Xu Hướng 10/2023 # Tạp Chí Dân Vận Số 7/2023 # Top 16 Xem Nhiều | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Tạp Chí Dân Vận Số 7/2023 # Top 16 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Tạp Chí Dân Vận Số 7/2023 được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu – nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững. Thực hiện các giải pháp, chính sách và quản lý để khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển đối với từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hòa cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý…”.

Qua gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội góp phần quan trọng bảo đảm ổn định xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục phát triển nhanh, bền vững. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam.

Tuy nhiên, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về suy thoái kinh tế toàn cầu, về những vấn đề nảy sinh mới của kinh tế thị trường, về chiến tranh thương mại Mỹ – Trung… và những hạn chế, khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế, những yếu kém trong lãnh đạo, quản lý; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề; nhu cầu bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội ngày càng cao đã tác động trực tiếp đến việc phát triển việc làm bền vững, nâng cao thu nhập cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, nhất là người về hưu, người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo, người yếu thế và người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong cuộc sống hàng ngày. Hơn nữa, Việt Nam cũng đang phải đối mặt nhiều vấn đề phức tạp như chênh lệch về mức sống gia tăng, nghèo đói của đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo đô thị và di cư tự do, chất lượng nguồn nhân lực còn rất hạn chế và việc bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội chưa theo kịp yêu cầu phát triển mới của đất nước. Điều đó đòi hỏi Đảng ta phải đặt vấn đề về quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là nội dung tất yếu của quá trình đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước trong tình hình mới.

Về phương diện lý luận và nguyên tắc để phát triển xã hội được thể hiện qua việc xây dựng và thực thi các chính sách xã hội. Còn quản lý phát triển xã hội là những hoạt động bảo đảm cho xã hội phát triển theo đúng quy luật của nó và phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản, đó là: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, để xã hội hoạt động có kỷ cương và các tổ chức xã hội thực hiện, phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua hoạt động giám sát việc thực thi pháp luật và nhân dân thượng tôn pháp luật.

Để thực hiện được những yêu cầu đó phải giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa quản lý phát triển xã hội, bảo đảm công bằng, tiến bộ và bình đẳng xã hội trong quá trình phát triển của đất nước. Đây là vấn đề rất phức tạp, đan xen nhiều mối quan hệ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Xét về nội dung, bản chất của quản lý phát triển xã hội là phải thật sự bảo đảm phát triển chất lượng cuộc sống của nhân dân; coi nhân dân là chủ thể phát triển của xã hội và quyền làm chủ đó phải được tôn trọng và bảo vệ. Gia đình là tế bào của xã hội phải hòa thuận, cộng đồng hài hòa; môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; con người phát triển toàn diện, có cơ hội được cống hiến và hưởng thụ thành quả của sự phát triển, tiến bộ. Chính vì vậy, mục tiêu quản lý phát triển xã hội là phải thể hiện được tinh thần tự đổi mới, tự hoàn thiện, củng cố, phát triển trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cần nghiên cứu, dự báo sự biến đổi về cơ cấu, các giai tầng trong xã hội để điều chỉnh; tạo sự đồng thuận xã hội thông qua giải pháp tiếp xúc, đối thoại, thương lượng, truyền thông; dân chủ hóa; tăng cường kỷ cương pháp luật và đề cao trách nhiệm của nhân dân là chủ thể phát triển xã hội trong thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Để giải quyết tốt vấn đề quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong những năm tới, cần quan tâm thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

Một là, ngày 01/4/2023, tiến hành Tổng điều tra dân số và nhà ở trên phạm vi toàn quốc, cần phải phân tích thông tin chung về dân số, tình trạng di cư, hôn nhân, mức độ sinh – chết và phát triển dân số, tình trạng lao động, việc làm, tình trạng về nhà ở… gắn với việc đánh giá chính xác thực trạng biến đổi cơ cấu xã hội, sự phân tầng xã hội của nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp thực hiện quản lý phát triển xã hội có hiệu quả; giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội, phân hóa giàu nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững nhằm khắc phục từng bước sự mất cân đối về cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề, giàu nghèo; kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội để bảo đảm mọi người dân đều được tự do, bình đẳng về cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về chính sách xã hội, an sinh xã hội, tạo hành lang pháp lý để kiến tạo mô hình hệ thống an sinh xã hội hiện đại với các chức năng, trụ cột chính là: Phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro.

Hai là, để đáp ứng những yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cùng với thị trường lao động sẽ có nhiều biến động, chất lượng cung và cầu lao động có tri thức và kỹ năng hiện đại cũng như cơ cấu lao động cũng thay đổi mạnh mẽ. Đồng thời với việc thay đổi của thị trường lao động là nhiều lĩnh vực công nghệ được tự động hoá thay thế con người sẽ xuất hiện tình trạng thất nghiệp hàng loạt ở tất cả các thị trường lao động, trong đó có Việt Nam, lúc bấy giờ người lao động chắc chắn phải cố gắng tìm mọi cách để thích ứng nhanh với sự thay đổi của sản xuất, nếu không sẽ bị đào thải khỏi thị trường lao động. Do đó, chúng ta phải có chính sách quốc gia về phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao để đáp ứng cho phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Cần chú trọng thực hiện đổi mới toàn diện giáo dục, đào tạo, đáp ứng mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam có phẩm chất và năng lực sáng tạo, sẽ tác động mạnh đến sự phát triển xã hội.

Ba là, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là phải gắn kết chặt chẽ giữa chính sách tăng trưởng kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo đảm và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, làm cho nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của sự nghiệp đổi mới và xây dựng CNXH. Thực hiện các cơ hội bình đẳng để giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo cơ hội để mọi người được học tập, học nghề, có việc làm và được hưởng tiền lương, thu nhập hợp lý, thỏa đáng; bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; chế độ nghỉ ngơi để đủ điều kiện tái sản xuất mở rộng sức lao động. Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng, khuyến khích đầu tư xã hội để tạo mở ra nhiều việc làm.

Cải cách hệ thống chính sách về tiền lương trong đó tiến tới thực hiện mục tiêu tiền lương cơ sở, tiền lương tối thiểu vùng đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu của người lao động; gắn điều chỉnh tiền lương tối thiểu với tăng năng suất lao động, năng lực cạnh tranh; đổi mới căn bản, toàn diện chính sách dạy nghề để đạt được “Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 – 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%”. Nhà nước phải có chính sách, cơ chế và giải pháp tích cực, hiệu quả để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, phấn đấu thực hiện đạt chỉ tiêu: “Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%”, tăng tỷ trọng lao động trong khu vực có quan hệ lao động đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Bốn là, công bằng xã hội là sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của con người trong mọi quan hệ xã hội và thiết chế xã hội, mà cốt lõi là sự bình đẳng về kinh tế, chính trị và pháp luật. Cho nên, cần nghiên cứu hoàn thiện chính sách phân phối và phân phối lại để bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp. Thực hiện phân phối lại thông qua phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế. Mở rộng chính sách phúc lợi xã hội thành hệ thống chính sách an sinh xã hội đa tầng, đây là nguyện vọng chính đáng của nhân dân và cũng là một trong những chỉ báo quan trọng của một xã hội công bằng, văn minh và chính là mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân ta.

