Xu Hướng 4/2023 # Tăng Cường Quản Lý Điều Hành Giá Góp Phần Kiểm Soát Lạm Phát # Top 13 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 4/2023 # Tăng Cường Quản Lý Điều Hành Giá Góp Phần Kiểm Soát Lạm Phát # Top 13 View

Bạn đang xem bài viết Tăng Cường Quản Lý Điều Hành Giá Góp Phần Kiểm Soát Lạm Phát được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

KINH TẾ TÀI CHÍNH

TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH GIÁ GÓP PHẦN KIỂM SOÁT LẠM PHÁT

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP về 6 nhóm giải pháp chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Có thể nói ngay từ những ngày đầu của năm 2011, nhiệm vụ kiểm soát lạm phát, bình ổn giá đã và đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Hiện nay có thể thấy đang xuất hiện nhiều nhân tố tác động đến mặt bằng giá năm 2011. Về phía các nhân tố khách quan, theo nhiều dự báo, năm 2011, kinh tế toàn cầu tiếp tục xu hướng phục hồi nhưng tốc độ tăng chậm hơn tốc độ tăng của năm 2010. Các nền kinh tế lớn và là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam vẫn tăng trưởng nhưng thấp hơn năm trước. Kinh tế tăng trưởng làm nhu cầu nguyên, nhiên, vật liệu phục vụ sản xuất vẫn tăng dẫn đến giá cả sẽ nhích lên. Cuộc khủng hoảng nợ công của khu vực đồng euro khiến hầu hết các nước đều cắt giảm chi tiêu công và giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách năm 2011… có thể gây biến động về tỷ giá, lãi suất làm cho tính bất định và rủi ro tăng lên, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu, đầu tư, chính sách tài khóa và tiền tệ của các quốc gia sẽ tác động đến kinh tế nước ta. Thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu toàn cầu diễn biến phức tạp tiềm ẩn nhiều nguy cơ tác động xấu đến kinh tế thế giới, nhất là sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân.

Về phía các nhân tố chủ quan: nền kinh tế trong nước phục hồi khá nhanh và lấy lại đà tăng trưởng sau ảnh hưởng của khủng hoảng (mục tiêu: tổng sản phẩm trong nước tăng 7-7,5% so với năm 2010. Như vậy, nhu cầu nguyên nhiên vật liệu để phục vụ tăng trưởng sẽ tăng gây áp lực đẩy giá tăng. Những yếu kém vốn có của nền kinh tế chưa khắc phục được triệt để ngay như: cơ cấu kinh tế, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sử dụng vốn, kết cấu hạ tầng… tiềm ẩn những yếu tố gây lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô. Nhu cầu có khả năng thanh toán, lượng tiền được “bơm” ra lưu thông nhiều hơn trong dịp Tết. Tiếp tục lộ trình cải cách tiền lương trong năm; kinh tế tăng trưởng, thu nhập của các tầng lớp dân cư tăng… sẽ làm tăng cầu gây sức ép đẩy giá tăng. Tiếp tục thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số hàng hoá dịch vụ mà Nhà nước còn định giá.

                Vấn đề đặt ra là cần chú trọng vào các giải pháp gì để thực hiện thành công Nghị quyết 11/NQ-CP, tập trung kiềm chế lạm phát. Theo nhiều chuyên gia, ngoài việc phải tổ chức thực hiện đồng bộ các giải pháp về kinh tế vĩ mô các giải pháp từ “gốc” của giá trị, giá cả hàng hóa như: thực hiện ngay các giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kết hợp cả chiều rộng và chiều sâu; nâng cao sức cạnh tranh; tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô. Đẩy mạnh phát triển sản xuất, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế: Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, áp dụng tỷ giá, lãi suất phù hợp theo nguyên tắc thị trường. Kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng ở mức hợp lý. Giảm bội chi ngân sách Nhà nước xuống mức 5,3% GDP. Kiểm soát nhập siêu không vượt quá 18% kim ngạch xuất khẩu; Tổ chức thị trường hợp lý, kiểm soát có hiệu quả hoạt động của thị trường… thì các giải pháp trực tiếp về chính sách tài khóa, về quản lý, điều hành giá cụ thể như sau:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giá theo hướng thị trường, tôn trọng quyền tự định giá và cạnh tranh về giá của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, thông qua việc xây dựng Luật Giá thay cho Pháp lệnh giá. Sửa đổi, bổ sung các nghị định của Chính phủ về thẩm định giá; xử lý vi phạm trong lĩnh vực giá, cơ chế xác định giá trong các lĩnh vực cụ thể…

