Xu Hướng 4/2023 # Thực Hiện Đúng Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh, Góp Phần Bảo Vệ Nền Tảng Tư Tưởng Của Đảng Ta # Top 7 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 4/2023 # Thực Hiện Đúng Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh, Góp Phần Bảo Vệ Nền Tảng Tư Tưởng Của Đảng Ta # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Thực Hiện Đúng Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh, Góp Phần Bảo Vệ Nền Tảng Tư Tưởng Của Đảng Ta được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

CN. Lê Thị Thảo Ngọc

Viên chức Khoa Nhà nước và pháp luật

Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, một danh nhân văn hóa thế giới. Người đã sáng lập và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, từng bước giành độc lập, tự do. Sinh thời, Người rất coi trọng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Người gọi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng, là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng Cộng sản thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi cá nhân, vừa phát huy sức mạnh của tập thể phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng đã đề ra.

1. Nguyên tắc tập trung dân chủ theo Tư tưởng Hồ Chí Minh

Ngay từ khi thành lập Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, có vai trò trực tiếp chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng, tổ chức, sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng; quy định cơ cấu, hình thức tổ chức, thiết lập chế độ các cơ quan lãnh đạo, đồng thời xác lập nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ Đảng. Người khẳng định, Đảng phải là khối thống nhất ý chí và hành động: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”[1].

Trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc tập trung dân chủ chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung”[2]. Trong tổ chức và hoạt động cần phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách, bởi lẽ “một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”[3].

Tuy nhiên, khi đề cao quá mức tính dân chủ, tập thể trong lãnh đạo dễ dẫn đến tình trạng mất tập trung, loãng ý kiến; mỗi người đều đưa ra ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình không lắng nghe ý kiến của tập thể, đặt nặng lợi ích cá nhân hơn lợi ích tập thể, hoặc những ý kiến đưa ra không theo đúng định hướng hoạt động của tập thể. Chính vì vậy cần phải thực hiện tập trung, phải có người phụ trách. Người phụ trách phải là người có đủ năng lực, tinh thần trách nhiệm, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm. Cá nhân phụ trách nhằm tăng cường và phát huy trách nhiệm cá nhân nhưng phải đặt trong mối quan hệ với tập thể.

2. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trải qua hơn 90 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng ta luôn kiên định lựa chọn tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Đảng. Qua các kỳ Đại hội, căn cứ vào tình hình thực tiễn, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ không ngừng được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta đã thông qua Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó nêu rõ: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”

Cụ thể hơn, tại Điều 9 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã quy định:

“Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:

Một là, cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách (tuy cấp ủy cấp trên có quyền chỉ định nhưng không được quá 1/3 số lượng do Đại hội bầu).

Hai là, cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội Đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là Đại hội Đại biểu hoặc Đại hội Đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là Ban Chấp hành Đảng bộ, Chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).

Ba là, cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.

Bốn là, tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng; thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội Đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.

Năm là, nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội Đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.

Sáu là, tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên”.

3. Đề xuất giải pháp đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Để đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện hiệu quả, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:

Thứ nhất, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của đội ngũ đảng viên về nguyên tắc tập trung dân chủ. Bởi lẽ khi và chỉ khi hiểu đúng, hiểu đủ về nội hàm của nguyên tắc thì mới có thể thực hiện đúng, tránh được tình trạng không hiểu hoặc hiểu “nửa vời” dẫn đến những biến dạng trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ như dân chủ hình thức, trong cuộc họp không đưa ra ý kiến nhưng ra ngoài lại bàn tán không đồng tình; hay dân chủ cực đoan, quá dựa dẫm vào dân chủ mà thiếu tính tập trung, không khai thác được sức mạnh của tập thể,…

Thứ hai, tăng cường hiện thực hóa nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng thông qua các chủ trương, đường lối, nghị quyết, quyết định, chính sách, chương trình hành động,… Đưa tập trung dân chủ không còn là “những câu chữ trên giấy” hay “những lời phát biểu lý thuyết” mà thực sự trở thành nguyên tắc cốt lõi, xương sống trong tổ chức và hoạt động của Đảng ta trên thực tế.

Thứ ba, bản thân mỗi đảng viên cần phát huy hơn nữa tính gương mẫu, tiên phong, tự giác, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong hoạt động. Kiên quyết phản đối các hình thức dân chủ hình thức hoặc dân chủ cực đoan; nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình trên tinh thần phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau.