Năm là, bảo đảm tốt an sinh xã hội để mọi người dân có đời sống ấm no, hạnh phúc. Tiếp tục quan tâm nâng mức trợ cấp xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công, điều chỉnh lương của người về hưu có mức lương thấp, đời sống khó khăn; ban hành chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều để có cơ sở xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững theo hướng tập trung chống tái nghèo và duy trì thành quả giảm nghèo bền vững. Đồng thời, tổ chức tốt hơn việc cung cấp các dịch vụ cơ bản về nhà ở, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo.

Sáu là, coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số và phát triển theo hướng bảo đảm công bằng, giảm chênh lệch mới về tiếp cận chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân giữa các địa bàn, các nhóm đối tượng. Đầu tư cho y tế là đầu tư cho phát triển; chuyển từ cơ chế đầu tư tài chính cho cơ sở y tế sang hỗ trợ trực tiếp cho người dân thông qua bảo hiểm y tế và thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; bảo đảm để mọi người dân có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng; bình đẳng giữa y tế nhà nước và y tế tư nhân; thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực y tế nhưng đồng thời bảo đảm sự quản lý, điều tiết và đầu tư thích hợp của Nhà nước trong lĩnh vực này phù hợp với sự phát triển xã hội; có chính sách hỗ trợ cần thiết về chăm sóc sức khỏe đối với trẻ em, người nghèo, người dân tộc thiểu số, người cao tuổi, người khuyết tật và các đối tượng khó khăn, yếu thế khác.

Tăng cường chất lượng khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế ở tuyến y tế cơ sở; khắc phục tình trạng quá tải ở bệnh viện tuyến trên; cải cách thủ tục trong quản lý bảo hiểm y tế và khám, chữa bệnh; công khai quyền lợi của người có thẻ bảo hiểm y tế; tăng cường y đức; tăng cường quản lý nhà nước, tuyên truyền, giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm vi phạm về trục lợi bảo hiểm y tế đang gây bất bình trong nhân dân. 

Bảy là, để giải quyết tốt vấn đề quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội vì con người và phát huy nhân tố con người, bảo đảm sự công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, yêu cầu toàn bộ hệ thống chính trị phải vào cuộc và có trách nhiệm thực hiện, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về các chính sách an sinh xã hội và quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

Tăng cường và đổi mới công tác dân vận, thật sự gần dân, sát dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển quản lý xã hội. Chú trọng vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội đối với việc ban hành và thực hiện các chính sách xã hội và các chính sách an sinh xã hội phù hợp với các đối tượng trong sự phát triển bền vững của xã hội, góp phần xây dựng đất nước ta giàu đẹp, văn minh, hiện đại, nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tạp Chí Dân Vận Số 7/2023

Công tác dân vận có vị trí, vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được coi là cương lĩnh của Đảng về công tác dân vận. Qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta đều có các nghị quyết chuyên đề về dân vận như nghị quyết về đại đoàn kết toàn dân tộc, về công tác dân tộc, tôn giáo, về công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, doanh nhân, người Việt Nam ở nước ngoài… để định hướng lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận.

Trong hệ thống các ban chuyên môn của Trung ương Đảng, các cấp ủy đảng, Ban dân vận có vai trò, vị trí quan trọng và được xác định là ban xây dựng Đảng để tham mưu cho Trung ương, cấp ủy các cấp về công tác dân vận của Đảng.

1. Về chức năng của Ban dân vận

Theo Quyết định số 78-QĐ/TW ngày 10/4/2012 của Bộ Chính trị (khóa XI), Quyết định số 219-QĐ/TW, Quyết định số 220-QĐ/TW ngày 27/12/2013 của Ban Bí thư (khóa XI): Ban Dân vận Trung ương là cơ quan tham mưu cho Trung ương Đảng, trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương, chính sách, giải pháp lớn về công tác dân vận. Ban Dân vận Tỉnh ủy và tương đương, huyện ủy và tương đương là cơ quan tham mưu của cấp ủy, trực tiếp và thường xuyên là Ban thường vụ, Thường trực cấp ủy về công tác dân vận của Đảng, trong đó có công tác dân tộc, công tác tôn giáo; đồng thời Ban dân vận là cơ quan chuyên môn nghiệp vụ về công tác dân vận của cấp ủy.

Như vậy, chức năng chủ yếu của Ban dân vận là vừa tham mưu chủ trương, chính sách vừa tham mưu việc tổ chức, triển khai thực hiện công tác dân vận của Đảng. Hai nội dung này có quan hệ mật thiết với nhau: có tham mưu chủ trương đúng thì tham mưu triển khai tổ chức thực hiện công tác dân vận mới có hiệu quả; ngược lại, có tham mưu biện pháp, giải pháp sát đúng thực tiễn, sáng tạo thì mới tham mưu đưa được chủ trương, chính sách về dân vận vào cuộc sống.

2. Về nhiệm vụ của Ban dân vận

Cũng theo Quyết định số 78-QĐ/TW, ngày 10/4/2012 của Bộ Chính trị, Quyết định 219-QĐ/TW và Quyết định 220-QĐ/TW, ngày 27/12/2013 của Ban Bí thư, thì lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Ban dân vận các cấp phải thực hiện tốt các nhiệm vụ:

Trước hết là nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất của ban dân vận các cấp, đặc biệt là Ban Dân vận Trung ương.

Nội dung, phạm vi nghiên cứu của ban dân vận các cấp để tham mưu, kiến nghị cho Trung ương, cho cấp ủy là rất rộng lớn. Để nghiên cứu đạt kết quả tốt, ban dân vận phải khảo sát, điều tra, sơ kết, tổng kết thực tiễn, sâu sát cơ sở, sâu sát nhân dân, tham khảo kinh nghiệm các địa phương, kể cả nước ngoài, gắn với nghiên cứu lý luận thì mới tham mưu, đề xuất có cơ sở khoa học và thực tiễn.

