Xu Hướng 12/2023 # Tham Luận Các Biện Pháp Phụ Đạo Học Sinh Yếu Kém # Top 12 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Tham Luận Các Biện Pháp Phụ Đạo Học Sinh Yếu Kém được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

TRƯỜNG THCS XUÂN CẨM GV: Lê Thị Thùy Duyên Tham luận: CÁC BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU KÉM Đối tượng học sinh học tập yếu, kém vẫn luôn tồn tại trong giáo dục, tuy nhiên về số lượng học sinh yếu, kém nhiều hay ít và mức độ tiến bộ của học sinh yếu, kém nhanh hay chậm trong quá trình được giáo dục và rèn luyện mới là điều đáng quan tâm của riêng mỗi nhà trường. Tuy cùng hưởng thụ một nội dung chương trình giáo dục giống nhau, nhưng mỗi học sinh đều có sự phát triển về thể chất và trí tuệ khác nhau, có điều kiện hoàn cảnh sống và sự quan tâm chăm sóc ở gia đình khác nhau, có động cơ và thái độ học tập khác nhau, môi trường giáo dục khác nhau (mà trong đó có sự dạy dỗ của thầy cô giáo) thì năng lực học tập, khả năng tiếp thu kiến thức của mỗi học sinh cũng phải khác nhau Xuất phát từ quan điểm chỉ đạo của Bộ Giáo dục - Đào tạo nhằm đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới công tác quản lý giáo dục nâng cao chất lượng dạy và học, phụ đạo HS yếu kém nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo Trong những năm qua, nhà trường luôn quan tâm và thực hiện có kết quả công tác phụ đạo học sinh yếu. Nhờ vậy chất lượng học tập của học sinh đã có những tiến bộ mặc dù chưa thật cao nhưng cũng rất đáng trân trọng: Để công tác phụ đạo học sinh yếu đạt hiệu quả, tôi xin nêu ra phương pháp cụ thể như sau: 1. NHÀ TRƯỜNG: - Nhà trường cần triển khai đầy đủ, kịp thơi các văn bản chỉ đạo, các hướng dẫn cụ thể của ngành cấp trên đối với công tác phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém, ngăn ngừa tình trạng học sinh bỏ học cho tất cả cán bộ, giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh thực hiện ngay từ đầu năm học, đặc biệt là sau khi khảo sát chất lượng học sinh đầu năm học - Giúp đỡ học sinh yếu kém được gắn với cuộc vận động "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" và "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo". Thực hiện nghiêm túc cuộc vận động "Hai không" với 4 nội dung do Bộ GD-ĐT phát động, cương quyết ngăn chặn, xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong các lần tổ chức kiểm tra-thi cử trong toàn ngành - Xây dựng môi trường cảnh quan sư phạm trường học Xanh - Sạch - Đẹp, góp phần củng cố kỷ cương, nền nếp dạy và học, tạo thêm điều kiện để HS ngày càng yêu trường mến lớp, không chán học bỏ học. - Xây dựng kế hoạch đạo học sinh yếu ngay từ đầu năm học. - Phân công giáo viên phụ đạo học sinh yếu hợp lý: có năng lực tay nghề vững vàng, có đạo đức, tâm huyết và có kinh nghiệm để phụ đạo giúp đỡ HS yếu kém. Dạy phụ đạo, HS yếu, kém bằng tâm lý sư phạm, kiên trì và dài lâu, dùng các biện pháp kích thích động viên các em là chính, khơi dậy trong HS lòng tự tin, hứng thú học tập và vượt khó để tiến bộ. - Khảo sát lập danh sách học sinh yếu các môn học, các lớp. - Tổ chức Đoàn Đội của nhà trường là nòng cốt của các phong trào thi đua Học tốt, tổ chức phát động phong trào thi đua "Học nhiều điểm tốt", "Giúp bạn vượt khó học tập", "Đôi bạn học tập". "Góc học tập", "Nhóm bạn học tập ở trường và ở nhà".v.v Tổ chức các hoạt động giáo dục đạo đức, giáo dục tinh thần "tương thân tương ái" tặng tập, vở, sách giáo khoa cũ, tặng áo cho bạn nghèo, phân công HS khá giỏi kèm cặp, giúp đỡ HS yếu kém, gần gũi động viên và chia sẻ kịp thời với những HS có hoàn cảnh gia đình khó khăn - Tạo điều kiện về thời gian, hỗ trợ kinh phí cho giáo viên để GV thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng môt cách có hiệu quả nhất. 2. GIÁO VIÊN: - Rà soát phát hiện và phân loại học sinh ngay trong tháng 8. Tập hợp và nắm số liệu HS yếu trên từng lớp, khối, trường 1 cách cụ thể. - Khảo sát, tìm ra nguyên nhân học sinh học tập yếu kém: Tiếp thu chậm; hổng hóc kiến thức; - Thiểu năng trí tuệ; - Lười, chán học; - Hoàn cảnh khó khăn; - Cha mẹ không quan tâm; - Sức khoẻ, bệnh tật, thiên tai, dịch bệnh; - Xa trường, đi lại khó khăn, không có phương tiện; - Nguyên nhân khác, - Xây dựng kế hoạch phụ đạo học sinh yếu ngay từ đầu năm học. - Trong tiết dạy học bình thường giáo viên soạn bài cần phải có kế hoạch, kiến thức dạy học phù hợp với trình độ học sinh. - Trong giảng dạy cần xác định trọng tâm bài học, nội dung chương trình, tránh tình trạng dạy tràn lan gây nặng nề cho học sinh, nắm chắc các đối tượng trong từng lớp đẻ có biện pháp giảng dạy phù hợp, đặc biệt chú ý giúp đỡ các em học tập còn yếu kém để các em tiến bộ, sẵn sàng tham gia phụ đạo học sinh yếu theo phân công. - Trong quá trình giảng dạy giáo viên bộ môn cần hướng dẫn học sinh sắp xếp thời gian tự học, chuẩn bị bài trước khi đến lớp... - Phải thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp và ứng dụng CNTT vào dạy học, tăng cường giáo dục động cơ thái độ học tập bộ môn, đề kiểm tra phải chính xác và khoa học . - Xây dựng tốt mối quan hệ thân thiện tích cực trong thầy trò để dạy và học tốt hơn . - Đẩy mạnh công tác GV chủ nhiệm lớp, thực hiện tốt sinh hoạt 15 phút đầu giờ : tổ chức kiểm tra việc chuẩn bị bài của HS ở nhà, tổ chức ôn bài, sửa bài tập đầu buổi học, phân công cán bộ lớp, cán sự bộ môn của lớp hướng dẫn giải bài tập, tổ chức học tổ, học nhóm HS dứơi sự hướng dẫn của GVCN. Hướng dẫn tổ chức tiết hoạt động tập thể để phát huy tính chủ động, tự quản và thi đua học tập của lớp, tổng kết tình hình học tập, biểu dương, khen ngợi kịp thời các HS yếu kém có nhiều cố gắngđồng thời qua tiết sinh hoạt tập thể lớp, GVCN còn nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh từng học sinh để có biện pháp giúp đỡ kịp thời, thiết thực. - Dạy phụ đạo giúp đỡ HS yếu kém ngoại khoá không phải thu tiền học sinh, ở THCS có thể tập trung các môn Toán, Ngữ văn, Lý, Hoá, - Thực hiện kiểm tra đánh giá chất lượng GD ngày càng thực chất, tổ chức coi thi, chấm bài nghiêm túc. Nhà trường cần tổ chức đầy đủ lực lượng kiểm tra-giám sát các ky thi. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng tiêu cực, bệnh thành tích trong kiểm tra- đánh giá HS. - Trong buổi sinh hoạt chuyên môn hàng tháng giáo viên bộ môn báo cáo tiến độ tiếp thu bài của những học sinh yếu cho Tổ trưởng và giáo viên trong tổ, từ đó giáo viên nào còn vướn mắc thì được tập thể giáo viên trong tổ góp ý bổ sung. - Phát huy tối đa vai trò, chức năng nhiệm vụ của chính quyền, các đoàn thể địa phương và Ban đại diện CMHS của địa phương. Tích cực huy động sự tham gia phối hợp, cộng đồng trách nhiệm của chính quyền, lực lượng đoàn thể xã hội, các nhà hảo tâmgóp công góp của cùng tham gia thực hiện phong trào giúp đỡ học sinh khó khăn, yếu kém. Đặc biệt là vai trò của gia đình học sinh trong công tác phối hợp với nhà trường. GV chủ nhiệm phải sớm phát hiện ngăn chặn kịp thời HS có dấu hiệu bỏ học, chán học, học lực sa sút, xác định nguyên nhân học sinh bỏ học, thành lập tổ công tác đến gia đình để vận đong học sinh trở lại trường. Chủ động đề xuất với Ban đại diện CMHS, Hội Khuyến học và các nhà hảo tâm của địa phương để quyên góp, giúp đỡ HS nghèo, HS khó khăn về vật chất, tinh thần miễn giảm học phí, cấp tập, viết, tặng quần áo hoặc cấp học bổng cho các em yên tâm học tốt. - Tăng cường phối hợp với cha mẹ HS trong việc quản lý giờ giấc, nền nếp sinh hoạt và học tập của HS ở trường và ở nhà , đặc biệt là giáo dục tốt cho HS bậc THCS thái độ, động cơ học tập đúng đắn. Thường xuyên lạc với phụ huynh, kết hợp với phụ huynh hướng dẫn về biện pháp để giúp con em học tập để có kết quả cao. 3. HỌC SINH: - Đi học phải chuyên cần, Học bài, làm bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Trong giờ học tập trung nghe thầy cô giáo giảng bài, tích cực tham gia xây dựng bài. nắm chắc kiến thức cơ bản trong mỗi bài, mỗi chương. - Tự xây dựng cho mình thời gian biểu học tập hợp lý, khoa học. - Xây dựng cho minh ý thức kỷ luật, tự giác trong học tập. Không chán nản. Mà phải kiên trì để tìm tòi, học hỏi ở bạn, ở thầy để hiếu biết và nâng cao kiến thức. - Bản thân học sinh phải tự rèn luyện cho mình ý thức tự giác tích cực học tập. Xem nhiệm vụ học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của chính bản thân mình. - Thực hện tốt nội quy học tập của nhà trường, giáo viên đề ra . - Chăm chỉ chuyên cần siêng năng học tập. Có ý thức học tập, học hỏi ở bạn có kết quả cao hơn mình . Để việc phụ đạo học sinh yếu kém đạt kết quả cao thì giáo viên cũng như phụ huynh, học sinh phải xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, là việc làm thường xuyên liên tục. TÓM LẠI: Chất lượng giáo dục được bảo đảm vững chắc, số lượng HS khá giỏi tăng lên cùng đồng thời số lượng HS yếu, kém, HS bỏ học nửa chừng ngày càng giảm đi là điều mong muốn của mỗi nhà trường. Tất cả các giải pháp do nội lực của tập thể sư phạm nhà trường cùng với các giải pháp nhằm phát huy các nguồn lực bên ngoài xã hội có khả thi và hiện thực hay không đều phải được xuất phát từ sự nhận thức, lòng quan tâm để cùng biến thành nhiều hành động thiết thực, hiệu quả.

