Xu Hướng 4/2023 # Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Xã Trên Địa Bàn Tỉnh Sơn La Hiện Nay # Top 7 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 4/2023 # Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Xã Trên Địa Bàn Tỉnh Sơn La Hiện Nay # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Xã Trên Địa Bàn Tỉnh Sơn La Hiện Nay được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Tin Cải cách hành chính

Lượt xem: 12875

Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã trên địa bàn tỉnh Sơn La hiện nay

Cấp xã có vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo và giữ vững ổn định chính trị – xã hội để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTW Đảng khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn; Kết luận số 64-KL/TW, Hội nghị lần thứ bảy BCHTW Đảng khóa XI “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở” ; Nghị định 92/2010/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người  hoạt động không chuyên trách ở xã,…Trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh Sơn La đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã trên địa bàn tỉnh.

    Tính đến ngày 30/6/2019, tổng số cán bộ công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh 4.557 người, trong đó: Nữ 990 người chiếm 21,72%, đảng viên 4.020 người chiếm 88,21%, người dân tộc thiểu số 3.926 người chiếm 86,2%, trình độ văn hóa phổ thông 4.333 người chiếm 95%, trình độ chuyên môn trung cấp trở lên 4.382 người chiếm 96,16% (tăng 15,8% so với năm 2015); trình độ lý luận chính trị trung cấp trở lên 3.205 người chiếm 70,33% (tăng 26,65% so với năm 2015); trình độ tin học đã qua bồi dưỡng 3.440 người chiếm 75,49%; trình độ ngoại ngữ đã qua bồi dưỡng 1.219 người chiếm 27%.

    Nhìn chung, công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chế độ, chính sách cán bộ, công chức cấp xã, đã được các cấp uỷ Đảng, chính quyền quan tâm chỉ đạo, thực hiện, từ đó chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã từng bước được nâng lên, ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực hiện nhiệm vụ trong tình hình mới. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã còn một số hạn chế, cụ thể: Cán bộ, công chức cấp xã chưa được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ từ trung cấp trở lên còn chiếm tỷ lệ 3,84%; năng lực lãnh đạo của một số cán bộ cấp xã, nhất là cán bộ chủ chốt còn nhiều hạn chế, thiếu năng động, chủ động giải quyết công việc; năng lực và kỹ năng hành chính, kỹ năng vận dụng các kiến thức đã được đào tạo, bồi dưỡng của một số cán bộ, công chức vào công việc cụ thể còn yếu; công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ, công chức còn có mặt hạn chế, tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ còn thấp; việc đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức làm căn cứ để bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức ở một số nơi thực hiện chưa nghiêm,…      Để tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong giai đoạn tới, cấp ủy, chính quyền các cấp cần tiếp tục thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:      Thứ nhất, đổi mới, nâng cao chất lượng tuyển dụng và bố trí, sử dụng công chức cấp xã; sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu chuẩn cán bộ cấp xã; đổi mới, quy trình lựa chọn, bầu cử cán bộ cấp xã.      Thứ hai, tăng cường, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; đào tạo, bồi dưỡng phải theo quy hoạch, gắn với việc sử dụng; đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, chú trọng việc nâng cao kỹ năng hành chính, kỹ năng xử lý và giải quyết vấn đề cho cán bộ, công chức cấp xã.      Thứ ba, đổi mới công tác đánh giá cán bộ, công chức cấp xã; việc đánh giá phải đảm bảo nội dung, quy trình theo quy định, công khai, dân chủ với tiêu chuẩn rõ ràng, minh bạch; tạo điều kiện để nhân dân tích cực tham gia giám sát, đánh giá và góp ý cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Gắn việc đánh giá với công tác bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức.       Thứ tư, tiếp tục thực hiện luân chuyển cán bộ nhằm từng bước khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ địa phương. Việc thực hiện điều động, luân chuyển lãnh đạo các phòng, ban của huyện về giữ các chức danh chủ chốt ở các xã có tình hình phức tạp, yếu kém trong hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở; đồng thời luân chuyển cán bộ từ xã lên huyện nhằm kết hợp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xã dự nguồn các chức danh chủ chốt ở cơ sở.       Thứ năm, Tăng cường công tác quản lý và tiếp tục nâng cao kỷ luật, kỷ cương hành chính, đạo đức công vu, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức cấp xã. Nguồn: Sở Nội vụ

