Bạn đang xem bài viết Sự Ra Đời Và Bản Chất Của Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mà thông qua đó, đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội; là một tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội.
Ý tưởng về một xã hội công bằng, bình đẳng và bác ái đã xuất hiện từ lâu. Ý tưởng đó xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân lao động muốn thoát khỏi sự bất công, bạo lực và chuyên chế, ước mơ xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó những giá trị chân chính của con người được tôn trọng, mọi người đều có điều kiện để tự do phát triển với tất cả mọi năng lực của mình. Những cuộc đấu tranh không ngừng của nhân dân lao động trong lịch sử đã chứng minh cho điều đó.
Ý tưởng về một xã hội công bằng, bình đẳng và bác ái đã xuất hiện từ lâu. Ý tưởng đó xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân lao động muốn thoát khỏi sự bất công, bạo lực và chuyên chế, ước mơ xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó những giá trị chân chính của con người được tôn trọng, mọi người đều có điều kiện để tự do phát triển với tất cả mọi năng lực của mình. Những cuộc đấu tranh không ngừng của nhân dân lao động trong lịch sử đã chứng minh cho điều đó.
Tuy nhiên, mãi đến cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI, tư tưởng về chủ nghĩa xã hội (mới là chủ nghĩa xã hội không tưởng) mới được hình thành rõ nét. Thomas More (1478 – 1535), một trong những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội không tưởng, trong tác phẩm nổi tiếng “Utôpia” (Xứ không tưởng) đã phê phán chế độ chính trị – xã hội đương thời ở Anh, đồng thời phác họa một mô hình xã hội, ở đó chế độ nhà nước được xây dựng dựa trên sự bình đẳng và tự do của mọi người, tất cả những nhà chức trách đều do nhân dân bầu ra, phải báo cáo trước nhân dân và phải hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Trong xã hội như vậy, chế độ công hữu thống trị và lao động mang tính bắt buộc. Sau Thomas More, Tomado Campanela (1568 – 1639), tác giả của tác phẩm “Thành phố mặt trời” và “Luận về thể chế nhà nước tốt nhất”, đã tiếp tục phát triển tư tưởng của chúng tôi và đi đến kết luận rằng, chế độ chính trị – xã hội lý tưởng mang lại quyền lợi cho những người lao động đó là chế độ dựa trên sở hữu xã hội. Những nguyên tắc xã hội chủ nghĩa của xã hội lý tưởng sẽ kéo theo cả sự thay đổi tính chất của chế độ chính trị. T.Campanela cũng đã có tư tưởng về giáo dục trong xã hội lý tưởng đó là, giáo dục gắn liền với lao động sản xuất và đề cao vai trò của sự phát triển khoa học.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học, trên cơ sở tổng kết thực tiễn đấu tranh cách mạng và những phát hiện khoa học mới về quy luật phát triển khách quan của xã hội, đã đưa ra một lý thuyết khoa học về xã hội chủ nghĩa với lý tưởng dân chủ, công bằng và nhân đạo, chỉ ra con đường và các biện pháp để tạo lập xã hội đó. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học, nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, phù hợp với các quy luật vận động và phát triển của xã hội. Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những tiền đề kinh tế, chính trị và xã hội đã phát sinh trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa.
Mặt khác, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra những điều kiện làm cho giai cấp vô sản ngày càng phát triển nhanh về số lượng và cao về tính tổ chức kỷ luật, trở thành giai cấp tiến bộ nhất của xã hội, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động đứng lên làm cách mạng để lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, xóa bỏ nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước của giai cấp mình. Trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, các Đảng cộng sản đã được thành lập đề lãnh đạo phong trào cách mạng và trở thành nhân tố có ý nghĩa quyết định sự thắng lợi của cách mạng. Giai cấp vô sản lại có chủ nghĩa Mác-Lênin là vũ khí lý luận sắc bén để nhận biết đúng đắn những quy luật vận động và phát triển của xã hội, là cơ sở lý luận để tổ chức, tiến hành cách mạng và xây dựng nhà nước của giai cấp mình sau chiến thắng của cách mạng.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, từ sau năm 1917 khi nhà nước Xô viết ra đời, đặc biệt từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã được hình thành, trở thành nhân tố có tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của xã hội, đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cách mạng trong nhiều nước, trong đó có những nước dân tộc thuộc địa và các nước chế độ tư bản chủ nghĩa chưa phát triển, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã diễn ra trong nhiều nước và giành được thắng lợi. Nhiều nước đã tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong giai đoạn lịch sử hiện nay tìnhhình quốc tế có những diễn biến phức tạp. Nhưng như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ được thông qua tại Đại hội VII của Đảng đã xác định: “Đặc điểm nổi bật của thời đại là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.Thứ hai, về sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Những tiền đề kinh tế, chính trị – xã hội và những yếu tố nêu trên tạo ra điều kiện thuận lợi cho cách mạng vô sản nổ ra. Nhưng cách mạng vô sản sẽ diễn ra với kết quả như thế nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Vì vậy, bên cạnh việc nghiên cứu những nguyên nhân khách quan dẫn đến sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa, còn cần phải nghiên cứu những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng vô sản, về việc tổ chức và thực hiện chính quyền của giai cấp vô sản sau khi cách mạng thành công. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định: Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Mục đích của cách mạng vô sản cũng chính là nhằm lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản để thiết lập chính quyền của giai cấp vô sản. Nhưng giai cấp tư sản (cũng như các giai cấp thống trị bóc lột nói chung) không bao giờ tự nguyện rời bỏ chính quyền của mình, mà sẽ tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để giữ cho được chính quyền đó.
