Xu Hướng 10/2023 # Thực Hiện Đồng Bộ Các Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Bậc Trung Học # Top 17 Xem Nhiều | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Thực Hiện Đồng Bộ Các Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Bậc Trung Học # Top 17 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Thực Hiện Đồng Bộ Các Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Bậc Trung Học được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục bậc trung học

Toàn tỉnh hiện có 159.774 học sinh đang học ở 230 trường THCS và 57 trường THPT. Trong những năm học vừa qua, chất lượng giáo dục toàn diện, chất lượng thi học sinh giỏi quốc gia, tốt nghiệp và đỗ vào các trường đại học, cao đẳng của tỉnh luôn đứng trong tốp dẫn đầu toàn quốc. Đó là kết quả của quá trình kiên trì đổi mới, sáng tạo, thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục bậc trung học.

Thầy và trò Trường THPT Tống Văn Trân (Ý Yên) trong một giờ học.

Cùng với công tác chỉ đạo, tổ chức và quản lý hoạt động chuyên môn, công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và chuẩn bị đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới được quan tâm. Sở GD và ĐT đã tổ chức nhiều đợt tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho hàng nghìn lượt cán bộ quản lý và giáo viên cốt cán các trường THCS, THPT. Công tác xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia, trường đạt chuẩn xanh – sạch – đẹp – an toàn cũng được toàn ngành GD và ĐT tích cực quan tâm nhằm phục vụ công tác dạy và học của các nhà trường. Đến nay, số trường THCS đạt chuẩn quốc gia toàn tỉnh là 215/230 trường (đạt 93,47%); số trường THPT đạt chuẩn là 39/57 trường (68,4%). 

Với việc tích cực thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, bậc trung học của tỉnh đã đạt được nhiều kết quả nổi bật: Chất lượng giáo dục đại trà và mũi nhọn được duy trì ổn định và có những chuyển biến tích cực, đặc biệt kết quả thi THPT quốc gia, học sinh giỏi quốc gia, quốc tế nhiều năm đã khẳng định được vị thế, tính bền vững của giáo dục Nam Định. Năm học 2023-2023, tỷ lệ học sinh có hạnh kiểm tốt đều đạt trên 85% ở cả 2 cấp học. Ở khối THCS, tỷ lệ học sinh đạt học lực giỏi là 26%, khá 44%; khối THPT tỷ lệ học sinh học lực giỏi là 27%, khá 57%. Thi vào lớp 10 THPT, toàn tỉnh có 93,3% thí sinh dự thi đạt từ điểm sàn 14,00 điểm trở lên, trong đó huyện Trực Ninh có tỷ lệ học sinh đạt điểm sàn cao nhất; thành phố Nam Định có tỷ lệ học sinh đỗ vào Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong cao nhất. Thi THPT quốc gia năm 2023, tỉnh ta dẫn đầu toàn quốc về điểm trung bình; tỷ lệ tốt nghiệp THPT cao nhất toàn quốc với tỷ lệ 99,53%. Kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia năm 2023, có 88 học sinh tham dự ở 11 môn, giành 75 giải; trong đó: 1 giải Nhất, 26 giải Nhì, 26 giải Ba, 22 giải Khuyến khích; 8 học sinh được chọn tham dự thi vòng 2 chọn đội tuyển quốc gia thi quốc tế, trong đó học sinh Đặng Nhật Minh tham dự thi Olympic Vật lý châu Âu; học sinh Trần Quốc Việt giành Huy chương Bạc Olympic Tin học châu Á Thái Bình Dương (APIO 2023); đặc biệt học sinh Phạm Thanh Lâm giành Huy chương Bạc Olympic Hóa học Quốc tế tại Pa-ri. Năm học 2023-2023, trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, tỉnh ta có 78/93 học sinh dự thi đoạt giải; trong đó có 4 giải Nhất ở các môn: Toán, Vật lý, Hóa học, Ngữ Văn, 22 giải Nhì, 27 giải Ba, 25 giải Khuyến khích; em Đàm Thị Minh Trang lớp 12 chuyên Hóa 2 năm liền đoạt giải Nhất môn Hóa học. Có 12 học sinh (môn Toán, Hóa học, Vật lý và Tin học) được tham dự chọn đội tuyển dự thi Olympic quốc tế./.

Bài và ảnh: Minh Thuận

Thực Hiện Đồng Bộ Nhiều Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục

Những năm qua, để nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục và đào tạo (GD&ĐT), thành phố (TP) Sầm Sơn đã tập trung chỉ đạo tăng cường các nguồn lực đầu tư phát triển sự nghiệp GD&ĐT; chỉ đạo các nhà trường thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, việc kiểm tra, đánh giá chất lượng học sinh (HS); đổi mới hoạt động chuyên môn theo hướng thiết thực, hiệu quả; chủ động ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy…

Do vậy, chất lượng giáo dục tiếp tục được duy trì. Kết thúc năm học 2023-2023, TP Sầm Sơn xếp thứ 13 toàn tỉnh về thi HS giỏi các môn văn hóa lớp 9, với tổng số 38 giải; tỷ lệ HS thi đỗ vào lớp 10 THPT đạt 84,4%, trong đó có hàng chục em thi đỗ vào lớp 10 một số trường chuyên. Tiêu biểu như Trường THCS Nguyễn Hồng Lễ có 22 em thi đỗ vào Trường THPT Chuyên Lam Sơn.