Thuận Châu họp bàn giải pháp nâng cao chất lượng…

Thuận Châu tăng cường kiểm tra, tháo gỡ khó khăn…

Thuận Châu: Nỗ lực phát triển xây dựng Chính phủ…

Thuận Châu hội nghị nâng cao chất lượng giải…

Đoàn kiểm tra cải cách hành chính, công chức,…

1

 2 

Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp Việt Nam Trong Giai Đoạn Hiện Nay

TÓM TẮT: Việt Nam hiện là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, việc tham gia hội nhập kinh tế quốc tế giúp các doanh nghiệp mở rộng các ngành nghề, các sản phẩm xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu… nhưng đồng thời cũng mang lại nhiều thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam, như sản phẩm có đáp ứng được quy tắc xuất xứ hàng hóa… Chính phủ đang hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp, song có nắm bắt được cơ hội hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần có những chiến lược phát triển cụ thể, trong đó nâng cao năng lực cạnh tranh để thích ứng với môi trường kinh doanh mới là yếu tố quyết định sự “sống còn” của doanh nghiệp. Trong nội dung bài viết này, tác giả đề cập đến một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.Từ khóa: Năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp Việt Nam, thị trường xuất khẩu.

1. Giới thiệuCạnh tranh là đặc trưng nền kinh tế thị trường khi cung – cầu hàng hóa và giá cả hàng hóa là yếu tố quyết định. Các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh đều mong muốn có các điều kiện kinh doanh thuận lợi nhất, như: tối thiểu hóa chi phí đầu vào (chi phí nguyên vật liệu đầu vào thấp, chi phí nhân công rẻ)… điều này làm cho các doanh nghiệp có sự “tìm kiếm”, “ganh đua” nhau để đi tìm những điều kiện thuận lợi nhất. Doanh nghiệp phải tìm nguồn nguyên liệu rẻ, nâng cao nâng suất lao động, cải tiến máy móc thiết bị… Chính điều này thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tạo ra nhiều lợi ích hơn cho xã hội, người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn sản phẩm hay dịch vụ hơn và được sử dụng những sản phẩm hay dịch vụ tốt hơn.Theo nhà kinh tế học Michael Poter của Mỹ thì: Cạnh tranh (kinh tế) là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi.Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn.Năng lực cạnh tranh tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp. Trên thực tế, không có doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn tất cả các yêu cầu của khách hàng nên doanh nghiệp phải nhận biết được những điểm mạnh, điểm yếu của mình để có thể phát huy những điểm mạnh và hạn chế những yếu kém. Điểm mạnh và điểm yếu của một doanh nghiệp được thể hiện thông qua các lĩnh vực hoạt động chủ yếu như: công nghệ, quy trình sản xuất, nhân sự, chiến lược marketing…2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nayTrong bối cảnh hội nhập kinh tế như hiện nay, việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên quy mô toàn cầu là tất yếu khách quan và áp lực cạnh tranh này tác động lên tất cả các doanh nghiệp chứ không chỉ riêng Việt Nam. Nếu xét trên góc độ vĩ mô: việc hội nhập kinh tế quốc tế hay ký kết các hiệp định thương mại tự do mang lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp, nhưng cũng có nhiều thách thức. Ví dụ như, theo hiệp định gần nhất vừa mới có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 14/1/2019 là Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) thì có 3 nước lần đầu tiên Việt Nam có quan hệ hiệp định thương mại tự do là Canada, Mexico, Peru. Điều này mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường mới, có cơ hội đa dạng hóa nguồn nguyên vật liệu đầu vào (như sợi trong ngành Dệt may),… Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải đối mặt với các thách thức, như: về năng lực cạnh tranh còn yếu của một số ngành dịch vụ, quảng cáo, các mặt hàng nông sản như thịt lợn, thịt gà…; về thể chể chính sách của Việt Nam chưa hoàn thiện, chất lượng nguồn lao động chưa cao… Hội nhập là cơ hội hay thách thức thì phụ thuộc vào khả năng nắm bắt cơ hội và khả năng vượt qua thách thức của Việt Nam.Mấu chốt quan trọng đầu tiên để Việt Nam có thể nâng cao năng lực cạnh tranh đó chính là cải thiện chất lượng thể chế – chính sách, cải thiện môi trường kinh doanh để hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển.Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công bố trong Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2018 (The Global Competitiveness Report 2018), thì năm 2018, Việt Nam đứng vị trí thứ 77/140 quốc gia và vùng lãnh thổ trong bảng xếp hạng, tụt 3 bậc so với năm trước, ở vị trí 74/135.