Thứ hai, chủ động thực hiện tốt công tác dự báo thị trường, giá cả trong và ngoài nước. Triển khai và thực hiện các biện pháp bình ổn giá (BOG) theo quy định của Pháp lệnh giá và Nghị định số 75/2008/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 170/2003/NĐ-CP và các thông tư hướng dự phòng hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thiết yếu đủ điều kiện dự trữ hàng hóa đáp ứng nhu cầu BOG, nhất là các thời điểm diễn ra lễ, Tết trong năm. Hỗ trợ xây dựng các cơ sở bảo quản, dự trữ nông sản để điều hòa cung cầu, BOG cả.

Thứ ba, chủ động thực hiện lộ trình điều chỉnh giá theo cơ chế giá thị trường vào thời điểm thích hợp trong năm đối với giá cả một số hàng hóa, dịch vụ Nhà nước còn định giá. Trước mắt trong dịp Tết Tân Mão và quý I năm 2011 giữ ổn định giá: điện, than bán cho các hộ tiêu dùng lớn, khí hóa lỏng, nước sạch… các dịch vụ công quan trọng như y tế, giáo dục. Sử dụng linh hoạt các công cụ phí, thuế, quỹ BOG để bình ổn giá xăng, dầu và một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu; giãn thời gian điều chỉnh giá các hàng hóa, dịch vụ Nhà nước định giá. Thực hiện lộ trình giá thị trường phải gắn kết chặt chẽ với hoàn thiện hệ thống cung ứng hàng hóa, dịch vụ; phấn đấu giảm chi phí sản xuất và giá thành, đi cùng với các chính sách, cơ chế trợ giúp hợp lý đối với các hộ tiêu dùng có điều kiện khó khăn, các đối tượng chính sách (như từng bước điều chỉnh giá dịch vụ y tế phù hợp, chuyển dần hình thức bao cấp cho cơ sở y tế sang hỗ trợ trực tiếp cho người bệnh qua bảo hiểm y tế; có chính sách hỗ trợ về giá điện sinh hoạt, giá nước sạch cho sinh hoạt đối với người nghèo, người có thu nhập thấp… bảo đảm để những đối tượng này được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu về học hành, khám, chữa bệnh, nhà ở, điện, nước, đi lại…).

Thứ tư, tăng cường quản lý giá thông qua các biện pháp kiểm soát các yếu tố hình thành giá, đăng ký giá, kê khai giá. Kiên quyết ngừng việc đăng ký giá có mức tăng giá không hợp lý. Kiểm soát đối với một số hàng hóa, dịch vụ độc quyền; ngăn chặn và kiên quyết xử lý hành vi liên kết và lạm dụng vị thế thị trường để tăng giá bất hợp lý, nhất là các nguyên liệu đầu vào quan trọng của sản xuất và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Rà soát, bãi bỏ các khoản thu phí, lệ phí bất hợp lý, trái pháp luật. Thực hiện kiểm soát chặt chẽ các kênh chi tiêu từ ngân sách Nhà nước thanh toán cho các mức giá hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước đặt hàng, giao kế hoạch sản xuất, hàng dự trữ Nhà nước, hàng hóa, dịch vụ còn được trợ cước, trợ giá… Chuyển mạnh hơn sang cơ chế đấu thầu, đấu giá, thỏa thuận giá đối với các loại hàng hóa, dịch vụ này.