Bài Tham Luận Về Giải Pháp Phụ Đạo Học Sinh Yếu

Từ nhiều năm nay, đối tượng học sinh học tập yếu kém vẫn luôn tồn tại trong giáo dục. Vậy làm thế nào để giúp các em tiến bộ hơn? Cùng tham khảo Bài tham luận về giải pháp phụ đạo học sinh yếu để có thêm phương pháp dạy học thích hợp với từng đối tượng học sinh yếu.

Bài tham luận về một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu

Kính thưa toàn thể hội nghị!

Kính thưa các quý vị đại biểu! Quý thầy cô giáo

Được sự chỉ đạo của nhà trường, sau đây tôi xin phép trình bày ý kiến tham luận của mình về “giải pháp phụ đạo học sinh yếu”.

1. Thực trạng: Từ nhiều năm nay, đối tượng học sinh học tập yếu kém vẫn luôn tồn tại trong giáo dục, trong nhà trường chúng ta. Tuy nhiên về số lượng học sinh yếu kém nhiều hay ít, mức độ tiến bộ của học sinh yếu kém nhanh hay chậm trong quá trình được giáo dục và rèn luyện mới là điều đáng quan tâm của nhà trường.

Nguyên nhân dẫn đến học sinh yếu kém thì rất nhiều: có em do khả năng hạn chế của bản thân, có em do sự lười học lâu ngày mà thành hổng kiến thức, do chưa có động cơ học tập, chưa hiểu sâu, hay nắm kiến thức chưa chắc chắn, thiếu tự tin,… và còn rất nhiều nguyên nhân khác. Vậy “làm như thế nào” để học sinh vừa lấy lại được kiến thức cơ bản ở lớp dưới, vừa hình thành những kỹ năng cao hơn và đem lại sự tự tin cho các em trong học tập, thực sự là một nỗi niềm trăn trở của người giáo viên!

Theo quan điểm của tôi: muốn nâng cao chất lượng giáo dục trước hết phải hạn chế tỉ lệ HS yếu, HS ngồi nhầm lớp.

Hôm nay tôi không ngần ngại chia sẻ giải pháp và những kinh nghiệm với các thầy, cô về việc “Dạy – dỗ học sinh yếu kém” cho trường chúng ta.

2. Giải pháp:

Trước hết GVCN cần nắm lại số học sinh yếu của lớp mình, lập danh sách HS yếu và phân loại học sinh cần phụ đạo theo từng yêu cầu nội dung kiến thức và kỹ năng như: Đọc – viết, tính toán, …

Khối trưởng tổng hợp danh sách HS yếu từng mặt theo chuẩn kiến thức kỹ năng.

Tập trung HS yếu theo từng khối lớp về cơ sở I để dạy dỗ và ôn tập từ 1 đến 2 buổi / tuần tùy theo tình hình HS các khối.

Phân công GV trong khối dạy phụ đạo ít nhất 1 buổi/ tuần và luân phiên thay đổi.

Dành thời gian trong các buổi sinh hoạt khối để giáo viên báo cáo tình hình trong quá trình giảng dạy phụ đạo, đồng thời xây dựng kế hoạch và nội dung dạy học cho các buổi phụ đạo tiếp theo trong tháng.

Tổ chức họp tổ chuyên môn, bàn bạc dân chủ trong tổ khối và cả hội đồng nhà trường để cùng thống nhất ý kiến giải pháp này.

3. Kinh nghiệm: Để thực hiện tốt việc “Dạy – dỗ học sinh yếu kém” BGH và GV phải thực hiện tốt các nội dung sau:

Đối với BGH:

Chuẩn bị một phòng học để GV dạy dỗ, ôn tập cho các em. Đồng thời tăng cường tổ chức các chuyên đề về công tác phụ đạo HS yếu kém, đúc rút những bài học kinh nghiệm, các giải pháp tối ưu để từ đó giáo viên điều chỉnh nội dung, kế hoạch, phương pháp dạy học phù hợp. Hàng tháng, tổ chức kiểm tra một cách chặt chẽ, cụ thể với đối tượng học sinh yếu theo từng khối lớp để biết được mức độ tiến bộ của học sinh cũng như kết quả giáo dục của giáo viên. Nếu lớp nào, khối nào làm tốt thì khen thưởng; ngược lại khối lớp nào còn yếu thì phải kịp thời nhắc nhở.

Với giáo viên nói chung:

Chúng ta biết rằng vai trò quyết định của chất lượng GD không ở đâu khác, trước hết là ở đội ngũ GV, nói đến chất lượng đội ngũ là nói đến năng lực chuyên môn, trình độ nghiệp vụ sư phạm, phẩm chất đạo đức, lòng yêu nghề, mến trẻ,… Khuyết một trong những yếu tố này đều là không đảm bảo chất lượng.

Theo tôi, các thẩầphù hợp với từng tiết dạy.

Thường xuyên chấm chữa bài, lời nhận xét có ý nghĩa động viên tich cực.

Khi hướng dẫn học sinh yếu không được nóng nảy gây căng thẳng đối với các em mà phải cố gắng kiềm chế, hãy nhỏ nhẹ kiên trì trong quá trình hướng dẫn thì các em học tập mới có hiệu quả.

Riêng với GVCN:

* Rà soát các nhóm đối tượng HS và phân loại như sau:

– Nhóm HS yếu kém về trí tuệ, nhận thức: Yếu kém về đọc – viết; Yếu kém về kĩ năng tính toán. ( Đây là đối tượng khó phụ đạo nhất sẽ được dạy dỗ tập trung).

– Nhóm HS yếu kém về ý thức: (Đây là đối tượng sẽ được dạy dỗ theo dõi giúp đỡ thường xuyên trên lớp). Với hai nhóm đối tượng này GV cần phải:

+ Có kế hoạch giảng dạy rõ ràng cho từng nhóm đối tượng. HS hạn chế phần nào bổ sung phần đó. Có sổ ghi chép hằng ngày các lỗi HS bị hạn chế và kịp thời có giải pháp khắc phục. Bài giảng gắn với đời sống xung quanh và gần gũi với HS.

+ Bên cạnh đó kết hợp chặt chẽ với gia đình HS. Vì mọi sự thiếu quan tâm của gia đình sẽ khiến mọi nỗ lực của GV, của nhà trường bằng không. Người GVCN cần xác định đây là nhân tố giữ vai trò quyết định đồng thời với nhà trường cho sự phát triển toàn diện của HS.

+ Kiểm tra, động viên hằng ngày, hằng giờ.

+ Đánh giá cao những tiến bộ của HS, khích lệ để HS phấn khởi, tự tin học tập.

+ Làm tốt công tác nêu gương, biểu dương HS trước tập thể lớp.

+ Ngoài ra GVCN cần phân công HS khá giỏi giúp đỡ kèm cặp học HS yếu; bố trí chỗ ngồi hợp lý cho học sinh yếu để GV tiện theo dõi, giúp đỡ.

Kính thưa quý thầy cô, chúng ta hãy giúp HS khơi dậy và phát triển trí thông minh của của các em, đừng cho rằng bây giờ là quá trễ! Vì ở bất cứ độ tuổi nào con người cũng có thể tăng cường khả năng tận dụng sức mạnh não bộ của mình.

Tôi vừa trình bày bản tham luận về giải pháp phụ đạo HS yếu trong năm học …….. và một số kinh nghiệm trong quá trình dạy học. Kính mong sự chỉ đạo góp kiến của hội nghị để bản tham luận của tôi đầy đủ và có hiệu quả thiết thực hơn.

Cuối cùng tôi xin chúc sức khỏe các quý vị đại biểu, quý thầy cô giáo.

Chúc hội nghị thành công tốt đẹp. Tôi trân trọng cảm ơn!

Người viết

Một Số Biện Pháp Phụ Đạo Học Sinh Yếu, Kém Môn Toán Lớp 4

Chương trình toán lớp 4 là một bộ phận của chương trình toán ở tiểu học, là sự

kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy toán 4 ở nước ta. Thực hiện đổi mới cấu

trúc nội dung và phương pháp dạy học, mục tiêu chương trình toán lớp 4, yêu cầu giáo

viên trang bị cho học sinh một số chuẩn kiến thức và kỉ năng cơ bản để các em áp

dụng kiến thức và kỹ năng vào học tập và cuộc sống .

Năm học 2013 -2014 tôi được phân công dạy lớp 4C. Đầu năm nhận lớp qua

khảo sát chất lượng, tôi đã phát hiện một số em còn yếu toán tiếp thu bài quá chậm

không nắm được kiến thức cơ bản. Các em còn lơ là trong việc học toán ảnh hưởng

đến giờ học của các em trong thời gian kế tiếp. Các em thực hiện sai đối với những

bài toán rất đơn giản. Trên lớp các em không hứng thú với môn học này. Điều đó đã

thôi thúc tôi tìm tòi, nghiên cứu để đưa ra những giải pháp tốt nhất giúp các em có

kiến thức cơ bản về môn Toán để theo kịp chương trình làm tiền đề cho việc tiếp thu

kiến thức ở các lớp sau. Đó chính là lý do tôi chọn nghiên cứu đề tài: ” Một số biện