Để đạt được những kết quả trên, một trong những giải pháp được TP tập trung chỉ đạo thực hiện đó là cùng với sự quan tâm đầu tư của tỉnh, TP đã huy động các nguồn lực ưu tiên đầu tư xây dựng, nâng cấp các phòng học, phòng chức năng đạt chuẩn cho các nhà trường, đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập của HS. Đặc biệt, HĐND TP đã ban hành chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng trường chuẩn quốc gia giai đoạn 2023-2023. Với việc thực hiện chính sách này, đến nay ngân sách TP đã đầu tư trên 14,3 tỷ đồng xây dựng được một số trường học, nhà hiệu bộ, phòng giáo dục thể chất, tiêu biểu như: Trường Mầm non Quảng Châu, Trường Tiểu học Quảng Cư, đặc biệt là Trường Tiểu học Bắc Sơn và THCS Bắc Sơn xây dựng nhà vệ sinh đạt chuẩn với tổng nguồn vốn gần 2 tỷ đồng (mỗi trường gần 1 tỷ đồng)… Ngoài ra, để tăng cường nguồn lực cho sự nghiệp GD&ĐT, TP đã đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục. Trên cơ sở thực tế của địa phương, các nhà trường đã chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền đẩy mạnh tuyên truyền về công tác xã hội hóa giáo dục, nhằm huy động sự tham gia của xã hội đối với sự nghiệp GD&ĐT và đã cải tạo, sửa chữa, bổ sung trang thiết bị dạy học, xây mới được một số trường học, nâng tổng số trường đạt chuẩn quốc gia lên 26/42 trường, đạt tỷ lệ 65%.

Cùng với đầu tư cơ sở vật chất, để nâng cao toàn diện chất lượng GD&ĐT, TP chỉ đạo phòng GD&ĐT xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, giáo viên. Đến nay, 100% cán bộ quản lý, giáo viên đạt trình độ chuẩn, trong đó trên 88% giáo viên mầm non đạt trên chuẩn; gần 93% giáo viên tiểu học đạt trên chuẩn; gần 85% giáo viên THCS đạt trên chuẩn và 24,3% giáo viên THPT đạt trên chuẩn. Cùng với đó, các nhà trường còn tổ chức thực hiện nghiêm túc việc đánh giá xếp loại đội ngũ cán bộ quản lý trong từng năm gắn với chất lượng giáo dục của từng nhà trường và việc thực hiện quy chế chuyên môn, quy chế dân chủ, kỷ cương, nền nếp; tập trung đổi mới phương pháp giảng dạy; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác giảng dạy; không ngừng đổi mới sinh hoạt tổ, khối chuyên môn theo hướng thiết thực, hiệu quả; thường xuyên tổ chức hội thảo, hội thi, giao lưu đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy; tăng cường công tác thanh, kiểm tra, đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục tại các cơ sở giáo dục; duy trì việc phụ đạo cho HS có học lực yếu, kém… Đặc biệt, thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ trên địa bàn tỉnh đến năm 2025”, các nhà trường đã tăng cường bồi dưỡng phương pháp giảng dạy và nâng cao năng lực ngoại ngữ cho đội ngũ giáo viên tiếng Anh. Đến nay, bậc tiểu học đã có 100% giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn; 86,5% giáo viên bậc THCS đạt trình độ B2.

Nhìn chung, với việc triển khai và thực hiện đồng bộ các giải pháp, chất lượng dạy và học tại các nhà trường không ngừng được nâng lên. Theo cô giáo Lê Thị Nguyệt, Hiệu trưởng Trường THCS Quảng Thọ, để nâng cao chất lượng giáo dục, nhà trường thường xuyên phát động cán bộ, giáo viên hăng hái đi đầu trong thực hiện các phong trào thi đua, tích cực nghiên cứu, có sáng kiến kinh nghiệm để áp dụng vào quá trình giảng dạy; chú trọng nâng cao chất lượng và hiệu quả sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn; tăng cường các hoạt động dự giờ, rút kinh nghiệm để hoàn thiện từng bước cấu trúc nội dung, kế hoạch dạy học các môn học, hoạt động giáo dục; đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất học sinh… Nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp trên, chất lượng dạy và học liên tục có bứt phá, nhà trường luôn nằm trong top đầu của TP. Kết thúc năm học 2023-2023, trên 9,1% HS xếp loại học lực giỏi, gần 43% HS xếp loại học lực khá. Cũng trong năm học này nhà trường đạt 47 giải các môn văn hóa cấp TP; 3 giải các môn văn hóa cấp tỉnh; 95% thi đỗ vào các trường THPT công lập. Những năm gần đây, bình quân mỗi năm nhà trường có từ 1 – 2 em thi đỗ vào lớp 10 Trường THPT Chuyên Lam Sơn (chỉ đứng sau Trường THCS Nguyễn Hồng Lễ).