Thứ năm, thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, thanh tra chấp hành pháp luật Nhà nước về giá. Đồng thời tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về chính sách, cơ chế điều hành giá của Nhà nước.

                                                                                            Nguyễn Thu Hà

CÁC BÀI ĐÃ ĐĂNG

Dự báo thị trường bất động sản năm 2011? Bước ngoặt lớn trong thị trường tài chính Việt NamGiảm tổng cầu và vai trò của chính sách tài khóa – tiền tệBình ổn giá vàng năm 2011Tìm hiểu bảng điểm Piotroski trong phân tích báo cáo tài chinMột số giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị dự toán trực thuộc Bộ Quốc phòngKiểm soát hoạt động thanh toán với khách hàng trong các doanh nghiệp may mặc Việt NamMobiFone và Vinaphone giảm cướcACC được chào bán 4 triệu cổ phần ra công chúngCó thể bị cấm XK nếu bán phá giá gạo

Thách Thức Kiểm Soát Lạm Phát

(BĐT) – Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng mạnh trong tháng đầu năm do giá thịt lợn vẫn ở mức cao, lại thêm những tác động khó lường của dịch viêm đường hô hấp cấp do virus Corona chủng mới, gây lo ngại cho mục tiêu kiểm soát lạm phát trong năm nay. Tuy nhiên, nếu áp dụng đồng bộ và hiệu quả các giải pháp thì khả năng kiềm chế giá cả thị trường theo mục tiêu đã đề ra là có thể đạt được.

Dịch virus Corona chưa gây ảnh hưởng lớn

CPI tháng 1 năm nay tăng 1,23% so với tháng 12/2019. Đây là mức tăng cao nhất kể từ năm 2014. Theo Tổng cục Thống kê, giá lương thực, thực phẩm, ăn uống ngoài gia đình và giá dịch vụ giao thông công cộng tăng trong dịp Tết Nguyên đán là nguyên nhân chủ yếu làm cho CPI tháng 1 tăng.

Trong đó, dù nguồn cung thịt lợn được đảm bảo nhưng giá mặt hàng thịt lợn vẫn neo ở mức cao. Giá lợn thương phẩm trên thị trường vẫn ở mức 85.000 đồng/kg, cao hơn 8,29% so với tháng 12/2019 và là nguyên nhân quan trọng khiến mức nền chỉ số giá tiêu dùng của tháng 1/2020 cao nhất trong 7 năm qua.

Nhận xét về diễn biến CPI tháng 1, TS. Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế – Tài chính thuộc Học viện Tài chính cho rằng, mục tiêu kiểm soát lạm phát cả năm dưới 4% vẫn có thể thực hiện được dù khó khăn hơn năm ngoái. Theo đó, yếu tố có tính quyết định là kéo giảm được giá thịt lợn. “Nếu kiềm chế được giá thịt lợn trong quý I thì nhiều khả năng kiểm soát CPI cả năm dưới 4%. Ngược lại, nếu giá thịt lợn vẫn neo ở mức cao và kéo dài thì khả năng giữ CPI ở mức thấp sẽ khó khăn hơn. Đặc biệt, nếu dịch tả lợn châu Phi chưa thể kết thúc trong nửa đầu năm 2020 và lạm phát chỉ bắt đầu giảm từ giữa năm 2020, việc kiềm chế lạm phát dưới 4% là tương đối khó khăn”, ông Độ nói.