Qua các bảng xếp hạng và đánh giá có thể thấy Việt Nam đạt điểm cao nhất là 81 điểm ở tiêu chí “sức khỏe” và điểm thấp nhất là 33 điểm ở tiêu chí “năng lực sáng tạo”.3. Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh từ phía doanh nghiệpThứ nhất, về phía nhà quản trị doanh nghiệp: Bản thân mỗi chủ doanh nghiệp cần có ý thức nâng cao trình độ học vấn, các kiến thức chuyên ngành, kiến thức văn hóa, kinh tế, pháp luật và xã hội… Theo kết quả điều tra kinh tế của Tổng cục Thống kê: các doanh nghiệp nhỏ, vừa và siêu nhỏ chiếm tỷ trọng lớn nhất 98,1% (507,86 nghìn doanh nghiệp); trong đó doanh nghiệp vừa có gần 8,5 nghìn doanh nghiệp chiếm 1,6%; doanh nghiệp nhỏ là 114,1 nghìn doanh nghiệp chiếm 22,0% và doanh nghiệp siêu nhỏ là 385,3 nghìn doanh nghiệp, chiếm cao nhất với 74,4%. Như vậy, có thể thấy các hiện nay ở nước ta tỷ lệ các doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm tỷ lệ lớn nhất, các doanh nghiệp này đa phần đi lên các hộ kinh doanh cá thể hoặc xuất phát từ những ý tưởng kinh doanh của cá nhân các chủ doanh nghiệp. Các cá nhân hay nhóm cá nhân này có thể có nhiều ý tưởng kinh doanh, có vốn,… có đủ các điều kiện để tiến hành hoạt động sản xuất – kinh doanh, nhưng họ lại thiếu những đề án kinh doanh, thiếu mô hình kinh doanh thực tế, thiếu kiến thức về quản lý tài chính kế toán, về các rủi ro pháp lý của doanh nghiệp… thậm chí là một trong số đó còn “vướng rào cản” ngay từ các thủ tục hành chính.Doanh nhân – những người chủ doanh nghiệp hơn bất cứ ai trong doanh nghiệp cần có ý thức nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn về lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mình, cần tìm hiểu những kiến thức mới, những ứng dụng khoa học kỹ thuật để cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí… Họ cũng cần được trang bị đầy đủ các kiến thức về tài chính kế toán, quản trị doanh nghiệp, quản lý nhân sự, hiểu biết về kinh tế phát luật, văn hóa xã hội, văn hóa doanh nghiệp… Họ cần thường xuyên cập nhật những kiến thức mới, trau dồi những kỹ năng cần thiết để có đủ sức “đứng vững” và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.Trong những năm gần đây, có rất nhiều các tổ chức đào tạo đã tổ chức các khóa học đào tạo doanh nhân dành cho giám đốc và nhà quản trị doanh nghiệp, các lớp đào tạo chuyên sâu về kế toán tài chính, phân tích báo cáo tài chính, quản trị doanh nghiệp… mà đối tượng học chủ yếu là các chủ doanh nghiệp. Qua đó, cũng có thể thấy các chủ doanh nghiệp cũng đang hướng đến một sự “bài bản” trong việc quản trị doanh nghiệp để nâng cao vị thế của mình.Thứ hai, về phía doanh nghiệp: Cũng xuất phát từ nhận thức của nhà quản trị doanh nghiệp nhưng xét trên góc độ doanh nghiệp nói chung thì để nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp cần nâng cao trình độ tổ chức quản lý doanh nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn về sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp cũng cần có những chiến lược sản xuất phù hợp để tận dụng cơ hội sản xuất, xuất khẩu trong thời kỳ kinh tế hội nhập như hiện nay. Cụ thể như sau:Một là, nâng cao trình độ tổ chức quản lý doanh nghiệp: trong bối cảnh hiện nay, việc áp dụng phần mềm công nghệ thông tin vào quản lý doanh nghiệp là điều tất yếu và nó mang lại hiệu quả cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc áp dụng những phần mềm quản lý với chi phí lớn có lẽ không phù hợp với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vậy nên, trước hết các doanh nghiệp cần tìm cho mình những nhân viên phù hợp với yêu cầu công việc cụ thể. Sau đó, nhà quản trị cần có sự hiểu biết về năng lực, trình độ của mỗi nhân viên của mình để có sự phân tầng hệ thống nhân viên, phân chia công việc và giao trách nhiệm cho các bộ phận cụ thể. Hai là, nâng cao chất lượng các yếu tố đầu vào: các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất gồm các yếu tố về vốn, nguyên vật liệu đầu vào, nguồn nhân lực và trình độ khoa học công nghệ. Doanh nghiệp cần tìm những nguồn nguyên vật liệu tốt để đảm