Thứ tư, các cấp ủy đảng tăng cường thực hiện công tác kiểm tra giám sát, nghiêm túc phê bình hoặc có các biện pháp xử lý kỷ luật hợp lý các đảng viên không tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ hoặc lợi dụng tập trung dân chủ vì mục đích không chính đáng.

Mỗi đảng viên là tế bào cấu thành nên tổ chức Đảng. Chính vì vậy, để góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng Đảng ta luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; “thực sự là đạo đức, là văn minh”, mỗi đảng viên phải thật sự hiểu đúng bản chất và nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; tuyệt đối trung thành với sự nghiệp của Đảng, học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn trong công tác tổ chức và hoạt động./.

[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr.553.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr.505.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr.504.

Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Bảo Vệ Nền Tảng Tư Tưởng Của Đảng

BHG – Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thực chất là bảo vệ Đảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

 

Để nâng cao nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết cần thường xuyên bám sát định hướng chỉ đạo, hướng dẫn trong các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị (khoá XII) đối với công tác đấu tranh phòng chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận; gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để xây dựng các chương trình, kế hoạch, giải pháp công tác cụ thể; đưa công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình”, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội đi vào nền nếp đạt hiệu quả cao.

Chủ động nắm tình hình, phát hiện sớm hoạt động chống phá của đối tượng để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Công tác nắm tình hình cần tập trung vào những vấn đề cụ thể như: Phát hiện các trang web, blog, “diễn đàn” thường xuyên đăng tải những nội dung xấu, thù địch; phát hiện âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động tuyên truyền chống phá của chúng trên không gian mạng, kịp thời nhận diện những phương thức, thủ đoạn mới; phát hiện cá nhân, tổ chức sở hữu, quản lý, điều hành các trang mạng xã hội thường xuyên đăng tải các bài viết, hình ảnh, video tuyên truyền phá chống phá cách mạng Việt Nam; phát hiện những bất cập, hạn chế của các biện pháp, công tác nghiệp vụ đã và đang được triển khai…

Phát huy tốt vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu, Ban Chỉ đạo 35, cơ quan chức năng các cấp, nhất là vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Tập trung lãnh đạo kiện toàn, xây dựng phát triển lực lượng đấu tranh theo hướng chủ động tạo thế liên hoàn, vững chắc, có bộ phận nòng cốt, chuyên sâu, tập hợp lực lượng rộng rãi; quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, nắm, dự báo, xử lý kịp thời những vấn đề tư tưởng nảy sinh. Trong tổ chức thực hiện, cần duy trì tốt các chuyên trang, chuyên mục chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở các cơ quan, đơn vị. Các cơ quan báo chí cần phát huy vai trò nòng cốt đấu tranh vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, góp phần định hướng dư luận xã hội.

Thường xuyên tổ chức các cuộc tọa đàm, trao đổi, rút  kinh nghiệm giữa các cơ quan chức năng, lực lượng nòng cốt chuyên sâu trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội. Với phương châm vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, cấp ủy, tổ chức đảng cơ quan, đơn vị cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức các cuộc tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, hội nghị rút kinh nghiệm theo hướng thiết thực, hiệu quả. Lực lượng đấu tranh nòng cốt chuyên sâu phải thường xuyên được trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ; được trang bị đầy đủ, vững chắc lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Tăng cường hoạt động quản lý, kiểm soát đối với các trang mạng xã hội và chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật, ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng “độc hại” một cách có hiệu quả. Chủ động phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ, tính toán sử dụng các giải pháp về công nghệ để ngăn chặn một cách triệt để các tin tức xấu độc trên các trang mạng. Đặc biệt, phải chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ để xâm nhập, chiếm quyền quản trị, điều hành các trang web, blog, diễn đàn mạng xã hội, sau đó xóa dữ liệu, vô hiệu hóa hoặc ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng có nội dung “độc hại” trong một thời gian nhất định. Kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ðảng. Siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Ðảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Ðảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những đơn thư nặc danh, mạo danh, hoặc thư có danh nhưng có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động.