Trong tình hình mới, sự biến động về số lượng, chất lượng các tầng lớp nhân dân; nhất là những tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, bùng nổ thông tin và sự phá hoại của các thế lực thù địch đang hàng ngày, hàng giờ ảnh hưởng đến các tầng lớp nhân dân như giai cấp công nhân, người lao động, đội ngũ trí thức, doanh nhân, thanh niên, phụ nữ… là rất lớn, đòi hỏi sự năng động, nhạy bén trong đánh giá, dự báo để tham mưu cho Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo sát đúng, kịp thời, đặc biệt không để xảy ra “điểm nóng”, góp phần quan trọng ổn định chính trị. Nghiên cứu, đề xuất cho Trung ương, cho cấp ủy tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội trong từng giai đoạn cách mạng. Đặc biệt nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Đây là mối quan hệ được Đảng ta xác định là mối quan hệ “mật thiết”, mối quan hệ “cá nước”, mối quan hệ “máu thịt”, mối quan hệ sống còn vì Đảng ta từ nhân dân mà ra, vì lợi ích của nhân dân, có dân là có tất cả. Ban dân vận các cấp có nhiệm vụ thường xuyên phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu, tham mưu, đề xuất cho cấp ủy những biện pháp, giải pháp để củng cố, tăng cường mối quan hệ “máu thịt” này.

Từ trước đến nay, Đảng ta rất quan tâm đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân nhưng để vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường quốc phòng – an ninh thì ban dân vận các cấp phải có trách nhiệm tham gia, góp ý với các cơ quan chức năng để tiếp tục kiến nghị, đề xuất với Đảng, Nhà nước thể chế hóa phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và cơ chế “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thành các văn bản quy phạm pháp luật để người dân được làm chủ trên thực tế tốt hơn.

Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, tôn giáo, vì thế nghiên cứu để phát huy văn hóa, truyền thống, để tham mưu xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân là nhiệm vụ rất quan trọng của hệ thống chính trị, trong đó ban dân vận có trách nhiệm chủ yếu.

Một nhiệm vụ được cấp ủy các cấp rất quan tâm là phối hợp theo dõi, tổng hợp tình hình nhân dân như tình hình dân tộc, tôn giáo, các giai tầng xã hội, các vấn đề bức xúc trong nhân dân để báo cáo, tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư (đối với Ban Dân vận Trung ương), cho cấp ủy (đối với ban dân vận các cấp) lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời. Hiện nay, người Việt Nam ở nước ngoài có trên 4,5 triệu người và có xu hướng ngày càng tăng nhanh, đòi hỏi việc tham mưu, tập hợp, vận động để bà con hướng về xây dựng đất nước phải làm tốt hơn. Ban Dân vận Trung ương được Bộ Chính trị giao chủ trì hoặc tham gia, phối hợp nghiên cứu, tham mưu, đề xuất vấn đề này là một nhiệm vụ mới mẻ, nặng nề.

Trên cơ sở làm tốt công tác nghiên cứu để đề xuất đưa mục tiêu, chương trình công tác dân vận vào dự thảo nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, tham mưu, đề xuất giúp cấp ủy ban hành các nghị quyết chuyên đề về công tác vận động quần chúng, đề xuất ban hành các quy định, quy chế, về chương trình công tác dân vận toàn khóa, về kế hoạch kiểm tra hằng năm và sơ kết, tổng kết các nghị quyết, các văn bản của Đảng, Nhà nước về dân vận sau 5 năm, 10 năm…

Về nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra, giám sát

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận thì nhiệm vụ hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ công tác dân vận cho các cấp, các ngành là rất cần thiết để mọi người hiểu đúng, làm đúng.

Nội dung hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ của ban dân vận các cấp chủ yếu là công tác dân tộc, công tác tôn giáo, công tác dân vận của chính quyền, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, hướng dẫn thực hiện hoặc sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định của Đảng, việc quản lý tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội, hội quần chúng… Đi đôi với việc hướng dẫn, phải tăng cường tham mưu cho cấp ủy xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng về dân vận như kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW (khóa XI), các nghị quyết chuyên đề về dân vận, Quyết định 290-QĐ/TW (khóa X), Quyết định 217-QĐ/TW, Quyết định 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI)… Đồng thời tham mưu cho cấp ủy kiểm tra các cơ quan nhà nước trong việc thể chế hóa, cụ thể hóa các nghị quyết, quyết định của Đảng về công tác dân vận, về phát huy quyền làm chủ của nhân dân….

Để nội dung hướng dẫn ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện thì ban dân vận các cấp phải nắm rất chắc nội dung cần hướng dẫn, đồng thời phải sát thực tế ở địa phương, cơ sở khi ban hành văn bản. Nhiệm vụ kiểm tra, giám sát có chất lượng cao hay thấp tùy thuộc vào xác định nội dung cần kiểm tra, giám sát để tham mưu cho cấp ủy chỉ đạo; đồng thời ban dân vận phải bố trí cán bộ có kiến thức, kinh nghiệm về lĩnh vực đó và tranh thủ ý kiến góp ý của chuyên gia, cán bộ chuyên ngành trước khi thực hiện kiểm tra, giám sát. Nếu thấy cần thiết, phải tham mưu cấp ủy để mời cán bộ có kiến thức, kinh nghiệm về nội dung cần kiểm tra, giám sát tham gia đoàn công tác thì kết quả sẽ tốt hơn.

Về nhiệm vụ thẩm định, thẩm tra

Để nội dung thẩm định, thẩm tra có chất lượng, hiệu quả, kịp tiến độ thời gian mà các tổ chức gửi văn bản thẩm định, thẩm tra đề nghị, ban dân vận các cấp cũng phải phân công chuyên gia, cán bộ am hiểu sâu về lĩnh vực đề án nghiên cứu, tham mưu góp ý cho lãnh đạo ban có ý kiến cuối cùng. Nếu đề án có nội dung khó, ban dân vận các cấp cần tổ chức tọa đàm, hội thảo để lấy ý kiến các chuyên gia, các ngành, đơn vị khác góp ý trước khi phúc đáp.

Về quan hệ với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội của ban dân vận các cấp là mối quan hệ phối hợp, nhưng ban dân vận có nhiệm vụ tham mưu trực tiếp cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư (đối với Ban Dân vận Trung ương), cho cấp ủy (đối với ban dân vận cấp ủy các cấp) để Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội. Ngoài nhiệm vụ phối hợp trên, Ban Dân vận Trung ương được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ “định kỳ 6 tháng tổ chức giao ban công tác dân vận trong khối dân vận Trung ương và ban dân vận các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương”.

Về thực hiện một số nhiệm vụ do Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao

Ban Dân vận Trung ương được Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao nhiệm vụ là cơ quan thường trực Hội đồng công tác quần chúng Trung ương. Hội đồng có chức năng tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác quần chúng. Đồng thời cũng là cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Ban có chức năng tham mưu cho Trung ương về những chủ trương, giải pháp nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở.

Nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, thẩm định và phối hợp có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thực hiện tốt nhiệm vụ này là tạo điều kiện làm tốt nhiệm vụ kia và ngược lại.

Thước đo đánh giá ban dân vận các cấp là mức độ hoàn thành các nhiệm vụ được giao, là các đề án, các văn bản tham mưu, đề xuất Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, được cấp ủy thông qua, chấp nhận, được cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo hệ thống chính trị, các ngành, các cấp thực hiện.