bảo chất lượng sản phẩm sản xuất ra nhưng bên cạnh đó cũng nên tìm kiếm nguồn nguyên vật liệu mới, vật liệu thay thế với chất lượng đảm bảo. Ví dụ: Hiện nay, nguồn nguyên vật liệu đầu vào của ngành Dệt may hiện nay đang bị gò bó đa số là nhập khẩu từ Trung Quốc, Nhật Bản… khi mở rộng quan hệ quốc tế, Việt Nam sẽ có thể nhập khẩu len từ Australia… Nguồn vốn dồi dào với những phương án sử dụng vốn hợp lý cũng ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp có đủ nguồn lực tài chính thì doanh nghiệp có nhiều cơ hội lựa chọn nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, có nhiều chính sách bán hàng phù hợp để mở rộng mạng lưới khách hàng, tăng doanh thu bán hàng. Trong các yếu tố đầu vào thì nguồn nhân lực là yếu tố nòng cốt để thúc đẩy tăng trưởng. Mọi cải cách, cải tiến đều phải bắt đầu từ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, do đó các doanh nghiệp cần chủ động trang bị cho nhân viên của mình những kiến thức cần thiết để sẵn sàng cho các dự định trong tương lai. Trình độ khoa học công nghệ và máy móc trang thiết bị cũng là yếu tố nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác, bởi vì với trang thiết bị hiện đại doanh nghiệp cần ít lao động hơn, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm nguyên vật liệu đầu vào, chi phí ít hơn, sản phẩm đạt chất lượng tốt hơn…Ba là, nâng cao năng lực cạnh tranh bằng nâng cao chất lượng sản phẩm, giá bán sản phẩm ổn định, các chính sách bán hàng và sau bán hàng… doanh nghiệp cần xây dựng tiêu chuẩn về sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường, cần có chiến lược lâu dài trong việc “định vị thương hiệu”, tạo dựng uy tín cho riêng mình, doanh nghiệp cũng cần có những chiến lược sản xuất phù hợp để tận dụng cơ hội sản xuất, xuất khẩu trong thời kỳ kinh tế hội nhập như hiện nay. Doanh nghiệp cần tìm hiểu thị trường, đặc biệt là các thị trường mới để tận dụng được các cơ hội mà hội nhập kinh tế mang lại như xem xét các quy tắc xuất xứ để được hưởng ưu đãi và vượt qua các hàng rào thuế phi thuế quan, các biện pháp phòng vệ thương mại của thị trường với các nước đã ký hiệp định tự do thương mại với Việt Nam. Nếu các doanh nghiệp chủ động nâng cao chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của các nước này thì cơ hội tiếp cận và mở rộng trường sang các nước đó là rất cao.Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần mở rộng quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp khác, với cộng đồng doanh nghiệp để cùng nhau phát triển và hội nhập kinh tế. 4. Kết luậnQua phân tích ở trên ta nhận thấy, để nâng cao năng lực cạnh tranh thì các doanh nghiệp nói chung và bản thân nhà quản trị doanh nghiệp nói riêng cần nỗ lực và nỗ lực hơn nữa trong việc nâng cao nhận thức, trình độ của bản thân để quản lý, điều hành và quản trị doanh nghiệp. Đồng thời, nâng cao trình độ tổ chức quản lý doanh nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn về sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường và doanh nghiệp cũng cần có những chiến lược sản xuất phù hợp để tận dụng cơ hội sản xuất, xuất khẩu trong thời kỳ kinh tế hội nhập như hiện nay. Theo ông Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI): “Các doanh nghiệp cần phải thay đổi quản trị và nắm bắt tốt thông tin về thể chế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Hãy tập trung vào sáng tạo, tìm lợi nhuận chân chính. Doanh nghiệp phải đảm bảo sự minh bạch, liêm chính, thay vì tìm những mối quan hệ để tìm kiếm lợi nhuận bất minh. Có như thế doanh nghiệp mới bắt kịp yêu cầu của giai đoạn mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:1. Chính phủ (2014), (2015), (2018), Nghị quyết số 19/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.2. Chính phủ (2019), Nghị quyết số 02/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021.3. Klaus Schwab, World Economic Forum (2018), The Global Competitiveness Report.4. Tổng cục Thống kê, (2017), Báo cáo kết quả điều tra kinh tế năm 2017.5. Và một số bài viết trên http://vov.vn/