Để không ngừng nâng cao chất lượng GD&ĐT, thời gian tới UBND TP Sầm Sơn tiếp tục chỉ đạo ngành GD&ĐT tập trung rà soát, sắp xếp mạng lưới trường lớp phù hợp với yêu cầu thực tế; sắp xếp, tuyển dụng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý theo chuẩn bảo đảm chất lượng, hiệu quả công việc, khắc phục tình trạng thừa, thiếu giáo viên; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhất là về phương pháp giảng dạy, cách thức sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn và công tác đánh giá, xếp loại HS; chú trọng chất lượng dạy và học ngoại ngữ; thực hiện tốt công tác hướng nghiệp và định hướng phân luồng trong giáo dục phổ thông; đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục và tiến độ xây dựng các trường chuẩn quốc gia.

Bài và ảnh: Duy Sơn

Nâng Cao Chất Lượng Hoạt Động Giáo Dục Toàn Diện Bậc Trung Học

GD&TĐ – Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lí tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời là mục tiêu của đổi mới chương trình (giáo dục phổ thông) GDPT mới. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu này, cần phải nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện.

Hiểu đúng về hoạt động giáo dục toàn diện

Theo qui định của chương trình GDPT hiện hành, hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trong giờ lên lớp, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp nhằm giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động sáng tạo, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động. Trong đó:

Hoạt động trong giờ lên lớp bao gồm hoạt động dạy của giáo viên (GV) và hoạt động học của HS, nhằm tạo dựng hệ thống tri thức khoa học và qua đó hình thành nhân cách (phẩm chất và năng lực) cho HS.

Hoạt động ngoài giờ lên lớp (HĐNGLL) được hiểu là quá trình kết hợp có mục đích vai trò chủ đạo của GV với hoạt động của học sinh nhằm hình thành ý thức, tình cảm, hành vi thói quen đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Qua nhiều con đường, đặc biệt con đường dạy học và HĐNGLL, giáo dục hướng tới sự hình thành và phát triển nhân cách tốt đẹp cho HS.

Tuy nhiên, với quan điểm hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trong giờ lên lớp và HĐNGLL như hiện nay đã bộc lộ một số hạn chế như: chương trình giáo dục vẫn tập trung nhiều vào các môn học trên lớp, chưa chú ý đúng mức các hoạt động giáo dục mang tính trải nghiệm, rèn luyện đạo đức và kĩ năng; về phương pháp giảng dạy lại quá thiên về truyền đạt kiến thức lí thuyết, hàn lâm mà ít chú trọng đến gắn việc học của HS với giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra; một bộ phận CBQL,

GV coi giáo dục toàn diện là phải giáo dục trên tất cả các lĩnh vực, được thể hiện ở các môn học, trong đó chủ yếu bố trí thời gian học ở trên lớp, còn các hoạt động khác có thể nhiều hoặc ít, có khi không có tuỳ theo tình hình thời gian và tài chính; năng lực tự học và tự giáo dục của HS chưa chú trọng đúng mức, trong khi yêu cầu của mục tiêu Chương trình GDPT mới, năng lực tự chủ và tự học là năng lực quan trọng nhất trong 10 năng lực cần hình thành ở HS, đồng thời hoạt động tự học và tự giáo dục của HS chính là con đường phát triển nhân cách bền vững nhất của con người.

Sơ đồ hoạt động giáo dục toàn diện học sinh

Với những lí do trên, trong Chương trình GDPT mới, hoạt động trải nghiệm (cấp tiểu học) và hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp (cấp THCS, THPT) sẽ thay thế cho HĐNGLL.

Hoạt động trải nghiệm là các hoạt động giáo dục bắt buộc, trong đó HS dựa trên sự huy động tổng hợp kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực khác nhau để trải nghiệm đời sống học đường, gia đình, xã hội, tham gia hoạt động hướng nghiệp và hoạt động phục vụ cộng đồng dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó hình thành những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và một số năng lực thuộc đặc thù hoạt động này như năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động, năng lực định hướng nghề nghiệp, năng lực thích ứng với những biến động trong cuộc sống và các kĩ năng sống khác.

Nội dung cơ bản hoạt động trải nghiệm xoay quanh các mối quan hệ giữa cá nhân HS với bản thân, giữa HS với người khác, với cộng đồng và xã hội, giữa HS với môi trường và giữa HS với nghề nghiệp.

Như vậy, hoạt động giáo dục toàn diện là những hoạt động nhằm tác động lên sự hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực, phát triển hài hòa đức, trí, thể, mĩ và phát huy cao nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của HS, chúng bao gồm các hoạt động như: hoạt động dạy học của giáo viên, hoạt động trải nghiệm của HS và hoạt động tự học, tự giáo dục của HS.

Trong đó, theo chúng tôi Nguyễn Cảnh Toàn, tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ, (so sánh, quan sát, phân tích, tổng hợp,…) và có khi cả cơ bắp (khi phải dùng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, cả động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó,…) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình.