Để có thể hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, trước hết cán bộ lãnh đạo, chuyên viên công chức, viên chức, người lao động của ban dân vận các cấp phải nỗ lực, phấn đấu, tâm huyết, trách nhiệm với công việc. Đặc biệt, lãnh đạo ban dân vận các cấp, nhất là đồng chí trưởng ban, phải chăm lo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nghiên cứu chuyên sâu để đội ngũ này vừa nghiên cứu lý luận, vừa tổng kết thực tiễn nhằm tham mưu trực tiếp cho lãnh đạo ban có chất lượng, hiệu quả cao hơn.

Ngoài sự nỗ lực của ban dân vận các cấp, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của cấp ủy đối với công tác dân vận có ý nghĩa quyết định; Trung ương Đảng, cấp ủy đảng cần tạo điều kiện, tăng cường cho ban dân vận các cấp cả về tổ chức bộ máy, cán bộ, kinh phí, phương tiện hoạt động. Xác định đúng ban dân vận là một ban xây dựng Đảng có chức năng tham mưu chủ yếu về công tác dân vận của Đảng – một nhiệm vụ đòi hỏi ngày càng cao trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới. Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo một số nơi cấp ủy còn thiếu quan tâm công tác dân vận của Đảng.

Nhận thức đầy đủ, sâu sắc về chức năng, nhiệm vụ của mình theo Quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư là tiền đề quan trọng để Ban Dân vận Trung ương và ban dân vận các cấp làm tốt công tác tham mưu cho Đảng trên lĩnh vực quan trọng này.

1. Nghị quyết 25-NQ/TW (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”.

Tạp Chí Dân Vận Số 6/2023

Phát huy những kết quả đạt được từ phong trào “5 không”, “3 có”, cùng với thực hiện chủ trương tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới, ngày 6/11/2013, Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng ban hành Chỉ thị số 29-CT/TU về “Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển thành phố trong tình hình mới”.

Một trong những nội dung trọng tâm của Chỉ thị là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) theo tinh thần “5 xây”: Trách nhiệm, chuyên nghiệp, trung thực, kỷ cương, gương mẫu và kiên quyết thực hiện “3 chống”: Quan liêu, tiêu cực, bệnh hình thức.

Qua 01 năm thực hiện Chỉ thị số 29-CT/TU của Thành ủy, hầu hết các cơ quan, đơn vị khối chính quyền đã tổ chức, hướng dẫn cho từng cá nhân đăng ký nội dung thực hiện Chỉ thị. Theo báo cáo của các cơ quan, đơn vị, có 20.958 CBCCVC, trong đó 14.082 CBCCVC tại các sở, ban, ngành và đơn vị trực thuộc; 1.716 CBCCVC tại UBND các quận, huyện; 2.430 CBCCVC tại UBND các xã, phường; 3.116 CBCCVC ở 05 cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn thành phố đăng ký thực hiện “5 xây”, “3 chống”.

Việc đánh giá kết quả thực hiện Chỉ thị của CBCCVC được nhiều cơ quan, đơn vị tiến hành nghiêm túc, chặt chẽ. Qua phân loại có 20,52% CBCCVC đạt từ mức khá trở xuống các yêu cầu về chuyên nghiệp; 10,28% CBCCVC được đánh giá thực hiện tính gương mẫu ở mức khá. Vì vậy, đây là hai tiêu chí CBCCVC tập trung thực hiện tốt hơn nữa trong thời gian tới.

Đến nay, tất cả các cơ quan khối chính quyền đã đăng ký nhiệm vụ tập thể, trong đó 22 sở, ban, ngành quản lý các lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm được nêu trong Chỉ thị số 29-CT/TU của Thành ủy đã xác định những vấn đề bức xúc, nổi cộm tại cơ quan, đơn vị để đề ra các giải pháp thực hiện. Các cơ quan thường xuyên kiểm tra, kiểm điểm, xử lý nghiêm các trường hợp có thái độ không đúng mức trong tiếp xúc, giải quyết công việc với tổ chức, công dân. Nhiều cơ quan, đơn vị có các giải pháp cụ thể, tích cực trong triển khai thực hiện, giảm đáng kể áp lực, bức xúc của tổ chức và nhân dân, tạo chuyển biến rõ nét trong hoạt động thực thi công vụ.

Việc tiếp nhận ý kiến, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của công dân, tổ chức và xử lý CBCCVC vi phạm được tổ chức kịp thời. Trong năm 2014, đã tiếp nhận 47.816 ý kiến về thủ tục hành chính; 42 phản ánh ý kiến của người dân; 436 cuộc gọi đến đường dây nóng “Năm Doanh nghiệp Đà Nẵng 2014” để chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền giải đáp, xử lý. Theo báo cáo của các cơ quan, đơn vị, tỷ lệ giải quyết hồ sơ đúng và trước hẹn trên địa bàn thành phố là 99,74% trong tổng số 1.966.003 hồ sơ thủ tục hành chính đã giải quyết. Việc tiếp nhận và trả hồ sơ tại các cơ quan, đơn vị cơ bản thực hiện đúng trình tự, thủ tục, thu phí, lệ phí; thực hiện công khai hóa các hoạt động công vụ đúng theo quy định. Qua kiểm tra, xác minh, số hồ sơ giải quyết sớm và đúng hẹn đạt trên 90%.

Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng xử lý đơn, thư của công dân chậm trễ, kéo dài tại một số cơ quan, đơn vị thuộc lĩnh vực hành chính tư pháp; lý lịch tư pháp; đất đai; đầu tư nước ngoài (ngoài khu công nghiệp); khoáng sản và tài nguyên nước (tại các sở, ban, ngành); người có công; bảo hiểm xã hội; thương mại; môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm (tại UBND quận, huyện; phường, xã)… Tính đến ngày 31/12/2014, tại UBND các quận, huyện; phường, xã có 21 trường hợp; sở, ban, ngành thuộc thành phố có 30 trường hợp CBCCVC bị xử lý kỷ luật…

Nhờ có sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, sâu sát của Thành ủy và UBND thành phố đã tạo được sự quan tâm tích cực của các cơ quan, đơn vị, địa phương đối với việc thực hiện “5 xây”, “3 chống”. Nhất là mọi người dân thông qua MTTQ, các tổ chức chính trị – xã hội với ý thức trách nhiệm cao, sẵn sàng tham gia đóng góp ý kiến với Đảng, chính quyền các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện “5 xây”, “3 chống” bước đầu tạo nên những chuyển biến tích cực trong công tác cải cách hành chính của thành phố, công tác cán bộ và lề lối làm việc của CBCCVC theo hướng “Trọng dân, gần dân; nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Các tiêu chí, chuẩn mực đối với CBCCVC được xây dựng từ việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 29-CT/TU của Thành ủy đã tạo thêm một kênh đánh giá, giám sát về tinh thần, thái độ, phương thức, lề lối làm việc của CBCCVC. Kết quả tự đánh giá của các cơ quan, đơn vị về thực hiện các nội dung “5 xây”, “3 chống” của CBCCVC là cơ sở để có giải pháp cải thiện và khắc phục những hạn chế còn tồn tại.