SITUATIONS AND SOLUTIONS TO IMPROVE THE COMPETITIVENESS OF VIETNAMESE ENTERPRISES IN THE CURRENT DEVELOPMENT PERIOD

Master. Kieu Thi TuanFaculty of Accounting – Auditing, Banking Academy

ABSTRACT:Vietnam is a member of many international organizations and the country’s international economic integration has helped enterprises expand their businesses, increase their exports and enter into new international markets. However, this integration process also brings many challenges for Vietnamese enterprises, such as strict rules of origin. Vietnamese government has provided supports for enterprises but enterprises need to seize business opportunities by themselves. It is necessary for enterprises to have specific development strategies. In which, improving the competitiveness of enterprises in order to adapt to the business environment is the determining factor of the survival of enterprises. This article presents some solutions to improve the competitiveness of Vietnamese enterprises in the current development period.Keywords: Competitiveness, Vietnamese enterprises, export markets.

Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dạy Và Học Ngoại Ngữ Trong Hệ Thống Giáo Dục Quốc Dân

Ngày 8/12, Bộ GD&ĐT tổ chức Tọa đàm về “Giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ – đặc biệt là tiếng Anh trong hệ thống giáo dục quốc dân”. Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ chủ trì Tọa đàm.

Cùng dự có Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc, lãnh đạo các đơn vị chức năng của Bộ GD&ĐT, lãnh đạo Ban quản lí Đề án ngoại ngữ quốc gia và đại diện các tổ chức có uy tín trong lĩnh vực dạy và học ngoại ngữ trong và ngoài nước.

Bộ trưởng Bộ GD&ĐT phát biểu kết luận buổi toạ đàm. Ảnh: VA

Đánh giá về chỉ số thông thạo Anh ngữ (EPI) của Việt Nam trong những năm gần đây, bà Cao Phương Hà, Giám đốc Tổ chức Giáo dục quốc tế EF (Education First) tại Việt Nam cho biết, theo Bảng xếp hạng chỉ số thông thạo Anh ngữ của 88 quốc gia trên thế giới do EF thực hiện, năm 2018, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 7 ở châu Á.

So với năm đầu tiên tham gia đánh giá (năm 2011) thì những năm gần đây, Việt Nam liên tục vượt hạng về chỉ số thông thạo Anh ngữ. Điều này chứng minh việc dạy và học tiếng Anh ở Việt Nam đã có bước cải thiện đáng kể, cần tiếp tục được duy trì và phát huy hơn nữa.

Bà Hà cũng giải thích thêm, sở dĩ năm nay vị trí của Việt Nam thấp hơn năm ngoái là do số lượng quốc gia tham gia đánh giá nhiều hơn năm ngoái, chứ thực tế các chỉ số của năm 2018 đều cao hơn năm 2017 và những năm trước đó.

Hầu hết các ý kiến tại tọa đàm thống nhất cho rằng, giáo viên đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ nên việc xây dựng đội ngũ giáo viên đạt yêu cầu về chất lượng và đảm bảo đủ số lượng là cần thiết. Bên cạnh đó, để cải tiến chương trình học hiện nay, cần gắn việc dạy ngoại ngữ với các môn học khác để tạo hứng thú cho học sinh.