pháp phụ đạo học sinh yếu, kém môn Toán lớp 4″ nhằm chia sẻ cùng đồng nghiệp

nhớ lại các kiến thức đã hỏng dần dần giúp các em lắp lại chổ hỏng kiến thức, nắm chắc kiến thức cơ bản đã học để các em tiếp tục học tốt trong thời gian còn lại. Tổ chức phân dạng HS yếu môn toán: Mỗi học sinh yếu môn toán đều có nguyên nhân riêng rất đa dạng. Có thể chia ra một số đối tượng thường gặp là: SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM - MÔN TOÁN LỚP 4 -------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Người thực hiện: Phạm Thị Huế Trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 8 * Đối tượng 1: Do quên kiến thức cơ bản, kỹ năng tính toán yếu. * Đối tượng 2: Do chưa nắm được phương pháp học môn Toán, năng lực tư duy bị hạn chế (loại trừ những học sinh bị bệnh lý bẩm sinh). Nhiều học sinh thể lực vẫn phát triển bình thường nhưng năng lực tư duy toán học kém phát triển. * Đối tượng 3: Do lười học, phương pháp học tập chưa tốt * Đối tượng 4: Do thiếu điều kiện học tập hoặc do điều kiện khách quan tác động - học sinh có hoàn cảnh đặc biệt (gia đình xảy ra sự cố đột ngột, hoàn cảnh éo le, trẻ khuyết tật, điều kiện sức khỏe chưa tốt). Dù cho học sinh yếu ở dạng nào thì trước hết bản thân người giáo viên phải có ý thức về vai trò của mình. Có như vậy người giáo viên mới có trách nhiệm, sự nhiệt tình và thấy cần thiết trong việc tự bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ, tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm gây hứng thú cho các em trong lớp nói chung và với học sinh yếu kém môn Toán nói riêng. Xây dựng hình ảnh đẹp, tạo niềm tin cho học sinh, phụ huynh và lãnh đạo địa phương. Nắm vững bản chất của môn học: đây là bộ môn học khá khô khan và tính tích hợp rõ ràng. Do vậy khi dạy học cần lựa chọn hình thức phong phú, hấp dẫn. Có câu hỏi gợi ý một cách lôgic đi từ đơn giản đến phức tạp; cần liên hệ, xâu chuỗi kiến thức đã học giúp học sinh tự phát hiện kiến thức mới. Đặc biệt thiết kế bài dạy cần phải có những câu hỏi đơn giản hơn dành cho học sinh yếu kém sao cho các em học yếu cũng có cơ hội được phát biểu ý kiến. Chú ý khen ngợi các em khi các em có những biểu hiện tiến bộ dù là rất nhỏ. Ngoài chương trình đã có theo quy định, có chương trình giảng dạy dành riêng cho đối tượng này. Để thực hiện được biện pháp này tôi đã đăng ký với BGH nhà trường cho các em tổ chức học nhóm vào các buổi chiều thứ 3, thứ 6 và sáng thứ 7 hàng tuần. Chương trình giảng dạy đựơc tiến hành theo các bước sau: * Tổ chức học nhóm vào các buổi chiều ngày thứ 4 ,6 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM - MÔN TOÁN LỚP 4 -------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Người thực hiện: Phạm Thị Huế Trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 9 Bước 1: Tiến hành kiểm tra lại chất lượng 4 học sinh để đánh giá thực chất (ngày 10/10/2013) * Đề kiểm tra: Bài 1: Đọc, viết số a) Đọc số : 10 672 b) Viết số : Sáu mươi hai nghìn ba trăm bốn mươi hai. Bài 2: Đặt tính rồi tính a) 1486 + 2740 = ? c) 65 x 7 =? b) 8314 - 195 = ? d) 189 : 9 =? Kết quả cụ thể một số em học yếu: STT Họ và tên ĐÁNH GIÁ BÀI 1 BÀI 2 a b a b c d 1 Y Wel Đúng Đúng Sai Sai Sai Sai 2 Y Si-măn Đúng Đúng Sai Sai Đúng Sai 3 HVon Đúng Đúng Sai Sai Sai Sai 4 Y Tũ Đúng Đúng Đúng Sai Sai Sai Bước 2: Dựa vào kết quả khảo sát trên đánh giá thực chất xem các em hổng kiến thức ở dạng nào. Qua bài kiểm tra cho thấy các em vẫn chưa thành thạo trong cộng trừ có nhớ, chưa thuộc bảng cửu chương. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM - MÔN TOÁN LỚP 4 -------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Người thực hiện: Phạm Thị Huế Trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 10 Bước 3: Tổ chức xếp lại vị trí ngồi học và phân công nhiệm vụ cho 4 em học khá, giỏi trong lớp kèm cặp, giúp đỡ 4 em này vào các buổi chiều thứ 4, 6 (Giáo viên nêu rõ mục đích yêu cầu sau khi phân công và so sánh kết quả học tập của các em sau mỗi tuần ) cụ thể : Cặp 1: Em Linh kèm cặp em Y Wel Cặp 2 : Em Thao kèm cặp em Ysi-măn Cặp 3: Em HWai kèm cặp em HVon Cặp 4 : Em Thảo kèm cặp em Y Tũ Nội dung: Giáo viên hướng dẫn cho cặp đôi những nhiệm vụ ban đầu cần thiết như: + Yêu cầu cặp đôi của mình thuộc bảng " Phép cộng trừ trong phạm vi 10" + Hướng dẫn cách cộng, trừ nhẩm Ví dụ 1 : 8 +5 ( tách 5 thành 2 và 3 để có 2+8 = 10; 10 +3 = 13 ) Ví dụ 2: 15-7 (tách 15 thành 10 và 5, lấy 10- 7 =3; 3+5 = 8) Tiếp tục giúp bạn mình học thuộc bảng cửu chương bằng cách nắm được cấu tạo của từng bảng nhân, chia sau đó bạn khá soát lỗi giúp bạn học yếu. Tổ chức thi đua giữa 4 bạn của 4 cặp để đánh giá sự tiến bộ của 4 cặp đôi. Bước 4: Khảo sát chất lượng môn Toán của 4 em lần 2 ( ngày 10/ 11/2013) *Đề kiểm tra lần 2 như sau: Bài 1. Đặt tính rồi tính a) 7282 + 1386 = c) 126 x 8= b) 981287 - 783299 = d) 18418 : 4 = Bài 2. Thùng thứ nhất có 16 lít dầu. Thùng thứ hai nhiều gấp đôi thùng thứ nhất. Hỏi thùng thứ hai có bao nhiêu lít dầu? SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM - MÔN TOÁN LỚP 4 -------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Người thực hiện: Phạm Thị Huế Trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 11 Kết quả bài làm của 4 em đó như sau: STT Họ và tên ĐÁNH GIÁ BÀI 1 BÀI 2 a b c d 1 Y Wel Đúng Đúng Đúng Đúng Đúng 2 Y Si-măn Đúng Đúng Đúng Sai Đúng 3 HVon Đúng Đúng Đúng Đúng Sai 4 Y Tũ Đúng Đúng Đúng Đúng Đúng * Phụ đạo vào buổi sáng thứ 7 Trong những buổi học phụ đạo, tôi hướng dẫn cho học sinh giải các dạng toán đã học trong tuần. Ưu tiên 4 bạn này được thường xuyên lên bảng thực hiện trước. Các bạn khác nhận xét, bổ sung. Nếu các bạn đó thực hiện sai thì được các bạn khác phát hiện và yêu cầu bạn đó nêu lại cách thực hiện, nêu rõ xem mình sai ở bước nào. sẽ học trong tuần kế tiếp và đồng thời cho các em thực hành lại những kiến thức dã học ở tuần qua bằng cách cho những bài tập vừa sức với học sinh. Chẳng hạn: trước khi học phần phép chia, tôi ôn cho học sinh về phép chia cho số có 1 chữ số, đồng thời ôn lại bảng chia nhằm giúp các em dễ dàng ước lượng tìm thương của phép chia cho số có 2, 3 chữ số. Do là học sinh yếu nên việc hiểu và nhớ của các em còn chậm và mau quên. Các kiến thức cũ phải được giáo viên củng cố lại biết phân biệt, biết được sự chuyển tiếp giữa các dạng nội dung với nhau. Chẳng hạn Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó. Tìm 2 số khi biết hiệu tỉ số của 2 số đó. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM - MÔN TOÁN LỚP 4 -------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Người thực hiện: Phạm Thị Huế Trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 12 Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó. Bằng cách cho xem 3 đề toán thuộc 3 dạng này và chỉ rõ sự khác nhau giữa chúng. Trong từng mạch kiến thức giáo viên cần cốt lại cách thực hiện bằng lời nói đơn giản, dễ hiểu, "Nôm na" nhằm khắc sâu kiến thức. Nói rõ hơn đó là giúp học sinh thấy rõ cách nhớ của từng đơn vị kiến thức. * Ví vụ: Để nắm cách tìm thành phần chưa biết của phép tính: Số bị chia và số chia, thừa số, số hạng, số trừ và số bị trừ không bị lẫn lộn, ta có thể cho học sinh nắm cách nhận tính của đề, sau đó cho học sinh nhận dạng tìm số nào trong phép tính đó. (Tìm các thành phần còn lại; tìm số bị trừ ; thực hiện cộng, tính nhân khi tìm số bị chia) Chẳng hạn trong bài: Tìm x biết 365 : x = 73. Đối với dạng bài này tôi đưa ra ví dụ cụ thể như sau: 15 : 3 = 5. Như vậy học sinh sẽ dễ dàng nhận thấy trong phép chia 15 : 3 = 5 thì( số 3) chính là thành phần cần tìm trong phép tính 365 : x = 73. Sau đó hỏi muốn tìm số 3 ta phải làm như thế nào? ( lấy 15 : 5 = 3 ), vậy muốn tìm x ta làm như thế nào? ( 365 : 73 ). Làm tương tự với các dạng tìm x khác. Hoặc dạng đổi đơn vị đo khối lượng từ đơn vị lớn đổi ra đơn vị nhỏ hơn: ta thực hiện phép tính nhân (2kg =.g. Ta có: 2 x 1000 = 2000 g) và ngược lại từ đơn vị nhỏ đổi ra đơn vị lớn ta thực hiện tính chia (chẳng hạn: 36000 kg = ..tấn, ta có: 36000: 1000 = 36 tấn.) Khi phụ đạo về phép chia ở 1,2 tiết đầu tôi cho các em làm việc nhóm đôi, tôi quan sát thấy nhóm nào thực hiện chia tốt sẽ cho các em làm việc cá nhân. Đôi lúc tổ chức cho các em thi đua thực hiện phép chia, đố vui về bảng nhân bảng chia. Hay khi dạy về đơn vị đo thời gian (giây; thể kỉ) tôi cho học sinh quan sát sự chuyển động trên mặt đồng hồ có 3 kim và nêu khoảng thời gian kim giây đi từ một vạch nhỏ đến vạch nhỏ liền kề là 1 giây, khoảng thời gian kim giây đi hết một vòng trên đồng hồ là 60 giây tức là 1 phút, và giới thiệu 1 phút bằng 60 giây. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM - MÔN TOÁN LỚP 4 -------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Người thực hiện: Phạm Thị Huế Trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 13 Khi giảng dạy giáo viên chú ý theo dõi học sinh yếu hơn, khuyến khích các em học tập tích cực phát biểu ý kiến. Đặt những câu hỏi dễ, cho những bài tập vừa sức đối với mục tiêu quan trọng cơ bản của tiết học, giáo viên thường xuyên gọi các em yếu thực hành nhiều hơn. Có thể chẻ nhỏ bài tập hoặc cho thêm nhiều bài tập trắc nghiệm với mức độ yêu cầu vừa sức với các em, giúp các em khắc phục tính ngại khó, giúp các em hiểu các thuật ngữ, cách suy luận, chỉ rõ những kiến thức quan trọng cần khắc sâu, cần nhớ kĩ. Kích thích động viên đúng lúc khi các em có tiến bộ hay đạt được một số kết quả. Đồng thời phân tích chỉ cho các em chỗ sai nếu có, nhắc nhở đúng mức thái độ lơ là khi học, tránh nói chạm lòng tự ái học sinh. Điều quan trọng cần nói đến nữa là giáo viên cần tạo không khí cởi mở, tạo tình cảm thân thiện, gần gũi, tránh sự nặng nề hoặc tạo áp lực cho các em để các em cảm thấy thích học, để dần dần thay đổi về "chất". Dạy cho các em phương pháp học, giáo viên giúp các em có thể tự đánh giá bài làm của mình bằng cách thử lại kết quả bài toán. Chẳng hạn : Lấy phép trừ để thử kết quả phép cộng ( hoặc ngược lại ) Lấy phép nhân để thử kết quả phép chia ( hoặc ngựơc lại) Lấy kết quả thay vào thành phần chưa biết để thực hiện ( dạng bài tìm một thành phần chưa biết ) Lớp tôi được trang bị loại bàn ghế 2 chỗ ngồi. Tôi đã phân công nhiệm vụ cho từng em (bàn trưởng, bàn phó) để mỗi em đều được giữ một chức vụ và đều phải xác định được nhiệm vụ của mình, góp phần trong việc đưa thành tích của nhóm đôi ngày một đi lên. Tạo phong trào thi đua sôi nổi giữa các nhóm, tổ nhằm nâng cao chất lượng học tập, tính đoàn kết, thi đua lành mạnh giữa các tổ, tăng cường trách nhiệm đối với những bạn tổ truởng, tổ phó về chất lượng học tập của tổ mình. Tổ chức bình bầu tổ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM - MÔN TOÁN LỚP 4 -------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Người thực hiện: Phạm Thị Huế Trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 14 học tốt vào các tiết sinh hoạt lớp ngày thứ 6 hàng tuần về nhiều mặt như : Chuyên cần, vệ sinh, học tập c) Điều kiện thực hiện giải pháp. và đều khắp thì kết quả đạt được sẽ khả quan. Tuy nhiên tuỳ từng đối tượng, điều kiện giảng dạy mà giáo viên vận dụng những biện pháp trên một cách linh hoạt và mềm dẻo. d) Mối quan hệ giữa các biện pháp và giải pháp Trước đây, khi chưa áp dụng những biện pháp trên, số lượng học sinh yếu kém bộ môn này thường là rất khó tiến bộ. Các em gần như mất gốc lượng kiến thức cơ bản, gây tâm lý chán nản lười học thậm chí có những em có tư tưởng muốn bỏ học giữa chừng. Trong thời gian qua, nhờ áp dụng những biện pháp này đối với 4 em học sinh yếu kém môn toán lớp 4C đã dần nắm được kiến thức cơ bản, tạo cơ sở ban đầu để học sinh lĩnh hội những kiến thức mới sau này. Các em đã hứng thú hơn với những giờ học toán. Ở đây các em đựơc học tập, được bộc lộ rõ khả năng của mình, đặc biệt các em được học hỏi không chỉ ở thầy cô mà còn ở cả bạn bè. Tình cảm giữa các bạn trong lớp với nhau ngày càng trở nên thân thiện, gần gũi. e) Kết quả khảo nghiệm và giá trị khoa học của đề tài "Một số biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém môn Toán lớp 4" *Kết quả khảo nghiệm SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM - MÔN TOÁN LỚP 4 -------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Người thực hiện: Phạm Thị Huế Trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 15 STT HỌ VÀ TÊN ĐIỂM KIỂM TRA ĐỊNH KỲ MÔN TOÁN NĂM HỌC 2013-2014 GKI HKI GKII HKII 1 Y Wel Êcăm 4 5 6 7 2 Y Si-măn Hđơk 3 5 5 6 3 Hvon Bya 4 5 6 6 4 Y Tũ Enuôl 5 6 7 7 * Giá trị khoa học của đề tài Muốn khắc phục tình trang học sinh yếu kém về học lực nói chung trước hết người giáo viên cần nhận thức được vai trò của mình trong dạy học, mỗi giáo viên cần trang bị cho mình những kiến thức sư phạm cần thiết, cần phải học hỏi nhiều hơn nữa về chuyên môn nghiệp vụ, cải tiến, đổi mới phương pháp. Cần có sự tận tâm, có cái nhìn thiện cảm đối với những đối tượng học sinh không may mắn về nhiều mặt. Công bằng trong việc đánh giá chất lượng học sinh, tạo niềm tin vững chắc từ phía học sinh, đồng nghiệp và phụ huynh học sinh.Phát hiện kịp thời những kiến thức bị hổng của học sinh để kịp thời phụ đạo bằng nhiều hình thức. Phát hiện những tiến bộ dù là rất nhỏ của các em để kịp thời khuyến khích , động viên. Xây dựng nề nếp, phương pháp tự học tự rèn ở học sinh. Duy trì khối đoàn kết trong lớp học. Giáo dục cho học sinh thấy tầm quan trọng của phong trào "Xây dựng trường học thân thiện- Học sinh tích cực" 4. Kết quả. Qua các biện pháp nêu trên đã giúp các em học sinh yếu của lớp có sự tiến bộ một cách rõ rệt, đưa chất lượng học tập của các em nâng dần. Cụ thể đầu năm học SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM - MÔN TOÁN LỚP 4 -------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Người thực hiện: Phạm Thị Huế Trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 16 2013-2014 các em trong lớp như: Y Si-măn Hđơk, Hvon Bya, Y Tũ Enuôl, Y Wel Êcăm học rất yếu toán, kĩ năng tính toán rất chậm. Đến cuối năm các em đã cơ bản thực hiện được các dạng toán nhân, chia, cộng, trừ cho số có nhiều chữ số, phân biệt được việc tìm số chia, số bị chia, thừa số, số trừ, số bị trừ trên số tự nhiên và phân số, nắm rõ các dạng toán hình, toán điển hình Và quan trọng hơn là biết cách thử lại khi thực hiện xong 1 bài toán, không có học sinh nào phải kiểm tra lại, đạt chỉ tiêu mà lớp đã đề ra. III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Với những kinh nghiệm trên tôi đã góp phần nâng cao chất lượng của giờ dạy học toán nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. Đồng thời tạo sự say mê hứng thú cho học sinh khi học toán và từ đó học sinh ngày càng yêu thích môn toán hơn Một số kinh nghiệm mang nội dung "Biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém môn toán lớp 4" sẽ phần nào giúp đồng nghiệp có thêm những kinh nghiệm nhằm duy trì sĩ số, giúp đỡ các em học yếu kém xoá đi mặc cảm và tiến bộ hơn trong học tập. Những biện pháp tôi vừa trình bày không phải quá xa lạ đối với chúng ta, nó tựa như những thứ "Rau cỏ trị bệnh" mà ta bắt gặp trong cuộc sống đời thường. Bất cứ ai cũng có thể hiểu và áp dụng được. Tuy vậy, trong thực tế không phải lúc nào đối tượng học sinh yếu kém cũng đựơc giáo viên chú trọng nó đòi hởi ở lương tâm người thầy, cần phải coi học sinh như chính những đứa con mà mình dứt ruột đẻ ra. Những cố gắng của người giáo viên đạt kết quả tốt, được học sinh tin yêu đó mới chính là phần thưởng lớn nhất trong cuộc đời dạy học của mình. Tôi mong muốn những biện pháp cũng như quan điểm của mình được đồng nghiệp đón nhận và triển khai trong tương lai để chứng minh tính khả thi của sáng kiến kinh nghiệm rất mong Ban giám hiệu và các đồng chí góp ý kiến để sáng kiến kinh nghiệm ngày càng hoàn thiện hơn. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM - MÔN TOÁN LỚP 4 -------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Người thực hiện: Phạm Thị Huế Trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 17 2. Kiến nghị Giáo viên kiên trì bền bỉ chịu khó trong công tác phụ đạo học sinh yếu, theo dõi sát từng đối tượng học sinh trong lớp để kịp thời phát hiện những kiến thức các em chưa nắm hoặc còn mập mờ nhằm đề ra kế hoạch phụ đạo phù hợp . Giáo viên cần nắm vững chuẩn kiến thức kĩ năng cơ bản toán 4 là một yêu cầu tối thiểu mà mỗi học sinh lớp 4 đều phải đạt được. Đó là cơ sở để các em học tốt môn toán ở các lớp trên, để các em áp dụng những đều đã học vào thực tế cuộc sống. Đồng thời giáo viên phải biết sử dụng đội ngũ học sinh giỏi trong lớp hỗ trợ giáo viên trong việc phụ đạo. Bản thân giáo viên thường xuyên nghiên cứu thay đổi phương pháp hình thức tổ chức giờ học, phụ đạo sao cho học sinh hứng thú học tập. Nhà trường cần tạo điều kiện hơn nữa về cơ sở vật chất để học sinh yếu kém được phụ đạo thường xuyên. Tổ chức nhiều các hoạt động ngoại khoá, kích thích sự hứng thú để học sinh cảm thấy "Mỗi ngày đến trường là một ngày vui" Krông Ana, ngày 10 tháng 12 năm 2014 Người thực hiện Phạm Thị Huế SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM - MÔN TOÁN LỚP 4 -------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Người thực hiện: Phạm Thị Huế Trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 18 NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM CẤP TRƯỜNG CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU, KÉM - MÔN TOÁN LỚP 4 -------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Người thực hiện: Phạm Thị Huế Trường Tiểu học Đinh Tiên Hoàng 19