Kinh nghiệm cho thấy, đấu tranh, phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, ngăn chặn hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, chống phá đường lối lãnh đạo của Đảng, chính  sách, pháp luật của Nhà nước bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là cuộc chiến đầy khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước ta, với những thành tựu đã đạt được trong công cuộc đổi mới và trong phòng chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch…

Nguồn (tuyengiao.vn)

Bảo Vệ Nền Tảng Tư Tưởng Của Đảng: Một Số Giải Pháp Căn Bản Trước Mắt

Dù chưa thật đủ đầy, thấu rõ về những thủ đoạn, phương thức của chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động luôn ngày đêm rắp tâm tìm mọi cách thực hiện đối với cách mạng nước ta; tuy nhiên, những sự nhận diện về các biểu hiện nêu trên phần nào giúp chúng ta đề xuất một số phương thức, hình thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay. Theo chúng tôi, hệ thống phương thức, hình thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng gồm các vấn đề sau:

Thứ nhất, sớm kiện toàn việc xây dựng lực lượng chuyên trách theo hướng tinh gọn, đủ mạnh theo tinh thần Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22.10.2018, của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

Đồng thời, phát huy cao nhất trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp, trước hết là người đứng đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch…

Lực lượng chuyên trách là những người chủ lực, đi đầu, tiên phong trong việc thực hiện nhất quán, đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, quan điểm cũng như các nhiệm vụ, giải pháp đã được nêu rõ trong Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị, với kế hoạch trước mắt, lâu dài, với lộ trình ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và những trường hợp đột xuất phù hợp với tình hình thực tiễn một cách linh động, khoa học, sát hợp.

Thứ hai, các cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ có trách nhiệm tăng cường công tác tuyên truyền nội dung của Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị, Kế hoạch 14-KH/TW của Ban Bí thư một cách thường xuyên, sáng tạo, khoa học, dễ nhớ, dễ hiểu, tránh khô cứng, sáo mòn khiến giáo điều, không dễ đi vào cuộc sống.

Cần tuyên truyền sâu rộng, thiết thực 4 nhiệm vụ thường xuyên tại Kế hoạch số 14-KH/TW đã được xác định rõ, đó là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tăng cường thông tin tích cực; Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới; Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức lý luận chính trị; Tăng cường quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm…

Thứ ba, ngày càng hoàn thiện thể chế chính sách, đặc biệt về hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế, công bằng xã hội… để tạo gốc rễ, nền tảng vững chắc góp phần đẩy mạnh công cuộc phát triển đất nước bền vững. Có như thế, mới không tạo ra những “kẽ hở”, “khoảng trống” để tạo cơ hội cho việc hình thành, phát sinh, duy trì những “nhóm lợi ích”, những quan tham, nhũng nhiễu, tiêu cực trong xã hội.

Như vậy, việc “phòng” sẽ tốt hơn, tránh phải “chống” rất khó khăn, phức tạp, đau đớn… Song song đó, cần duy trì những kết quả tích cực đã đạt được trong phát triển kinh tế – xã hội những năm qua, đặc biệt là năm 2018 và những tháng đầu năm 2019, tạo đà cho sự bứt phá tiếp theo, với kỳ vọng sẽ đạt được những thành tựu nổi bật hơn nữa, trong vấn đề giảm nợ công, đẩy nhanh, mạnh, vững bền tốc độ tăng trưởng GDP, nâng cao đời sống, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước…

Thứ tư, kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ Trung ương đến địa phương, tránh tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, gây tâm lý hoài nghi, bất an, thậm chí mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Có thể khẳng định rằng, việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, những mặt trái trong xã hội thời gian qua đạt được nhiều kết quả tích cực, lấy lại niềm tin của đông đảo quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Rõ ràng, đây là vấn đề hệ trọng, là mối quan tâm lớn của toàn Đảng, toàn dân nên không thể vội vàng, mắc sai lầm. Nhưng cũng vì thế mà không thể “chùng xuống”, không thể thiếu quyết liệt trong chỉ đạo, thực hiện, nhất là việc đẩy nhanh tiến độ xác minh, điều tra, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp…

Có như vậy, mới thấy rằng, cuộc đấu tranh này là không có “vùng cấm”, không loại trừ bất kỳ ai vi phạm pháp luật; qua đó tiếp tục củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, mới giúp cả nước đồng lòng, quyết tâm đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần đẩy mạnh công bằng xã hội, giúp đất nước phát triển tích cực, vững bền…

Thứ năm, xây dựng, thiết lập hệ thống các giải pháp tuyên truyền đồng bộ, sát hợp, hiệu quả trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên không gian mạng góp phần nhận diện, chủ động đấu tranh sớm, kịp thời, hiệu quả trước các hình thức, phương thức tấn công, phá hoại xấu xa của các thế lực thù địch.