Còn tự giáo dục là hoạt động có mục đích, có ý thức của cá nhân hướng vào việc xây dựng, hoàn thiện những phẩm chất nhân cách của mình theo đúng chuẩn mực xã hội. Vì vậy, tự giáo dục có cơ sở là tự đánh giá, hay nói cách khác trình độ phát triển của tự đánh giá là điều kiện quan trọng của tự giáo dục.

Lão Tử (Trung Quốc) cho rằng: “Người thầy tốt nhất là chính mình”. Nghị quyết số 29-NQ/TW đã khẳng định: “Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo điều kiện để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực”. Đồng thời, với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang diễn ra, đòi hỏi sự đóng góp của mọi giới năng động hơn, tự lập, tự do, tự học, tự nghiên cứu, tự tiến bộ, tự động viên, nhất là óc sáng tạo.

Với quan điểm trên, hoạt động giáo dục toàn diện gồm 3 hoạt động thành phần đó là: hoạt động dạy học của GV (hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò), hoạt động trải nghiệm của HS (tổ chức, hướng dẫn, trọng tài của thầy và chủ thể tham gia của trò), hoạt động tự học, tự giáo dục (tổ chức hoạt động tự học cho HS của thầy và tự học, tự giáo dục của cá nhân hoặc nhóm HS). Sản phẩm của 3 hoạt động này chính là các phẩm chất và năng lực của HS được hình thành và phát triển.

Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện

Chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện của một nhà trường chính là chất lượng dạy học của GV, chất lượng hoạt động trải nghiệm của HS và chất lượng hoạt động tự học, tự giáo dục của HS. Vì vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện là nâng cao chất lượng của 3 hoạt động nói trên và một số CBQL trường học cho rằng, đây chính là thế “kiềng 3 chân” đảm bảo cho một nhà trường phát triển có chất lượng và bền vững.

Để nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện, chúng tôi đề xuất một số giải pháp sau: Thứ nhất, nâng cao nhận thức, hiểu biết về phát triển toàn diện và hoạt động giáo dục toàn diện theo tinh thần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục cho cán bộ quản lí (CBQL), GV, HS và phụ huynh HS. Giải pháp này sẽ từng bước khắc phục tình trạng “mục tiêu phát triển toàn diện chưa hiểu và thực hiện đúng;

Thứ hai, bồi dưỡng nâng cao năng lực tổ chức hoạt động giáo dục toàn diện cho CBQL và giáo viên. Đối với CBQL, đó là năng lực xây dựng kế hoạch, năng lực huy động các nguồn lực để tổ chức tốt các hoạt động giáo dục toàn diện, còn đối với GV, đó là năng lực vận dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát triển năng lực HS, năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm và năng lực hướng dẫn HS tự học;

Thứ tư, giải pháp đầu tư, quản lí và khai thác cơ sở vật chất – kĩ thuật trường học, thiết bị trường học phục vụ cho hoạt động giáo dục toàn diện. Cơ sở vật chất – kĩ thuật trường học được hiểu là những cơ sở vật chất – thiết bị do nhà trường quản lí, sử dụng và cơ sở vật chất – kĩ thuật xã hội như sân vận động, nhà bảo tàng, di tích lịch sử, nghĩa trang liệt sĩ,… mà nhà trường có thể mượn hoặc thuê để phục vụ cho hoạt động giáo dục;

Thứ năm, giải pháp phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục toàn diện. Trong bối cảnh giáo dục theo hướng xã hội hóa thì sự phối hợp này rất quan trọng.

Năm giải pháp trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, giải pháp nâng cao nhận thức về phát triển toàn diện và hoạt động giáo dục toàn diện cho CBQL, GV, HS và phụ huynh là quan trọng nhất và nền tảng cho các giải pháp khác; giải pháp đổi mới đánh giá hoạt động giáo dục toàn diện gắn kết với giải pháp nâng cao năng lực hoạt động giáo dục toàn diện cho CBQL, GV; giải pháp đầu tư, khai thác cơ sở vật chất hiệu quả và phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội là những giải pháp đảm bảo điều kiện để hoạt động giáo dục toàn diện có chất lượng.

Nâng Cao Chất Lượng Bậc Giáo Dục Mầm Non

Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nền tảng của ngành giáo dục đào tạo. Chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở bậc học này có tác dụng to lớn ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục ở các bậc tiếp theo.

Giáo dục mầm non có mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng nhằm giáo dục toàn diện cho trẻ về thể chất, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ là cơ sở để hình thành nên nhân cách của con người và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ bước vào trường tiểu học được tốt.

Giáo dục mầm non có nhiệm vụ giáo dục trẻ có được những thói quen học tập sinh hoạt hàng ngày. Muốn thực hiện được điều đó thì phải thực hiện toàn diện về mọi mặt. Giáo viên phải nhận thức đúng về nhiệm vụ, mục tiêu, yêu cầu của ngành sư phạm mầm non.

Năm học 2014 -2023 là năm học toàn ngành tiếp tục thực hiện cuộc vận động hai không của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo . Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục, không vi phạm đạo đức nhà giáo và học sinh không ngồi nhầm lớp. Và thực hiện cuộc vận động học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tiếp tục thực hiện tốt việc chỉ đạo, nâng cao chất lượng giáo dục là nội dung hàng đầu.

