Bạn đang xem bài viết Thực Chất Nguyên Nhân Của Tham Nhũng Và Những Vấn Đề Đặt Ra Ở Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Đảng ta xác định tham nhũng là một trong bốn nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Tham nhũng hiện nay đã và đang trở thành quốc nạn, đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và của chế độ xã hội chủ nghĩa. Để góp phần nâng cao nhận thức trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, bài viết này tập trung làm rõ nguyên nhân tham nhũng, trên cơ sở đó, đưa ra một số vấn đề gợi mở và mong được trao đổi cùng bạn đọc.
Thực chất của vấn đề tham nhũng
Tham nhũng là hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của đất nước, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển làm cho kinh tế chậm phát triển, thất thoát, lãng phí tài sản của dân, thiệt hại ngân sách, gây rối loạn nền kinh tế, gia tăng khoảng cách giàu nghèo, tình trạng nghèo đói ngày càng trầm trọng. Hơn nữa, nó làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước, làm cho chế độ chính trị dần suy yếu từ bên trong, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch tấn công ta, dẫn đến sụp đổ nếu không kịp thời chấn chỉnh.
Thực trạng báo động ở nước ta hiện nay là tệ tham nhũng ngày càng trầm trọng, trở nên phổ biến trong tất cả các lĩnh vực từ công an đến hải quan, từ tài nguyên môi trường đến xây dựng, thuế, ngân hàng, y tế, giáo dục cho đến cả thanh tra, kiểm sát, tòa án,… Từ lĩnh vực kinh tế cho đến cả chính trị với quy mô các vụ án ngày càng lớn, tính chất ngày càng nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Theo thống kê của Tổ chức Minh bạch Thế giới về chỉ số tham nhũng của các nước trên thế giới qua các năm, Việt Nam xếp hạng thứ 112/182 trong năm 2011.
Chỉ số tham nhũng của Việt Nam qua các năm gần đây
Năm
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Chỉ số, điểm
2.4
2.4
2.6
2.6
2.6
2.6
2.7
2.7
2.7
2.9
Hạng
85/102
100/133
102/145
107/158
111/163
123/179
121/180
120/180
116/178
112/182
Số liệu thống kê khoảng 10 năm trở lại đây (từ 2002 đến 2011) cho thấy tình trạng tham nhũng ở nước ta ngày càng có xu hướng tăng lên. Trong xã hội ta hiện nay, việc “bôi trơn”, quà cáp, đã trở thành một thói quen có tính “quy luật” mà hầu như ai cũng ít nhất một lần nghĩ đến và thực hiện để được thiên vị, ưu tiên, “thuận buồn xuôi gió”. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản về phòng, chống tham nhũng, nhưng cho đến nay vẫn chưa đẩy lùi được tham nhũng.
Để cung cấp thêm thông tin làm cơ sở vững chắc về mặt lý luận trong việc phòng và chống tham nhũng, vận dụng cặp phạm trù nhân – quả trong phép biện chứng duy vật để phân tích về mặt triết học nguyên nhân của nó, chúng tôi xác định một số nguyên nhân chủ quan và khách quan sau:
Về nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, nguyên nhân và động cơ chủ yếu của tham nhũng là lòng tham của con người. Cách đây hơn 2.200 năm, Hàn Phi Tử trong thiên Vong trưng (Những điềm mất nước) và thiên Gian hiếp thí thần (Bọn bề tôi gian dối, ức hiếp và giết nhà vua) cho rằng, con người sinh ra vốn tham dục, vị lợi; bản chất con người là “ích kỷ” và đặc tính chủ yếu của nó là “sự ham mê lợi ích và thù ghét tai họa” nên luôn “thích điều lợi và tìm nó, ghét cái hại và tránh nó, …”. Lẽ cố nhiên đam mê lợi ích không phải lúc nào cũng xấu, nhưng để lòng tham dẫn dắt, che mờ lý trí, điều khiển, kiểm soát hành động và vì lợi ích của bản thân, của nhóm lợi ích mà chà đạp lên lợi ích của tập thể, cộng đồng và quần chúng nhân dân thì rõ ràng là không thể chấp nhận được. Mọi hành vi tham nhũng dù dưới hình thức nào chăng nữa đều có thể quy về “lợi ích cá nhân”. Lợi ích nhóm cũng xuất phát từ lợi ích cá nhân mà ra. Nếu không vì lợi ích của bản thân thì chẳng ai còn muốn tham nhũng nữa. Vì lợi ích cá nhân, người ta có thể làm tất cả, bất chấp mọi thủ đoạn, mọi hậu quả để đạt được dù hành vi đó là vi phạm đạo đức, pháp luật, hay vi phạm nghiêm trọng kỷ luật đảng.
Thứ hai là do lối sống “ăn bám”, ỷ lại, lười lao động thích hưởng thụ của một bộ phận, tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là giới trẻ ngày nay. Chính lối sống này kết hợp với bản chất ích kỷ, đam mê lợi ích vật chất của các bậc phụ huynh, cán bộ, công chức,… là chất xúc tác để thúc đẩy con người ta lao vào các “phi vụ” phạm pháp. Lối sống hưởng thụ len lỏi vào các cơ quan công quyền thể hiện ở sự quan liêu và suy đồi của không ít cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; cống hiến thì ít mà muốn hưởng thụ thì nhiều, nên sách nhiễu, làm khó để vòi vĩnh, “gợi ý”, “lót đường”, “rải thảm”.
Thứ ba là do cuộc sống, áp lực công việc, do môi trường xung quanh; do giáo dục, do cơ chế và do chính bản thân mà đạo đức con người ngày càng bị suy thoái, tha hóa. Điều này làm cho tệ tham nhũng càng có điều kiện thuận lợi để phát sinh và lan rộng trong toàn xã hội. Tình trạng này đang có xu hướng ngày càng tăng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X nhận định: “Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức nói riêng còn yếu kém. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp, còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu trong cuộc sống đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm”. Hơn nữa, một bộ phận cán bộ, công chức chưa có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị. Điều này dẫn đến sự tha hóa, suy thoái về đạo đức không thể tránh khỏi của các công chức, viên chức nhà nước, sẵn sàng vì lợi ích cá nhân mà tham nhũng. Đảng và Nhà nước ta đã nhận ra được nguyên nhân này, nhưng biện pháp giải quyết chưa thật sự hiệu quả.
Ở nguyên nhân này, môi trường làm việc là điều kiện khách quan ảnh hưởng đến sự suy thoái đạo đức. Hiện tượng đút lót, quà cáp để vụ lợi trong các cơ quan công quyền không phải là điều quá xa lạ và diễn ra ở hầu hết mọi nơi. Trong một môi trường như vậy, nếu như không “nhập gia tùy tục”, người ta sẽ bị hất tung khỏi “vòng xoáy cuộc đời”. Theo lo-gíc phát triển khách quan của cuộc sống, nếu mỗi con người không giữ được đạo “trung dung”, “trung thứ” và “tính trực” và nếu “quân bất quân, thần bất thần, tử bất tử” (Khổng Tử) thì xã hội sẽ lâm nguy, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Nguyên nhân này dần dần hình thành hiện tượng tham nhũng tập thể, vì vậy khi có thanh tra, kiểm tra thì bao che lẫn nhau, dẫn đến việc khó khăn trong vấn đề phòng, chống tham nhũng.