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Phụ Đạo Học Sinh Yếu Kém

1. Giáo dục ý thức học tập cho học sinh:

– Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh ở bộ môn mình, tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập bộ môn từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn.

– Phải tạo cho không khí lớp học thoải mái nhẹ nhàng, đừng để cho học sinh sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu, tôn trọng mình. Giáo viên không nên dùng biện pháp đuổi học sinh ra ngoài không cho học sinh học tiết học đó khi học sinh không ngoan, không chép bài vì làm như thế học sinh sẽ không được học tiết đó thế là học sinh lại có một buổi học không thu hoạch được gì. Chúng ta phải tìm cách khuyên nhủ, nhắc nhở học sinh giáo dục ý thức học tập của học sinh hoặc dùng một biện pháp giáo dục đó chứ đừng đuổi học sinh ra ngoài trong giờ học.

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU KÉM A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đổi mới phương pháp dạy học là tổ chức các hoạt động tích cực cho người học, kích thích, thúc đẩy, hướng tư duy của người học vào vấn đề mà họ cần phải lĩnh hội. Từ đó khơi dậy lòng ham muốn, phát triển nhu cầu tìm tòi, khám phá, chiếm lĩnh trong tự thân của người học để phát huy khả năng tự học của họ. Đối với học sinh bậc THCS cũng vậy, các em là những đối tượng người học nhạy cảm việc đưa phương pháp học tập theo hướng đổi mới là cần thiết và thiết thực. Vậy làm gì để khơi dậy và kích thích nhu cầu tư duy, khả năng tư duy tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo phù hợp với đặc điểm của môn học đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh? Trước vấn đề đó người giáo viên cần phải không ngừng tìm tòi khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động, vận dụng, sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học trong các giờ học sao cho phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh, xây dựng cho học sinh một hướng tư duy chủ động, sáng tạo. Bên cạnh đó, vấn đề học sinh yếu kém hiện nay cũng được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này, để đưa nền giáo dục đất nước ngày một phát triển toàn diện thì người giáo viên không chỉ phải biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu kém. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn với không ít giáo viên nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức. II. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU Do điều kiện và thời gian nên phạm vi nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm chỉ gói gọn ở những đối tượng học sinh yếu kém năm học 2010 -2011 của trường THCS Phong Thạnh Tây - Giá Rai - Bạc Liêu. B. NỘI DUNG. I. THỰC TRẠNG Trường THCS Phong Thạnh Tây thuộc vùng nông thôn sâu của Huyện Giá Rai. Đa số học sinh đều chăm ngoan, vâng lời thầy cô, tích cực trong học tập. Bên cạnh đó vẫn còn một số học sinh thờ ơ với việc học và chưa xác định rõ mục đích của việc học tập là để làm gì dẫn đến kết quả học tập yếu kém. Sau khi kiểm tra chất lượng đầu năm xong, lãnh đạo trường thường chia ra một lớp điểm sáng và một, hai lớp còn lại là học sinh yếu kém. Những đối tượng này không thích học phụ đạo nên rất khó khăn trong việc giảng dạy của giáo viên. Hiểu được vấn đề đó và dưới sự chỉ đạo của Phòng GD&ĐT Giá Rai lãnh đạo trường phân công những đồng chí giáo viên có kinh nghiệm, nhiệt tình để dạy các lớp này. Năm học 2010-2011 tôi được phân công dạy môn Tiếng Anh khối 9 trong đó cũng có một lớp điểm sáng và một lớp học sinh yếu kém. Qua kết quả khảo sát đầu năm có đến 56,7% học sinh yếu-kém,Tôi đã tìm hiểu và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, chỗ yếu của các em để từ đó tìm ra phương pháp phụ đạo cho phù hợp. Phần lớn các em cho biết không thích học phụ đạo sở dĩ đi học là do nhà trường bắt buột vì thời khóa biểu phụ đạo được xem như là buổi học chính khóa. Qua nhiều năm giảng dạy và làm công tác phụ đạo học sinh yếu kém, tôi nhận thấy muốn nâng dần chất lượng học sinh yếu kém không phải là chuyện một sớm một chiều mà nó đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn và lòng quyết tâm của người giáo viên. Sau đây tôi xin phân tích một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém để từ những nguyên nhân đó có thể tìm ra hướng khắc phục khó khăn giúp học sinh vươn lên trong học tập. II. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN HỌC SINH YẾU KÉM: 1. Về phía học sinh: Học sinh là người lĩnh hội những tri thức thì nguyên nhân học sinh yếu kém có thể kể đến là do cá nhân học sinh trong đó có thể kể đến một số nguyên nhân sau: - HS lười học: qua quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy rằng đa số các học sinh yếu kém là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cặp sách đến trường, nhiều khi học sinh còn không biết ngày đó học môn gì, vào lớp thì không chép bài vì lí do là không có đem tập học của môn đó. Còn một bộ phận không ít học sinh thì không xác định được mục đích của việc học, học để có điều kiện đi chơi, đến lớp thì lo chọc phá bạn bè, gọi đến thì không biết trả lời, đang giờ học thì xin ra ngoài để chơi. Theo sách giáo khoa hiện hành thì để dễ dàng tiếp thu bài, nhanh chóng lĩnh hội được tri thức thì người học phải biết tự tìm tòi, tự khám phá, có như thế thì khi vào lớp mới nhanh chóng tiếp thu và hiểu bài một cách sâu sắc được. Tuy nhiên, phần lớn học sinh hiện nay đều không nhận thức được điều đó. Học sinh chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học rồi về về nhà lấy tập ra "học vẹt" mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì. 2. Về phía giáo viên: Học sinh học yếu không phải nguyên nhân toàn là ở học sinh mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trò giỏi. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong công tác giảng dạy thì đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, ở đây không phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì sẽ giảng dạy tốt mà ở đây đòi hỏi người giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là tốt với từng đối tượng học sinh và với từng nội dung kiến thức. Qua quá trình công tác tôi nhận thấy, vẫn còn một bộ phận giáo viên chưa thật tâm huyết với nghề, chỉ rập khuôn theo một khuôn mẫu nhất định mà chưa chú ý quan tâm đến các đối tượng học sinh. Chưa tìm tòi nhiều phương dạy học mới kích thích tích tích cực chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh của học sinh, có khi học sinh hỏi một vấn đề gì đó thì giáo viên lại tỏ ra khó chịu hay trả lời cho học sinh với thái độ cọc cằn làm cho học sinh không còn dám hỏi khi có điều gì chưa rõ. - Gia đình không quan tâm: Một số gia đình có khả năng cho con đi học nhưng không quan tâm đến việc học hành của con em hàng ngày, không biết được thời gian học của các em bắt đầu lúc mấy giờ và kết thúc khi nào, thời khóa biểu hôm nay có mấy tiết gồm những môn gì? Không đôn đốc, nhắc nhở và tạo điều kiện học tập cho các em, họ cứ nghĩ học đến đâu hay đến đó, thích học thì cho học, chán thì cho nghỉ. - Do sức khỏe yếu: Một số em thể trạng yếu , không thích nghi với điều kiện thời tiết khí hậu thay đổi đột ngột đẽ mắc bệnh đẫn đến phải nghỉ học đến khi nào khỏi bệnh đi học lại dẫn đến tiếp thu không kịp bài. Hoặc một số em có bệnh bẩm sinh, trí tuệ kém thông minh cũng là nguyên nhân dẫn đến yếu kém. III. CÁC BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU KÉM: 1. Giáo dục ý thức học tập cho học sinh: - Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh ở bộ môn mình, tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập bộ môn từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng và tầm quan trọng của môn học trong thực tiễn. - Phải tạo cho không khí lớp học thoải mái nhẹ nhàng, đừng để cho học sinh sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu, tôn trọng mình. Giáo viên không nên dùng biện pháp đuổi học sinh ra ngoài không cho học sinh học tiết học đó khi học sinh không ngoan, không chép bài vì làm như thế học sinh sẽ không được học tiết đó thế là học sinh lại có một buổi học không thu hoạch được gì. Chúng ta phải tìm cách khuyên nhủ, nhắc nhở học sinh giáo dục ý thức học tập của học sinh hoặc dùng một biện pháp giáo dục đó chứ đừng đuổi học sinh ra ngoài trong giờ học. - Bên cạnh đó, việc giáo dục ý thức học tập của học sinh cũng phụ thuộc rất lớn vào giáo viên chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm là người gần gủi với học sinh, phải tìm hiểu đối từng đối tượng học sinh, thường xuyên theo dõi các em về cả học lực và hạnh kiểm để kịp thời giáo dục, uốn nắn học sinh của mình. Ví dụ 1: Học sinh Nguyễn Văn B, học lớp 9A2, không thích học nhưng vì bị gia đình ép buộc đi học nên đến lớp không chú ý nghe giảng mà chỉ lo nói chuyện, làm mất trật tự trong giờ học, kết quả là học sinh đó học tập kém. Hướng giải quyết: Trước tiên, Giáo viên chủ nhiệm trao đổi với chính học sinh đó để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của học sinh, đồng thời hỏi bạn bè của học sinh đó về hoàn cảnh gia đình và sinh hoạt của học sinh. Từ đó giáo viên tìm hiểu được nguyên nhân và thường xuyên gần gủi, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh nhận thấy tầm quan trọng của việc học. Bên cạnh đó, giáo viên trao đổi với gia đình, phối hợp với gia đình giáo dục ý thức của học sinh, khuyên nhủ gia đình không nên quá gò ép học sinh mà từ từ hướng dẫn học sinh học tập, thường xuyên gần gủi giúp đở em để em thấy được sự quan tâm của gia đình mà phấn đấu. 2. Kèm cặp học sinh yếu kém: - Ngay từ đầu năm, giáo viên phải lập danh sách học sinh yếu kém bộ môn mình ở năm học trước để nắm rõ các đối tượng học sinh, lập danh sách học sinh yếu kém và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết học như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời, khen ngợi khi các em trả lời đúng, có thể cho điểm tối đa để khích lệ tinh thần học tập cho các em. - Khi soạn giáo án phụ đạo cho các em phải chú ý đến những điểm kiến thức mà các em đã hỏng trong năm học trước và trong năm học này để dần bổ sung những kiến thức đó cho các em. Ví dụ: ở bộ môn Tiếng Anh, khi học đến lớp 8 các em đã được học thì quá khứ đơn nhưng khi giáo viên cho bài tập các em làm không đúng, lúc này giáo viên phải giải thích lại cách dùng của thì này và ghi lại công thức cho các em và cho nhiều ví dụ mẫu để cho các em hiễu rõ và có thể làm được. - Phải thường xuyên kiểm tra sĩ số: Để nắm được nguyên nhân các em nghỉ học, răn đe đối với các em nghỉ học nhiều lần trong các buổi phụ đạo không có lý do, động viên đối với những trường hợp nghỉ có lí do chính đáng, phải kết hợp với GVCN trong việc theo dõi tỉ lệ chuyên cần của các em. Vì có đi học đều mới có thể lĩnh hội được kiến thức. - Kiểm tra vở học của các em vào cuối buổi học: Một số em ý thức học chưa tốt thường không chép bài đầy đủ, khi nghe hiệu lệnh trống là gấp vỡ lại ra chơi. Giáo viên có thể nhắc nhở ngay từ đầu giờ khi vào lớp để các em theo dõi và ghi chép đầy đủ nhưng khi có một dấu hiệu nghi ngờ nào đó thì cuối buổi gọi em đó mang vỡ ghi chép lên xem, nếu em đó chưa hoàn thành thì cho chép bài lại giờ ra chơi. Có như thế các em mới chép bài đầy đủ. - Kiểm tra kiến thức cũ trước khi bổ sung kiến thức mới: Vào đầu giờ giáo viên nên hỏi lại kiến thức cũ đã học ở tiết trước và cho các em 1, 2 câu bài tập để áp dụng, nếu các em làm được thì mới dạy kiến thức khác. Hay cuối giờ dành khoảng 5 đến 10 phút cho các em kiểm tra giấy xem các em có lĩnh hội được bài giảng hôm nay không. Từ đó có hướng thích hợp để phụ đạo cho các em tốt hơn. IV. KẾT QUẢ: Học sinh yếu kém đầu năm học 2010 - 2011: Moân Toång soá HS Gioûi Khaù Trung bình TB trôû leân Yeáu Keùm SL % SL % SL % SL % SL % SL % Tiếng Anh 9 60 6 23,0 20 33,3 26 43,3 22 36,7 12 20,0 Học sinh yếu kém học kỳ I, năm học 2010 - 2011: Moân Toång soá HS Gioûi Khaù Trung bình TB trôû leân Yeáu Keùm SL % SL % SL % SL % SL % SL % Tiếng Anh 9 59 4 6,8 12 20,3 33 55,9 49 83,1 10 16,9 Học sinh yếu kém cuối năm học 2010 - 2011: Moân Toång soá HS Gioûi Khaù Trung bình TB trôû leân Yeáu Keùm SL % SL % SL % SL % SL % SL % Tiếng Anh 9 58 3 5,2 21 23,0 30 51,7 54 93,1 4 6,9 C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN: - Giáo viên phải nhiệt tình giảng dạy, kiểm tra bài học của các em thường xuyên trên lớp. - Có kế hoạch phụ đạo càng sớm càng tốt. - Sử dụng nhiều đồ dùng dạy học, vận dụng nhiều phương pháp hay đa dạng để thu hút học sinh. - Ôn tập thật kỹ và phải có đề cương ôn thi cho học sinh trước khi làm bài kiểm tra , thi học kỳ. - Luôn là tấm gương tự học, sáng tạo để học sinh noi theo. Rèn cho học sinh tính hiếu học, cách học tập tốt, kiên trì vượt khó. - Làm cho học sinh hiểu rõ mục đích của việc học tập và trở nên yêu thích môn học. - Phụ huynh nên quan tâm đến việc học của con em mình, nắm bắt được thời khóa biểu, thời gian học hàng ngày và phải thường xuyên liên hệ với GVCN hay GV bộ môn để nắm bắt được việc học của các em. II. KIẾN NGHỊ: - Nhà trường cần chỉ đạo và theo dõi chặt chẽ công tác phụ đạo học sinh yếu kém, chỉ đạo cho các bộ phận đoàn thể trong nhà trường thực hiện tốt việc giáo dục ý thức đạo đức, học tập cho các em. - Phát động nhiều phong trào thi đua học tập trong học sinh đồng thời tạo sân chơi lành mạnh cho học sinh. - GVCN cần tăng cường công tác giáo dục ý thức học tâp của học sinh, phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để kịp thời uốn nắn các em. - GV bộ môn phải tìm ra những biện pháp dạy có hiệu quả, thường xuyên theo dõi học lực của học sinh để so sánh và đánh giá mức tiến bộ của các em. Phong Thạnh Tây, ngày 20 tháng 5 năm 2011 HỘI ĐỒNG KHGD TRƯỜNG Người viết Huỳnh Thanh Tùng

