đặc biệt, cần chú trọng hỗ trợ NCT ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa và phụ nữ cao tuổi. Mức hưởng và cách thức trợ cấp cần được xem xét cho phù hợp với điều kiện sống và sức khỏe của NCT. Việc xác định đối tượng cần phải cải cách để tránh sai sót trong lập hồ sơ và phê duyệt đối tượng được hưởng.
Thứ ba, tăng cường chăm sóc sức khỏe, xây dựng và mở rộng các dịch vụ chăm sóc NCT với sự tham gia tích cực, chủ động của mọi thành phần xã hội và nâng cao năng lực quốc gia về chăm sóc NCT. Trong đó, công tác truyền thông giáo dục sức khỏe và nâng cao nhận thức, ý thức về sức khỏe cho mọi lứa tuổi để chuẩn bị cho một tuổi già khỏe mạnh, tránh bệnh tật, thương tật và tàn phế. Bộ Y tế cần chú trọng đến việc quản lý và kiểm soát các bệnh mạn tính (đặc biệt như tim mạch, tăng huyết áp, thoái khớp, tiểu đường, ung thư…) cùng với việc ứng dụng các kỹ thuật mới trong chẩn đoán và điều trị sớm, điều trị lâu dài các bệnh mạn tính; cần tạo ra môi trường sống thân thiện cho NCT. Đặc biệt, phải có một chương trình mục tiêu quốc gia toàn diện về chăm sóc NCT mà trong đó cần xác định một số mục tiêu lượng hoá được và có tính đặc trưng giới để cải thiện tình trạng sức khỏe NCT, giảm thiểu các bệnh mạn tính, tàn phế và tử vong khi bước vào tuổi già. Bên cạnh đó, xây dựng và củng cố mạng lưới chăm sóc dài hạn cho NCT, trong đó chăm sóc tại nhà và cộng đồng cần được chú trọng.
Thứ tư, tăng cường vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội, chính trị – xã hội – nghề nghiệp trong việc xây dựng, vận động và thực hiện chính sách cho già hóa dân số và NCT. Các hoạt động vận động gia đình, cộng đồng và toàn xã hội tham gia chăm sóc NCT cần được thúc đẩy và nhân rộng; cần kết hợp với các cơ quan chuyên môn trong nghiên cứu và đề xuất việc đa dạng hóa cách thức, mô hình tổ chức cuộc sống cho NCT như sống cùng con cháu, sống tại nhà dưỡng lão hoặc tại các cơ sở chăm sóc NCT tại cộng đồng… Tổ chức các hoạt động cộng đồng cho NCT một cách thường xuyên nhằm nâng cao hiểu biết và đóng góp ý kiến của NCT với các chính sách của nhà nước cũng như đời sống của cộng đồng.
Thứ năm, cần phải xây dựng được cơ sở dữ liệu có tính đại diện quốc gia và thực hiện các nghiên cứu toàn diện về dân số cao tuổi. Đây sẽ là những đầu vào quan trọng cho việc đề xuất các chính sách, chương trình can thiệp thiết thực, có trọng tâm và hiệu quả; cần khắc phục sự kết nối lỏng lẻo giữa nghiên cứu và chính sách vì đây là điểm yếu nhất khi bàn đến già hóa dân số và dân số cao tuổi ở Việt Nam và là một nguyên nhân khiến cho việc bàn luận các chính sách cho NCT vẫn còn hời hợt và hầu hết NCT được xem là gánh nặng cần phải giải quyết thay vì coi họ là những người có đóng góp lớn cho nền kinh tế và gia đình thông qua các hoạt động kinh tế và xã hội.
1. UNFPA (Quỹ Dân số Liên hợp quốc). 2011. “Già hóa dân số và NCT ở Việt Nam: Thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị chính sách”. Hà Nội: Quỹ Dân số LHQ.
2. Bộ Y tế và Nhóm đối tác y tế. 2018. “Báo cáo chung tổng quan ngành Y tế 2016: Hướng tới già hóa khỏe mạnh”. Hà Nội: Nhà xuất bản Y học.
3. Le Duc Dung and Giang Thanh Long. 2016. “Gender differences in prevalence and associated factors of multi-morbidity among older persons in Vietnam”, International Journal on Ageing in Developing Countries, 1(2): 113-132.
4. TW Hội LHPN Việt Nam. 2012. “Điều tra về NCT Việt Nam 2011: Những kết quả chủ yếu”. Hà Nội: NXB Phụ nữ.
5. Tổng cục Thống kê. 2016. “Dự báo dân số Việt Nam, giai đoạn 2014-2049”. Hà Nội: Tổng cục Thống kê.
6. WHO (Tổ chức Y tế Thế giới). 2015. “World Report on Ageing and Health 2015”. Geneva: WHO.
8. Ronald Lee, Andrew Mason và Daniel Cotlear. 2010. “Some Economic Consequences of Global Aging – A Discussion Note for the World Bank”. Washington D.C: World Bank.
9. Vụ BHXH, Bộ LĐ-TB&XH. 2017. “Tình hình thực hiện BHXH ở Việt Nam”. Báo cáo trong Hội thảo Bộ LĐ-TB&XH và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về tình hình bao phủ hệ thống BHXH ở Việt Nam, tháng 11/2017.
10. Bộ LĐ-TB&XH và UNDP. 2015. “Báo cáo hỗ trợ kỹ thuật cho Đề án đổi mới hệ thống trợ giúp xã hội”. Dự án Đổi mới hệ thống trợ giúp xã hội (SAP).
11. Giang Thanh Long. 2018. “Aging and Pension Reforms in Vietnam”. Bài giảng cho khóa học The Pension Electives Course tại Trung tâm Đào tạo Quốc tế của Tổ chức Lao động Quốc tế (ITCILO), ngày 20/9/2018 ở Turin, Ý.
Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Trạng Già Hóa Dân Số Ở Nhật Bản Và Những Ảnh Hưởng Đến Kinh Tế, Xã Hội trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!