Về tác động của dịch viêm đường hô hấp cấp do virus Corona chủng mới, ông Độ cho rằng chưa ảnh hưởng rõ rệt lên giá các mặt hàng, chỉ mới thấy giá mặt hàng khẩu trang và nước sát trùng tay tăng đột biến. “Thực tế, các hoạt động kinh tế vẫn diễn ra, chỉ có học sinh và sinh viên tạm thời nghỉ học nên nhu cầu tiêu dùng các hàng hóa thiết yếu vẫn bình thường mà không tăng. Ngành chịu ảnh hưởng nặng nhất hiện nay là dịch vụ ăn uống, du lịch. Tuy nhiên, nhu cầu sử dụng dịch vụ giảm thì có thể kéo giảm giá dịch vụ. Đáng chú ý, yếu tố thuận lợi là mặt hàng xăng dầu đang có xu hướng giảm giá, đặc biệt khi nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại và nhu cầu tiêu dùng mặt hàng này giảm xuống”, ông Độ phân tích.

Kiên quyết thực hiện các giải pháp giảm giá thịt lợn

Tại cuộc họp Ban Chỉ đạo điều hành giá ngay sau dịp nghỉ Tết Nguyên đán vừa qua, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, Trưởng ban Chỉ đạo điều hành giá đã yêu cầu các bộ, ngành kiên quyết thực hiện đồng bộ các giải pháp để đưa mặt bằng giá thịt lợn xuống mức hợp lý.

Cụ thể, Phó Thủ tướng yêu cầu đưa mặt bằng giá thịt lợn dần xuống mức bình thường như trước khi có dịch trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường và quy định của pháp luật, đảm bảo cân đối cung cầu hàng hóa, công khai minh bạch chi phí, giá thành, giá bán; đảm bảo hài hòa lợi ích người sản xuất, khâu lưu thông, phân phối và người tiêu dùng; xử lý nghiêm các trường hợp thao túng giá, đầu cơ, trục lợi.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có nhiệm vụ chủ trì báo cáo đầy đủ về tình hình đảm bảo nguồn cung thịt lợn cho quý I, 6 tháng đầu năm và cả năm 2020, kế hoạch và khả năng tái đàn, tình hình nhập khẩu thịt lợn, tình hình thiệt hại do dịch tả lợn châu Phi và hỗ trợ kinh phí đối với các doanh nghiệp, hộ chăn nuôi…, báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ – Trưởng ban Chỉ đạo điều hành giá trước ngày 6/2/2020. Tiếp tục chủ trì, phối hợp với các cơ quan và doanh nghiệp thực hiện chủ trương nhập khoảng 100 nghìn tấn thịt lợn thành phẩm trong quý I năm 2020 để góp phần ổn định nguồn cung ngay trong những tháng sau Tết.

Bộ Công Thương chủ trì thành lập đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra việc chấp hành pháp luật về độc quyền, cạnh tranh, gian lận thương mại đối với các doanh nghiệp chăn nuôi lợn có thị phần lớn, nếu có hiện tượng lợi dụng tình hình dịch bệnh để găm hàng, thao túng giá thì thực hiện xử lý nghiêm, kịp thời theo quy định của pháp luật, báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ – Trưởng ban Chỉ đạo điều hành giá kết quả thực hiện trong quý I năm 2020.

Thuận Lợi Và Thách Thức Trong Kiểm Soát Lạm Phát

Một số đặc điểm chính về lạm phát tại Việt Nam

Diễn biến lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2016 có thể được chia theo các thời kỳ chính như sau:

Giai đoạn từ 2000 đến 2003: Lạm phát tương đối thấp (dưới 4%), do tác động trễ của khủng hoảng tài chính châu Á (1997-1998), khiến cầu trong nước và thế giới sụt giảm mạnh, kéo theo giá cả sụt giảm.

Giai đoạn từ 2004 đến 2011: Lạm phát tăng vọt (từ 6,6% -19,9%), nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO (1/1/2007). Đặc biệt, lạm phát tăng cao kỷ lục vào năm 2008. Cụ thể: 7 tháng đầu năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã vượt 25%; Tháng 7/2008, khủng hoảng kinh tế toàn cầu diễn ra khiến CPI âm vào 5 tháng cuối năm 2008, kéo CPI cả năm xuống ở mức 19,9%.