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Phụ Đạo Học Sinh Yếu Kém Có Hiệu Quả

t tâm tiến tới trường đạt chuẩn Quốc gia ở mức độ II trong những năm sắp tới. Thực tế, trong lớp 4A mà bản thân chủ nhiệm, còn nhiều em cách xa trường khoảng 8km, có những em ở bên sông (tỉnh Kiên Giang) khó khăn trong việc qua đò. Trong Kinh 1, Kinh 2 đường giao thông chưa hoàn thành nên cũng gặp khó khăn cho các em. Bên cạnh đó có gia đình lao động nghèo, vì cuộc sống mưu sinh, vì mãi lo cho kinh tế gia đình, một số phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập của con em mình. Điều này phần nào đã ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em. III. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1. Đặc điểm tình hình: - Trường tiểu học của chúng tôi nằm cách xa trung tâm huyện khoảng 25 km là trường thuộc diện vùng khó khăn, có một điểm trung tâm và 3 điểm lẻ cách trung tâm tương đối xa, đường giao thông hiện nay tu sửa và mở rộng nên cũng khá vất vả cho các em đến trường tỉ lệ chuyên cần chưa cao. - Việc khó khăn đi lại, nay còn phải qua đò lại càng khó khăn hơn nhất là trong những ngày mưa gió, đó cũng là một phần dẫn đến nguyên nhân học sinh học yếu. * Nguyên nhân học sinh yếu là: 2. Về phía học sinh: Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì nguyên nhân học sinh yếu có thể là do: - Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng các em học sinh yếu là những học sinh cá biệt, vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì không xem bài, không chuẩn bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. Còn một bộ phận nhỏ thì các em không xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà lấy tập ra " học vẹt" mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì. - Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp nhỏ: Đây là một điều không thể phủ nhận với chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một phần lỗi của giáo viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh. IV. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: 1. Những biện pháp chung: 1.1 Giáo viên xây dựng môi trường học tập thân thiện: Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười giáo viên tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình. Giáo viên luôn tạo bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không trách mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có thể dùng các phiếu thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của các em như: "Biết giúp đỡ người khác", " Thái độ nhiệt tình và tích cực" 1.2 Giáo viên phân loại các đối tượng học sinh Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy phong cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông qua đặc trưng này. Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù hợp. Ví dụ khi học bài: Giải toán về Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó (Toán-lớp 4 ), đối với các em học sinh yếu thì các em chỉ cần nắm mục tiêu thứ nhất: "Biết cách tìm số lớn và số bé" là đạt yêu cầu rồi. Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí đích thực của mình trong tập thể. Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành 1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em. Ngoài ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo từ 1 đến 2 buổi trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề. 1.3 Giáo dục ý thức học tập cho học sinh: Giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hoàn cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ chức các trò chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học. Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh. Do hiện nay, có một số phụ huynh luôn gò ép việc học của con em mình, sự áp đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần phân tích để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm của gia đình, thầy cô sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên. 1.4 Kèm cặp học sinh yếu: Ngay từ đầu năm giáo viên phải khảo sát chất lượng để biết số lượng học sinh yếu là bao nhiêu để có kế hoạch phụ đạo. Như lớp 4A mà bản thân chủ nhiệm, sau khi thi khảo sát chất lượng đầu năm thì có 5 học sinh yếu và bản thân đã lên kế hoạch phụ đạo cho các em. Lập danh sách học sinh yếu và chú ý quan tâm đặc biệt đến những học sinh này trong mỗi tiết dạy như thường xuyên gọi các em đó lên trả lời câu hỏi, khen ngợi các em đó khi các em trả lời đúng, Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học của học sinh, cùng với phụ huynh tìm biện pháp khắc phục. 2. Những biện pháp cụ thể: .2.1 Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Tiếng Việt và biện pháp khắc phục: + Tập đọc: Dù là học sinh lớp 4, nhưng trong khối còn một số em đọc rất yếu. Nguyên nhân đọc yếu ở các em là ngắt nghỉ hơi chưa đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được các dấu câu, chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp 4, với những từ có vần khó thì phải đánh vần thật lâu, tùy tiện lượt bớt hoặc thêm từ vào khi đọc. Bên cạnh đó, khả năng đọc trôi chảy, đọc hiểu và cảm thụ một tác phẩm, một văn bản còn hạn chế. + Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc yếu thường cũng viết yếu. Nguyên nhân các em viết yếu là do không hiểu và nắm nghĩa của từ, không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi do phát âm chưa đúng nên dẫn đến học sinh viết sai. + Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu. + Tập làm văn: Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng lời, diễn đạt khi viết. Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết của các em. Vì vậy, các em gặp khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học thông qua các kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn. 2,2 Biện pháp: + Tập đọc: Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ tích đọc vào giờ nghỉ giải lao (hay 15 phút đầu giờ). Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét, đánh giá về sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các em rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em say mê rèn đọc. Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện đọc trôi chảy thông qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn từ và hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một số từ trong bài đọc, từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc. + Chính tả: Đối với những học sinh viết yếu thì giáo viên cần: Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi ngày viết khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên đọc cho học sinh viết một đoạn văn sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có thể cho các em viết vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng để luyện viết và giáo viên phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá kịp thời. Nếu có điều kiện thì yêu cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì các em sẽ tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các em sẽ viết đúng chính tả. Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính tả trong sách giáo khoa, giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó nhiều lần, nhiều từ. Có thể cho các em có chọn từ để luyện viết thêm. Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với yêu cầu nên có thể chấp nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng chính tả. + Luyện từ và câu: Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày. Hướng dẫn các em tra từ điển, tạo cơ hội cho các em được tra nhiều từ nhằm giúp các em hiểu nghĩa gốc của từ, tạo sự ham thích tìm hiểu. + Tập làm văn: Nắm được đề bài, nhận dạng thể loại, sửa phần tìm ý, viết đoạn. Giáo viên chỉ ra lỗi cụ thể trên bài làm của học sinh. Học sinh tự viết lại. Cần tạo điều kiện để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu thích. Khuyến khích các em trình bày bài viết trước lớp.Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách thay đổi những đề bài tập làm văn thành những tình huống, nhằm tạo ra cho các em một hoàn cảnh giao tiếp. Nhờ có hoàn cảnh giao tiếp, các em dễ bày tỏ suy nghĩ của mình hơn. 2.2 Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Toán và biện pháp khắc phục Trong lớp bản thân chủ nhiệm có em Nguyễn Thị Kim Pho thì hầu như là không biết tính khi học toán. Nguyên nhân thì có rất nhiều, bản thân chỉ xin nêu một số nguyên nhân tiêu biểu: Không nắm được các phép tính cộng, trừ có nhớ, không thuộc bảng nhân, bảng chia. Vì vậy, các em cũng không nắm được các phép tính cộng, trừ, nhân, chia phân số. Không nắm được lí thuyết bài (công thức, quy tắt). Ôn lại các hàng, lớp và cách đặt tính số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số thuộc cùng một hàng. Ví dụ: 125 +217 Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số lệch hàng. Ví dụ: 56 +1024 Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến lớn hoặc từ lớn đến nhỏ. Bên cạnh những học sinh không biết tính thì có những em tính còn yếu. Nguyên nhân các em tính yếu có thể là do: Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ, nhân, chia trong bảng chưa thuần thục dẫn đến tính toán chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngoài bảng. Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết quả theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận khi giải toán. Các em rất sợ các bài tập về giải toán vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu và không biết tính hoặc tính thiếu chính xác. Vậy đối với những học sinh tính yếu thì giáo viên cần: - Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia mức độ đơn giản. - Khi giải toán, giáo viên có thể yêu cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài, tóm tắt và trình bày bài giải, nắm được từng dạng toán khi giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay đổi một vài con số và yêu cầu các em học yếu làm lại. Các em có thể làm vào giờ ra chơi hoặc giờ rèn vào buổi chiều. Khi các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa sai (nếu có) kịp thời. -Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán cơ bản. - Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp. - Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em. - Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó khăn thường trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp đỡ khi cần. - Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai, xem trước bài mới. Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn qua vở bài tập để có hướng khắc phục và động viên kịp thời. * Tóm lại: Ngoài những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh yếu, biện pháp lâu dài là tạo ra sự hứng thú trong quá trình học tập. Thông qua những phương pháp dạy học tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học tập thành nhu cầu vì nguồn gốc của tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi học sinh có nhu cầu thì tự các em sẽ tìm kiếm tri thức. Đó chính là khả năng tự học. Hơn nữa, các em học sinh tiểu học là thế hệ Măng non của đất nước. Nên bản thân luôn luôn hướng các em theo khẩu hiệu "Học vì ngày mai lập nghiệp". Học để hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Bản thân cũng tin tưởng rằng, mình đã đưa ra những biện pháp thích hợp trong công tác phụ đạo học sinh yếu. Đây là yếu tố cần thiết, giúp cho chất lượng học tập của các em ngày một được nâng cao. V. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: Qua 3 năm thực hiện phong trào giúp đỡ học sinh yếu kém ở huyện nhà đạt được kết quả đáng kể. Với đội ngũ giáo viên trẻ, khỏe nhiệt tình trong công tác giảng dạy đã mạnh dạn trong việc đề ra những giải pháp giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng. Từ đó giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa chữa những hạn chế của bản thân. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quan điểm đổi mới để vận dụng vào thực tiễn. Những biện pháp trên có thể áp dụng cho việc đổi mới dạy và phụ đạo học sinh yếu kém các khối 3- 4- 5 đạt hiệu quả. Theo dõi bảng số liệu trong 3 năm học của học sinh khối 3- 4- 5, ta sẽ thấy sự tiến bộ vượt bậc của các em : NĂM HỌC TỔNG SỐ HS KHỐI 3 - 4 - 5 SỐ HỌC SINH YẾU Đầu năm Tỉ lệ % Cuối năm Tỉ lệ % 2007 - 2008 232 87 37,5 3 1,3 2008 - 2009 244 65 26,6 2 0,8 2009 - 2010 228 42 18,4 1 0,4 Trong naêm hoïc 2010 - 2011, sau khi aùp duïng saùng kieán kinh nghieäm thì việc phụ đạo học sinh yếu của khối giảm khá nhiều so với những năm trước đây. Đặc biệt trong lớp 4A bản thân mình chủ nhiệm đến thời điểm học kì I không còn học sinh yếu nữa: NĂM HỌC TỔNG SỐ HS CỦA KHỐI SỐ HỌC SINH YẾU Số lượng Tỉ lệ % 2010 - 2011(CKI) 224 5 2,2 NĂM HỌC TỔNG SỐ HS LỚP 4A SỐ HỌC SINH YẾU Số lượng Tỉ lệ % 2010 - 2011(CKI) 40 0 0 VI. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Là người giáo viên trực tiếp giảng dạy bản thân thiết nghĩ, muốn giúp đỡ đối tượng học sinh yếu, giáo viên chủ nhiệm cần: - Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải tiến phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực. - Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đoàn thể trong nhà trường, với chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em. Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua các phong trào, tạo cho các em động cơ ham học. Trong việc uốn nắn các em, giáo viên chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tỉnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hòa hợp với các em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp. Học sinh lớp 4 cũng thích được động viên khen thưởng, giáo viên không nên dùng hình phạt, trách mắng làm cho các em sợ sệt, phải tạo cho các em có niềm tin để các em an tâm học tập. Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện phương châm "Tất cả vì học sinh thân yêu". Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân và sự chia sẽ của bạn bè đồng nghiệp, bản thân luôn hoàn thành tốt việc giúp đỡ đối tượng học sinh yếu. Đây là một trong những tác động lớn đưa bản thân đến việc nghiên cứu viết sáng kiến kinh nghiệm này một cách thiết thực và áp dụng trong giảng dạy kết quả có khả thi. Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng trong học tập thì chắc chắn rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều để phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lòng nhiệt thành của người thầy và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân các em thì chúng ta tin tưởng vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến với các em. Và có lẽ rằng, vai trò của chúng ta đã hoàn thành. VII. KIẾN NGHỊ - ĐỀ XUẤT - Cần mạnh dạng đánh giá học lực cuối năm một cách xác thực theo chuẩn kiến thức mà học sinh đạt được, nhằm khắc phục tình trạng học sinh yếu dứt khoát cho những năm tiếp theo. - Nếu được điểm cao xin nhân rộng sáng kiến kinh nghiệm này. Vĩnh Lộc A, ngày 10 tháng 11 năm 2011 Duyệt của Hiệu trưởng Người thực hiện Lê Thị Quán Xác nhận của Hội đồng khoa học Lời tựa Trang 1 I. Lý do chọn sáng kiến Trang 2 II. Cơ sở lý luận Trang 3 III. Cơ sở thực tiễn Trang 4 IV. Biện pháp thực hiện Trang 4 V. Kết quả đạt được Trang 9 VI. Bài học kinh nghiệm Trang 10 VII. Kiến nghị - đề xuất Trang 11