Thành lập tổ chuyên môn: tổ chuyên môn là lực lượng nòng cốt, vì vậy cần chọn những thầy cô có khả năng sư phạm mầm non cao, có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín với đồng nghiệp để chỉ đạo phân công điều hành.

Quán triệt, chỉ đạo tích cực việc học thật – dạy thật – kết quả thật: Mỗi giáo viên cần nghiêm túc thực hiện kế hoạch giáo dục trẻ, tổ chức đầy đủ các hoạt động trong ngày như hoạt động chung, hoạt động góc, họa động ngoài trời, hoạt động chiều, soạn giáo án đầy đủ, đúng nội dung, yêu cầu kiến thức, kỹ năng phát triển ngôn ngữ, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ cho trẻ. Biết lựa chọn, vận dụng phương pháp giáo dục tích cực tạo tình huống, cơ hội nhằm phát huy trí tuệ, tính sáo tạo của trẻ.

Học thật giúp trẻ tích cực, hứng thú, tự nguyện tham gia vào các hoạt động giáo dục trẻ tạo ra sản phẩm, tìm tòi khám phá, giáo viên không làm thay, vẽ thay, cho trẻ. Giáo viên hình thành và rèn luyện để cho trẻ có thao tác đúng, thuần thục một số thói quen về nề nếp học tập.

Giáo viên luôn dõi theo sự phát triển, nhận thức của trẻ trên các lĩnh vực phát triển nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm, thẩm mỹ và phát triển thể lực. Đánh giá kết quả của trẻ đúng thực chất, khách quan, công bằng, tôn trọng trẻ.

Phối kết hợp với gia đình, cộng đồng để giáo dục trẻ: nhà trường cấm tuyên truyền cho phụ huynh nắm được một số kiến thức giáo dục, rèn luyện cho trẻ thói quen, hành vi văn hóa trong giao tiếp, biết yêu thương quý trọng cô giáo, bố mẹ, người lớn.

Giáo dục mầm non là nền tảng đầu tiên, chất lượng giáo dục trẻ ở bậc này có tốt thì đến khi lên bậc giáo dục tiểu học mới tốt. Muốn đạt được điều đó thì nhà trường phải có những biện pháp phù hợp trong quá trình giảng dạy.

Lạng Sơn Triển Khai Đồng Bộ Các Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Toàn Diện

Trong năm học 2023 – 2023, ngành GDĐT tỉnh Lạng Sơn đã triển khai sâu rộng các cuộc vận động và các phong trào thi đua; qua đó, đã góp phần nâng cao nhận thức tư tưởng chính trị trong đội ngũ nhà giáo; vai trò của từng trường, từng cán bộ quản lý giáo dục, từng giáo viên, nhân viên được khẳng định và phát huy, tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự phát triển chung của giáo dục Lạng Sơn, tạo được niềm tin đối với chính quyền địa phương, cha mẹ học sinh và của cộng đồng đối với Ngành.

Toàn Ngành đã đổi mới mạnh mẽ theo yêu cầu của Nghị quyết 29-NQ/TW, việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh và phương pháp dạy học đã được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự học và vận dụng kiến thức, kĩ năng của học sinh. Công tác giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh đã được các trường đặc biệt quan tâm. Chất lượng giáo dục được giữ vững, phong trào học sinh giỏi tiếp tục được duy trì và đạt kết quả.

Các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục trong toàn tỉnh được đẩy mạnh và có kết quả; công bằng xã hội trong giáo dục được bảo đảm tốt hơn, đặc biệt là các chính sách cho học sinh và giáo viên vùng khó khăn, vùng biên giới; đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục chuẩn mực và không ngừng học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Từng bước điều chỉnh, sắp xếp tổ chức bộ máy, nhân sự theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả.

Quan tâm rà soát, sắp xếp lại mạng lưới các cơ sở giáo dục. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học tiếp tục được bổ sung, cải thiện; ngân sách cho GDĐT đã được ưu tiên phân bổ phù hợp. Trường Mầm non, phổ thông đạt chuẩn Quốc gia tiếp tục được xây dựng theo lộ trình. Các nguồn lực đầu tư cho giáo dục được quản lý và triển khai hiệu quả; Chú trọng phân cấp và giao quyền tự chủ, tăng cường quản lý chất lượng và hiệu quả giáo dục. Tăng cường công tác quản lý nhà nước; công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh.

Tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập Mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục THCS, xóa mù chữ. Củng cố và phát triển các Trung tâm GDNN-GDTX, Trung tâm học tập cộng đồng, tạo môi trường thuận lợi cho người lao động tiếp tục tham gia học tập nâng cao trình độ. Việc ứng dụng công nghệ thông tin được đẩy mạnh. Các chương trình, các phần mềm phục vụ cho công tác quản lý giáo dục, dạy học được sử dụng ngày càng rộng rãi, có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng GDĐT.