Việc dạy và học ngoại ngữ cần phải thiết thực, ứng dụng

Phát biểu kết luận Tọa đàm, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ đánh giá cao giải pháp mà các đại biểu đã đưa ra nhằm “hiến kế” cho việc nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Bộ trưởng lưu ý đến việc chuẩn hóa chương trình, học liệu và tính thiết thực của việc dạy học tiếng Anh. Hiện nay, các chương trình, học liệu học tiếng Anh tại Việt Nam rất đa dạng, nhưng cần có một chương trình chuẩn hóa, thiết thực, tránh hàn lâm để học sinh dễ tiếp cận, không phải đọc nhiều sách, phụ huynh không phải mua nhiều sách, gây lãng phí. Chương trình này phải tương đối phổ biến và cố gắng số hóa để các trường khu vực vùng sâu, vùng xa, thiếu giáo viên dạy ngoại ngữ đạt chuẩn vẫn có thể tiếp cận được.

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho rằng, việc dạy và học ngoại ngữ cần phải thiết thực, ứng dụng, coi ngoại ngữ là công cụ để giao tiếp, học thực chất, tránh tình trạng học đối phó, học vì bằng cấp, chứng chỉ. Cần xây dựng một cộng đồng nói tiếng Anh, khơi dậy một môi trường mà mọi người thích nói tiếng Anh, thích đọc tiếng Anh, một xã hội học tập, tạo thành phong trào sâu rộng, người biết nhiều dạy cho người biết ít, không chỉ với học sinh, sinh viên mà cả người trưởng thành, toàn dân đều có thể học ngoại ngữ.

Bên cạnh đó, mục tiêu học ngoại ngữ của mỗi người khác nhau nên cần đa dạng hóa các mô hình giảng dạy theo hướng, các trường phổ thông dạy nội dung cơ bản, mang tính ứng dụng thực tiễn cao. Những học sinh có nhu cầu sử dụng ngoại ngữ trong học tập, nghiên cứu hoặc đi du học có thể tìm đến các trung tâm đào tạo chuyên sâu ngoài nhà trường.

Về vấn đề khảo thí, Bộ trưởng nhấn mạnh, Bộ sẽ xem xét việc xây dựng trung tâm khảo thí độc lập, uy tín, có thể mời các tổ chức kiểm định quốc tế có kinh nghiệm để đánh giá chất lượng của các trung tâm giảng dạy ngoại ngữ tại Việt Nam hiện nay, đảm bảo khách quan, không để thả nổi, buông lỏng chất lượng. Các trung tâm đều phải kiểm định và được xếp hạng khi tham gia hoạt động giảng dạy.

Bộ GD&ĐT cũng đang xem xét các giải pháp đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, Giáo viên phải được chuẩn hóa, bồi dưỡng đào tạo theo thực tế, phù hợp theo yêu cầu của từng cấp học. Đổi mới phương thức bồi dưỡng giáo viên bằng công nghệ, giảm cách bồi dưỡng truyền thống không thiết thực. Đồng thời tăng cường xã hội hóa, tạo động lực cho giáo viên tự học để nâng cao kiến thức.

“Tất cả các giải pháp đặt ra đều hướng đến mục đích cuối cùng là tạo môi trường tốt nhất cho việc dạy và học ngoại ngữ đạt hiệu quả. Nếu thế hệ trẻ có được kỹ năng tiếng Anh cùng kiến thức CNTT vững chắc thì chắc chắn sẽ hiện thực hóa được rất nhiều khát vọng. Chúng ta sẽ làm được nếu thực hiện tốt ngay từ bây giờ. Để trong 20 năm tới, khi tiếng Anh tốt, CNTT mạnh thì chắc chắn nền giáo dục sẽ thay đổi” – Bộ trưởng nhấn mạnh./.

Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Cho Học Sinh Tiểu Học Huyện Tây Giang

ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY GIANG PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Đề tài: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh Tiểu học huyện Tây Giang

Người thực hiện : Chức vụ : Phó trưởng phòng Năm học : 2014-2015

I. Tên đề tài: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC CHOHỌC SINH TIỂU HỌC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TÂY GIANGII. Đặt vấn đề:Con người được vũ trang bằng những tri thức hiện đại sẽ là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế – xã hội. Do vậy giáo dục, đào tạo giữ vai trò cốt tử đối với mỗi quốc gia, phát triển giáo dục phải đi trước phát triển kinh tế. Sinh thời Hồ Chủ tịch đã nói: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Như vậy giáo dục đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành nhân cách của con người, nếu không quan trọng hoá vai trò của giáo dục thì nhân cách của con người sẽ không hình thành theo những chuẩn mực nhất định của xã hội. Hiện nay giáo dục cả nước nói chung và giáo dục huyện Tây Giang nói riêng đã đạt được những kết quả cao, điều đó phản ánh phần nào sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và của mọi người cho công tác giáo dục. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được thì vẫn còn tồn đọng những hạn chế khó tháo gỡ hoặc chưa tháo gỡ đối với giáo dục cả nước nói chung cũng như huyện nhà nói riêng. Điều cần quan tâm ở đây là chất lượng giáo dục ở cấp học nền tảng: Cấp Tiểu học. Nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực phát triển nhân tài cho công cuộc cách mạng của miền núi, từng bước mang lại nguồn ánh sáng cho đồng bào các dân tộc vùng cao. Qua nhiều năm công tác ở cơ sở và vị trí công tác hiện tại bản thân tôi mong muốn tìm ra những giải pháp cơ bản nhằm khắc phục phần nào những tồn đọng về chất lượng giáo dục tiểu học hiện nay nên đã mạnh dạn chọn và nghiên cứu đề tài: Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh Tiểu học trên địa bàn huyện Tây Giang.III. Cơ sở lý luận:Ngày nay loài người tiến bộ đang khao khát hướng tới một mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa xã hội nhằm nâng cao đáng kể chất lượng sống cho con người trong sự kết hợp hài hoà giữa điều kiện vật chất và điều kiện tinh thần, giữa mức sống cao và nếp sống đẹp, vừa an toàn, vừa bền vững cho tất cả mọi người, cho thế hệ ngày nay và muôn đời con cháu mai sau. Nói theo cách của Việt Nam: Thực hiện ” Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.Khi mà trí tuệ đã trở thành yếu tố hàng đầu thể hiện quyền lực và sức mạnh của một quốc gia, thì các nước trên thế giới đều ý thức được rằng giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội, mà thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế, phát triển xã hội. Các nước chậm tiến bộ muốn phát triển nhanh phải hết sức quan tâm đến giáo dục và đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho phát triển. Chỉ có một chiến lược phát triển con người đúng đắn mới giúp các nước thuộc thế giới thứ ba thoát khỏi sự nô lệ mới về kinh tế và công nghệ. Tổng Bí thư Đỗ Mười cũng đã nói nhân dịp khai giảng năm học 1995 – 1996: “Con người là nguồn lực quý báu nhất, đồng thời là mục tiêu cao cả nhất. Tất cả do con người và vì hạnh phúc của con người, trong đó trí tuệ là nguồn tài nguyên lớn nhất của quốc gia. Vì vậy, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài là vấn đề có tầm chiến lược, là yếu tố quyết định tương lai của đất nước”. Do vậy, giáo dục, đào tạo giữ vai trò cốt tử đối với mỗi quốc gia.Với tâm niệm giúp trẻ em Cơ tu được sống và trưởng thành như những con người tinh tế biết cách sống có trách nhiệm với đời, chúng tôi những người làm công tác lãnh đạo luôn đặt ra nhiều câu hỏi. Giáo dục tiểu học có ổn định và đảm bảo chất lượng thì toàn bộ nền giáo dục mới được ổn định, từng gia đình ổn định, xã hội cùng ổn định. IV. Cơ sở thực tiễn: Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục tiểu học được xem là nền tảng. Cũng như xây một ngôi nhà, cái nền có chắc ngôi nhà mới vững, cái nền không cứng, chắp vá ngôi nhà ắt xộc xệch. Trẻ em

Cập nhật thông tin chi tiết về Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Xã Trên Địa Bàn Tỉnh Sơn La Hiện Nay trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!