Cũng do khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009, CPI năm 2009 đã giảm xuống còn 6,9%. Tuy nhiên, thời gian sau đó CPI đã tăng mạnh trở lại, đạt khoảng 11,8% (năm 2010) và 18,1% (năm 2011), sau khi Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới đồng loạt “tung” gói kích cầu nhằm phục hồi kinh tế sau khủng hoảng, đẩy giá trong nước và thế giới tăng cao.

Giai đoạn từ 2012 đến 2015: Lạm phát giảm mạnh sau khi Chính phủ thực hiện quyết liệt chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Điển hình như: Khởi đầu là Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011, tiếp sau đó các Nghị quyết 01/NQ-CP (ngày 3/1/2012), Nghị quyết 01/NQ-CP (ngày 7/1/2013), Nghị quyết 01/NQ-CP (ngày 2/1/2014) lần lượt ra đời.

Cùng với các chính sách kiềm chế lạm phát, Chính phủ còn đưa ra nhiều biện pháp đồng bộ và mạnh mẽ nhằm kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó chủ chốt là chính sách tiền tệ thắt chặt và tài khóa chặt chẽ. Nhờ đó, chỉ số CPI đã giảm mạnh từ 18,1% năm 2011 xuống 6,8% năm 2012; 6% năm 2013; 1,8% năm 2014 và 0,6% năm 2015.

Giai đoạn từ năm 2016 đến nay: Với việc kinh tế Việt Nam dần phục hồi, lạm phát đã có xu hướng tăng trở lại (CPI năm 2016 lên đến 4,74%).

Từ những phân tích trên, có thể rút ra một số đặc điểm chính của lạm phát ở Việt Nam như sau:

Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế cao đi liền với lạm phát cao và các bất ổn vĩ mô khác. Đây là đặc điểm chung của nhiều nền kinh tế đang phát triển, song được thể hiện rất rõ ở Việt Nam. Nguyên nhân chính là do mô hình tăng trưởng theo chiều rộng của Việt Nam dựa trên lao động giá rẻ, song năng suất lao động thấp, xuất khẩu tài nguyên, nông lâm thủy sản là chủ yếu và còn dưới dạng thô; sản phẩm công nghiệp chủ yếu là gia công lắp ráp, sử dụng công nghệ lạc hậu vừa lãng phí nguyên nhiên liệu, vừa gây ô nhiễm môi trường.

Để thúc đẩy tăng trưởng, mô hình này dựa vào các chính sách tài khóa nới lỏng để mở rộng đầu tư (đặc biệt đầu tư công) và chính sách tiền tệ nới lỏng (tăng cung tiền và tăng tín dụng).

Xét trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2010 – giai đoạn có mức tăng trưởng GDP cao (bình quân 7,3% năm) cho thấy, đây là giai đoạn lạm phát cao (bình quân 10,9% năm). Nguyên nhân chủ yếu là Chính phủ hướng tới đạt tăng trưởng GDP cao, trong khi nền kinh tế kém hiệu quả và năng suất lao động thấp.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội của giai đoạn này lên đến bình quân 42,2% GDP/năm và tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân lên đến 35,9%/năm, đây là mức rất cao xét trong khu vực và cả trên thế giới. Tổng mức tăng cung tiền M2 cả giai đoạn này là 210%, gấp hơn 4 lần tổng tăng trưởng GDP với 51,3%.

Đầu tư và tăng trưởng tín dụng cao, gây mất cân đối nghiêm trọng trong nhiều năm giữa lượng tiền tung ra (thể hiện qua tốc độ tăng M2) và hàng hóa sản xuất ra (biểu hiện qua tốc độ tăng trưởng GDP). Đây chính là những nguyên nhân chính gây ra lạm phát cao giai đoạn trên. Bên cạnh, các bất ổn vĩ mô bộc lộ rõ như: nhập siêu cao, tỷ giá biến động mạnh, dự trữ ngoại hối giảm, lãi suất tiết kiệm tăng vọt.