Chỉ thị số 29-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng ban hành thực hiện thời gian chưa dài nhưng được nhân dân đón nhận, sớm đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng; tác động lớn đến đời sống dân sinh, việc làm, trách nhiệm của người CBCCVC trên địa bàn thành phố. Tốc độ đô thị hóa nhanh chóng đã tạo nên diện mạo mới của thành phố theo hướng văn minh, hiện đại. Điều kiện sống của nhân dân được cải thiện; cơ sở hạ tầng của thành phố phát triển theo hướng dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp.

Công tác phối hợp hoạt động dân vận giữa các ban, ngành, đơn vị càng chặt chẽ và có hiệu quả hơn. Ban Dân vận Thành ủy và UBND thành phố tiếp tục ký kết chương trình phối hợp phát huy trách nhiệm khối chính quyền chăm lo làm tốt công tác dân vận; chỉ đạo và triển khai thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để MTTQ, các tổ chức chính trị – xã hội phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội, góp phần đóng góp ý kiến tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Kết quả đó đã đóng góp vào việc tạo sự đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố với những đổi thay rất đáng khâm phục. Tiếp tục từ “5 xây”, “3 chống”, những tuyến đường mới khang trang, những công trình mới hiện đại được xây dựng tiêu biểu cho sức sống mãnh liệt của một Đà Nẵng văn minh, giàu đẹp, đồng thuận và kỷ cương.

Tạp Chí Dân Vận Số Xuân Ất Mùi

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu công tác dân vận, đòi hỏi các tổ chức trong hệ thống chính trị phải không ngừng tăng cường, đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng.

Trước hết, phải thấy rằng, chất lượng, hiệu quả công tác dân vận chính là mức độ phát triển, hoàn thiện của công tác dân vận thuộc trách nhiệm của hệ thống chính trị và mặt khác là mức độ hài lòng của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp.

Chất lượng, hiệu quả của công tác dân vận do Đảng lãnh đạo thực chất cũng là một loại dịch vụ công từ đội ngũ “công bộc, đầy tớ của dân” cung cấp và được đánh giá bằng mức độ cao hay thấp, có thể so sánh giữa các tổ chức có cùng chức năng ở trong và ngoài nước. Mặt khác, nó phản ánh mối quan hệ giữa các giải pháp, công sức bỏ ra với kết quả thu được từ hoạt động của các tổ chức, cá nhân; cũng có thể lượng hóa, đánh giá được, xác định qua một số tiêu chí:

Thứ nhất, mức độ hiểu biết của Nhân dân và lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thuận với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước; Nhân dân hăng hái, phấn khởi, tự giác thực hiện nhiệm vụ và nghĩa vụ của mình trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các nhiệm vụ của địa phương, đơn vị.

Đây là chất lượng, hiệu quả giáo dục, tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong các tầng lớp Nhân dân. Nó thống nhất giữa hiểu biết với niềm tin và hành động của người dân. Để tạo ra điều đó ở phía người dân thì những quyết sách của Đảng và Nhà nước, của địa phương phải thuận với lòng dân, luôn đứng về phía người dân; mọi việc lớn, nhỏ, trước mắt cũng như lâu dài mà Đảng và Nhà nước, cấp ủy, chính quyền địa phương, cán bộ, đảng viên, công chức làm việc đều phải vì dân và dân cảm nhận, thụ hưởng trực tiếp lợi ích; thấy rõ Đảng và Nhà nước, cấp ủy, chính quyền thực sự là của mình, vì mình… Như thế, người dân sẽ bảo vệ Đảng và Nhà nước, bảo vệ chế độ, hăng hái thực hiện mọi cuộc vận động, mọi phong trào thi đua yêu nước vừa vì sự nghiệp chung, vừa đem lại lợi ích thiết thân cho mình.

Muốn vậy, dân vận và công tác dân vận phải toàn diện cả xây dựng Đảng, Nhà nước vững mạnh. Có đường lối, cơ chế chính sách thực sự vì dân, do dân, khắc phục triệt để tính hình thức, lãng phí, tính hành chính quan liêu, xa dân. Muốn vì dân thì phải hiểu dân, tin dân, tinh thần đoàn kết, kiên trì thuyết phục và nhất là nêu cao đức hy sinh, tính tiền phong, sự gương mẫu của người lãnh đạo, của cán bộ, đảng viên để Nhân dân noi theo.

Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo; xây dựng cơ chế, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, thuận lợi cho Nhân dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, công ăn việc làm, nâng cao đời sống mọi mặt, sự hài lòng của Nhân dân.

Cơ chế kinh tế thị trường một mặt tạo ra động lực thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế – xã hội phát triển, song mặt trái của nó cũng thúc đẩy tạo ra sự phân hóa giàu nghèo và tiêu cực xã hội phát triển. Đảng ta đã xác định mục tiêu phát triển xã hội XHCN ở nước ta là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vì vậy, bên cạnh việc tập trung tháo gỡ về cơ chế, chính sách, từng bước hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo ra môi trường thông thoáng cho sản xuất, kinh doanh và động lực cho phát triển thì cũng phải hết sức chú ý tới các chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ giảm nghèo và những người gặp hoàn cảnh khó khăn.

Thứ ba, phải phát huy được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc và tăng cường sự đoàn kết, nhất trí trong các cộng đồng dân cư ở cơ sở.

Nước ta là một nước đa dân tộc, đa tôn giáo. Mặt trận Tổ quốc là liên minh chính trị xã hội rộng lớn nhất, đóng vai trò nòng cốt, tập hợp và phát huy sức mạnh đại đoàn kết. Sự phối hợp thường xuyên và có hiệu quả các tổ chức trong hệ thống chính trị giữa hệ thống tổ chức Mặt trận từ Trung ương tới cơ sở, cùng sự hợp tác, phối hợp với các tổ chức công quyền (Nhà nước), với các tổ chức chính trị – xã hội… để cùng vận động, tuyên truyền, giúp đỡ Nhân dân, nhất là dân cư ở những vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số ở miền núi… sẽ góp phần thúc đẩy chất lượng, hiệu quả dân vận và công tác dân vận.

Phát huy được sức mạnh đoàn kết là phát huy được một trong những truyền thống quý báu của dân tộc, gắn liền với truyền thống yêu nước, thương người, gắn bó cố kết cộng đồng, tương thân tương ái, đạo lý và tình nghĩa của Nhân dân ta. Đây là những giá trị tinh thần thuộc về bản sắc văn hóa Việt Nam. Chất lượng, hiệu quả công tác dân vận phải góp phần chủ động và tích cực nhất trong việc xây dựng và phát huy giá trị cộng đồng dân tộc Việt Nam, tạo ra chuyển biến tích cực về xây dựng con người Việt Nam, những thế hệ người Việt Nam biết đoàn kết, biết yêu nước, tự hào dân tộc; vun trồng đạo đức lành mạnh, chống cái ác, cái xấu, thái độ vô cảm, lẩn tránh trách nhiệm, lối sống vụ lợi, vị kỷ chạy theo đồng tiền trong nền kinh tế thị trường làm tổn thương đến giá trị con người và xã hội.