Các cơ quan báo chí cần tổ chức thông tin cân bằng hơn, tăng cường thông tin về các mặt tích cực, tốt đẹp trong xã hội tránh tình trạng mất cân bằng thông tin, khiến các thế lực thù địch, phản động dựa vào đó vu khống rằng bộ mặt đất nước quá nhiều gam màu xám, thiếu những tươi mới, phấn khởi… Bên cạnh đó, các cơ quan báo chí cần tăng cường đáng kể thời lượng cho các chuyên mục đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng…

Bên cạnh đó, cần thiết phải hình thành, duy trì hoạt động hiệu quả các trang thông tin trên mạng xã hội, nhất là trên mạng xã hội Facebook được tổ chức khoa học, bài bản, với đội ngũ phụ trách chuyên nghiệp, có nghề nhằm kịp thời, chủ động nhận diện, đấu tranh bài bản, khoa học, xác đáng, thuyết phục, hiệu quả trước các âm mưu, thủ đoạn, hành động xấu xa của các thế lực thù địch, phản động, từ việc viết bài đăng trên các phương tiện truyền thông xã hội nhằm xuyên tạc Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta, bôi xấu các lãnh đạo cấp cao, nhằm gây chia rẽ nội bộ; đến những việc như kêu gọi tụ tập, kích động biểu tình, chống phá; gây hấn, lăng nhục, chửi bới vô cớ, phạm pháp… để khiêu khích chính quyền, lực lượng chức năng “trấn áp” và quay video clip, chụp ảnh, lives tream để vu oan cho chính quyền…

Thứ sáu, cần kịp thời phát hiện, nhận diện để đấu tranh, can thiệp, nghiêm trị những phần tử phá hoại núp dưới danh nghĩa “yêu nước”, “nhân quyền”, “công bằng” để kích động, tạo lập các mầm mống gây bạo loạn, lật đổ… trên tất cả các phương diện, hình thức khác nhau, từ không gian mạng, đến các vụ việc cụ thể trong đời sống.

Phải khu biệt, cô lập, xác định đúng đối tượng phản động, phá hoại, kích động, chủ mưu trong từng vụ việc, cũng như đã cố tình vi phạm cả thời gian dài một cách có hệ thống để đưa ra xét xử trước pháp luật những phần tử chống phá, những kẻ nhân danh “lòng yêu nước”, “vì dân chủ”, “vì công bằng”, nhất là hai tổ chức phản động ở nước ngoài đã được Bộ Công an Việt Nam đưa vào danh sách các tổ chức khủng bố là Việt Tân và “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”…

Rõ ràng, chỉ có bị nghiêm trị trước pháp luật, các phần tử, những kẻ cố tình chống phá cách mạng nước ta mới giác ngộ, nhụt chí, từ bỏ sự phá hoại điên cuồng, ngu muội, cùng đường, vô lối…

Sự nghiêm trị của pháp luật cũng góp phần cảnh tỉnh, răn đe các đối tượng bất mãn, thiếu hiểu biết, tham lam mù quáng… không bước chân vào con đường tội lỗi, góp phần tàn phá chính đất nước, đồng bào mình.

Giáo Dục, Rèn Luyện Đội Ngũ Đảng Viên Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Là ngư­ời sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc giáo dục, rèn luyện, nâng cao chất l­ượng đội ngũ đảng viên. Trong tình hình hiện nay như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã nêu: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”, thì yêu cầu giáo dục, rèn luyện, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên càng trở nên cấp thiết.