Thứ tư là do tâm lý, “truyền thống văn hóa” và trình độ nhận thức của một bộ phận người dân còn yếu kém. Với quan niệm “dầu bôi trơn bánh xe”, “đầu xuôi đuôi lọt”, “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” và nghĩ rằng giải pháp nhanh nhất, hiệu quả nhất để giải quyết công việc là “thủ tục đầu tiên” cũng là nguyên nhân thúc đẩy tham nhũng. Hơn thế, người ta còn dùng hối lộ, quà cáp như một hình thức “kết thân”, “đầu tư chiều sâu”, “đầu tư vào tương lai” để tạo thuận lợi cho con đường công danh sự nghiệp sau này cho cả bản thân lẫn người thân. Chính hành vi tâm lý và trình độ nhận thức này đã vô tình làm cho không ít cán bộ, nhân viên bị tham nhũng thụ động. Tình trạng này kéo dài làm xuất hiện tư tưởng gây khó dễ ở cán bộ, công chức để nhận “phong bì” từ dân mới giải quyết công việc, cho rằng nhận hối lộ là một thủ tục tất yếu trong quá trình xử lý công việc. Bởi vậy, một số cán bộ, đảng viên khi có quyền lực đã đem địa vị, quyền hành ra để “mặc cả” và cho rằng “muốn ăn chân giò phải thò chai rượu”. Vô hình trung điều này tạo nên một cách suy nghĩ, một thói quen xấu trong cả cán bộ công chức và cả những người muốn dùng tiền để giải quyết công việc, dần dần hình thành nên “văn hóa phong bì”.
Thứ năm và cũng là nguyên nhân quan trọng, dễ dẫn đến tham nhũng nhất đó chính là sự sơ hở, bất cập, thiếu công khai, thiếu minh bạch, cơ chế “xin – cho” còn tồn tại. Đây là nguyên nhân thường xuyên được đề cập và lặp đi lặp lại nhiều lần trong các phiên họp của Quốc hội. Nguyên nhân này thể hiện ở chỗ: cơ chế kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng, quản lý, luân chuyển tài sản có nhiều sơ hở, giao tài sản cho nhân viên nhưng không có biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ, gian lận trong công tác để chiếm đoạt tài sản,… Các thủ tục, quy định của Nhà nước chưa được công khai, rõ ràng nên nhân dân có suy nghĩ “tiếp cận, giải quyết” mới xong, tạo điều kiện cho cán bộ tham nhũng; thiếu công khai, minh bạch trong công tác quản lý, trong công tác kê khai tài sản, trong công tác sử dụng tài sản, và thiếu minh bạch trong các văn bản, quy định, thủ tục. Hơn nữa, việc thiếu trách nhiệm giải trình của các lãnh đạo cấp cao ở các cơ quan, đơn vị cũng dẫn đến tình trạng thiếu công khai, minh bạch mặc dù việc báo cáo nghe có vẻ vẫn rất “ổn”, “tốt” trong khi thực tế đó chỉ là “báo cáo láo”.
Thứ sáu, một nguyên nhân cần được nghiên cứu thêm đó là tư duy chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn phảng phất tư duy “truyền thống”, phong kiến, manh mún, chắp vá, thiếu tính hệ thống dẫn đến thiếu mạnh dạn và quyết tâm trong việc thực hiện đường lối đổi mới, đặc biệt là đổi mới tư duy chính trị. Giữa đổi mới tư duy chính trị và đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta chưa có sự đồng bộ, thống nhất cần thiết nên thường xuyên diễn ra tình trạng “đánh trống bỏ dùi”, “đầu voi đuôi chuột” làm tầm thường hóa hệ thống pháp luật.
Ngoài ra còn có nguyên nhân nữa mang tính chất khái quát là chúng ta chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ. Hồ Chí Minh từng cho rằng “dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết những vấn đề xã hội”. Tuy nhiên dân chủ phải gắn liền với dân trí. Nhìn chung trình độ dân trí, kể cả quan trí của chúng ta chưa cao nên nhân dân chưa có nhiều khả năng tham gia làm chủ, quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Mặc dù chúng ta đã có bước tiến đáng kể về việc ban hành quy chế dân chủ, song nhìn chung việc thực hiện đưa quy chế vào cuộc sống còn nhiều hạn chế, khó khăn.
Bên cạnh một số nguyên nhân chủ quan cơ bản nêu trên còn có những nguyên nhân khách quan rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng tham nhũng ở nước ta.
Về nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất là việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa triệt để, không theo kịp được trình độ phát triển của hoạt động thực tiễn. Trong quá trình lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, để xây dựng, phát triển và bình ổn trật tự xã hội còn nghiêng về “đức trị”, “nhân trị” mà chưa nghiêng về “pháp trị”. Chính sách thưởng phạt chưa đủ sức răn đe người phạm tội và khuyến khích người lập công, tố giác tội phạm.
Thứ hai là do hệ thống pháp luật, chính sách ở nước ta thiếu đồng bộ, chưa thỏa đáng và nhất quán; trong xử lý, chế tài chưa nghiêm minh, pháp luật còn nhiều kẽ hở, cơ chế quản lý còn nhiều yếu kém. Các thủ tục hành chính hay giấy tờ, đất đai đều chưa minh bạch, rườm rà, cơ chế quản lý bất động sản chưa hiệu quả và chặt chẽ tạo kẽ hở cho các cán bộ, viên chức tham nhũng. Pháp luật là công cụ mạnh nhất để ngăn chặn, chế tài và xử lý tham nhũng nhưng pháp luật lại chưa nghiêm, lỏng lẻo tạo điều kiện, cơ hội cho tham nhũng phát triển.
Thứ ba là do những bất cập trong triết lý về giáo dục, chưa hình thành được một triết lý giáo dục đủ tầm cỡ, làm trụ cột lâu dài, xuyên suốt và bền vững trong quá trình phát triển, kể cả giáo dục nói chung và giáo dục pháp luật nói riêng; giáo dục đạo đức cán bộ, đảng viên trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường chưa được chú trọng đúng mức. Hơn nữa, việc đưa những người thiếu năng lực và thiếu phẩm chất đạo đức vào làm cho các cơ quan nhà nước do “quan hệ”, nể nang, “đi đêm”,… làm suy thoái hệ thống chính trị và làm cho tình trạng tham nhũng ngày càng phát triển nhanh chóng.