Phải chú trọng phát huy, nhân rộng, cổ vũ các điển hình cá nhân và tập thể trong cộng đồng, hướng dẫn dư luận xã hội lành mạnh, dùng sức mạnh của dư luận xã hội hỗ trợ cho các biện pháp quản lý của Nhà nước và các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động của Mặt trận và các đoàn thể để chống lại có hiệu quả sự suy đồi đạo đức, sự gia tăng tệ nạn, tội phạm, sự rối loạn kỷ cương trật tự, sự coi thường luật pháp. Có như vậy mới làm cho xã hội lành mạnh, cuộc sống của người dân được yên ổn. Dân vận lúc này phải hướng vào yên dân, an dân, chăm lo dân sinh, thực hiện an sinh xã hội, nhất là với bộ phận không nhỏ dân cư còn đang nghèo đói, thiệt thòi, dễ bị tổn thương. Chất lượng, hiệu quả công tác dân vận phải thể hiện bằng việc làm và hành động thực tế để bảo vệ dân, chăm lo cải thiện đời sống, nâng cao mức sống của dân và có cơ chế, chính sách hợp lý để phát triển, phát huy được sức dân trong một môi trường kinh tế – xã hội công bằng, dân chủ, minh bạch.

Thứ tư, công tác dân vận phải tập hợp, phát huy sức mạnh, tiềm năng trí tuệ, sáng tạo của Nhân dân thành phong trào cách mạng, phong trào thi đua yêu nước rộng lớn trong Nhân dân, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của nhiệm vụ cách mạng và nhiệm vụ chính trị trọng tâm của địa phương, đơn vị.

Theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ hơn 60 năm về trước, thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua, toàn dân, toàn quốc cũng như toàn Đảng, toàn dân kết thành một khối vững chắc, làm nên sức sống và ý nghĩa của các phong trào thi đua yêu nước. Phong trào ấy tạo ra khí thế và sức mạnh tổng hợp, đã từng làm nên thành công của sự nghiệp vừa kháng chiến, vừa kiến quốc thời kỳ chống thực dân Pháp, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh thắng hai đế quốc to, vì độc lập – tự do của Tổ quốc. Phong trào thi đua yêu nước lúc này phải huy động sức mạnh toàn dân, toàn quân, toàn Đảng, ra sức đẩy mạnh đổi mới, chủ động hội nhập thực hiện thắng lợi mục tiêu CNH, HĐH đất nước; đánh bại mọi âm mưu và thế lực xâm lược nước ta, giữ vững độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Phong trào rộng lớn của Nhân dân phải nhằm vào việc hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của các địa phương, đơn vị. Các tổ chức trong hệ thống chính trị phải thực sự đổi mới về phương pháp vận động Nhân dân sao cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp Nhân dân để vừa tập hợp, vừa động viên, phát huy được sức mạnh của Nhân dân, tổ chức được các phong trào Nhân dân rộng lớn, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Thứ năm, công tác dân vận phải đảm bảo thực hành dân chủ rộng rãi nhất trong hoạt động của Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp, thực hành dân chủ XHCN, thực hành dân chủ trong xã hội.

Trong điều kiện thông tin bùng nổ như hiện nay, xu hướng công khai, minh bạch hóa những hoạt động của Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp là một xu thế phát triển xã hội và tạo điều kiện để Nhân dân giám sát hoạt động của Đảng, Nhà nước, tham gia ý kiến xây dựng Đảng, Nhà nước, tham gia giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng chủ trương, cơ chế chính sách sao cho thực sự vì dân, do dân.

Thứ sáu, chất lượng hiệu quả công tác dân vận còn phải được đánh giá bởi chất lượng, hiệu quả của lãnh đạo, quản lý và đổi mới nội dung phương thức vận động Nhân dân của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể các cấp.

Những nội dung nêu trên để tham khảo, nghiên cứu, cụ thể hóa phù hợp nhiệm vụ chính trị và điều kiện hoàn cảnh cụ thể, chức năng nhiệm vụ của các tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị và cấp ủy, chính quyền, lực lượng vũ trang, Mặt trận, đoàn thể ở các cấp.

Chức Năng Nhiệm Vụ Của Tạp Chí Dân Tộc

Tạp chí Dân tộc là cơ quan báo chí, đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ chức năng quản lý nhà nước của Ủy ban Dân tộc giúp Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc ( sau đây gọi là Bộ trưởng, Chủ nhiệm) thực hiện chức năng cơ quan lý luận; thông tin quan điểm, đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước; về cộng đồng các dân tộc Việt Nam thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban Dân tộc.

Tạp chí Dân tộc là đơn vị dự toán cấp III, có tư cách pháp nhân, con dấu, tài khoản riêng và có trụ sở đặt tại thành phố Hà Nội.

Nhiệm vụ và quyền hạn

1. Xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động hàng năm, dài hạn của Tạp chí trình Bộ trưởng, Chủ nhiệm phê duyệt và tổ chức thực hiện.

2. Tổ chức bài viết, biên tập, xuất bản, phát hành Tạp chí Dân tộc, các ấn phẩm, tài liệu chuyên đề nhằm cung cấp nghiên cứu, trao đổi thông tin lý luận và thực tiễn về hoạt động quản lý nhà nước của Ủy ban Dân tộc; về công tác dân tộc, các quan điểm, đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước; về vấn đề dân tộc trong nước và trên thế giới.

3. Biên tập, đăng tải bài viết của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà quản lý ở Trung ương và địa phương khẳng định, bảo vệ quan điểm, đường lối, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước; đấu tranh phản bác lại những quan điểm, luận điệu sai trái nhằm xuyên tạc đường lối, chính sách dân tộc, phá hoại khối đoàn kết các dân tộc Việt Nam.

4. Lập diễn đàn trao đổi thông tin, nghiên cứu lý luận về lĩnh vực công tác dân tộc, vấn đề dân tộc với bạn đọc trong nước và quốc tế; trao đổi nghiệp vụ nghiên cứu lý luận với các cơ quan thông tấn báo chí, truyền thông đại chúng Trung ương và địa phương; tăng cường giao lưu, hợp tác trao đổi học tập kinh nghiệm với các cơ quan nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước.

5. Tham gia tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học về lĩnh vực công tác dân tộc, chính sách dân tộc; tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành tựu văn hóa, khoa học, kỹ thuật trong nước và thế giới theo tôn chỉ, mục đích cơ quan báo chí; góp phần nâng cao kiến thức, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của nhân dân, bảo vệ truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

6. Chủ trì hoặc phối hợp tham gia tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học nhằm trao đổi, nghiên cứu, tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quản lý và tổ chức thực hiện công tác dân tộc.