Một Số Biện Pháp Phụ Đạo Học Sinh Yếu Lớp 1

Qua nhiều năm giảng dạy ở bậc tiểu học, tôi nhận thấy sự phát triển của xã hội. ngày một cao hơn, nền kinh tế phát triển mạnh thì đòi hỏi con người phải có tri thức và năng lực nên đòi hỏi xã hội học tập ngày càng lớn. Để có một thế hệ vững vàng về tri thức và năng lực, cần thực hiện nghiêm túc chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước. Đã có biết bao học sinh ở lại và học sinh yếu kém ngồi nhầm lớp, học sinh bỏ học do không theo kịp kiến thức nên các em không biết đọc, biết viết mà ngồi ở một lớp tới 2 hoặc 3 năm thì ảnh hưởng đến các em ít tuổi hơn cùng ngồi một lớp…đó là điều mà tất cả các giáo viên nói chung và bản thân tôi nói riêng, đã dạy qua các lớp 2,3,4,5 từ chương trình củ sang chương trình mới tôi là người địa phương và đã nhìn thấy các thế hệ trước tôi và sau tôi khi bước qua tuổi trưởng thành họ đều mong muốn biết đọc , biết viết biết tính toán thì kinh tế phát triển, bản thân không bị thiệt thòi.Tôi đang suy nghĩ làm thế nào để nâng cao chất lượng học sinh, giúp các em yếu tiến bộ về đọc , viết để các em khỏi bỏ học nắm được kiến thức cơ bản ngay từ đầu lớp một,giúp các em học tốt và thích học, nhất là giúp các em có một nền móng vững chắc trong học tập, bởi lớp một là nền móng cho sự phát triển của các em sau này và các lớp kế tiếp ,mà họ thường nói ” cấp một là nền,lớp một là móng”vì thế móng có chắc thì nền mới vững.để có một thế hệ tri thức trong tương lai và không còn học sinh bỏ học thì cần được chăm sóc và rèn luyện ngay lớp đầu cấp. tạo ra môi trường học thân thiện để cho mọi trẻ em được đến trường và để đáp ứng được nhu cầu học tập trong xã hội hiện nay. Theo tôi với học sinh lớp 1 bước đầu chỉ làm quen với các bảng chữ cái và kĩ năng nghe, nói , đọc viết.Vậy cần phải được trang bị cho các em qua giao tiếp trước khi vào bài học đầu tiên của môn tiếng việt.

b/ nội dung và cách thức thực hiện :

Bồi dưỡng, luyện tập sau khi phân loại đối tượng học sinh đầu năm. Giáo viên cần nắm trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức giỏi, khá, trung bình, yếu để tăng số lần đọc dành nhiều thời gian, giảm số lượng chữ trong một tiết học cho học sinh yếu. Với học sinh giỏi bồi dưỡng đọc trơn tiếng, từ, câu.

Trong giảng dạy tôi luôn thực hiện nhịp nhàng các bước để tạo thói quen về cách đọc cho các em yếu nhớ để giúp cho các em việc tự học ở nhà.

Vào đầu năm học giáo viên cần nắm được đối tượng học sinh và trình độ tiếp thu bài của mỗi em để từ đó có kế hoạch kèm cho các em vào từng tiết học, phần học, môn học:

* Phần các nét cơ bản và tên gọi: Tôi đưa ra và viết lên bảng từng nhóm nét để học sinh đọc, nhớ và viết được nét vào vở.

– Nhóm 1: nét xiên : Nét ngang ­- Nét xiên trái Nét xiên phải /

– Nhóm 2:Nét móc : Nét móc trên ? Nét móc dưới ,Nét móc hai đầu.

– Nhóm 3: Nét cong : Cong hở phải C Nét cong hở trái ) Nét cong kín O

– Nhóm 4: Nét khuyết : Nét khuyết trên , Nét khuyết dưới, Nét thắt

Khi học sinh đã nắm được các nét cơ bản, giáo viên cho các em tiếp tục đọc

âm và nêu lại âm, viết bàng con nét gì và nhận diện từ nét cơ bản thì các em

yếu có thể nhớ lâu hơn và tôi hướng dẫn các em cách phát âm, nêu cấu tạo, so

sánh hai âm với nhau, có hai con chữ, ba con chữ ghép lại.

Ví dụ : + Ph – p / h , ngh – n/ g/ h, nh – n/h, tr – t/r…

+ Còn lại các âm:Gi, tr, qu, ng, tôi cho học kĩ về cấu tạo

+ Phân từng cặp:

Ch – tr, ng – ngh, c – k, g – gh để học sinh phát âm chính xác và viết đúng chính tả.Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi tạo điều kiện cho các em đọc nhiều và kiểm tra các em trong giờ ra chơi bằng cách đọc cho các em viết vào bảng con không theo thứ tự và khi viết xong yêu cầu các em đọc lại âm vừa viết.