Thứ tư là do sự quản lý, thanh tra, kiểm tra lỏng lẻo, yếu kém của Nhà nước; xử lý qua loa, chỉ mang tính “hình thức” như cảnh cáo, phê bình hoặc chủ trương “đại sự hóa tiểu sự, tiểu sự hóa vô sự” vì người vi phạm thường là cán bộ có quyền lực và địa vị, nên chưa mang tính răn đe. Các cán bộ cấp cao và cấp trên chưa làm gương cho cấp dưới, chưa thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với phương châm “một tấm gương sống về đạo đức gấp hàng trăm, hàng nghìn bài diễn thuyết”. Việc chấp hành kỷ luật cũng bị xem nhẹ dẫn đến tình trạng “phép vua thua lệ làng”, “trên bảo dưới không nghe”,… Người quản lý, thanh tra, kiểm tra, điều tra cũng chưa thật sự mạnh tay và làm việc có hiệu quả, vẫn còn nặng tình trạng “báo cáo tốt”, tệ hại hơn còn đồng lõa, “gợi ý” làm cho tệ tham nhũng gia tăng, khó có thể ngăn chặn, phát hiện, xử lý kịp thời.
Thứ năm là do việc thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng của nước ta chưa hiệu quả, đồng bộ, chưa đáp ứng được thực trạng tham nhũng hiện nay, thiếu một chương trình phòng, chống lâu dài, tổng thể mà chỉ chủ yếu tập trung vào việc giải quyết những vụ “tham nhũng vặt”, nhỏ lẻ. Mặt khác, các chính sách của nước ta chưa khuyến khích toàn dân và cả hệ thống chính trị cùng phòng, chống tham nhũng. Chúng ta chưa có cơ chế hữu hiệu để bảo vệ những người phát hiện và dám tố cáo tham nhũng. Việc tuyên dương người đứng lên tố cáo tham nhũng hiện nay cũng chưa phải là giải pháp hiệu quả để động viên toàn dân tham gia. Hơn nữa, người “đưa hối lộ” đi tố cáo tham nhũng cũng bị khép tội “đưa hối lộ” nên cũng làm hạn chế việc tố cáo tham nhũng của nhân dân.
Thứ sáu là do mặt trái (bản chất) của nền kinh tế thị trường và sự phân cực giữa các giai tầng trong xã hội ngày càng sâu sắc làm cho các giá trị đạo đức bị đảo lộn. Đồng tiền đang lên ngôi trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Khi đồng tiền được xem là “thước đo của vạn vật” thì các giá trị đạo đức, nhân phẩm sẽ đứng trước bên bờ vực. C. Mác từng cảnh báo: “Trong xã hội tư bản đồng tiền là một vấn đề trung tâm của mọi quan hệ cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè đều bị dìm chết trong dòng nước băng giá của đầu óc vị kỷ” và khẳng định: “Tất cả những mối liên hệ phức tạp và muôn màu muôn vẻ ràng buộc con người phong kiến đều bị giai cấp tư sản thẳng tay phá vỡ, không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác, ngoài mối lợi lạnh lùng với “lối trả tiền ngay” tiền trao cháo múc không tình nghĩa”. Việc chạy theo sức mạnh của đồng tiền làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ đi ngược lại truyền thống văn hóa của dân tộc. Có không ít tổ chức, cá nhân vì những mục tiêu riêng để tồn tại trong cuộc cạnh tranh khốc liệt đã dùng mọi thủ đoạn, trong đó có thủ đoạn hối lộ được sử dụng phổ biến nhất. Hơn nữa, chính sách tuyển dụng, trọng dụng và đãi ngộ các nhân viên công quyền chưa thỏa đáng (chính sách tiền lương) là nguyên nhân góp phần thúc đẩy mọi người cần phải kiếm thêm để bù đắp cho gia đình họ làm cho tình trạng tham nhũng phát triển và lan rộng.
Đảng và Nhà nước ta đã đã có nhiều chủ trương, biện pháp phòng, chống tham nhũng nhưng vẫn chưa hiệu quả. Do đó cần phải có nhận thức toàn diện hơn về bản chất và nguyên nhân của tham nhũng để có giải pháp hữu hiệu. Muốn triệt phá tham nhũng, chúng ta cần loại trừ hết các nguyên nhân và điều kiện phát sinh tham nhũng. Các biện pháp phòng và chống cũng phải mang tính hệ thống, toàn diện.
Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
Dân ta quan niệm: “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, “phòng cháy hơn chữa cháy”. Vì vậy, trước hết đấu tranh chống tham nhũng phải bắt đầu từ phòng ngừa tham nhũng. Tác dụng của phòng ngừa tham nhũng có ý nghĩa sau:
Một là, các biện pháp phòng ngừa được thực hiện một cách thường xuyên sẽ có tác dụng rộng khắp, có tính lan tỏa đến từng đối tượng, ngăn ngừa mầm mống hành vi tham nhũng.
Hai là, phòng ngừa tham nhũng sẽ làm giảm thiểu thiệt hại về kinh tế và chính trị hơn là để tham nhũng xảy ra.
Ba là, bên cạnh việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, bộ máy nhà nước pháp quyền cũng đồng thời phải hoàn thiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng.
Để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả theo chúng tôi định hướng cơ bản, chung nhất hiện nay chúng ta cần tập trung vào ba vấn đề lớn. Một là phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng; hai là nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; ba là phát huy, khơi dậy tinh thần làm chủ của các tổ chức chính trị – xã hội, cơ quan truyền thông, báo chí và quần chúng nhân dân. Cụ thể:
Đối với Đảng ta cần thành lập cơ quan phòng, chống tham nhũng độc lập như kinh nghiệm của một số nước; tăng cường công tác chính trị, tư tưởng đảng viên; tăng cường quản lý đội ngũ đảng viên; thường xuyên đưa nội dung kiểm điểm, phê bình, tự phê bình vào nề nếp sinh hoạt đảng theo Điều lệ Đảng, tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI; đề cao trách nhiệm, xử lý nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên, nhất là những người giữ chức vụ trọng yếu trong bộ máy của Đảng và Nhà nước có biểu hiện tiêu cực hay thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng ở các ngành, cơ quan đơn vị mình phụ trách. Điều 5 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định: “người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị,… chịu trách nhiệm khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách”, Điều 10 Luật Cán bộ công chức quy định: “Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị”.
Đối với cơ quan, chính quyền Nhà nước cần phải lấy tinh thần đấu tranh chống tham nhũng của Xin-ga-po để nghiên cứu, học tập, tăng cường chính sách thưởng phạt để người ta không thể, không dám, không muốn, không cần tham nhũng. Để làm được việc đó trước hết cần minh bạch, thực hiện minh bạch là công cụ, biện pháp chống tham nhũng hiệu quả nhất. Minh bạch trong nhiều vấn đề, lĩnh vực: trong khiếu nại của nhân dân, trong việc kê khai và quản lý tài sản, ngân sách, trong mua sắm, trong quản lý đất đai, nhà ở, vốn, nguồn viện trợ, đầu tư,… Ngoài ra cũng có nhiều biện pháp khác được đề xuất cần được thực hiện cùng với việc minh bạch:
Thứ nhất, cần điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung pháp luật nước ta, cần quy định chặt chẽ hơn, xử lý nghiêm minh hơn, giảm bớt sự rườm rà không cần thiết các thủ tục hành chính, phải có biện pháp chế tài đủ mạnh để những công chức thấy rằng việc tham nhũng đem lại cho họ “mất” nhiều hơn “được”.