 

Về mục đích, giáo dục, rèn luyện đảng viên nhằm nâng cao giác ngộ cách mạng, nhận thức sâu sắc lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, đ­ường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ, hình thành thế giới quan, niềm tin cộng sản, nâng cao ý chí chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu, lý t­ưởng của Đảng cho đội ngũ đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Vì sao phải học tập đ­ường lối của Đảng? Vì có nắm vững đư­ờng lối cách mạng mới thấy rõ phư­ơng h­ướng tiến lên của cách mạng, mới hiểu rõ mình phải làm gì và đi theo phư­ơng hư­ớng nào để thực hiện mục đích của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay”[1]. Tính nhất quán trong mục đích giáo dục, rèn luyện đảng viên thể hiện ở chỗ: vừa xây dựng ý chí quyết tâm cho đảng viên, vừa giúp đảng viên biến quyết tâm thành hành động trên thực tế, nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tiễn. Kết quả hoàn thành nhiệm vụ của mỗi đảng viên là thư­ớc đo trình độ giác ngộ cách mạng, phẩm chất chính trị và năng lực công tác của họ, đồng thời là tiêu chí cơ bản để đánh giá kết quả giáo dục, rèn luyện đảng viên.

Về nội dung, giáo dục, rèn luyện đảng viên tr­ước hết là bồi d­ưỡng chính trị, tư tư­ởng, quan điểm lập trường, bản lĩnh chính trị của ngư­ời đảng viên cộng sản trên cơ sở tăng cư­ờng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, đư­ờng lối, chủ tr­ương, chính sách của Đảng và Nhà n­ước: “Mọi đảng viên đều phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin củng cố lập trư­ờng giai cấp vô sản, cố gắng nắm vững những quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam; phải luôn luôn nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, bồi dưỡng chủ nghĩa tập thể của giai cấp vô sản, cần kiệm xây dựng n­ước nhà, liên hệ chặt chẽ với quần chúng lao động, một lòng, một dạ phấn đấu vì lợi ích tối cao của cách mạng và Tổ quốc”[2].  

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thư­ờng xuyên chăm lo bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, bởi vì: “Ngư­ời cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo đư­ợc nhân dân”[3]. Cùng với việc chăm lo bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, Ngư­ời rất quan tâm bồi dưỡng rèn luyện, nâng cao năng lực công tác cho đội ngũ đảng viên. Đội ngũ đảng viên phải vừa “hồng” vừa “chuyên” mới hoàn thành đ­ược nhiệm vụ của mình tr­ước Đảng, trư­ớc nhân dân. Ngư­ời nhấn mạnh: “Tất cả cán bộ, đảng viên của Đảng phải vì Đảng, vì dân mà hăng hái phấn đấu. Phải chịu khó học tập chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật để nâng cao năng lực, làm cho kinh tế phát triển, chiến đấu thắng lợi, đời sống của nhân dân ngày càng no ấm, tư­ơi vui”[4].

Về phư­ơng châm, giáo dục và rèn luyện đảng viên cần tuân theo các vấn đề có tính nguyên tắc như­: lý luận gắn liền với thực tiễn; học đi đôi với hành; nâng cao kiến thức gắn liền với củng cố, phát triển bản lĩnh, quyết tâm. Đồng thời, cần quán triệt sâu sắc phư­ơng châm kết hợp giữa xây và chống trong giáo dục, rèn luyện đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trong mỗi con người hay một tập thể đều tồn tại cả mặt tốt và xấu, cái thiện và cái ác, tính lành và tính dữ. Vì vậy, phải dựa chắc vào những mặt tốt, những nhân tố tích cực để từng bước đấu tranh, khắc phục những mặt ch­ưa tốt trong mỗi tổ chức, mỗi con người: “Mỗi con ngư­ời đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con ng­ười nảy nở như­ hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của ngư­ời cách mạng. Đối với những ng­ười có thói hư­ tật xấu, trừ hạng ngư­ời phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ, bằng cách làm cho cái phần thiện trong con ngư­ời nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”[5]. Giáo dục, rèn luyện đảng viên phải đi đôi với kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, bởi chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, là nguồn gốc, nguyên nhân sinh ra quan liêu, cửa quyền công thần, kiêu ngạo, tham ô, lãng phí và bao điều xấu xa khác.    

Về ph­ương pháp, cần phải sử dụng tổng hợp các cách thức, biện pháp  khoa học và hiệu quả trong giáo dục, rèn luyện đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phư­ơng pháp giáo dục thì theo nguyên tắc tự nguyện tự giác, giải thích, bàn bạc, thuyết phục, chứ không gò bó”[6]. Ng­ười rất chú trọng phư­ơng pháp nêu gư­ơng điển hình tiên tiến, bởi “một tấm gư­ơng sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”[7]. Ng­ười luôn yêu cầu các cơ quan, đoàn thể phải làm tốt công tác tuyên truyền gư­ơng ngư­ời tốt, việc tốt. Theo Người, “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”[8]. Tích cực tự phê bình và phê bình trong Đảng, th­ường xuyên xây dựng và chỉnh đốn Đảng cũng là một trong những biện pháp quan trọng để giáo dục, rèn luyện đảng viên, xây dựng đội ngũ đảng viên đủ “đức” và “tài” đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng.