Thứ hai, lạm phát Việt Nam phụ thuộc ngày càng lớn vào lạm phát thế giới. Độ mở của nền kinh tế nước ta hiện thuộc nhóm cao nhất thế giới, với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hiện đạt khoảng 180% GDP. Với độ mở nền kinh tế lớn, mọi biến động giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới phần lớn được chuyển vào Việt Nam thông qua nhập khẩu.

Thứ ba, những năm gần đây lạm phát bị tác động không nhỏ của việc tăng giá một số nhóm hàng theo lộ trình. Trước đây, giá dịch vụ y tế và giáo dục được duy trì ở mức rất thấp trong nhiều năm, do vậy ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ và nguồn vốn tái đầu tư cho các lĩnh vực này.

Năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị định 85/2012/NĐ-CP cho phép các cơ sở khám chữa bệnh tăng giá dịch vụ y tế. Cũng trong năm này, Chính phủ ban hành Nghị định 86/2012/NĐ-CP cho phép các cơ sở đào tạo tăng giá dịch vụ giáo dục… Mục tiêu là vừa để nâng cao chất lượng dịch vụ, vừa để các cơ sở tự trang trải chi phí nhằm giảm phụ thuộc vào ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, việc tăng giá điện theo lộ trình được thực hiện từ năm 2013 theo Quyết định 69/QĐ-TTg ngày 19/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ cũng là yếu tố tác động đến CPI. Việc điều hành giá điện cũng được chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường.

Thuận lợi và thách thức trong kiểm soát lạm phát năm 2017

Chỉ tiêu lạm phát Quốc hội đặt ra cho năm 2017 là dưới 4%. Trong quá trình thực hiện mục tiêu trên, nền kinh tế Việt Nam có nhiều thuận lợi sau:

Thứ nhất, lạm phát trong những năm gần đây được kiềm chế ở mức tương đối thấp. Trước sự quyết liệt của Chính phủ trong việc thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, từ năm 2012 lạm phát bắt đầu giảm mạnh và từ năm 2014 đến nay, chỉ số CPI luôn ở dưới 5%.

Đặc biệt, lạm phát lõi, tức lạm phát đã loại trừ biến động giá của các nhóm hàng lương thực – thực phẩm và nhóm năng lượng ở mức khá thấp, dưới 2% (lạm phát lõi năm 2016 là 1,84%). Lạm phát thấp trong những năm gần đây là tiền đề thuận lợi đối với công tác quản lý, điều hành kiểm soát lạm phát năm 2017.

Thứ hai, kinh tế vĩ mô tương đối ổn định. Sau hàng chục năm liên tục nhập siêu, cán cân thương mại Việt Nam đã đảo chiều sang xuất siêu trong 3 năm liên tiếp từ năm 2012 đến năm 2014. Mặc dù, năm 2015 nhập siêu quay lại với mức 3,5 tỷ USD, song năm 2016 Việt Nam lại tiếp tục xuất siêu 2,7 tỷ USD. Xuất siêu đã tạo thuận lợi giúp tỷ giá ổn định, qua đó giảm áp lực lên lạm phát.

Dự trữ ngoại hối liên tục tăng và đạt mức kỷ lục 41 tỷ USD cuối năm 2016. Mức dự trữ ngoại hối cao đã góp phần giúp Ngân hàng Nhà nước ổn định tỷ giá. Thực tế, tỷ giá ngoại hối tương đối ổn định trong năm 2016, ngay cả trong bối cảnh đồng USD liên tục tăng giá mạnh.

Tỷ giá ổn định phần nào làm giảm áp lực lạm phát. Kinh tế vĩ mô ổn định cũng đã tạo điều kiện và dư địa để Chính phủ tiếp tục ban hành các chính sách kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý.