8.Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế theo phân cấp của Bộ trưởng, Chủ nhiệm. Thực hiện việc nhận xét, đánh giá, theo dõi việc chấp hành nội quy và hiệu quả công tác của cán bộ, công chức, viên chức, biên tập viên, phóng viên thuộc Tạp chí Dân tộc.

9. Thực hiện các chế độ chính sách tiền lương,thi đua khen thưởng, kỷ luật; quản lý tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp luật.

10. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng, Chủ nhiệm giao.

Tạp Chí Xây Dựng Đảng

Sau khi tiến hành kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, thì bên cạnh việc phát huy những ưu điểm, nhân tố tích cực, điều có ý nghĩa quan trọng và cũng khó làm hơn là khắc phục những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém của mỗi tổ chức, cá nhân. Việc khắc phục những khuyết điểm, hạn chế có quan hệ chặt chẽ với kết quả tự phê bình, là một “bộ phận”, một nội dung trong quá trình tự phê bình, phê bình. Đồng thời có quan hệ với toàn bộ hoạt động của mỗi tập thể, mỗi cá nhân. Giải pháp khắc phục phải được đặt trong tổng thể quá trình kiểm điểm, tự phê bình, phê bình.

Trong hoạt động của hệ thống chính trị, tự phê bình, phê bình là nội dung rất quan trọng, là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, là công cụ để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, là một nguyên tắc cơ bản, công việc thường xuyên trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm điểm tự phê bình, phê bình, đánh giá cán bộ trong các cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiểm điểm hằng năm. Trong đó, Ban Thường vụ chú trọng chỉ đạo việc khắc phục những khuyết điểm, hạn chế của từng cơ quan, đơn vị qua kiểm điểm, đánh giá. Những năm gần đây, vận dụng các quy định, quy trình về công tác kiểm tra, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo việc khắc phục khuyết điểm, hạn chế, yếu kém của các đơn vị, địa phương một cách cụ thể hơn. Nhờ vậy, việc khắc phục những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém càng được thực thi chặt chẽ, nghiêm túc và đạt hiệu quả cao hơn.

Cùng với chỉ đạo cấp dưới kiểm điểm tự phê bình, phê bình, tập thể Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị cũng đã thực hiện nghiêm túc việc tự phê bình, phê bình và khắc phục những hạn chế, yếu kém sau tự phê bình, phê bình bằng những giải pháp cụ thể. Cuộc kiểm điểm tự phê bình, phê bình công tác lãnh đạo, chỉ đạo năm 2002 của tập thể Ban thường vụ tỉnh ủy đã để lại những kinh nghiệm quý trong công tác này. Khi đó, Ban thường vụ tỉnh uỷ Quảng Trị đã chú trọng tập trung sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, hạn chế một cách cụ thể, nghiêm túc, quyết liệt bằng một chương trình hành động cụ thể. Trên cơ sở chỉ đạo của Ban thường vụ tỉnh ủy, cấp ủy và lãnh đạo các đơn vị trực thuộc đã tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém tại địa phương, đơn vị.

Nhờ nghiêm túc thực hiện tự phê bình, phê bình, khắc phục khuyết điểm, hạn chế nên đoàn kết nội bộ trong Đảng bộ đã được giữ vững và tăng cường; kinh tế- xã hội tiếp tục phát triển, quốc phòng – an ninh được giữ vững, xây dựng Đảng từng bước tiến bộ, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Những kinh nghiệm quý báu đã được rút ra từ quá trình thực hiện tự phê bình, phê bình trong thời gian qua. Chính những kinh nghiệm này là cơ sở để các tổ chức và mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Quảng Trị phát huy và vận dụng vào quá trình kiểm điểm, tự phê bình, phê bình trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

Với những kết quả, cách làm trong những năm qua, cùng với tư tưởng chỉ đạo qua bước triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 ( NQTW4) (khoá XI) ở Quảng Trị, chúng tôi xin nêu một số giải pháp khắc phục những khuyết điểm, hạn chế sau tự phê bình, phê bình, góp phần vào việc tìm cách làm, giải pháp thực hiện tốt nghị quyết quan trọng này của Trung ương.

Thứ nhất, phải làm thật tốt công đoạn “tiền khắc phục” từ nhận thức, quan điểm, phương châm, nội dung đến thực hiện cụ thể. Theo đó tự phê bình, phê bình đối với tổ chức, cá nhân phải được tiến hành nghiêm túc, đầy đủ, có nguyên tắc, trên tinh thần đồng chí chân thành.

Cấp uỷ các cấp khi tổ chức và chỉ đạo thực hiện phải truyền đạt, quán triệt đầy đủ các quan điểm, nguyên tắc, quy định của Trung ương, của cấp trên về tự phê bình, phê bình, làm cho cán bộ, đảng viên thấu suốt mục đích, mục tiêu vừa có tính nguyên tắc, vừa mang tính nhân văn cao trong tự phê bình, phê bình trong Đảng. Đồng thời xác định phương châm thực hiện ở cấp mình, đơn vị, địa phương mình cho phù hợp để tự phê bình, phê bình được thực hiện đúng, trúng và hiệu quả… Ví dụ, về nội dung kiểm điểm tự phê bình, phê bình tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, về tham nhũng, lãng phí … thì mặc dù có tính phổ biến, song có thể nói có sự khác nhau theo từng cấp, từng đối tượng khá rõ. Trong thực hiện kiểm điểm tự phê bình, phê bình theo tinh thần NQTW4 (khoá XI) thì những tính chất, yêu cầu này có ý nghĩa lớn, cần đặc biệt quan tâm.

Nội dung tự phê bình, phê bình, nhất là những khuyết điểm, hạn chế của tổ chức, cá nhân, được nêu ra khi tự phê bình và góp ý, nhận xét khi phê bình phải chân thành, có lý, có tình, rõ ràng, thuyết phục… tránh khập khiễng, xa rời, thậm chí mâu thuẫn giữa thực tế tình hình và các báo cáo kiểm điểm (kế cả của tập thể và cá nhân). Sau khi đã xác định được những hạn chế, yếu kém, phải nêu rõ các biện pháp và thời gian khắc phục và phải coi đây là nội dung thiết yếu trong lần tự phê bình, phê bình này. Đồng thời tuỳ vai trò, chức trách, ưu điểm, khuyết điểm để vạch kế hoạch khắc phục cho phù hợp, toàn diện. Trong tham gia các biện pháp khắc phục đối với cán bộ cần thể hiện tinh thần động viên cán bộ quyết tâm khắc phục hạn chế, khuyết điểm. Phải thực hiện đúng tinh thần kiểm điểm cốt để giúp cán bộ, đảng viên thấy được và sửa chữa khuyết điểm mà tiến bộ, tinh thần “trị bệnh cứu người”.