Thứ hai, cần cải cách hệ thống chính sách giáo dục ở nước ta, xóa bỏ tình trạng đặt nặng lý thuyết, chú trọng đào tạo chuyên môn và phẩm chất đạo đức của thế hệ tương lai. Đồng thời các cán bộ cấp cao phải đi đầu trong việc thực hiện gương mẫu, nâng cao phẩm chất đạo đức, chuyên môn. Đồng thời tăng cường, củng cố tư tưởng chính trị, rèn luyện cho các đảng viên, các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước để tăng cường sự vững mạnh của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước ta.
Thứ ba là phải kiềm chế mặt trái của nền kinh tế thị trường, tăng cường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường cổ phần hóa, phát triển kinh tế xã hội đồng bộ, giảm sự phân hóa giàu nghèo, hạn chế sự độc quyền. Đồng thời tăng lương, tăng phúc lợi, tạo sự công bằng, xứng đáng cho các công chức, viên chức. Khi đồng lương đủ giúp họ trang trải cuộc sống thì họ cũng ít suy nghĩ đến tham nhũng hơn. Giải pháp này cần hoạch định lâu dài và có kế hoạch cụ thể.
Thứ tư, cần đẩy mạnh việc thanh tra, kiểm soát trong tất cả các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế đến xã hội, xử lý mạnh tay đối với các hành vi tham nhũng, làm gương cho người khác, tách riêng bộ phận Thanh tra ra khỏi Chính phủ. Thực hiện thanh tra toàn diện, từ trung ương đến địa phương, trên mọi lĩnh vực. Tăng cường quản lý tài sản, ngân sách, nguồn viện trợ cũng như việc sử dụng tài sản của Nhà nước cũng như sử dụng chúng một cách hợp lý. Phải dựa vào nhân dân và báo chí để tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, đưa nhân dân vào các bộ phận thanh tra, kiểm soát tham nhũng để hoạt động hiệu quả hơn, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân. Báo chí là công cụ đắc lực và hiệu quả trong việc ngăn ngừa và vạch trần tệ tham nhũng. Đồng thời cũng cần hạn chế sự độc quyền của các cán bộ, công chức trong một số lĩnh vực hay thủ tục nào đó dẫn đến tham nhũng.
Thứ năm, cần tuyển chọn, chọn lọc kỹ càng khi phân công, bổ nhiệm các cán bộ, công chức, bảo đảm phẩm chất đạo đức của các nhân viên nhà nước từ cấp thấp đến cấp cao. Ngăn chặn tham nhũng từ lúc bắt đầu nhất là đối với các quan chức đứng đầu và lực lượng thanh tra, quản lý. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, thanh lọc, giáo dục trong bộ máy nhà nước. Lực lượng thanh tra, quản lý cần được tuyển chọn đặc biệt kỹ càng vì đây là lực lượng có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình phòng, chống và diệt trừ tệ tham nhũng ở nước ta.
Về chính trị, cần thực hiện dân chủ một cách triệt để hơn, toàn diện hơn. Công khai, minh bạch với nhân dân. Khẳng định tư tưởng Nhà nước là “của dân, do dân, vì dân” và phát triển vững chắc dựa vào sức của nhân dân. Theo các học giả trên thế giới thì tham nhũng tỷ lệ nghịch với dân chủ. Ở các nước phát triển, pháp luật nghiêm minh thì khó mà thấy tình trạng tham nhũng diễn ra.
Việc phòng chống tham nhũng cũng cần có sự hợp tác và hỗ trợ kinh nghiệm từ các nước trên thế giới. Đồng thời, cần đẩy mạnh tuyên truyền trong nhân dân về ý thức phòng, chống tham nhũng, yêu cầu cả hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân cùng chung tay trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, mạnh dạn tố cáo, đóng góp ý kiến, thay đổi tâm lý không tốt đã ăn sâu vào không ít tầng lớp trong xã hội./.
Tài liệu tham khảo
1. Trịnh Doãn Chính (chủ biên), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997
2. Phan Ngọc (dịch), Hàn Phi Tử, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2005
3. Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1998
4. C. Mác và Ph. Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb. Sự Thật, Hà Nội
5. Giáo trình chính sách kinh tế – xã hội, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2000
6. Luật Phòng, chống tham nhũng, số 55/2005/QH11 của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005
7. Tài liệu tham khảo về phòng, chống tham nhũng - Viện Khoa học thanh tra thuộc Thanh tra Chính phủ – Xuất bản năm 2012
8. Quyết định số 138/2009/QĐ-TTg ngày 09 tháng 12 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, tên gọi, nhiệm vụ và quy chế hoạt động của bộ phận giúp việc Ban Chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về phòng, chống tham nhũng
9. Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều Luật Phòng chống tham nhũng
10. Washington: Quỹ Tiền tệ Quốc tế Shleider, A. và Wishney, R.W. (1993): “Tham nhũng”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế học
11. Trích Tool to support transparency in local govemance (Công cụ hỗ trợ cho tính minh bạch trong công tác quản lý ở địa phương)
12. Theo thống kê của Tổ chức minh bạch thế giới (Transparency International) năm 2011
Nguyên Nhân Và Các Giải Pháp Chống Tham Nhũng Ở Việt Nam Hiện Nay
NGUYÊN NHÂN THAM NHŨNG VÀ
TÁC HẠI CỦA NÓ
I. KHÁI NIỆM VỀ THAM NHŨNG
II. HÀNH VI VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN HÀNH VI THAM NHŨNG 1. Khái niệm về hành vi tham nhũng Hành vi tham nhũng là hành vi thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội tham nhũng đã được pháp luật qui định, đó là các hành vi có ý thức, có chủ định. 2. Đặc điểm của hành vi tham nhũng Hành vi tham nhũng là hành vi của một cá nhân hoặc một nhóm người trong đó có kẻ cầm đầu, nó thường tạo thành từ các nhóm người có quan hệ thân quen, họ hàng và gần đây trên thế giới lại hình thành các hành vi tham nhũng có tính tổ chức của nhiều người dựa trên lợi ích ích kỷ của họ. Loại hành vi này đang có xu hướng tăng lên rất mạnh mang lại hậu quả rất nghiêm trọng và có hai đặc trưng nổi bật: một là xuất hiện dưới phương thức tổ chức có đặc trưng khác với hoạt động cá nhân, loại này được gọi là tham nhũng siêu ngạch với những hình thức chủ yếu như biển lậu thuế có tổ chức, buôn lậu có tổ chức, làm giả có tổ chức, vơ vét tổ chức, xâm chiếm có tổ chức biểu hiện chủ yếu là xâm chiếm vốn của Nhà nước, hai là được sự hoàn thiện với sự tham gia của quyền lực của một tổ chức nhất định để đạt được mục đích thu được lợi ích hoặc lợi nhuận siêu ngạch . Về hình thức tham nhũng chủ yếu vẫn thông qua các hành vi tham ô, hối lộ, lộng