Thứ ba, nguồn cung hàng hóa trong nước, đặc biệt là về lương thực – thực phẩm, khá dồi dào, đảm bảo không xảy ra biến động lớn về giá. Giá lương thực – thực phẩm ổn định giúp kiềm chế lạm phát, nhất là trong điều kiện của Việt Nam khi nhóm hàng lương thực – thực phẩm hiện chiếm tỷ trọng lớn (gần 40%) trong rổ hàng hóa tính chỉ số CPI.

Những khó khăn và thách thức

Tuy có nhiều điều kiện thuận lợi, song để đạt được chỉ tiêu lạm phát năm 2017 dưới 4% là không mấy dễ dàng, bởi nền kinh tế nước ta vẫn đang phải đối diện với không ít khó khăn và thách thức.

Thứ nhất, mặc dù lạm phát từ năm 2014 đến nay luôn dưới 5%, song từ năm 2016 có xu hướng tăng mạnh (từ 1,84% năm 2014 và 0,63% năm 2015 lên 4,74% năm 2016). Nếu không có các biện pháp kiểm soát chặt chẽ, lạm phát có thể sẽ quay trở lại.

Thứ hai, cùng với chỉ tiêu lạm phát năm 2017 dưới 4%, Quốc hội cũng đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng GDP năm 2017 khá cao, là 6,7%. Trong điều kiện Việt Nam chưa chuyển đổi hoàn toàn mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, để đạt mức tăng trưởng đó, chính sách tiền tệ phải có sự điều chỉnh và nới lỏng nhất định để hỗ trợ tăng trưởng GDP.

Cụ thể, tăng trưởng tín dụng năm 2017 có thể lên đến 20%, cao nhất từ 2011 đến nay. Cung tiền M2 có thể đạt mức 20%. Tăng trưởng tín dụng và cung tiền khá cao sẽ tạo sức ép lên lạm phát, như đã từng xảy ra trong giai đoạn 2004-2010.

Thứ ba, giá điện, dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục năm 2017 tiếp tục tăng theo lộ trình sẽ đẩy chỉ số CPI tăng.

Thứ tư, bội chi ngân sách khá cao (trên 5%) và liên tục trong nhiều năm tạo sức ép rất lớn lên lạm phát.

Thứ năm, giá hàng hóa thế giới (đặc biệt là các hàng hóa đầu vào cho nền kinh tế Việt Nam), sau một thời gian khá dài tăng thấp, thậm chí giảm, được dự báo sẽ tăng trở lại năm 2017. Việt Nam hiện là nền kinh tế gia công xuất khẩu dựa trên nhập khẩu phần lớn nguyên phụ liệu, linh phụ kiện và máy móc thiết bị. Giá hàng hóa thế giới tăng được nhập khẩu vào Việt Nam cũng đã đẩy giá trong nước tăng theo…

Giải pháp kiểm soát lạm phát

Xét từ những đặc điểm của lạm phát ở Việt Nam cũng như các yếu tố thuận lợi và thách thức trong việc thực hiện mục tiêu kiềm chế CPI dưới 4%, bài viết xuất một số giải pháp để kiểm soát lạm phát năm 2017.

Thứ nhất, tiếp tục chính sách kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Để đảm bảo kiểm soát lạm phát dưới 4%, đồng thời phục hồi tăng trưởng kinh tế ở mức 6,7% trong năm 2017, cần tiếp tục thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát và ổn đinh kinh tế vĩ mô được thực hiện từ năm 2011 đến nay. Đồng thời, kết hợp thực hiện các chính sách phục hồi tăng trưởng như: hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, nới lỏng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa (đầu tư công) ở mức độ nhất định.

