Xu Hướng 6/2023 # Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam Tăng Trưởng Nhanh Và Bền Vững # Top 9 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam Tăng Trưởng Nhanh Và Bền Vững # Top 9 View

Bạn đang xem bài viết Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam Tăng Trưởng Nhanh Và Bền Vững được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

(TBTCVN) – Báo cáo số liệu từ Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm (QLBH) Bộ Tài chính cho thấy, năm 2017,  thị trường BH tiếp tục tăng trưởng khả quan.

Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà (thứ 7 từ phải qua) chụp ảnh lưu niệm với các đại biểu tham dự Hội nghị thường niên thị trường BH năm 2017 Ảnh: H.T

Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với sự chỉ đạo, điều hành sát sao của Chính phủ, lãnh đạo Bộ Tài chính, sự quyết tâm cao của cơ quan quản lý bảo hiểm (BH) và sự đồng hành của các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, thị trường BH tiếp tục tăng trưởng khả quan. Tổng doanh thu toàn thị trường ước đạt 105.611 tỷ đồng, tăng trưởng 21,2% (so với năm 2016).

Tiếp tục đà tăng trưởng nhanh

Nhằm duy trì thị trường BH Việt Nam phát triển an toàn, lành mạnh, tại Hội nghị thường niên thị trường BH năm 2017, Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà đã yêu cầu Cục QLBH, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cũng như các DNBH phối hợp tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách; thực hiện tốt công tác quản lý, giám sát; chấn chỉnh những tồn tại được phát hiện trong quá trình thanh tra, kiểm tra; đồng thời tiếp tục triển khai các chương trình mục tiêu như: BH thiên tai, BH nông nghiệp, BH thủy sản, BH vi mô, BH hưu trí…

“Các DNBH cần đổi mới hơn nữa công tác quản trị DN theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế; quan tâm đến việc đa dạng hóa và phát triển sản phẩm, mở rộng các kênh phân phối như bancassurance, hệ thống đại lý, thương mại điện tử; hợp tác cạnh tranh lành mạnh và tuân thủ pháp luật trong quá trình hoạt động kinh doanh; thực hiện tốt việc chi trả quyền lợi BH cho các tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư không may gặp rủi ro…”, Thứ trưởng nhấn mạnh.

Theo đó, với sự chỉ đạo, điều hành sát sao của lãnh đạo Bộ Tài chính, sự quyết tâm cao của cơ quan quản lý BH và sự đồng hành của các DNBH, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, thị trường BH năm 2017 tiếp tục tăng trưởng khả quan. Tổng doanh thu toàn thị trường BH ước đạt 105.611 tỷ đồng, tăng trưởng 21,2%.

Đến nay thị trường đã có 62 DNBH, trong đó có 29 DNBH phi nhân thọ, 18 DNBH nhân thọ, 14 DN môi giới bảo hiểm, 2 doanh nghiệp tái bảo hiểm và 1 chi nhánh DNBH phi nhân thọ nước ngoài. Các DNBH đã tích cực đóng góp vào phát triển kinh tế – xã hội. Cụ thể, năm 2017, tổng số tiền các DNBH đầu tư trở lại nền kinh tế ước đạt 247.801 tỷ đồng, tăng 26,74%. Bên cạnh đó, năng lực tài chính của DNBH ngày càng được tăng cường vững chắc; giá trị tổng tài sản toàn thị trường BH đến hết năm 2017 ước đạt 302.935 tỷ đồng, tăng 23,44%.

Cũng theo Cục QLBH, trong năm 2017, các DNBH đã thực hiện tốt chức năng là tấm lá chắn tài chính cho người tham gia BH trước rủi ro bất ngờ xảy ra. Theo đó, các DNBH đã bồi thường và trả tiền BH ước đạt  29.423 tỷ đồng, tăng 14,92%.

Bên cạnh đó, công tác quản lý, giám sát thị trường cũng được Cục QLBH thực hiện theo phương pháp, cách thức đổi mới và hiệu quả. Công tác thanh kiểm tra DNBH được tăng cường bao gồm cả thanh kiểm tra toàn diện và theo chuyên đề. Qua đó, cơ quan quản lý không chỉ phát hiện, ngăn ngừa các vi phạm mà còn phát hiện bất cập trong cơ chế chính sách để sửa đổi, bổ sung từ đó tạo môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện, góp phần đảm bảo thị trường phát triển lành mạnh, an toàn và hiệu quả. 

Đại biểu và các DNBH dự Hội nghị thường niên thị trường BH năm 2017 Ảnh: H.T

Đặc biệt, hệ thống khung khổ pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh BH tiếp tục được hoàn thiện. Trong năm 2017, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành các nghị định về BH nông nghiệp, Nghị định thay thế Nghị định số 130/2006/NĐ-CP về BH cháy nổ bắt buộc; ban hành Thông tư số 50/2017/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Kinh doanh BH; sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2012/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh BH, kinh doanh xổ số… 

Các văn bản mới được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý đồng bộ hỗ trợ DNBH triển khai áp dụng quy định pháp luật, tháo gỡ vướng mắc, hỗ trợ DNBH triển khai các sản phẩm mới, nâng cao năng lực nhận BH…, thúc đẩy DNBH phát triển bền vững.

Theo lãnh đạo Cục QLBH, những kết quả đạt được trong năm 2017 đã và đang tạo đà để thị trường BH có những bước phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn tiếp theo. 

Mở rộng thị trường năm 2018

Để đảm bảo thị trường BH tiếp tục phát triển bền vững trong năm 2018 và những năm tiếp theo, đại diện Cục QLBH cho biết, sẽ tập trung thực hiện một số giải pháp thúc đẩy thị trường BH phát triển; trong đó tiếp tục tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật như: Trình Chính phủ ban hành nghị định về BH vi mô do các tổ chức chính trị, xã hội triển khai. Đồng thời, Bộ Tài chính tổng kết, đánh giá để trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 103/2008/NĐ – CP  và Nghị định số 214/2013/NĐ-CP về BH bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

Các chính sách mới cũng đồng thời khuyến khích, hỗ trợ các DNBH phát triển và đa dạng hóa sản phẩm BH; đa dạng và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối BH. Bên cạnh đó, cơ quan QLBH sẽ nghiên cứu, ban hành hướng dẫn đối với các hoạt động giao dịch điện tử trong lĩnh vực BH, tạo hành lang pháp lý cho các DNBH triển khai các kênh phân phối mới…

Chủ tịch Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam Phan Kim Bằng chia sẻ: Nhu cầu về BH của người dân đang tiếp tục tăng. Nhận thức của người dân và các tổ chức kinh tế về vai trò của BH tiếp tục được nâng cao. Bên cạnh đó, việc cơ quan quản lý nỗ lực ban hành những chính sách mới của Nhà nước về BH, những sửa đổi về chủ trương, quy định pháp luật trong nghị định về BH nông nghiệp; nghị định về BH cháy nổ bắt buộc… sẽ hỗ trợ, tạo điều kiện để thị trường BH tiếp tục phát triển bền vững, duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong năm 2018.