Sau phần học âm là đến phần làm quen với âm và chữ ghi âm tôi cho các em

nắm tên chữ để sau này học trong môn toán và nắm đươc các dạng chữ viết hoa

,in hoa nên vào học vần tôi cho các em nhận diện vần so sánh vần phát âm thật chuẩn để khi nghe viết giảm bớt lỗi chính tả hơn.

. VD: Học vần ăn:

Cho học sinh phân tích cấu tạo về vần ăn: âm ă đứng trước và âm n đứng sau.

2 .Đánh vần vần ăn:

* Hướng dẫn học sinh: âm ă đứng trươc, ta đọc ă trước, âm n đứng sau đọc n sau:

* Đọc trơn vần :Yêu cầu các em chọn đúng hai con chữ ă và n ghép đúng vị trí

: ă trước n sau.

Lúc này tôi cho các em cách nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ

cái có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết khác nhau hay gặp trong sách báo như

chữ a, chữ g, tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó cũng là chữ a hay

chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in trong sách báo các em có thể nhận biết

được để đọc không bị lúng túng.Mà học sinh yếu ở lớp tôi trong ba năm qua

thường phát âm sai như : ui – uôi, an -ang, ươn – ương, ong – ông… vì vậy

đến bước đánh vần ghép vần tôi phải cho các em vừa hiểu vần đó có mấy âm

ghép lại và uốn lưỡi, nhấp môi và tăng thời lượng đánh vần cá nhân để sửa

cho những em yếu.

Khi các em đã đọc được vần để đọc được tiếng cũng rất quan trọng nên giáo viên cần cho học sinh nắm được vần cần ghép âm và tự ghép tiếng, phân tích cấu tạo tiếng đánh vần và đọc trơn được tiếng.

Ví dụ: tiếng khăn / khăn rằn giáo viên đặt câu hỏi.

+ Đã có vần ăn muốn có tiếng khăn ta thêm âm gì ?

+ Học sinh trả lời ‘thêm âm kh đứng trước vần ăn’ gọi học sinh khác nhận xét lớp ghép vào bảng cài và đọc trơn tiếng ” khăn” giáo viên chọn em nào đọc chuẩn nhất đánh vần mẫu khờ -ăn -khăn / khăn cho các em khác đọc theo giáo viên theo dõi và sữa cho các em yếu , nói chớt’ tất cả học sinh phải được đánh vần cá nhân sau đó mới đọc nhóm và đọc cả lớp. Sau mỗi lần đọc cá nhân, nhóm giáo viên cho các em khác nhận xét và sữa sai thì kĩ năng đọc của các em sẽ được đúng và chuẩn hơn để khi nghe đọc viết các em ít bị mắc lỗi. Các em so sánh sự khác nhau của ăn -ăng (lăn bánh/ bằng lăng)

+ Đối với lớp 1 tôi đang dạy có nhiều học sinh yếu thì tôi dành nhiều thời gian cho các em đánh vần vần ,tiếng ,đọc trơn từ. nhằm giúp các em có thể hình dung ra cấu tạo của chữ viết một cách rõ ràng. Tạo điều kiện cho đọc theo cặp đôi, đọc theo nhóm, giúp các em yếu được đọc nhiều, kiểm tra thay đổi bạn đọc.

+ Tăng cường hoạt động nhận diện âm ,vần để học. Trong phần kiểm tra bài cũ và củng cố bài hai hoạt động này nhằm tạo cho các em vui vẻ thoải mái trước và sau khi học vì ở lớp 1 “học mà chơi-chơi mà học”như sau:

– Học sinh nghe giáo viên đọc 1 dãy từ, nếu nghe thấy tiếng mang âm vần ấy thì đưa tay đọc trơn tiếng đó.( chăn bông, nhăn nhó, khó khăn, vầng trăng, cây xăng, củ sắn, bánh mì..)

*Đối với câu (hoặc đoạn văn )

Học sinh yếu mà đọc được một câu là rất khó nên giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi : đọc nối tiếp theo nhóm nhằm giúp các em yếu đọc theo giúp học sinh thấy thoải mái không bị bỏ rơi trong giờ học và qua đó giúp học sinh đọc tốt bài đọc để sang phần luyện tập tổng hợp đọc được tốt hơn

Ví dụ : Đoạn thơ ứng ở bài có 4 dòng thơ :

Mẹ, mẹ ơi cô dạy

Phải giữ sạch đôi tay

Bàn tay mà dây bẩn

Sách, áo cũng bẩn ngay.

Giáo viên chọn hai nhóm mỗi nhóm 4 em chú ý xen kẽ em yếu ( mỗi em đọc một dòng thơ) thi đọc , nhóm nào đọc đúng lưu loát , biết ngắt nghỉ hơi đúng sau mỗi dòng thơ được tuyên dương với học sinh yếu thì động viên chỉ cần thấy em có sự tiến bộ( có thể là sự mạnh dạn,hoặc cố gắng đánh vần để hoàn thành câu của mình)

Sau khi các nhóm thi đọc xong , giáo viên gọi học sinh khác nhận xét để phát hiện học sinh đọc nhỏ , chưa lưu loát . Từ đó giáo viên nhắc nhở , rèn cho học sinh đọc to.

Ngoài việc đọc được còn phải viết, nếu đọc đúng, chuẩn thì sẽ viết đúng. hai yếu tố này luôn đi đôi với nhau khi dạy phân môn Học vần. Trước tiên giáo viên cần chú ý viết chữ đúng mẫu, rõ ràng và cần phải tạo cho các em có thói quen ngồi viết đúng tư thế. Từ đó giúp thể lực của các em phát triển đó cũng là nguyên nhân chống mệt mỏi trong giờ học và chống được các bệnh sau này như : cận thị, viễn thị, cong vẹo cột sống…

Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm vững cơ bản về dòng kẻ toạ độ chữ viết điểm đặt bút, điểm dừng bút, tên gọi các nét, cấu tạo chữ cái. vị trí dấu thanh, các khái niệm liên kết nét chữ, hoặc liên kết chữ cái… Từ đó hình thành cho các em những biểu tượng về hình dáng, độ cao sự cân đối, tính thẩm mĩ của chữ viết, đồng thời giúp các em củng cố thêm các nét cơ bản, âm – chữ, vần. …

Giáo viên cần hướng dẫn cho các em nắm vững từng dòng kẻ như : vị trí của dòng kẻ ngang thứ nhất nằm ở dưới, tiếp đó là dòng kẻ ngang thứ hai dòng kẻ ngang thứ ba, dòng kẻ ngang thứ tư.

– Về độ cao chữ viết ; điểm đặt bút, điểm dừng bút và tên gọi các nét cơ bản. Chẳng hạn : Nét xiên / , nét cong C , giáo viên cần cho học sinh quan sát chữ mẫu và hỏi:

Hỏi : Nét xiên điểm đặt bút bắt đầu từ dòng kẻ nào ? (Nét xiên,nét cong đặt bút ở dòng kẻ thứ ba)

Hỏi : Cao mấy đơn vị : cao 1 đơn vị ( 2 ô li )

– Giáo viên viết mẫu vừa nêu quy trình viết : đặt bút từ dòng kẻ ngang thứ ba kéo thẳng xuống dần đến dòng kẻ ngang thứ nhất lượn cong nét bút sang bên phải về phía trên dòng kẻ ngang thứ hai.

– Học sinh nhắc lại để nắm rõ qui trình viết.

Chẳng hạn như chữ cái k, giáo viên gợi ý, đặt câu hỏi và thông qua chữ mẫu trên bảng lớp. Để học sinh nhận biết phân tích, hình dáng, cấu tạo chữ như: k chữ gồm mấy nét, là những nét gì? Cao mấy đơn vị? Điểm đặt bút, điểm dừng bút của chữ ở vị trí nào trên dòng kẽ?

Về vị trí dấu thanh : Giáo viên cần dạy cho học sinh nắm vững cách ghi dấu thanh. Chẳng hạn: Ở các tiếng không có âm đệm và không có âm cuối vần dấu thanh được đặt dưới hoặc trên âm chính, như: “khế” dấu sắc được đặt trên ê, “bẽ:” dấu ngã được đặt trên e.

Ở các tiếng có âm chính là nguyên âm đơn và có âm cuối vần, dấu thanh được đặt trên chữ ghi âm đơn là âm chính.

Ví dụ : Tiếng “mía” dấu sắc ( / ) đặt trên i.

Tiếng “lụa” dấu nặng (. ) được đặt dưới u

-Về liên kết trong bộ phận vần, giáo viên hướng dẫn học sinh viết liền mạch từ chữ này với chữ khác.

Sau kỹ năng đọc, kỹ năng viết là kĩ năng nói. Đối với học sinh yếu , học sinh nói chớt. Việc các em rất sợ nói chuyện với người ngoài, chỉ nói với mẹ và anh, chị thôi vì vậy để các em nói chuyện với cô, với bạn là cả một quá trình khó khăn. Giáo viên cần phải theo dõi tâm sinh lý của từng em để phát hiện học sinh năng động hay thụ động. Từ đó quan tâm học sinh này nhiều hơn, thường gọi học sinh trả lời câu hỏi do giáo viên yêu cầu, rồi học sinh khác nhận xét, nếu em trả lời đúng giáo viên cho cả lớp tuyên dương và khuyến khích em cứ nói những gì em biết.

Từ những việc đã thực hiện trên và một số biện pháp phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh lớp1, nên đã rút kinh nghiệm từ năm trước qua sự góp ý của tổ khối, của đồng nghiệp trong quá trình dạy học phân môn Tiếng việt là: Phân loại đối tượng học sinh ngay từ đầu năm học để có biện pháp giúp đỡ kịp thời.

– Tạo điều kiện cho học sinh phát huy tính chủ động.

– Sắp xếp chỗ ngồi hợp lý để học sinh hỗ trợ nhau trong học tập

– Đầu tư nghiên cứu thêm đồ dùng dạy học nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh.

– Động viên, khen ngợi, khuyến khích kịp thời trước mỗi thành công của học sinh yếu.

– Kết hợp chặt chẽ mối quan hệ giữa gia đình- nhà trường- xã hội nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh.

– Giáo viên phải có tấm lòng yêu nghề, mến trẻ, xem các em như chính con của mình biết quan tâm đúng mức đến từng em yếu. Thường xuyên sâu sắc bằng tình thương thật sự, dành nhiều thời gian cho các em thì mới mang lại kết quả tốt.

Bấm vào đây để tải về

Cập nhật thông tin chi tiết về Tham Luận Các Biện Pháp Phụ Đạo Học Sinh Yếu Kém trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!