quyền, sách nhiễu, dùng quyền lực để mưu tư lợi, dùng tiền tài làm càn vi phạm pháp luật, dùng tiền tài thao túng quyền lực, chiếm đoạt quyền lực…. Về thủ đoạn, các hành vi tham nhũng được hình thành bằng nhiều cách: kết cấu bên trong, móc ngoặc ngoài nước cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật phức tạp đã làm cho hoạt động tham nhũng ngày một trở nên khó bị phát hiện . Về lĩnh vực: Đối tượng mà các hoạt động tham nhũng săn đuổi nói chung tập trung vào nơi có tiền bạc, nguồn lực, quyền hạn, hợp đồng, tài chính, chức vụ, cơ hội, chúng tôi nên các lĩnh vực có tỷ lệ thành án cao trên thế giới ngày nay vẫn là các ngành ngân hàng, tài chính, thương mại, xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia, giao thông vận tải, bưu điện, xây dựng, các đề án nước ngoài, các nơi cấp phép hoạt động hoặc thông qua thủ tục hành chính, các cửa khẩu … 3. Động cơ tham nhũng Động cơ tham nhũng được hình thành từ các yếu tố cơ bản như lòng tham, ham muốn vật chất, lòng ham địa vị và quyền lực cao, muốn làm giàu một cách nhanh chóng, muốn có cuộc sống và lối sống hơn người về lợi ích hoặc còn do nhiều yếu tố như thiếu bản lĩnh, thiếu ý chí, dễ sa ngã dẫn đến sự không chấp nhận sự mất cân đối giữa nhu cầu tiêu dùng với khả năng thu nhập và địa vị công việc của mình. Từ đây có thể phác hoạ một cách khái quát về tham nhũng và các yếu tố cấu thành của hành vi tham nhũng theo công thức sau: [3]
C(Tham nhũng) = M (Quyền lực) + D (Tuỳ ý định đoạt) – A(Trách nhiệm)
[1] §¹i tõ ®iÓn tiÕng ViÖt, Nxb. V¨n ho¸ – Th”ng tin, Hµ Néi. 1998, tr 1523
[2] Gi¸o tr×nh chÝnh s¸ch kinh tÕ-x· héi, Nxb Khoa Häc vµ Kü thuËt, Hµ Néi. 2000, tr 457
[3] T¹p chÝ Nhµ níc vµ ph¸p luËt sè 1/2002 tr 59
Để tải tài liệu này xin mời bạn mua thẻ điện thoại VietTel mệnh giá 20.000đ sau đó gửi mã số thẻ cào cùng địa chỉ email của bạn và mã tài liệu DA109 đến số điện thoại: 0988.44.1615Sau khi nhận được tin nhắn tôi sẽ gửi tài liệu cho bạn và thông báo cho bạn biết
Một Số Vấn Đề Đặt Ra Trong Quá Trình Thực Hiện Quyền Con Người Ở Việt Nam
Tại Việt Nam, việc thúc đẩy và bảo đảm quyền con người trên cơ sở tôn trọng chủ quyền quốc gia, hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa và phát triển của mỗi nước cũng như sự tăng cường sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau, đối thoại và hợp tác.
Bên cạnh đó, Việt Nam luôn khẳng định, quan điểm, chính sách và luật pháp của Nhà nước Việt Nam về quyền con người cũng như thành tựu của Việt Nam trong thực hiện các quyền thuộc nhóm quyền dân sự – chính trị, nhóm quyền kinh tế – văn hóa – xã hội, quyền của các nhóm dễ bị tổn thương.
Tuy nhiên, như mọi quốc gia khác, Việt Nam cũng phải đối mặt với các thách thức, đặc biệt là biến đổi khí hậu, thiên tai như hạn hán, ngập mặn, lũ lụt. Những thách thức này đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, hạn chế các quyền lương thực, sức khỏe, giáo dục và nhà ở của người dân Việt Nam.Việt Nam luôn đặt người dân ở trung tâm của phát triển và tiếp tục tăng cường hệ thống luật pháp, chính sách và thể chế thông các Công ước nhân quyền mà Việt Nam là thành viên.
Bên cạnh đó, trong việc bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay vẫn còn một số vấn đề tồn tại nhất định. Ví dụ như: Về nhận thức của cán bộ, công chức, thực tế cho thấy, hiểu biết về nhân quyền ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, dẫn đến có những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các quyền hợp pháp của công dân; Nhân quyền được coi là một vấn đề nhạy cảm, ít khi những vấn đề nhân quyền trong nước được đề cập một cách trực tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng; Hiện nay, nước ta vẫn chưa có một cơ quan chuyên trách về vấn đề thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; Ngoài ra, ở nước ta hiện nay còn thiếu các điều kiện để chăm sóc, giải quyết việc làm cho các đối tượng người bị nhiễm HIV/AIDS, những người làm mại dâm, những người vi phạm pháp luật sau khi mãn hạn tù…
Trong các năm gần đây, Việt Nam đã duy trì tăng trưởng kinh tế ổn định, tăng cường mức sống của người dân, giảm mạnh tỉ lệ nghèo, thúc đẩy bình đẳng xã hội, góp phẩn bảo đảm thụ hưởng các quyền kinh tế xã hội, cũng như thực hiện quyền con người trong nhiều lĩnh vực khác. Việt Nam cũng nghiêm túc thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người, và ngày càng chủ động, tích cực đóng góp tại các diễn đàn về quyền con người trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, ASEAN và nhiều cơ chế khác.
Việt Nam đã chứng kiến những thành tựu hết sức quan trọng trong công tác bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, đặc biệt là việc thông qua Hiến pháp 2013 và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người. Hiến pháp năm 2013 đã nêu rõ chủ thể và nội dung quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Để đảm bảo thực hiện quyền con người trong điều kiện nước ta hiện nay, bảo đảm hiện thực hóa quyền con người theo Hiến Pháp 2013 quy định, cần phải áp dụng đồng bộ các nhóm giải pháp.
Bên cạnh các văn bản quy phạm về kinh tế, Nhà nước cần ưu tiên xây dựng các văn bản hướng dẫn về quyền công dân, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người. Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng cần gấp rút được nghiên cứu và tổng kết thực tiễn; Trên cơ sở đó chế định quyền sở hữu cá nhân cần phải được quy định cụ thể hơn. Vì đây là quyền giữ vị trí chi phối các quyền khác. Chỉ khi quyền sở hữu cá nhân được bảo đảm, công dân mới an tâm đưa vốn vào sản xuất kinh doanh, tạo ra của cải làm giàu cho bản thân và xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền không chỉ bảo vệ quyền lợi của người dân nói chung mà xuất phát từ đặc thù về thể chất, tâm lý, quyền lợi của trẻ em, phụ nữ, công dân cao tuổi cũng như những người bị khuyết tật… phải được coi là đối tượng ưu tiên trong việc bảo vệ, yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của nhóm đối tượng này là: Không được có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trong các quy định của pháp luật; Quyền lợi của họ phải được bảo đảm trên thực tế.