Việc chuẩn bị chu đáo và thực hiện nghiêm túc bước kiểm điểm, tự phê bình, phê bình là yếu tố tiền đề, căn bản cho việc khắc phục có kết quả hạn chế, yếu kém của tổ chức và cá nhân. Mọi sự chủ quan, đơn giản, qua loa đều dẫn đến làm mất hiệu quả việc tự phê bình, phê bình, vô hiệu hoá việc khắc phục hạn chế, yếu kém – nói chung, bao giờ cũng có – sau tự phê bình, phê bình.

Thứ hai, công khai kết quả tự phê bình, phê bình của các tổ chức, cá nhân – cả ưu điểm, lẫn khuyết điểm – trong phạm vi, đối tượng thích hợp để quần chúng, cán bộ, đảng viên hiểu biết về những công bộc, đại biểu, người cán bộ lãnh đạo, quản lý của đơn vị, địa phương mình. Từ đó có điều kiện, căn cứ tham gia góp ý, giám sát việc rèn luyện, phấn đấu của những cán bộ, đảng viên đó, kể cả việc khắc phục hạn chế, yếu kém của cá nhân sau tự phê bình, phê bình, cũng như trong quá trình hoạt động, công tác nói chung. Đây là yêu cầu mà NQTW4 (khoá XI) đặt ra rất cao, là kỳ vọng lớn trong cuộc kiểm điểm tự phê bình, phê bình lần này.

Phạm vi công khai kết quả kiểm điểm, đánh giá cán bộ, nói chung, càng rộng càng tốt. Đối tượng công khai nên là tất cả cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trước hết, theo phân cấp quản lý cán bộ, cấp uỷ các cấp cần công khai kết quả kiểm điểm, đánh giá cán bộ đến cán bộ, công chức, người lao động nơi công tác, đến nhân dân nơi cư trú đối với một số chức danh lãnh đạo, quản lý của các cơ quan của đảng, chính quyền, đoàn thể thuộc cấp mình quản lý. Đối với cấp tỉnh, đó là cán bộ lãnh đạo, quản lý từ phó giám đốc sở và tương đương trở lên. Công khai kết quả đánh giá đại biểu HĐND các cấp, đại biểu Quốc hội đến cử tri.

Cần nghiên cứu thực hiện tự phê bình, phê bình công khai hơn, theo hướng mở rộng phạm vi, đối tượng tham gia phê bình. Thông tin quá trình tự phê bình, phê bình của tập thể, cá nhân đến cán bộ, công chức, nhân dân bằng nhiều hình thức và trong phạm vi thích hợp. Gắn tự phê bình, phê bình với thực hiện chất vấn trong Đảng.

Thứ ba, tổ chức và cá nhân thực hiện việc khắc phục những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém sau tự phê bình, phê bình nghiêm chỉnh, chặt chẽ, có giám sát. Đây là biện pháp trung tâm, trực tiếp, có ý nghĩa quyết định hiệu quả việc khắc phục khuyết điểm, hạn chế.

Phải thống nhất nhận thức rằng, nội dung, kế hoạch khắc phục khuyết điểm, hạn chế là lời hứa nghiêm túc, hệ trọng của cán bộ, công chức, đảng viên với tổ chức, với nhân dân trong kiểm điểm tự phê bình, phê bình, nhất là với cán bộ lãnh đạo. Nó đặc biệt quan trọng trong thực hiện NQTW4 (khoá XI) lần này. Vì vậy, trên cơ sở các nội dung, biện pháp đã đề ra, mỗi tổ chức, cá nhân phải bắt tay thực hiện việc khắc phục, sửa chữa một cách tự giác, nghiêm chỉnh.

Hằng năm, sau tự phê bình, phê bình, mỗi tổ chức, cá nhân đều phải kiểm điểm, đánh giá kết quả thực hiện việc khắc phục khuyết điểm, hạn chế. Có thể trong một số trường hợp, việc kiểm điểm, đánh giá kết quả khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trước đó trở thành nội dung chính của đánh giá năm công tác. Cần lấy kết quả khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, yếu kém là tiêu chí đánh giá về sự liêm chính, trung thực, cầu tiến bộ, cũng như khả năng tự hoàn thiện, thích ứng của người cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, khi đánh giá kết quả khắc phục cần lưu ý, đây là một quá trình cần có thời gian nhất định, không phải diễn ra giản đơn, ngày một, ngày hai. Có những việc, có những người, tổ chức cũng cần phải biết và sẵn sàng chờ đợi, động viên, tạo điều kiện để cá nhân sửa chữa. Cùng với sự tự giác của mỗi tổ chức, cá nhân, việc khắc phục khuyết điểm, hạn chế cần được đặt trong quá trình kiểm tra, giám sát của tổ chức để bảo đảm tính chặt chẽ, có nguyên tắc. Tuy nhiên cách làm phải linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng; sử dụng triệt để hình thức, các công cụ đang sử dụng hiện nay, như báo cáo tự kiểm điểm hàng năm; hình thức tự giám sát…

Thứ tư, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong chỉ đạo thực hiện tự phê bình, phê bình. Trước hết người đứng đầu phải đi đầu trong việc tự phê bình, phê bình và thể hiện việc làm, hành động khắc phục, sửa chữa hạn chế, yếu kém một cách rõ nét, có sức thuyết phục… Đồng thời, bằng hình thức thích hợp, người đứng đầu có sự quan tâm, động viên, chỉ dẫn để cán bộ của cơ quan, đơn vị mình sửa chữa, khắc phục khuyết điểm một cách nghiêm túc, tự giác, nhất là đối với những người có khuyết điểm nặng, có nhiều hạn chế.

Tấm gương của người đứng đầu trong tự phê bình, phê bình và khắc phục khuyết điểm, hạn chế là nhân tố có tác dụng khuyến khích, động viên, có ý nghĩa cổ vũ, thuyết phục mạnh đối với cán bộ cấp dưới.

Thứ năm, coi trọng trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên trong tự phê bình, phê bình và khắc phục hạn chế, yếu kém. Đây là nhân tố then chốt bảo đảm sự thành công trong tự phê bình, phê bình.

Trước hết, cần thể hiện trách nhiệm, quyền hạn của cấp trên trong việc đảm bảo sự nhất quán trong toàn bộ quá trình thực hiện tự phê bình, phê bình và khắc phục hạn chế, yếu kém. Trong đó cần chú trọng về quan điểm, phương châm, cách làm, và nhất là xem xét, xử lý kết quả tự phê bình, phê bình một cách chặt chẽ, có nguyên tắc, có lý, có tình; sắp xếp, bố trí cán bộ phù hợp với năng lực, phẩm chất, hiệu quả công việc; đồng thời phải xử lý nghiêm minh, đúng mức đối với những cán bộ có khuyết điểm, sai phạm đến mức phải xem xét các hình thức kỷ luật.

Ban Tổ chức tỉnh ủy Quảng Trị

[1]. Chương trình hành động số 34 CTHĐ/TU ngày 5-11-2003 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị.

Cập nhật thông tin chi tiết về Tạp Chí Dân Vận Số 7/2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!