Đại diện Cục QLBH cho biết, với những nỗ lực của cơ quan quản lý và của DNBH trong năm 2018, sẽ giúp thị trường thu hút được nhiều hơn nữa các nhà đầu tư có uy tín, đồng thời thị trường sẽ tiếp tục tăng trưởng hiệu quả, bền vững, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Dự kiến thị trường BH tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng trên 20%. 

Đặng Hương

Nguồn: Thời báo tài chính Việt Nam

Chính Sách Tài Chính Thúc Đẩy Tăng Trưởng Kinh Tế Nhanh Và Bền Vững

Diễn đàn Tài chính Việt Nam 2019 có sự tham gia của khoảng 300 đại biểu là đại diện lãnh đạo các cơ quan chính phủ, cơ quan trung ương; các bộ, ngành; các tổ chức quốc tế (Cơ quan Hợp tác kỹ thuật của Đức, Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á…); các cơ quan nghiên cứu, viện khoa học và trường đại học; các chuyên gia, nhà khoa học…

Còn nhiều thách thức trong cơ cấu lại nền kinh tế

Phát biểu tại diễn đàn, Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn cho biết, diễn đàn diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động. Nhiều chuyên gia trên giới nhận định còn nhiều khó khăn, thách thức, dự báo trong 5 – 10 năm tới có dấu hiệu suy giảm, một bộ phận rơi vào khủng hoảng.

“Dự báo năm 2021 – 2022 kinh tế suy giảm dưới 2% thay vì 3,6% như dự báo trước đó, quan trọng hơn, đó là suy giảm có tính chu kỳ, mang tính quy luật, dư địa hạn hẹp về lãi suất, thuế, thị trường… Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm như vậy, khoa học công nghệ đang là yếu tố thúc đẩy sự phục hồi phát triển. Đó là bối cảnh để hoạch định chính sách cho tương lai” – Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn nói.

Theo Thứ trưởng, trong bối cảnh hiện nay, đổi mới mô hình tăng trưởng, thay đổi cơ cấu nền kinh tế, thực hiện cơ cấu lại nền tài chính quốc gia 10 năm qua đã đạt được kết quả bước đầu nhưng những thách thức, khó khăn còn rất lớn. Điều đó, thể hiện ở điểm mặc dù tăng trưởng đạt được ở mức độ 6,35% cho giai đoạn 5 năm qua. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng và đổi mới mô hình cơ cấu của nền kinh tế còn hạn chế và còn nhiều thách thức.

Thách thức lớn nhất đó là cơ cấu nền kinh tế và năng suất lao động trong nền kinh tế. Theo dự báo khả năng đến năm 2028 – 2030, Việt Nam sẽ ra khỏi cơ cấu dân số vàng và không còn điều kiện phát triển trên cơ sở diện rộng cũng như nguồn lực cho sự phát triển.

“Do vậy, cần phải bàn về thách thức này. Với cơ cấu dân số vàng kết thúc vào năm 2028 và với năng suất lao động như hiện nay, tích luỹ tài sản đạt 27% GDP nếu không có quan điểm mục tiêu giải pháp phù hợp để phát triển nhanh và bền vững, đạt mức độ là nước phát triển trung bình cao trước năm 2028 thì chúng ta không còn cơ hội” – Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn chỉ ra bất cập.

Phân tích từ các con số, Thứ trưởng nêu: Nhìn cơ cấu kinh tế từ góc độ ngân sách cho thấy, mặc dù đã đưa ra mục tiêu phấn đấu nhưng 10 năm qua khu vực kinh tế tư nhân chưa trở thành động lực của nền kinh tế. Tuy nhiên, khu vực này đóng góp vào thu ngân sách cao gấp 1,8 lần so với doanh nghiệp nhà nước, cao hơn 1,5 lần khu vực doanh nghiệp FDI.

Thứ trưởng khẳng định: “Những con số đó minh chứng cho thách thức trong tái cơ cấu nền kinh tế. Về tài chính – ngân sách, bên cạnh kết quả đạt được như tỷ lệ động viên ngân sách khoảng 23 – 24% GDP đạt mục tiêu đề ra, thì cơ cấu động viên còn chưa bền vững. Nợ công đã được kiểm soát ở tầm vĩ mô toàn quốc, địa phương và ở cả nghĩa vụ nợ dự phòng của Nhà nước, tuy nhiên, vẫn còn ở mức độ cao. Tính đến hết năm 2018 nợ công ở mức 57,5% GDP. Trong cơ cấu chi ngân sách, chi thường xuyên dù đã giảm từ 66% xuống còn 62% nhưng vẫn còn cao; thặng dư thu chi cho đầu tư phát triển còn thấp hơn trong khu vực”.

Trong quản lý tài chính công, để thúc đẩy phát triển kinh tế, thách thức lớn nhất hiện nay đó là quản lý, quản trị tài chính công, đặc biệt là quản trị đầu tư công. Vừa qua, Ban Kinh tế Trung ương và IMF đã đánh giá hiệu quả quản lý sử dụng đầu tư công ở Việt Nam đã chỉ ra rằng đây là điểm nghẽn lớn trong quản lý tài chính công và điều này có thể làm suy giảm hiệu quả sử dụng tài chính công, đầu tư công.

Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn khẳng định: Để phát triển nhanh và bền vững, quan điểm của Bộ Tài chính đó là phát triển phải trên cơ sở hiệu quả, bền vững, bao trùm. Với quan điểm đó phát triển chính sách tài chính – ngân sách phải đảm bảo thúc đẩy các vấn đề xã hội, trọng yếu là xóa đói giảm nghèo, đảm bảo dịch vụ công cần thiết với chất lượng đạt yêu cầu của khu vực và quốc tế.

Để đạt được mục tiêu đó, chính sách tài chính không thể không nhắc tới đó là phát triển nhưng phải đi liền giải quyết môi trường, đảm bảo sự bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu mà Việt Nam được đánh giá là 1 trong 10 quốc gia bị ảnh hưởng lớn nhất của biến đổi khí hậu.

Giải bài toán về tài chính – ngân sách thúc đẩy tăng trưởng

Với yêu cầu và mục tiêu phát triển trong trung hạn 2020 – 2020 và dài hạn 2020 – 2030, nếu không phát triển được ở mức độ 7 – 7,5% trong 10 năm tới thì không còn cơ hội để phát triển.