Về chất lượng giáo dục các cấp: Toàn tỉnh Lạng Sơn hiện duy trì 698 đơn vị trường học. Tổng số trẻ/học sinh/sinh viên 196.253. Tổng số cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên toàn ngành 20.526 người. Công tác phổ cập GDMN cho trẻ em 5 tuổi được duy trì bền vững, đến nay toàn tỉnh đã có 226/226 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn, tỷ lệ 100%. Tỷ lệ huy động trẻ em ra lớp đạt cao, tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và thể thấp còi ở nhà trẻ và mẫu giáo giảm. Số trường tổ chức bán trú, học 2 buổi/ngày các cấp học đều tăng. Công tác xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia đã đạt 100% kế hoạch năm 2023. Chất lượng giáo dục đại trà và giáo dục mũi nhọn đạt được kết quả đáng ghi nhận. Các kỳ thi, hội thi, chất lượng thi học sinh giỏi quốc gia tiếp tục được duy trì. Năm học 2023 – 2023 có 15/48 học sinh đạt học sinh giỏi Quốc gia, (trong đó 01 nhì, 05 Ba, 09 khuyến khích; có 01 học sinh được tham dự vòng loại Olympic Quốc tế); học sinh giỏi cấp tỉnh, thi KHKT được duy trì. Đảm bảo tổ chức kì thi THPT Quốc gia 2023 an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế, phổ điểm các môn thi tăng so với năm trước, tỷ lệ tốt nghiệp đạt 90,34%.

Tỉnh quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao; mở rộng quan hệ hợp tác GDĐT trong và ngoài nước để học tập kinh nghiệm trong quản lý và giảng dạy; duy trì và tiếp tục tạo điều kiện để các thầy, cô nghiên cứu khoa học, thi đua dành thành tích cao trong giảng dạy. Phối hợp với trường CĐSP Lạng Sơn, cán bộ quản lý, giáo viên cốt cán trong các trường THPT tập huấn bồi dưỡng cho cán bộ, giáo viên nòng cốt cấp THCS đối với các môn: Toán, Ngữ văn, Vật lý, Hóa học, Sinh học và Tiếng Anh về đổi mới phương pháp dạy học, bồi dưỡng học sinh giỏi với tổng số 330 người; Bồi dưỡng kỹ năng tổ chức triển khai cuộc thi khoa học kỹ thuật dành cho học sinh trung học cấp trường và cấp huyện với tổng số 210 cán bộ, giáo viên; cử 01 giáo viên đào tạo tiến sĩ ở nước ngoài, 01 giáo viên đào tạo thạc sĩ ở nước ngoài, 48 giáo viên đào tạo thạc sĩ trong nước; 76 cán bộ quản lý và cán bộ nguồn tham gia lớp trung cấp lý luận chính trị; gần 329 cán bộ quản lý, giáo viên các cấp học tham gia bồi dưỡng CBQL; trên 1800 giáo viên tham gia bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp… Từ đó, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, giáo dục theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực, tự học, phát triển năng lực học sinh. Đáp ứng đào tạo theo nhu cầu xã hội hiện nay, tạo tiền đề thúc đẩy giáo dục Lạng Sơn phát triển một cách “Nhanh chóng – bền vững”.

Sở GDĐT được Bộ GDĐT tặng Bằng khen về thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua đổi mới sáng tạo trong dạy và học năm học 2023 – 2023; 32 tập thể được UBND tỉnh tặng Cờ thi đua về thành tích xuất sắc, dẫn đầu phong trào thi đua yêu nước năm học 2023 – 2023; có 13 tập thể và 5 cá nhân được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen về các thành tích xuất sắc trong thực hiện các nhiệm vụ giáo dục năm học 2023 – 2023.

Chủ tịch UBND tỉnh Phạm Ngọc Thưởng ghi nhận, đánh giá cao những nỗ lực của ngành GDĐT trong năm học 2023 – 2023, đồng thời chỉ ra những mặt còn hạn chế của ngành trong thực hiện các nhiệm vụ giáo dục. Đồng chí nhấn mạnh, trong năm học mới 2023 – 2023, ngành GDĐT tỉnh cần nâng cao tinh thần làm việc, quán triệt sâu rộng đến cán bộ, giáo viên các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương và của Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra đối với công tác giáo dục; thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm về giáo dục đã được UBND tỉnh phê duyệt; đẩy mạnh tham mưu cho UBND tỉnh các văn bản chỉ đạo về GDĐT.

Giám đốc Sở GDĐT Lạng Sơn Trần Quốc Tuấn chia sẻ, bước sang giai đoạn phát triển mới, ngành giáo dục tỉnh Lạng Sơn cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về GDĐT. Trong năm học 2023 – 2023, ngành GDĐT tập trung triển khai 9 nhiệm vụ cơ bản với 5 nhóm giải pháp nhằm hoàn thành thực hiện mục tiêu chung của toàn ngành là xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, dân chủ, kỷ cương; tăng cường an ninh, an toàn trường học; chú trọng công tác giáo dục thể chất, y tế trường học; xây dựng văn hóa học đường, giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên; quan tâm chế độ chính sách đối với giáo dục vùng khó; nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ và chất lượng giáo dục các cấp học; tăng cường kỷ luật kỷ cương, đảm bảo an ninh, an toàn và công tác vệ sinh trường học; phối hợp nâng cao hiệu quả hoạt động các Trung tâm GDNN – GDTX; tăng cường rà soát, sàng lọc đội ngũ và có kế hoạch đào tạo đội ngũ chuẩn bị cho chương trình đổi mới sách giáo khoa; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường công tác giao lưu, hợp tác quốc tế về GDĐT; đẩy mạnh tự chủ và xã hội hóa giáo dục; tổ chức Lễ khai giảng năm học mới đảm bảo trang trọng, tiết kiệm, hiệu quả…