Quản Trị Nhà Nước Tốt Và Những Vấn Đề Đặt Ra Đối Với Quản Lý Nhà Nước Ở Việt Nam
Quản trị nhà nước tốt là một vấn đề mới trong nghiên cứu về quản lý công ở Việt Nam. Đây không phải là mô hình tổ chức, hoạt động của một nhà nước mà là các nguyên tắc định hướng cho việc thiết kế và vận hành bộ máy nhà nước trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước để quản lý tốt mọi vấn đề của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa… ở mỗi quốc gia. Bài viết khái quát lịch sử hình thành và những đặc trưng cơ bản của quản trị nhà nước tốt, qua đó rút ra một số kinh nghiệm có thể vạn dụng trong quản lý nhà nước ở Việt Nam.
1. Quản trị nhà nước tốt
1.1. Sự ra đời của mô hình quản trị nhà nước tốt
Thứ nhất, do những hạn chế, bất cập của mô hình hành chính công – quản trị công truyền thống được xây dựng trên cơ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa chính trị và hành chính của T.W.Wilson, nguyên tắc thiết lập bộ máy quan liêu của M.Weber và các nguyên tắc quản lý theo khoa học của F.W.Taylor, là mô hình hành chính lâu đời nhất, cũng là lý thuyết quản trị khu vực công thành công nhất. Nhưng do tình hình kinh tế – xã hội, khoa học công nghệ, trình độ dân trí phát triển, mô hình quản trị công truyền thống đã bộc lộ các hạn chế, bất cập, buộc phải thay đổi, nhường chỗ cho mô hình quản trị công mới.
Thứ hai, do sự cồng kềnh, kém hiệu quả của khu vực công (khu vực nhà nước). Trong các thập niên 80 và 90 của thế kỷ XX, nhiều nước đã đặt vấn đề xem xét lại khu vực công về quy mô và khả năng quản trị, điều hành đất nước, đặc biệt ở các nước phát triển như Mỹ, Anh, Đức. Đã có nhiều cuộc cải cách làm thay đổi cơ bản nhận thức của xã hội và người dân về vai trò của khu vực công và cách thức quản trị, điều hành khu vực công. Theo đó, nhà nước không nên ôm đồm làm hết mọi dịch vụ mà nên tập trung nguồn lực vào quản lý vĩ mô thông qua các chính sách hiệu quả, đẩy mạnh dân chủ hóa, gắn liền với phân quyền và xã hội hóa nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị đất nước và phục vụ nhân dân.
Nhà nước cần phải đổi mới việc cung ứng và nâng cao chất lượng các dịch vụ công. Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã tìm cách thay đổi cách thức cung cấp và quản lý việc cung cấp các loại hình dịch vụ công cho người dân thông qua các biện pháp khác nhau để huy động các nguồn lực xã hội và lực lượng khác của thị trường, nhằm tăng cường sự lựa chọn, tạo khả năng cạnh tranh.
Thứ ba, kinh tế thị trường mở rộng, mang tính quốc tế hóa cao và cạnh tranh giữa các nước trong khu vực và trên thế giới gia tăng. Vấn đề này đặt ra những yêu cầu mới về thể chế quản lý (quản trị), đặc biệt là quản lý kinh tế, tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ công chức. Nguyên tắc kinh tế của toàn cầu hóa đòi hỏi các chính phủ phải chuyển đổi từ chú trọng đầu vào và kiểm soát quá trình sang chú trọng đến kết quả cuối cùng và tiết kiệm chi phí. Nhiều nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật… đã áp dụng các biện pháp được rút ra từ thực tiễn kinh doanh và được kiểm chứng qua thị trường. Tại Mỹ, năm 1992 David Osborn và Ted Gaebler đã đề ra 14 nguyên tắc “Sáng tạo lại chính phủ – Reinventing Government”. Đây là mô hình quản trị mới với phong cách lãnh đạo hành pháp thiết thực; phân quyền mạnh, hướng tới thị trường, theo khách hàng với tinh thần kinh doanh; hợp tác giữa khu vực công và khu vực tư để giải quyết các nhu cầu của cộng đồng. Tại Mỹ, sự giao thoa ngày càng sâu sắc giữa kinh tế và hành chính thể hiện rõ trong việc xây dựng “chính phủ mang tinh thần kinh doanh” để đáp ứng nhu cầu của người dân. Ở Vương quốc Anh và Cộng hòa Pháp, các dịch vụ công cộng được đưa ra đấu thầu; chuyển một phần lớn lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế… sang ký hợp đồng để tư nhân thực hiện. Mặt khác, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, từ ngoại giao, kinh tế đến văn hóa – xã hội đòi hỏi phải dần dần xóa bỏ sự ngăn cách của các mô hình hành chính khác biệt. Đồng thời, toàn cầu hóa và quốc tế hóa cũng dẫn đến cạnh tranh giữa các nước, giữa khu vực công và khu vực tư đòi hỏi phải xây dựng một mô hình quản trị phù hợp với sự phát triển của thời đại.
Thứ tư, trình độ dân trí ngày càng cao và yêu cầu dân chủ hóa đời sống xã hội được mở rộng. Trong bối cảnh đó, hành chính công truyền thống ngày càng tỏ ra không thích hợp với xu thế phát triển của xã hội hiện đại, thậm chí trở thành lực cản sự phát triển. Vì vậy, xây dựng mô hình hành chính hiện đại hỗ trợ cho phát triển, trong đó quyền hợp pháp của con người và của công dân phải được đặt ở vị trí trung tâm là mục tiêu chung của hầu hết các cuộc cải cách hành chính đang diễn ra trên thế giới.
Thứ năm, sự khủng hoảng kinh tế và xuất hiện các học thuyết mới. Từ hậu quả nặng nề của hai cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 và 1979 đã làm xuất hiện một học thuyết mới về phát triển, có tên gọi là Neo-liberalism (chủ nghĩa tự do mới) có cơ sở từ lý thuyết tân cổ điển của Keynes (Keynesian – Neo – Classical Economics), đã làm nảy sinh các cuộc tranh luận kéo dài về nhà nước và thị trường dẫn đến việc xác định lại vai trò của nhà nước nói chung, của chính phủ nói riêng.
Theo học thuyết mới này, nhà nước cần hạn chế sự can thiệp vào hoạt động sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp, để cho các lực lượng của thị trường quyết định. Mặt khác, hoạt động của nhà nước chỉ nên tập trung vào các công việc mang tính chiến lược như: hoạch định chính sách; xây dựng khuôn khổ pháp lý và môi trường lành mạnh để hỗ trợ cho hoạt động của thị trường. Như vậy, phạm vi và vai trò của nhà nước được thu hẹp lại để phù hợp với yêu cầu mới. Đồng thời, để khắc phục các hạn chế của thị trường đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước thông qua các chính sách đảm bảo công bằng xã hội và phát triển bền vững.
Thứ sáu, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ tạo điều kiện thuận lợi xây dựng các phương pháp quản lý, quản trị hiện đại. Đồng thời, các thành tựu và tiến bộ của khoa học và công nghệ cũng làm thay đổi nhận thức của các chính phủ về vai trò và trách nhiệm trong giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu như chiến tranh, hòa bình, bảo vệ môi trường, chống đói nghèo và các thảm họa thiên nhiên.v.v.