Diễn đàn có sự tham dự của đông đảo các nhà quản lý, nhà khoa học. Ảnh: T.T

Do đó, Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn mong muốn tại diễn đàn, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cùng đánh giá lại thực trạng hiện nay của chính sách tài chính của Việt Nam, từ đó chỉ ra được những thách thức tồn tại của chính sách đó.

Thứ trưởng mong muốn tại diễn đàn này sẽ có những kiến nghị, đóng góp về 7 vấn đề lớn, đó là:

Thứ hai, cần có những giải pháp để thực hiện mục tiêu phát triển khu vực kinh tế tư nhân, với yêu cầu khu vực này không chỉ đóng góp 10% trong GDP mà phải từ 20 – 25%; phấn đấu trong 10 năm tới, có 6 – 10 doanh nghiệp tư nhân trong top 500 doanh nghiệp của thế giới. Có như vậy mới đưa khu vực doanh nghiệp tư nhân trở thành trụ cột, đưa nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững.

Thứ ba, cần có đánh giá để sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính công, đẩy mạnh đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Theo số liệu, việc sắp xếp lại, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp chưa thực chất, số lượng doanh nghiệp sắp xếp lại rất lớn lên đến 90%, nhưng số lượng quy mô vốn thoái mới được 10%.

Thứ tư, mục tiêu phát triển thị trường vốn, phải giải quyết các vấn đề bất cập, như: Thị trường chứng khoán dường như phát triển khá nhưng trái phiếu doanh nghiệp dường như quá nhỏ bé, trên 9% so với GDP, nhỏ so với dư nợ tín dụng (132%); trong đó còn nhiều tranh luận về cơ cấu của 9% này (cho sản xuất, dịch vụ, đổi mới sáng tạo…). Huy động nguồn lực của kinh tế tư nhân trong hợp tác công tư, đầu tư phát triển hạ tầng đạt nhiều kết quả nhưng vẫn còn nhiều tồn tại.

Thứ năm, chúng ta đang sống trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, vậy giải pháp về tài chính – ngân sách phải làm gì, để thúc đẩy phát triển lĩnh vực này; những đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực, sử dụng ngân sách đầu tư cho giáo dục; sử dụng nguồn lực của xã hội để thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo…

Thứ sáu, còn nhiều quan điểm đưa ra, trong chiến lược 10 năm tới, phải chăng là phát triển đô thị; nếu thống nhất quan điểm đó, thì giải pháp về tài chính – ngân sách phải sửa đổi những nội dung gì để thúc đẩy tăng trưởng, có quy hoạch phù hợp với chiến lược để đô thị thực sự trở thành động lực trong 10 năm tới.

Thứ bảy, cơ chế chính sách tài chính – ngân sách phải thay đổi gì để góp phần thúc đẩy nâng cao năng suất lao động của nền kinh tế Việt Nam trên cơ sở thay đổi cơ cấu lại nền kinh tế.

Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn bày tỏ mong muốn, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu cùng đánh giá thực trạng, chỉ ra bất cập của chính sách tài chính – ngân sách trong yêu cầu tác động của nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Bộ Tài chính mong muốn nhận được các đóng góp về giải pháp không chỉ trong trung hạn mà cả trong dài hạn 10 năm tới./.

Phát Triển Bền Vững Và Đổi Mới Mô Hình Tăng Trưởng Đối Với Các Htx Nông Nghiệp Ở Việt Nam

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG ĐỐI VỚI CÁC HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

Đặt vấn đề:

Kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, dưới góc độ phát triển kinh tế bền vững, nước ta còn không ít những thách thức đặt ra. Bài viết đề cập vấn đề phát bền vững dưới góc độ kinh tế phát triển, đề xuất, khuyến nghị đổi mới mô hình tăng trưởng ở nước ta và đổi mới mô hình, hiệu quả kinh tế tập thể, hợp tác xã hiện nay.

Nhận thức chung về phát triển bền vững

Phát triển bền vững là xu hướng tất yếu của nhân loại, không phân biệt trình độ phát triển cũng như chế độ chính trị – xã hội. Nhận thức phát triển bền vững có lịch sử hình thành tiếp cận dưới góc độ khác nhau.

Năm 1982, thuật ngữ phát triển bền vững – Sustainable Development, lần đầu tiên xuất hiện trong tuyến bố “Chiến lược bảo tồn thế giới” của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên quốc tế – IUCN. Khái niệm phát triển bền vững được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là sự phát triển đạt được sự bền vững về sinh thái.

Năm 1987, trong báo cáo “Tương lai của chúng ta”, Uỷ ban Môi trường và Phát triển Thế giới – WCED (nay là Brudtland) đã mở rộng nội hàm và định nghĩa: Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Hội nghị Thượng đỉnh trái đát tổ chức năm 1992 tại Rio De Janeiro tái khẳng định nội hàm phát triển bền vững của WCED và phát đi thông điệp tới tất cả các chính phủ về sự cấp bách phải đẩy mạnh phát triển kinh tế hoà hợp giữa kinh tế, xã hội gắn với bảo vệ môi trường.

Năm 2003, Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (Hội nghị Thượng đỉnh Johannesburg) tổ chức tại Công hoà Nam Phi đã thống nhất: Phát triển bền vững là quá tình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa ba mặt của sự phát triển. Đó là, phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

Như vậy, khái niệm phát triển bền vững luôn hàm nghĩa: Một là, nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội là “khan hiếm”. Vì vậy, trong quá trình phát triển kinh tế, các thế hệ đi trước huy động, sử dụng nguồn lực, nhất là nguồn lực tài nguyên thiên nhiên phải có kế hoạch, tiết kiệm và hiệu quả để các thế hệ tương lai cũng được thụ hưởng những giá trị vật chất và phi vật chất do xã hội, nhất là thiên nhiên ban tặng. Hai là, trong tiến trình phát triển, các thế hệ phải đảm bảo tính kết nối, hài hoà và hiệu quả giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.

Phát triển bền vững vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc sống còn của quá trình phát triển tiến tới một xã hội văn minh, hiện đại về kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái. Dưới góc độ phát triển kinh tế bền vững thì: “Phát triển bền vững về kinh tế là sự phát triển đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (hợp lý), liên tục, ổn định và dài hạn gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng ngày càng hiện đại và tiến bộ; gia tăng năng lực nội sinh và đảm bảo sự thịnh vượng của xã hội gắn với giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội”. Phát triển bền vững về kinh tế đảm bảo sự biến đổi về chất của nền kinh tế, gia tăng được tiềm lực, sức mạnh của nền kinh tế sẽ tác động tích cực và lan toả đến với mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường. Vì vậy, phát triển bền vững về kinh tế chính là trụ cột, là xương sống của phát triển bền vững.