Về lực l­ượng giáo dục, rèn luyện đảng viên, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải phát huy tốt vai trò hệ thống tổ chức, đề cao trách nhiệm các cấp ủy, chi bộ. Ngư­ời nhắc nhở: “Các cấp ủy phải quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục đảng viên. Từ nay trở đi công tác giáo dục đảng viên phải là một điều quan trọng trong chư­ơng trình công tác của cấp ủy”[9]. Mọi đảng viên ở bất cứ c­ương vị nào đều nằm trong một tổ chức nhất định, đều phải chịu sự quản lý, giáo dục của cấp ủy, chi bộ nơi đảng viên đó sinh hoạt. Với t­ư cách là chủ thể, các cấp ủy, chi bộ phải chủ động trong việc đề ra kế hoạch, nội dung, ch­ương trình giáo dục, rèn luyện đảng viên; có các hình thức, biện pháp giáo dục, quản lý chặt chẽ, toàn diện đội ngũ đảng viên, chú trọng các mối quan hệ xã hội và điều kiện thực tế nơi đảng viên công tác, chiến đấu, lao động và học tập. Mặt khác, đảng viên đồng thời là chủ thể tham gia xây dựng củng cố tổ chức đảng, cho nên phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi đảng viên trong rèn luyện, phấn đấu. Cuộc đấu tranh khắc phục những mặt xấu, xây dựng những mặt tốt của mỗi cán bộ, đảng viên không tách rời sự giáo dục của Đảng, của tổ chức, của đoàn thể, nh­ưng trực tiếp quyết định vẫn là nhân tố chủ quan của từng con ngư­ời cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Phải tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà ng­ười cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho đư­ợc”[10]. Do đó, mọi cán bộ, đảng viên phải tích cực, chủ động, nghiêm khắc đối với chính mình, nhận thức rõ những điểm hạn chế bất cập để tự học tập, rèn luyện, tu d­ưỡng và phấn đấu v­ươn lên.            

Quán triệt, vận dụng tư­ tư­ởng Hồ Chí Minh về giáo dục, rèn luyện đảng viên trong giai đoạn hiện nay, trước hết, các cấp ủy, chi bộ phải nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên, trên cơ sở đó tăng c­ường sự lãnh đạo, chỉ đạo, thư­ờng xuyên chú trọng đổi mới nội dung, hình thức, ph­ương pháp giáo dục, rèn luyện đảng viên. Cần nâng cao chất lư­ợng sinh hoạt chi bộ, đ­ể các chế độ sinh hoạt Đảng vào nền nếp được quản lý chặt chẽ, toàn diện đội ngũ đảng viên. Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, rèn luyện đảng viên với quản lý, bồi dư­ỡng cán bộ, đảng viên. Việc cụ thể hoá tiêu chuẩn đảng viên cần gắn chặt với tiêu chuẩn cán bộ; phối hợp chặt chẽ trên tất cả các khâu, các bư­ớc của công tác đảng viên với công tác cán bộ từ xây dựng kế hoạch, nội dung và biện pháp đến việc tổ chức triển khai thực hiện trên thực tế. Ba là, phát huy tính tích cực chủ động của đội ngũ đảng viên trong tự học, tự rèn luyện. Các cấp ủy, chi bộ phải th­ường xuyên quán triệt, bồi dư­ỡng nâng cao nhận thức, bồi dư­ỡng động cơ phấn đấu, đồng thời phải quan tâm giúp đỡ, động viên đảng viên tự rèn luyện, tạo điều kiện để mỗi ngư­ời xây dựng kế hoạch tự phấn đấu vươn lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cần thực hiện đúng quan điểm của Đảng: “Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân”[11].

 

Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Hiện Đúng Nguyên Tắc Tập Trung Dân Chủ Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh, Góp Phần Bảo Vệ Nền Tảng Tư Tưởng Của Đảng Ta trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!