Thứ bảy, tư duy lại quan niệm cai trị và đổi mới mô hình cai trị sang quản trị, quản trị tốt. Do ảnh hưởng của xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế, khoa học và công nghệ, sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nước trong khu vực và trên thế giới, giữa khu vực công và khu vực tư về thị trường, chất lượng sản phẩm và nguồn nhân lực; sự cồng kềnh, kém hiệu quả của bộ máy quản lý khu vực công (khu vực nhà nước); kinh tế thị trường ngày càng mở rộng và mang tính quốc tế cao; trình độ dân trí ngày càng nâng cao và yêu cầu dân chủ hóa đời sống xã hội ngày càng phát triển; khủng hoảng kinh tế và sự xuất hiện các lý thuyết mới về phát triển làm nảy sinh các cuộc tranh luận kéo dài về nhà nước và thị trường dẫn đến yêu cầu phải xác định lại chức năng, vai trò của nhà nước, mối quan hệ giữa nhà nước với người dân… buộc hành chính công truyền thống phải chuyển đổi sang quản lý công, quản lý công mới và cuối cùng chuyển sang quản trị nhà nước tốt.
Hành chính công hiện đại không chỉ nhấn mạnh tính hiệu quả mà bao hàm cả những ý tưởng và trách nhiệm, sự tham gia và sự trao quyền lực hợp pháp. Hiệu quả hành chính công sẽ cao hơn nếu các nhà quản lý sẵn sàng đáp ứng nhu cầu và sự lựa chọn của người dân; các cơ quan, những người có vai trò trong quản lý nhà nước chịu trách nhiệm về sự đúng đắn các quyết định của mình. Mục đích của hành chính công hiện đại là thiết lập một khuôn khổ trong đó hoạt động của chính phủ được cải thiện cả hiệu quả và trách nhiệm. Nội dung, yêu cầu quản lý như vậy được quan niệm là quản trị nhà nước. Đây là khái niệm với nội hàm rộng, gồm các mối quan hệ của các thể chế, thiết chế: nhà nước và thị trường, khu vực công và khu vực tư, chính phủ và công dân; chính trị, xã hội, quản trị nhà nước xem là một chiến lược trong hành chính công hiện đại. Đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực của nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi của công dân thông qua các hoạt động hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra nhằm đạt được mục tiêu của nhà nước. Quản lý, quản trị nhà nước không phải là cai trị, cấm đoán mà là quản trị bằng dân chủ, sự mở rộng tham gia của người dân vào quản trị nhà nước, sử dụng có hiệu quả cao các công cụ thể chế, chính sách và các phương pháp, kỹ năng, kỹ trị hiện đại nhằm tạo điều kiện cho kinh tế – xã hội phát triển, tạo thuận lợi cho các hoạt động của người dân và doanh nghiệp cho sự phát triển bền vững của đất nước.
1.2. Những đặc trưng cơ bản của quản trị nhà nước tốt
Các đặc trưng cơ bản của quản trị nhà nước tốt được phản ánh trong quan niệm của các tổ chức quốc tế như:
– Quan niệm của Ngân hàng Thế giới: tiến trình hoạch định chính sách công khai và có dự đoán trước; hành chính công chuyên nghiệp; bộ máy hành pháp có trách nhiệm giải trình; sự tham gia tích cực của người dân vào hoạt động công; luật pháp công bằng.
– Quan niệm của Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA): trách nhiệm giải trình về mặt tài chính ở cấp độ vĩ mô và đối với hoạt động của tổ chức ở cấp vi mô; tính minh bạch, đặc biệt là trong tiến trình phân bổ ngân sách, mua sắm công; luật pháp công bằng, trong đó có một khuôn khổ pháp lý công bằng, ổn định, có thể dự đoán được và được công chúng biết đến; sự tham gia của người dân vào việc hình thành các chiến lược phát triển có ảnh hưởng đến cộng đồng.
Tóm lại, quản trị nhà nước tốt là việc thực hiện các công việc của nhà nước có hiệu quả với sự tham gia của nhiều chủ thể trong xã hội, thỏa mãn nhu cầu và bảo đảm quyền của công dân, tổ chức.
Từ quan niệm trên có thể rút ra các đặc trưng cơ bản của quản trị nhà nước tốt như sau:
Thứ nhất, huy động, bảo đảm sự tham gia của các chủ thể trong xã hội, nhất là người dân vào quản trị nhà nước. Đặc trưng tiêu biểu nhất của mô hình này là tăng cường sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội đối với hoạt động của hệ thống hành chính từ trung ương đến địa phương. Các cá nhân, tổ chức trong xã hội có thể tham gia vào hoạt động của chính phủ (cụ thể, tham gia vào việc ban hành các quyết định hành chính, các chính sách, biện pháp hành động) một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người đại diện hoặc các tổ chức hợp pháp.
Thứ hai, quản trị theo tinh thần nhà nước pháp quyền: quản trị nhà nước tốt đòi hỏi các quy định pháp luật không chỉ đầy đủ mà còn đảm bảo tính khách quan và công bằng. Pháp luật phải tạo thành khung pháp lý an toàn để bảo vệ quyền con người, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của các dân tộc thiểu số, những đối tượng yếu thế. Đòi hỏi có hệ thống tòa án xét xử độc lập, nghiêm minh, công bằng và khách quan đối với các vi phạm pháp luật, không loại trừ bất cứ trường hợp nào.
Thứ ba, tính công bằng, minh bạch: chính phủ quản trị tốt là chính phủ phục vụ công bằng, bình đẳng đối với mọi đối tượng khác nhau trong xã hội, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính… Tính minh bạch trong quản trị nhà nước tốt thể hiện ở việc các hoạt động của chính phủ phải liên tục được thông tin chính xác, kịp thời tới mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội một cách đầy đủ, dễ truy cập, dễ hiểu. Quyền được thông tin là quyền chính đáng của người dân.
Thứ tư, thích ứng linh hoạt đối với sự thay đổi của môi trường quản trị: một chính phủ quản trị tốt là có thể đối mặt và giải quyết tốt mọi thay đổi. Những thay đổi đó có thể diễn ra bên trong hệ thống chính phủ của mỗi quốc gia, cũng có thể do sự tác động của môi trường quốc tế trước xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa. Sự thích ứng của chính phủ không chỉ thể hiện ở sự kịp thời, đúng đắn của các quy định pháp luật mà còn biểu hiện rõ nét ở sự sáng tạo, linh hoạt đưa ra các quyết định quản trị đáp ứng yêu cầu của sự thay đổi và mong đợi của người dân.