2. Đánh giá thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững

Đánh giá kết quả kinh tế vĩ mô và đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn 2011-2015, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII chỉ rõ: “Mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo rộng đã bước đầu có sự chuyển biến sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu”, “Hiệu quả đầu tư xã hội, đầu tư công từng bước được cải thiện, tình trạng đầu tư dàn trải bước đầu được hạn chế”

[2]

. Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đã giảm từ 42,7% giai đoạn 2006-2010, xuống 31,7% giai đoạn 2011-2015. Hiệu quả đầu tư được nâng lên, hệ số ICOR của nền kinh tế giảm từ 6,2 lần giai đoạn 2006-2010 xuống 5,4 lần giai đoạn 2011-2015. Tỷ trọng đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP giai đoạn 2011-2015 đạt khoảng 30%, cao hơn giai đoạn 2001-2010. Tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ tăng lên, ngành nông nghiệp giảm đi…

Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và Nghị quyết Đại hội XII giai đoạn 2016 – 2019 có thể thấy: tăng trưởng đạt 6,8%/năm, năm 2020 do dịch bệnh Covid-19 tốc độ tăng trưởng ước đạt trên 2%, bình quân giai đoạn 2016 – 2020 đạt khoảng 5,9%/năm. Tính chung cả thời kỳ Chiến lược 2011 – 2020, tăng trưởng GDP dự kiến đạt khoảng 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới 2. Quy mô GDP tăng gấp 2,4 lần, từ 116 tỉ USD năm 2010 lên 268,4 tỉ USD vào năm 2020. GDP bình quân đầu người tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên khoảng 2.750 USD năm 2020”

[3]

.

Kết quả đổi mới mô hình tăng trưởng nền kinh tế có thể thấy, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt. Tăng trưởng kinh tế giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, mở rộng tín dụng; từng bước dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011 – 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 – 2020, tính chung 10 năm 2011 – 2020 đạt 39,0%, vượt mục tiêu Chiến lược đề ra (35%). Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011 – 2015 là 4,3%/năm, giai đoạn 2016 – 2020 là 5,8%/năm. Hiệu quả đầu tư được nâng lên; hệ số ICOR giảm từ gần 6,3 giai đoạn 2011 – 2015 xuống còn khoảng 6,1 giai đoạn 2016 – 2019 3. 

Bên cạnh đó, kinh tế vĩ mô còn không ít khó khăn, cơ bản là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu đề ra; GDP tăng bình quân khoảng 5,9%/năm giai đoạn 2011 – 2020 so với mục tiêu Chiến lược là 7 – 8%/năm và thấp hơn so với hai giai đoạn trước . GDP bình quân đầu người năm 2020 tăng thêm khoảng 1.420 USD so với năm 2010, thấp hơn nhiều nước trong khu vực 58. Quy mô nền kinh tế của nước ta đứng thứ sáu, trong khi quy mô dân số xếp thứ ba trong các nước ASEAN. Nền tảng vĩ mô, khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa thật vững chắc, năng lực cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế còn hạn chế, cán cân thương mại phụ thuộc nhiều vào khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài . Tỉ lệ tích luỹ tài sản giai đoạn 2011 – 2020 đạt 27% GDP, thấp hơn các nước trong khu vực. Trong đó đổi mới mô hình kinh tế có khó khăn thách thức nhất định:

Một là, đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Phương thức tăng trưởng thay đổi chưa rõ rệt, vẫn còn dựa vào gia tăng số lượng vốn đầu tư, lao động và các nguồn lực đầu vào khác; chất lượng tăng trưởng có mặt chậm được cải thiện, chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế phát triển. Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, nguyên vật liệu, linh kiện phục vụ sản xuất trong nước còn phụ thuộc lớn vào bên ngoài; chưa quan tâm đúng mức đến chuỗi giá trị và cung ứng trong nước.  

Hai là, Cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng lãng phí, chất lượng công trình thấp chưa được giải quyết triệt để. Chất lượng thể chế quản lý đầu tư công còn thấp so với mức trung bình của các nước ASEAN-4, nhất là về công tác thẩm định, lựa chọn dự án và giám sát thực hiện đầu tư. Công tác quản lý tài chính, tài sản công, đất đai ở một số cơ quan, đơn vị còn kém hiệu quả.

Ba là, Cổ phần hoá, thoái vốn tại doanh nghiệp nhà nước còn chậm, chỉ mới tập trung vào việc sắp xếp, thu gọn số lượng doanh nghiệp, hiệu quả quản trị doanh nghiệp chưa đạt yêu cầu; thiếu chiến lược phát triển doanh nghiệp; hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp còn thấp, chưa tương xứng với vị thế, nguồn lực đang nắm giữ. Số lượng doanh nghiệp tư nhân còn ít, quy mô chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, trình độ quản trị và công nghệ lạc hậu; khả năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động thấp; mức độ sẵn sàng cho hội nhập và liên kết với khu vực đầu tư nước ngoài còn hạn chế. Đội ngũ doanh nhân phát triển chưa tương xứng với yêu cầu phát triển. Tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã phần lớn có quy mô nhỏ, năng lực nội tại còn yếu.

Bốn là, Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Quy mô và năng lực tài chính của hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam nhỏ so với khu vực; năng lực cạnh tranh và mức độ lành mạnh tài chính của một số tổ chức tín dụng còn hạn chế. Mức độ an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng chưa bền vững so với các nước trong khu vực; dễ bị tổn thương trước tác động bất lợi, đột ngột từ bên ngoài. Việc thực hiện cơ cấu lại các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước gặp khó khăn về bổ sung vốn điều lệ. Năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro của các tổ chức tín dụng còn hạn chế; xử lý nợ xấu còn một số khó khăn, vướng mắc; tiến độ cơ cấu lại một số tổ chức tín dụng phi ngân hàng có cổ đông lớn là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước còn chậm. 

Năm là, Công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chủ yếu đang hoạt động ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị, tỉ lệ nhập khẩu nguyên, nhiên liệu còn lớn, trình độ công nghệ sản xuất nhìn chung vẫn thấp so với thế giới; chưa hình thành được mô hình các cụm ngành chuyên môn hoá, công nghiệp hỗ trợ, tỉ lệ nội địa hoá còn ở mức thấp.

Sáu là, Cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương chuyển biến chưa rõ nét và thiếu bền vững. Đổi mới tổ chức sản xuất còn chậm, việc sắp xếp đổi mới công ty nông, lâm nghiệp hiệu quả thấp. Sản xuất nông nghiệp vẫn còn manh mún, tập trung, tích tụ ruộng đất còn khó khăn; kinh tế hộ nhỏ lẻ là chủ yếu. Thị trường tiêu thụ nông sản thiếu ổn định, chất lượng và khả năng cạnh tranh một số mặt hàng còn thấp. 