Phát huy truyền thống 72 năm xây dựng và phát triển, tin rằng ngành giáo dục tỉnh Lạng Sơn tiếp tục đổi mới, sáng tạo để nâng cao chất lượng mọi mặt hoạt động, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao, xây dựng tỉnh Lạng Sơn văn minh, giàu đẹp./.

Kim Dung

Thực Hiện Nhiều Giải Pháp Để Nâng Cao Chất Lượng Môn Học Giáo Dục Quốc Phòng

Hành trang quan trọng của sinh viên trong quá trình lập thân, lập nghiệp

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả môn học GDQPAN, tôi cho rằng, trước khi bước vào môn học, việc đầu tiên là các trường phải quan tâm làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho sinh viên hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của kiến thức QPAN trong thời kỳ đất nước bước vào hội nhập quốc tế. Nhà trường cần nêu bật những đặc điểm thuận lợi, khó khăn của môn học để sinh viên có bước chuẩn bị tốt mọi mặt. Khi tổ chức học tập tại trường hoặc các trung tâm GDQPAN, đội ngũ cán bộ, giảng viên cần có phương pháp truyền đạt phù hợp với đối tượng, chú trọng liên hệ các ví dụ sát thực tiễn chiến đấu của cha ông ta và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Cùng với tổ chức học tập nội dung GDQPAN cho sinh viên, nhà trường và các trung tâm cần kết hợp duy trì chặt chẽ các chế độ, nền nếp, kỷ luật như trong đơn vị quân đội.

Trong quá trình giảng dạy, cần lồng ghép nội dung môn GDQPAN với các dẫn chứng của môn học khác để kích thích sự tò mò, yêu thích và biến môn học trở thành một nhu cầu thực sự của sinh viên. Chẳng hạn, với việc dạy các môn về kinh tế, giảng viên phải nêu được mối liên hệ kinh tế với QPAN để khi sinh viên học môn GDQPAN sẽ có cái nhìn khái quát hơn và phát huy trách nhiệm của bản thân đối với môn học. Từ đó, sinh viên sẽ hiểu được bảo vệ Tổ quốc là những điều giản dị gắn với công việc của họ, đó là xây dựng tư tưởng vững vàng, học giỏi, lao động tốt. Kiến thức QPAN hôm nay sinh viên học là hành trang quan trọng của thanh niên trong quá trình lập thân, lập nghiệp, giúp các em có đủ khả năng sẵn sàng lên đường nhập ngũ khi Tổ quốc cần.

HÙNG KHOA (ghi)

GS, TSKH Vũ Minh Giang, Phó chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội: Tăng cường tổ chức các hoạt động thực tiễn để rèn luyện kỹ năng sống cho sinh viên

Môn học GDQPAN trong các trường học đại học, cao đẳng là môn học góp phần nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, trách nhiệm và bổn phận công dân đối với Tổ quốc cho sinh viên. Để sinh viên chú trọng môn học này, trước hết cần giáo dục, nâng cao nhận thức cho các em về ý thức chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc, tinh thần gắn bó với quê hương, cội nguồn. Để sinh viên yêu thích môn học này, cần nghiên cứu thay đổi phương pháp dạy học cho sinh động, hấp dẫn hơn. Thực tiễn chiến tranh cách mạng và bảo vệ Tổ quốc chúng ta có rất nhiều câu chuyện hay, bổ ích và rất có giá trị trong việc bồi đắp, giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ.

Tôi cho rằng, ngoài nội dung chương trình đào tạo đã được xác lập, các cơ sở giáo dục đại học, các trung tâm GDQPAN cần tổ chức các hoạt động thực tiễn để rèn luyện thêm những kỹ năng sống cho sinh viên, giúp các em có những cơ hội trải nghiệm để tích lũy kinh nghiệm sống tốt hơn. Bên cạnh đó, cần có sự gắn kết môn học này với nhiều môn khác như: Lịch sử, Giáo dục Lý luận chính trị… và lồng ghép vào nội dung sinh hoạt cùng các hoạt động phong trào của đoàn thanh niên, hội sinh viên.

DUY VĂN (ghi)

Đại tá Đỗ Quốc Tam, Trưởng Khoa GDQPAN, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dạy học

Để nâng cao chất lượng dạy học môn GDQPAN, cần phải có một đội ngũ cán bộ giảng dạy có đủ kiến thức, trình độ, năng lực, kinh nghiệm. Về cơ bản, hiện nay các trung tâm GDQPAN, khoa GDQPAN thuộc các trường đại học đều có đội ngũ cán bộ giảng dạy là sĩ quan biệt phái. Tuy nhiên, số lượng giảng viên chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Do đó, việc cần làm hiện nay là các trung tâm, khoa GDQPAN cần chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên có đủ về số lượng và bảo đảm chất lượng. Muốn vậy, hằng năm cần tích cực tổ chức đào tạo bổ sung, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ này. Cùng với đó, thường xuyên tổ chức cho cán bộ, giảng viên cập nhật các thông tin, kiến thức mới, tăng cường hoạt động đổi mới phương pháp, trao đổi, nghiên cứu khoa học giảng dạy.