Trong dài hạn, để đảm bảo kiểm soát lạm phát và duy trì kinh tế vĩ mô ổn định, đồng thời phục hồi tăng trưởng kinh tế, đặc biệt cần mạnh mẽ tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng (dựa trên mở rộng đầu tư và tín dụng, sử dụng lao động giản đơn giá rẻ, khai thác tài nguyên, xuất khẩu nguyên liệu thô, gia công xuất khẩu) sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu (dựa trên trình độ công nghệ cao, năng suất lao động cao, nhân lực trình độ cao, kỹ năng quản trị hiện đại, xuất khẩu sản phẩm giá trị gia tăng cao).

Thứ ba, kiểm soát tốt cơ cấu và chất lượng tín dụng. Với mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2017 tương đối cao (khoảng 20%) để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện các biện pháp giám sát chặt chẽ, nhằm đảm bảo tín dụng được đưa vào sản xuất – kinh doanh và tránh không đổ quá mức vào các lĩnh vực mang tính đầu cơ, tiềm ẩn nhiều rủi ro và dễ trở thành bong bóng, gây sức ép đẩy giá cả lên cao, như bất động sản và chứng khoán…

Ngành Ngân Hàng Thực Hiện Các Giải Pháp Lãi Suất Góp Phần Kiểm Soát Lạm Phát, Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô Và Hỗ Trợ Tăng Trưởng Kinh Tế

Ngày đăng:07:53 10/07/2017

Trụ sở NHNN Ngày 7/7/2017, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành các văn bản điều chỉnh giảm lãi suất có hiệu lực từ ngày 10/7/2017. Theo đó, giảm 0,25%/năm các mức lãi suất điều hành gồm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng; giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ về các giải pháp phát triển kinh tế – xã hội năm 2017, trong 6 tháng đầu năm 2017, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện đồng bộ các giải pháp điều hành, qua đó đáp ứng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng cung ứng vốn tín dụng đối với nền kinh tế, ổn định mặt bằng lãi suất, ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ, góp phần tích cực trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý. Tại Nghị quyết số 46/NQ-CP ngày 9/6/2017, Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 2/6/2017, Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 6/6/2017, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành triển khai đồng bộ các giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2017 đã đề ra. Thực hiện chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trên cơ sở đánh giá tình hình kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, ngày 7/7/2017, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết định điều chỉnh giảm 0,25%/năm các mức lãi suất điều hành, giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế. Để thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam yêu cầu các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố tiếp tục triển khai các giải pháp về tiền tệ, hoạt động ngân hàng tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 10/01/2017, giải pháp về tín dụng theo chỉ đạo tại văn bản số 4060/NHNN-TTGSNH ngày 29/5/2017 và tập trung thực hiện các giải pháp như sau: Đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài: – Thực hiện đúng các quy định và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về lãi suất tiền gửi của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế. – Chủ động cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn để đảm bảo thanh khoản; thực hiện các giải pháp tiết giảm chi phí hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh để có cơ sở giảm lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên, lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh; áp dụng mức thu phí hợp lý đối với các khoản phí được thu theo quy định của pháp luật nhằm chia sẻ khó khăn đối với khách hàng vay. Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố: – Chủ động đôn đốc và hướng dẫn tổ chức tín dụng trên địa bàn thực hiện các giải pháp về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. – Tăng cường công tác thanh tra, giám sát đối với tổ chức tín dụng trên địa bàn trong việc chấp hành quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về lãi suất. Thống đốc NHNN yêu cầu Tổng giám đốc (Giám đốc) tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện văn bản này. Định kỳ vào ngày 20 hằng tháng, các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài báo cáo tình hình, kết quả triển khai thực hiện các giải pháp nêu tại mục 1; báo cáo tình hình lãi suất huy động và lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam bắt đầu từ kỳ báo cáo tháng 7/2017 về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Cập nhật thông tin chi tiết về Tăng Cường Quản Lý Điều Hành Giá Góp Phần Kiểm Soát Lạm Phát trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!