Bảy là, Tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ chưa tương xứng tiềm năng, lợi thế. Phát triển du lịch còn một số hạn chế, chưa bảo đảm tính bền vững; chất lượng dịch vụ du lịch chưa đáp ứng yêu cầu. Hệ thống phân phối còn bất cập, chưa kết nối hiệu quả, thông suốt từ khâu sản xuất đến tiêu thụ, chi phí logistics cao hơn mức bình quân thế giới.

Tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu theo chiều rộng, phụ thuộc nhiều vào các yếu tố vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học – công nghệ, lao động có kỹ năng. Năng suất lao động chậm được cải thiện, thấp hơn nhiều nước trong khu vực. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp TFP vào tăng trưởng kinh tế còn thấp. Chưa phát huy được lợi thế so sánh và chưa tận dụng được các cam kết hội nhập quốc tế để nâng cao chất lượng tăng trưởng, phát triển bền vững.

Định hướng, giải pháp phát triển bền vững và đổi mới mô hình tăng trưởng đối với các HTX nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành Trung ương đảng khoá XII, Đảng ta đã chỉ rõ nội hàm, định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng đó là: “Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng chú trọng và ngày càng dựa nhiều hơn vào các nhân tố thúc đẩy tăng năng suất lao động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, trí sáng tạo của con người Việt Nam và thành tựu khoa học – công nghệ của nhân loại, mọi tiềm năng, lợi thế của các ngành, lĩnh vực, các địa phương và cả nước”

[4]

.

Đổi mới mô hình tăng trưởng là để nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển nhanh và bền vững toàn diện về cả kinh tế, xã hội và môi trường. Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; cơ cấu lại đầu tư công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng; cơ cấu lại ngân sách nhà nước và nợ công; cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công. Đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế là nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu, có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, cần lưu ý thực hiện có hiệu quả một số giải pháp cụ thể sau đây:

Một là, Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tăng trưởng, phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Xây dựng, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vận động đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường đồng thời đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong từng giai đoạn, thời kỳ phát triển, đảm bảo hiện đại, hội nhập quốc tế, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hai là, Tiếp tục thực hiện ba đột phá chiến lược. Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn kết chặt chẽ với thực hiện ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế với trọng tâm ưu tiên là: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn, thuận lợi cho khởi nghiệp và đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa học – công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài.

Ba là, phát triển và chuyển giao khoa học – công nghệ, nhất là khoa học – công nghệ hiện đại, coi đây là yếu tố trọng yếu nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.  Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển nền khoa học Việt Nam; phát triển mạnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm; thúc đẩy phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số. Có cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ. Cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới, thúc đẩy triển khai và ứng dụng công nghệ mới, đổi mới sáng tạo, mô hình kinh doanh mới. Xác định rõ các chỉ tiêu, chương trình hành động để ứng dụng và phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong mọi mặt hoạt động ở các cấp, các ngành, địa phương. 

Bốn là, Đẩy mạnh cơ cấu lại tổng thể các ngành, lĩnh vực kinh tế trên phạm vi cả nước và từng địa phương, doanh nghiệp với tầm nhìn dài hạn, có lộ trình cụ thể; gắn kết chặt chẽ giữa cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế với cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực trọng tâm. iếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia, các vùng, các ngành, lĩnh vực phù hợp với thực tiễn đất nước nhằm nâng cao tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế.

Đối với khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã, sau khi thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, nhận thức trong hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã được nâng lên. Hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật được quan tâm hoàn thiện. Tổ chức bộ máy và quản lý nhà nước từng bước được củng cố. Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, xuất hiện nhiều loại hình, mô hình kinh tế tập thể kiểu mới, làm ăn có hiệu quả, góp phần thúc đẩy kinh tế, xóa đói, giảm nghèo cho thành viên, xây dựng nông thôn mới.

Đến cuối năm 2020, cả nước có 26.040 hợp tác xã; trong đó có 16.953 hợp tác xã nông nghiệp, chiếm 65,1%; 1.188 quỹ tín dụng nhân dân; 2.079 hợp tác xã  thương mại và dịch vụ; 1.496 hợp tác xã vận tải; 2.474 hợp tác xã công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp; 1.026 hợp tác xã xây dựng; 521 hợp tác xã môi trường; 303 hợp tác xã khác.

Các hợp tác xã nông nghiệp hoạt động chủ yếu theo 02 mô hình là hợp tác xã kinh doanh tổng hợp, chiếm 72% và hợp tác xã chuyên ngành chiếm 28%. Với 3,7 triệu thành viên, hợp tác xã nông nghiệp đã cung ứng ít nhất 03 dịch vụ cho thành viên (vật tư, tưới tiêu, khuyến nông). Nhiều nhất là 16 dịch vụ (giống, vật tư, tưới tiêu, khai thác cơ sở hạ tầng; làm đất, thu hoạch, bảo quản, chế biến…). Có hơn 45% hợp tác xã nông nghiệp thực liên kết đầu vào, đầu ra bằng hợp đồng với doanh nghiệp; nhiều hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao gắn với chuỗi giá trị. Đến cuối năm 2020, tổng số vốn điều lệ hợp tác xã nông nghiệp là 14.969 tỷ đồng; doanh thu bình quân là 2,2 tỷ đồng/hợp tác xã; lãi bình quân 382 triệu đồng/hợp tác xã; thu nhập bình quân của thành viên và người lao động 3,2 triệu đồng/người/tháng.

Tuy nhiên bên cạnh đó, các hợp tác xã, đặc biệt là hợp tác xã nông nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế, bấp cập. Tốc độ tăng trưởng thấp so với khu vực kinh tế khác, tỷ lệ góp vào GDP chưa đáp ứng yêu cầu. Phần lớn hợp tác xã nông nghiệp có quy mô nhỏ, phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền. Việc thực hiện chuyển đôi mô hình theo Luật Hợp tác xã còn nhiều vướng mắc. Sự liên kết, hợp tác giữa các tổ chức, loại hình còn yếu. Công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã còn nhiều bất cập…Thực tiễn đó, đòi hỏi phải chuyển đổi mô hình phát triển để có bước về chất, nâng cao hiệu quả hoạt động quan trọng này.

Trên cơ sở những định hướng đổi mới mô hình tăng trương, phát triển bền vững, để hợp tác xã nông nghiệp đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, theo chúng tôi cần quán triệt và thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, tổ chức và nhân dân về bản chất của kinh tế tập thể, hợp tác xã, nhất là về hợp tác xã kiểu mới. Khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xác định rõ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là xu thế tát yếu, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng thường xuyên, tạo ra phong trào hợp tác xã  khởi nghiệp trong nông nghiệp, nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động trong nền kinh tế.