THANH QUẾ (ghi)

Đại tá Dương Văn Nhị, Trợ lý, Phòng Giáo dục Quốc phòng, Cục Dân quân tự vệ, Bộ Tổng tham mưu:

Bảo đảm trang thiết bị phục vụ học tập cho sinh viên

Có một thực tế là hiện nay cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy học môn GDQPAN cho sinh viên còn nhiều bất cập. Hệ thống thao trường, bãi tập, vũ khí trang bị, học cụ, trang phục chưa đáp ứng đủ nhu cầu học tập của sinh viên. Một số trung tâm GDQPAN đã được thành lập từ khá lâu, song chưa xây dựng cơ sở vật chất, thao trường, giảng đường, bãi tập như: Trung tâm GDQPAN-Trường Đại học Tây Bắc, Trung tâm GDQPAN-Trường Đại học Hồng Đức… Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng học tập môn GDQPAN của sinh viên còn hạn chế.

Để khắc phục thực trạng này, chúng tôi đã tham mưu cho các cơ quan cấp trên bổ sung, nâng cấp trang thiết bị phục vụ dạy học; thay thế các trang thiết bị cũ, độ chính xác không cao. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã đề nghị với các cơ sở sản xuất trang thiết bị và mô hình học cụ khi bàn giao cho các cơ sở giáo dục đại học, các trung tâm GDQPAN phải có sự hướng dẫn, tập huấn chuyên môn trong bảo quản sử dụng. Phòng Giáo dục Quốc phòng cũng đã tích cực phối hợp với các đơn vị chức năng để tham mưu, đề xuất cơ quan cấp trên ban hành thông tư hướng dẫn về bảo quản vũ khí trang bị dạy học, bảo đảm trang phục cho sinh viên học môn GDQPAN.

CẨM PHONG (ghi)

GS, TS Đinh Văn Sơn, Hiệu trưởng Trường Đại học Thương mại: Miễn học phí môn học GDQPAN để bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của sinh viên đối với Tổ quốc

Việc duy trì môn học GDQPAN cho đội ngũ sinh viên là hết sức cần thiết. Vì thế, tôi cho rằng, chúng ta nên tính toán đến việc cân đối và miễn học phí chương trình GDQPAN cho sinh viên. Bởi vì: Thứ nhất, trong những năm qua, việc bồi dưỡng kiến thức QPAN được tổ chức thường xuyên cho các nhóm đối tượng (đối tượng 1, 2, 3…) là cán bộ quản lý các cấp ở các cơ quan, tổ chức từ Trung ương tới các địa phương và các đối tượng này đều không phải đóng phí.

Vậy tại sao sinh viên là nhóm đối tượng phụ thuộc tài chính vào gia đình thì lại phải đóng học phí? Chúng ta cần phải cân nhắc lại sự thiếu “đồng bộ” này chứ chưa nói đến mâu thuẫn. Thứ hai: Mặc dù khối kiến thức GDQPAN là một bộ phận cấu thành trong chương trình đào tạo, nhưng đây không phải là khối kiến thức ngành, chuyên ngành. Hay nói cách khác là không thuộc khối kiến thức đào tạo nghề cho người học. Điều bất hợp lý ở chỗ là người học phải trả phí cho các kiến thức để thực hiện nghĩa vụ công dân của mình đối với Tổ quốc. Vì vậy trên cơ sở đó, miễn học phí môn học GDQPAN cho sinh viên là hợp lý, hợp tình.

MINH ANH (ghi)

Nguyễn Thị Dung, sinh viên Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG Hà Nội): Mỗi sinh viên cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm học tập môn GDQPAN

Từ thực tế học tập bộ môn GDQPAN, em thấy rằng, được học bộ môn này không chỉ là quyền lợi, trách nhiệm, mà còn là niềm tự hào đối với mỗi sinh viên. Qua môn học giúp chúng em được bồi dưỡng, nâng cao kiến thức về QPAN, huấn luyện, rèn luyện các kỹ năng quân sự để sẵn sàng lên đường nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc.

Vì vậy, theo em, mỗi sinh viên cần phải nâng cao nhận thức, ý thức và xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình đối với môn học quan trọng này; đồng thời coi đây không chỉ là môn học điều kiện, mà là môn học trang bị những kiến thức hữu ích đối với bản thân trong cuộc sống. Em cũng kiến nghị nên đưa kết quả môn học GDQPAN vào bảng điểm học tập cuối khóa, qua đó tạo động lực cho sinh viên học tập tốt hơn môn học này.

THỦY SƠN (ghi)

Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Hiện Đồng Bộ Các Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Bậc Trung Học trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!