Thứ năm, sự định hướng và đồng thuận: quản trị tốt phải chỉ ra được cách thức để tìm được sự đồng thuận của xã hội đối với chính phủ thông qua những hoạt động nhằm điều hòa lợi ích của công dân, của các tổ chức và của nhà nước, để thiết lập một xã hội đồng thuận và bảo đảm lợi ích của cả cộng đồng.Đồng thời, chính phủ cần quan tâm đến những chính sách mang tầm chiến lược để hướng tới sự phát triển bền vững, vừa giữ được ổn định xã hội, tăng trưởng kinh tế, vừa giữ gìn môi trường trong sạch cho thế hệ tương lai. Điều này đòi hỏi các nhà quản trị cần hiểu rõ những đặc trưng về lịch sử, văn hóa, con người, các nguồn lực của một xã hội hoặc của cộng đồng.
Thứ bảy, hiệu lực và hiệu quả: quản trị tốt có nghĩa là kết quả của quá trình ban hành và thực hiện các quy định pháp luật, chính sách phải đảm bảo sự tuân thủ đối với các đối tượng chịu sự điều chỉnh. Đồng thời, kết quả đạt được phải đáp ứng được nhu cầu của xã hội trong việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực, sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái. Quản trị có hiệu lực, hiệu quả nghĩa là tạo ra lợi thế cạnh tranh cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Với những đặc trưng trên, có thể khẳng định quản trị tốt là một mô hình lý tưởng nhưng rất khó đảm bảo thực hiện một cách tuyệt đối với bất kỳ chính phủ nào. Tuy nhiên, để đạt được sự phát triển bền vững, việc nghiên cứu và áp dụng mô hình này vào thực tiễn là một yêu cầu cần thiết đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay.
2. Những vấn đề đối với quản lý nhà nước ở Việt Nam
Cả hành chính công, quản lý công, quản lý công mới và quản trị nhà nước đều có các chức năng cơ bản là: hoạch định, tổ chức lãnh đạo (chỉ đạo) và kiểm tra đều có mục tiêu hướng tới xây dựng một nền hành chính năng động, tinh gọn, minh bạch, hiệu quả cao và thể hiện chức năng phục vụ của nhà nước đối với công dân thay cho chức năng cai trị trong hành chính công truyền thống. Sự phát triển và chuyển đổi căn bản đó chính là sự đổi mới cách thức quản lý dân chủ, áp dụng mạnh mẽ các phương pháp, kỹ năng và kỹ trị của quản lý, quản trị của khu vực tư vào khu vực công; sự hợp tác chặt chẽ giữa khu vực công và khu vực tư vào giải quyết các vấn đề mang tính quốc gia. Do đó, quản lý nhà nước hay quản lý công ở Việt Nam cần nghiên cứu vận dụng mô hình quản lý công mới và mô hình quản trị nhà nước tốt vào thực tiễn quản lý nhà nước ở Việt Nam theo hướng:
Một là, cân nhắc sửa thuật ngữ (khái niệm) “quản lý nhà nước” thành “quản trị nhà nước”. Bởi hiện nay thuật ngữ quản trị được sử dụng phổ biến ở các nước trên thế giới như: quản trị nhà nước, quản trị doanh nghiệp, quản trị tổ chức, quản trị văn phòng, quản trị kinh doanh, quản trị các lĩnh vực hoạt động của nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội… và trở thành chức năng quan trọng của mọi tổ chức và mọi hoạt động, do phát sinh từ sự phân công lao động xã hội, từ sự cần thiết phải phối hợp hành động và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cá nhân và tổ chức dưới sự điều khiển của các nhà quản trị nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu chung của tổ chức.
Mặt khác, để phù hợp với thông lệ quốc tế và quá trình hội nhập quốc tế cần sử dụng thuật ngữ quản trị nhà nước thay cho thuật ngữ quản lý nhà nước đang sử dụng ở nước ta. Điều này cũng phù hợp với tinh thần Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: “Xây dựng và hoàn thiện nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả”. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2030 cũng xác định: “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành”.
Hai là, cần vận dụng các đặc trưng, đặc điểm của mô hình quản lý công mới và mô hình quản trị nhà nước tốt vào quản trị nhà nước như: mở rộng, huy động sự tham gia rộng rãi của các chủ thể trong xã hội vào quản trị nhà nước; quản trị theo tinh thần nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các quy định của pháp luật phải rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện, tránh các quy định gây phiền hà, khó khăn cho người dân và doanh nghiệp; đảm bảo tính công bằng, minh bạch trong quản trị nhà nước; cần có sự thích ứng, linh hoạt đối với những thay đổi của môi trường quản trị.
Quản trị nhà nước trên cơ sở định hướng rõ ràng và sự đồng thuận cao; đề cao trách nhiệm báo cáo và giải trình; phải đặc biệt chú ý đến hiệu lực, hiệu quả trong quản trị nhà nước; thực hiện sự phân cấp, phân quyền mạnh mẽ giữa Trung ương và chính quyền địa phương; đẩy mạnh xã hội hóa các đơn vị sự nghiệp công lập, các hoạt động dịch vụ công.
Bốn là, để quản trị nhà nước có hiệu quả cần đặc biệt chú ý đến các công cụ quản lý hiệu quả như: thể chế, chính sách, tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực chất lượng cao, công cụ tài chính và các nguồn lực khác.
Năm là, quản trị nhà nước phải có sự lựa chọn, áp dụng hợp lý các phương pháp giáo dục; phương pháp tâm lý; phương pháp tổ chức; phương pháp kinh tế; phương pháp hành chính và các phương pháp quản trị hiện đại như: quản lý theo mục tiêu (MBO); phương pháp quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn (ISO); phương pháp quản lý chất lượng toàn diện (TMQ) và phương pháp quản lý theo kết quả.
Sáu là, cần vận dụng các nghệ thuật trong quản trị như: nghệ thuật dùng người, nhất là người có tài năng; nghệ thuật tận dụng cơ hội; nghệ thuật vượt qua thách thức và sự thay đổi; nghệ thuật quản trị rủi ro; nghệ thuật ra quyết định; nghệ thuật xử lý, phân tích thông tin; nghệ thuật đàm phán; nghệ thuật giao tiếp; nghệ thuật quan hệ công chúng (PR) trong quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước nói chung và Chính phủ nói riêng./.
1. Giáo trình Quản lý học đại cương, Nxb Khoa học kỹ thuật, H.2010.
2. Giáo trình Quản lý công, Nxb Bách khoa Hà Nội, H.2015.
3. Nguyễn Hữu Tri, Quản trị học, Nxb Khoa học xã hội, H.2013.
4. Devit Auxbot và Tet Gheblo, Đổi mới hoạt động của Chính phủ (sách tham khảo) Nxb CTQG, H.1997.
5. Văn Tất Thu, Cải cách bộ máy hành chính nhà nước – thực trạng và các nhiệm vụ đặt ra hiện nay, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 5/2018.
6. Văn Tất Thu, Vai trò của nhà nước trong cung ứng dịch vụ công, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 2/2018.
7. Văn Tất Thu, Quá trình phát triển hành chính công-những vấn đề đặt ra hiện nay, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 5/2020.
PGS.TS Văn Tất Thu, nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ
Theo: https://tcnn.vn/
Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Chất Nguyên Nhân Của Tham Nhũng Và Những Vấn Đề Đặt Ra Ở Việt Nam trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!