Thứ ba, đổi mới phương thức hoạt động, mô hình tăng trưởng, hoạt động theo hướng xây dựng các chuỗi sản phẩm mang tính đặc trưng, lợi thế so sánh của vùng miền, đất nước trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đặc biệt là các sản phẩm mang thế mạnh nông nghiệp, nông thôn Việt Nam theo hướng kỹ thuật cao, công nghệ sạch đáp ứng yêu cầu trong nước và quốc tế. Phát triển các loại hình dịch vụ trong nông nghiệp, dịch vụ. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho phù hợp với sự biến đổi khí hậu và khan hiếm nguồn nước.

Thứ tư, tập trung triển khai, làm tốt công tác hỗ trợ hợp tác xã nông nghiệp về chính sách đất đai, tài chính – tín dụng, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh tích tụ, tập trung ruộng đất trong hợp tác xã nông nghiệp. Ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ, nhất là giống, công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản, chế biến, công nghệ thông tin…, qua hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công. Tập trung đầu tư nâng cao năng lực một số viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao khoa học – công nghệ ở các vùng, nhằm hỗ trợ hợp tác xã và hộ nông dân. Khuyến khích các cơ quan nghiên cứu khoa học – công nghệ liên kết với hợp tác xã, chuyển giao các thành tựu khoa học – công nghệ mới cho hợp tác xã, nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới, khai thác và sử dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước.

Thứ năm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã nông nghiệp. Tăng cường năng lực quản trị, đổi mới phương thức sản xuất, kinh doanh, tiếp tục thành lập, phát triển thêm các hợp tác xã, tổ hợp tác nông nghiệp và các loại hình hợp tác xã khác, coi trọng mở rộng quy mô thành viên, nâng cao sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, gắn với phát huy vai trò làm chủ, lợi ích của các thành viên, khả năng huy động, tiếp cận, sử dụng hiệu quả nguồn lực. Thực hiện tốt chính sách đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào làm việc. Lan tỏa tinh thần quốc gia khởi nghiệp trong các loại hình hợp tác xã kiểu mới. Chú trọng nâng cao năng lực, trình độ cán bộ hợp tác xã và cán bộ làm công tác tham mưu, xây dựng chính sách, chiến lược phát triển và quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã.

Thứ sáu, củng cố, đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Liên minh HTX Việt Nam, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, nâng cao năng lực hiệu quả hoạt động, tăng cường trách nhiệm hệ thống liên minh HTX cơ sở với vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, thật sự là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên. Tham gia có hiệu quả các chương trình, dự án, dịch vụ công và một số nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội, Mặt trận Tổ quốc, các hội quần chúng trong việc thực hiện, gips phần thúc đẩy kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển./.

Ths. Nguyễn Như Trung,

Trưởng Khoa Cơ Bản, Trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Trung ương.

[1]

Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (20014): Luật bảo vệ môi trường, Mục 4, Điều 3, tr.1

[2]

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, H.2016, tr.26.

[3]

Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo báo cáo Tổng kết  thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2011-2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021-2030.

[4]

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 05-NQ/TW khoá XII ngày 1/11/2016 về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Phát Triển Đô Thị Bền Vững Ở Việt Nam: Khái Niệm Và Ứng Dụng

Phát triển bền vững (sustainable development) là một khái niệm lý luận đang từng bước gây ảnh hưởng và làm thay đổi chính sách phát triển kinh tế. Phát triển bền vững có nghĩa là: “Một sự phát triển vừa có thể thích hợp với thời đại ngày nay, vừa không ảnh hưởng tới việc thỏa mãn của con cháu đời sau”, đó là định nghĩa do ủy ban Brundtland nêu ra năm 1987.

Cho tới nay, khái niệm phát triển bền vững đã xuất hiện ngày càng nhiều, song theo nhà khoa học người Mỹ B.A Wilcox: “Cũng như nhận thức về nhiều vấn đề chính trị, tôn giáo quan trọng, nhận thức của mỗi người về phát triển bền vững đang tồn tại những bất đồng khá lớn”.

Do vậy, phát triển bền vững là một quá trình dàn xếp, thỏa hiệp các hệ thống kinh tế, tự nhiên và xã hội. Tức phát triển bền vững phải đảm bảo 3 mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường hài hòa với nhau (H.Barton, International institute for environment and development – IIED).

Phát triển bền vững là kết quả hợp nhất giữa kinh tế – xã hội và môi trường để tìm ra vùng chung hay tiếng nói chung đảm bảo tính bền vững.

2. Tìm hiểu phát triển đô thị bền vững

Trên cơ sở nguyên lý phát triển bền vững, với đặc thù của đô thị thì khái niệm phát triển đô thị bền vững dựa trên nguyên tắc hợp nhất: Kinh tế đô thị; xã hội đô thị; môi trường sinh thái đô thị; cơ sở hạ tầng đô thị; không gian đô thị (chứa đựng yêu cầu không gian của các thành phần trên trừ thành phần mềm); quản lý đô thị (thành phần mềm) để tìm ra vùng chung hay tiếng nói chung đảm bảo yêu cầu: công bằng, sống tốt và tính bền vững.

3. Phát triển không gian đô thị và bảo vệ môi trường

Phát triển kinh tế – xã hội và cơ sở hạ tầng đều có nhu cầu về không gian đô thị. Phát triển không gian đô thị là lấy không gian làm vật để chuyên chở. Thực chất của việc mở rộng không gian đô thị là phá hoại hình thái cơ cấu vốn có của hệ sinh thái đô thị, chỉ có mức độ nhiều hay ít mà thôi.

Có một nguyên tắc cần được xác định rõ chính là cần nhìn nhận vấn đề môi trường và phát triền bằng tư tưởng biện chứng và toàn diện hơn nữa, đưa phát triển bền vững vào quỹ đạo có kế hoạch, mở rộng không gian đô thị một cách có kế hoạch, đánh giá tích cực và chủ động về ảnh hưởng của môi trường.

Mở rộng không gian đô thị một cách vô độ sẽ đụng chạm đến vấn đề khác, đó là vấn đề lý luận đạo đức trong phát triển và sử dụng tài nguyên môi trường. Việc sử dụng tài nguyên trong cùng một thế hệ và giữa các thế hệ phải đạt được sự phát triển có cùng chung lợi ích. Một số người chiếm đoạt tài nguyên có nghĩa là làm tổn hại và xâm chiếm lợi ích của những người khác.

Để đạt được sự phồn vinh chung, lâu dài vĩnh cửu, việc phát triển và sử dụng tài nguyên phải tuân thủ một quy tắc ước định nào đó. Nhưng trong thực tế, phát triển toàn thế giới hiện nay chưa có được quy ước này. Song đối với một thành phố, trong môi trường đặc biệt, điều này chỉ có ý nghĩa khi các thế hệ khác nhau đều tuân thủ một quy tắc.

4. Phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam

4.1 Tình trạng phát triển đô thị bền vững tại Việt Nam

Sự phát triển và tăng trưởng mạnh mẽ của các thành phố cũng tạo ra nhiều vấn nạn làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đô thị trong tương lai như:

Quy hoạch đô thị thường lệch pha với phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường nên thường dẫn đến “quy hoạch treo”. Vì nước ta chưa sử dụng phương pháp quy hoạch chiến lược hợp nhất để hài hòa giữa các bản quy hoạch nêu trên, do đó chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững.

Quan hệ giữa đô thị với vùng và nhiều mối quan hệ khác không được giải quyết thỏa đáng.

Thiếu tầm nhìn chiến lược phát triển bền vững.

Mô hình cấu trúc đô thị kém linh hoạt nên không thích ứng với quá trình chuyển đổi.

Chưa quan tâm thích đáng đến việc xây dựng môi trường cư trú của con người (nhà ở).

Xây dựng kết cấu hạ tầng không đồng bộ, không đạt chuẩn và không phù hợp với các nguồn lực, thường kẹt xe gây ách tắc giao thông.

Quản lý Nhà nước về đô thị thiếu chủ động nhất là quản lý thực hiện quy hoạch.

Thiếu hệ thống quan trắc, dự báo phòng ngừa các biến đổi khí hậu, thiên tai và sự cố công nghệ có thể xảy ra.

4.2 Định hướng phát triển đô thị bền vững hướng đến mục tiêu kinh tế cạnh tranh và hiện đại

Ứng dụng phương pháp quy hoạch chiến lược phát triển đô thị bền vững hợp nhất phù hợp với Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: “Về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) số 153/2004/QĐ/TTg ngày 17/8/2004.

Để xác định được các tiêu chí phát triển đô thị bền vững mỗi thành phố cần có một tổ chức đứng ra làm đầu mối hợp nhất các bản quy hoạch: kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường, cơ sở hạ tầng đô thị và không gian đô thị (theo phương pháp quy hoạch chiến lược hợp nhất) để tìm ra các chiến lược phát triển trong một khu vực chung hay tiếng nói chung để đảm bảo yêu cầu công bằng, sống tốt và tính bền vững. Đồng thời, phải căn cứ vào các chiến lược này để xác định 5 tiêu chí phát triển đô thị bền vững của thành phố như đã nêu trên hoặc theo 4 tiêu chí phát triển đô thị bền vững do W.B đề ra là: Kinh tế cạnh tranh, sống tốt, Quản lý nhà nước tốt và Ngân hàng tài chính lành mạnh.

Và định hướng phát triển đô thị bền vững hướng đến mục tiêu cạnh tranh và hiện đại tại Việt Nam:

1. Quy hoạch cần mang tính chiến lược thay vì toàn diện, linh hoạt thay vì cứng nhắc, mang tính hành động thay vì lý thuyết, tập trung vào quy trình thay vì sản phẩm, mang tính dài hạn thay vì nhiệm kỳ, tính đến toàn cầu hóa thay vì chỉ địa phương, hợp nhất liên ngành thay vì “mạnh ai nấy làm”…

3. Kiến tạo hình thức đô thị mới theo hướng thân thiện, bảo vệ môi trường tài nguyên và nâng cao chất lượng không gian sống.

4. Xác định đúng vị trí của đô thị trong mối quan hệ hài hòa với:

Đô thị – vùng (mở rộng lĩnh vực không gian trong đô thị).

Đô thị – tự nhiên (hình thái không gian theo điều kiện tự nhiên).

Đô thị – nông thôn (chú ý tình trạng phát triển tự phát vùng ven đô).

Quá khứ – hiện tại – tương lai (mở rộng lĩnh vực thời gian).

Hiện đại và bản sắc tạo nên sự hấp dẫn (so với quy hoạch hiện đại, quy hoạch chức năng cứng nhắc thiếu linh hoạt, quy hoạch đô thị hậu hiện đại chức năng linh hoạt, hợp lý, lại có tính đa phương và có thể bao gồm nhiều loại, từ không gian lịch sử, không gian trí tuệ, không gian tinh thần, không gian nghệ thuật và không gian văn hóa đến không gian tự nhiên).

Kinh tế – thương mại (xanh, cạnh tranh), xã hội (hài hòa, sống tốt), khoa học kỹ thuật (tiên tiến) và môi trường (lành mạnh).

5. Chọn mô hình phát triển đô thị bền vững phù hợp: tập trung hoặc phân tán hoặc kết hợp tập trung với phân tán; một trung tâm hoặc đa trung tâm .

6. Xây dựng tốt môi trường cư trú của con người (đi đôi với công bằng xã hội còn có công bằng về không gian và công bằng về môi trường).

7. Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và lành mạnh, giao thông thông suốt.

8. Quản lý đô thị tốt (trong đó quản lý thực hiện quy hoạch là yếu tố hàng đầu).

9. Xây dựng thiết chế quan trắc, dự báo, phòng ngừa và ngăn chặn các thảm họa do biến đổi khí hậu, thiên tai và sự cố công nghệ có thể xảy ra.

4.3 Chiến lược phát triển đô thị bền vững tại Việt Nam

Để phát triển đô thị bền vững ở nước ta, nhất là các thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM…, trước tiên cần phải xác định các tiêu chí phát triển đô thị bền vững để thực hiện.

4.3.1 Phát triển đô thị bền vững tại Hà Nội

Ở Thủ đô Hà Nội, quy hoạch tổng thể Hà Nội mới được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã đề ra mục tiêu phát triển là: “Thành phố Xanh, Văn hiến, Văn minh – Hiện đại.” Đó là phương châm hợp lý để phát triển Thủ đô Hà Nội bền vững. Chiến lược tạo hình ảnh riêng về Hà Nội thông qua hình ảnh mặt nước, cây xanh và văn hóa cũng là một thành phần của phát triển bền vững.

Chiến lược xây dựng 5 đô thị vệ tinh (Sóc Sơn, Sơn Tây, Hòa Lạc, Xuân Mai, Phú Xuyên) và 3 đô thị sinh thái (Quốc Oai, Chúc Sơn và Phúc Thọ) nằm giữa các sông với các dòng chảy quanh co uốn khúc, theo mô hình phát triển phân tán, tạo thành chùm đô thị có khả năng kết hợp khai thác các ưu điểm của lối sống thành thị và nông thôn, hướng tới hình thành một đô thị sinh thái.

Chiến lược về không gian xanh, được hình thành trên ý tưởng không gian xanh sông Đáy, sông Tích, sông Hồng, sông Nhuệ, đầm Vân Trì, sông Cà lồ, Nam Linh Đàm… trong đó, có vùng đệm xanh tập trung chủ yếu ở khu vực phía Nam sông Hồng giữa vành đai 3 và 4. Trong không gian xanh, tổ chức các công viên vui chơi giải trí cấp quốc gia, cấp vùng với các loại hình công viên lịch sử, công viên văn hóa, vui chơi giải trí, công viên cây xanh tự nhiên, công viên cây xanh chuyên đề, kết hợp với các hồ điều hòa cây xanh bảo tồn thiên nhiên… cũng là một thành phần đảm bảo cho phát triển đô thị bền vững.

Rõ ràng, quy hoạch chung Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2050 đáp ứng tiêu chí của phát triển đô thị bền vững về cơ bản.

Tuy nhiên, khu vực mở rộng thuộc tỉnh Hà Tây và 4 xã thuộc tỉnh Hòa Bình còn rất nhiều thách thức, không thể giải quyết một sớm một chiều. Đó là việc chuyển hóa từ khu vực nông nghiệp sang khu vực có chức năng đô thị, là các điểm dân cư nông thôn sang mô hình dân cư mới, là đất đai canh tác nông nghiệp sang không gian xanh, là khai thác hệ thống sông ngòi vào không gian mặt nước trong đô thị. Đây sẽ là những hạn chế khó khăn, có nguy cơ làm Thủ đô Hà Nội không thỏa mãn các tiêu chí về phát triển đô thị bền vững nếu không sớm khắc phục.

4.3.2 Phát triển đô thị bền vững tại TP. Hồ Chí Minh

TP. Hồ Chí Minh có cấu trúc mất cân đối hiếm thấy trên thế giới khi có đến hơn 90% cư dân tập trung tại khu vực đô thị hóa với một diện tích khoảng 7% diện tích toàn thành phố, trong khi khu vực phía Nam thành phố rất dồi dào môi trường tự nhiên ở mức lý tưởng. Cùng với những nỗ lực để đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế của TP. Hồ Chí Minh, việc quan trọng phải làm là tạo lập tầm nhìn về một thành phố phát triển bền vững, chú trọng đến công tác bảo tồn và khôi phục môi trường tự nhiên cũng như đảm bảo an toàn và sức khỏe cho người dân.

Hơn 90% cư dân tập trung tại khu vực đô thị hóa chỉ với diện tích 7% toàn thành phố sẽ tạo ra hiệu ứng đảo nhiệt đô thị (Urban Heat-lsland effect – UHI) đáng kể. Để giải quyết hiệu ứng của đảo nhiệt đô thị, trước tiên là phải gia tăng mảng xanh tối đa.

Quy hoạch xây dựng thành phố tới năm 2025 đã đề ra nguyên tắc chung về tổ chức công viên cây xanh là đưa diện tích xanh thành phố lên tới 15m2/người để trở thành thành phố xanh, trong đó khu vực nội thành sẽ tổ chức cây xanh đặc biệt 10m2/người gồm lâm viên rừng phòng hộ, kết hợp với khu vui chơi giải trí cuối tuần. Khu vực ngoại thành cũng đã hình thành thảm cây xanh lớn kết hợp với du lịch giải trí cuối tuần như rừng tràm, đước Cần Giờ với diện tích khoảng 25.000 ha đã được hồi sinh từ năm 1998 và được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển. Việt Nam trở thành một trong 19 nước trên thế giới có khu dự trữ sinh quyển, đó chính là lá phổi của TP. Hồ Chí Minh cần được bảo vệ.

Theo quyết định phê duyệt điều chỉnh quy hoạch xây dựng TP. Hồ Chí Minh đến năm 2025 của Thủ tướng Chính phủ nêu rõ “Bố trí trục cây xanh cảnh quan, mặt nước kết hợp du lịch giải trí dọc hai bên Sông Sài Gòn, Đồng Nai, Nhà Bè có diện tích khỏang 7000 ha” tương tự như Amsterdam (Hà Lan), sông Seine Paris (Pháp), sông Vlatava (Praha – Séc), sông Hàn Seoul (Hàn Quốc), sông Neva st Peterbourg (Nga)… kết hợp cây xanh với mặt nước.

Tiếp đến, thành phố nên có một cấu trúc đô thị có thể làm giảm thiểu tác động môi trường, hạn chế hiệu ứng của đảo nhiệt đô thị, nâng cao chất lượng khí lưu thông. Đó là mô hình thành phố đa trung tâm bao gồm các trung tâm hiện hữu: quận 1, quận 3, trung tâm mới Thủ Thiêm, 1 phần quận Bình Thạnh, quận 4 và Phú Mỹ Hưng. Các trung tâm khu vực bao gồm: Khu đô thị Cảng Hiệp Phước (huyện Nhà bè), Tân Kiên – Tân Tạo (huyện Bình Chánh), Khu công nghệ cao (Q9) và khu đô thị vệ tinh Tây Bắc Củ

TP. Hồ Chí Minh cũng đang trong tình trạng khủng hoảng sinh thái do dân số tăng nhanh (10 triệu dân vào năm 2025), ô nhiễm nước mặt và không khí. Để đối phó với khủng hoảng sinh thái trong giai đoạn biến đổi khí hậu, thành phố đã đề ra nhiều chương trình như: thoát nước đô thị, bảo vệ nguồn nước và giảm thiểu ô nhiễm không khí và quy hoạch thích ứng với biến đổi khí hậu.

Mặt khác, nếu thành phố trong quá trình đô thị hóa, dân số tăng nhanh mà phát triển không gian quá mức theo kiểu lan tỏa liên tục ra vùng ven đô nhất là phát triển tự phát thì có khả năng môi trường có thể không chịu đựng được, do vậy cần xác định ranh giới tăng trưởng đô thị từng thời kỳ để quản lý.

Trong quá trình đô thị hóa Sài gòn – TP. Hồ Chí Minh, đã có 3 lần đô thị hóa lan tỏa “bị động” ra vùng ven: lần thứ nhất (1985-1992) các quận ven nội (Q8, Q Bình Thạnh, Q.Tân Bình, Q.Gò vấp) từ trước năm 1975 đã trở thành nội đô, lần thứ 2 (1992-1997) hình thành 5 quận mới (Q.Thủ Đức, Q2, Q7, Q9, Q12), lần thứ 3(1997-2003) hình thành Quận Bình Tân do phát triển tự phát tại huyện Bình Chánh. Do vậy, thành phố đang đứng trước nhiều thách thức như dân số gia tăng, người nghèo tăng, ô nhiễm môi trường và chính sách cơ chế quản lý nhiều bất cập.

Để đảm bảo các tiêu chí phát triển bền vững, rõ ràng TP. Hồ Chí Minh còn phải trải qua nhiều thách thức.

Cập nhật thông tin chi tiết về Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam Tăng Trưởng Nhanh Và Bền Vững trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!