Vì vậy giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản phải dùng bạo lực tiến hành cách mạng để giành lấy chính quyền về tay mình. Chỉ khi nào bạo lực cách mạng của giai cấp vô sản và quần chúng lao động mạnh hơn bạo lực của giai cấp bóc lột thì mới có thể giành được chính quyền từ tay chúng. Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ hội nghị trung ương lần thứ VIII (năm 1941) trên cơ sở tổng kết việc chỉ đạo cách mạng ở Việt Nam đã chỉ rõ: Cách mạng Việt Nam muốn giành được thắng lợi thì nhất thiết phải vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền và sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một chính phủ cách mạng của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa “Chính phủ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Quốc dân đại hội cử lên”.
Bạo lực cách mạng có thể là lực lượng vũ trang, có thể là lực lượng chính trị hiểu theo nghĩa hẹp, có thể là lực lượng vũ trang kết hợp với lực lượng chính trị. Đó là sức mạnh tổng hợp của quần chúng cách mạng chống lại bạo lực phản động của giai cấp bóc lột. Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam cũng như các đảng cộng sản khác trong nhiều nước đã coi trọng việc đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sử dụng nhiều hình thức và phương pháp sáng tạo, phù hợp với điều kiện của mỗi nước để xây dựng lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng cách mạng để giành chiến thắng và thiết lập nhà nước của giai cấp vô sản.
Cách mạng vô sản khác hẳn với các cuộc cách mạng khác của giai cấp bóc lột về bản chất và mục đích của cách mạng. Các cuộc cách mạng của các giai cấp bóc lột khác nhau đều nhằm mục đích xây dựng một chế độ áp bức, bóc lột ở trình độ cao hơn. Vì vậy, kết quả của các cuộc cách mạng đó là thay đổi chính quyền của giai cấp bóc lột cũ, nhưng về thực chất chỉ là một bộ máy nhà nước được hoàn bị ở trình độ cao hơn, còn bản chất của bộ máy bạo lực đó vẫn không thay đổi. C.Mác viết: “Tất cả các cuộc chính biến, đáng lẽ đập tan bộ máy đó thì lại chỉ làm cho nó thêm hoàn bị mà thôi”.
Còn mục đích của cách mạng vô sản không những chỉ là lật đổ sự thống trị của các giai cấp bóc lột giành chính quyền về tay mình mà còn là xây dựng một kiểu nhà nước mới xóa bỏ mọi sự áp bức, bóc lột. Vì vậy, giai cấp vô sản sau khi giành được chính quyền không thể sử dụng hoặc cải tạo bộ máy nhà nước cũ để phục vụ cho mục đích của giai cấp mình. Giai cấp vô sản cần phải có một kiểu chính quyền có bản chất mới phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân lao động. Để thực hiện mục đích đó, giai cấp vô sản phải đùng bạo lực cách mạng để đập tan bộ máy nhà nước cũ. Việc đập tan bộ máy nhà nước cũ đòi hỏi phải thực hiện một cách kiên quyết và triệt để. Phải tiến hành thủ tiêu ngay bộ máy quân sự – quan liêu bao gồm những công cụ bạo lực của nhà nước như: Quân đội, canh sát, tòa án, hệ thống các nhà tù, trại giam và toàn bộ hệ thống bộ máy nhà nước từ trung ương xuống địa phương. Đồng thời, phải có các biện pháp cấm mọi hoạt động của các tổ chức phản động khác đã là chỗ dựa cho chính quyền cũ. Kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam tháng 8/1945 và sau ngày giải phóng 30 tháng 4 năm 1975, cũng như của cách mạng các nước xã hội chủ nghĩa đã khẳng định sự đúng đắn của nguyên lý nói trên. Tuy nhiên, khi tiến hành đập tan bộ máy nhà nước bóc lột cần chú ý phân biệt bộ máy hành chính – quân sự quan liêu với những tổ chức và cơ sở khác như hệ thống các cơ quan thống kê, bưu điện, nhà băng… Những tổ chức và cơ sở này mặc dù dưới chế độ cũ cũng được sử dụng vào mục đích áp bức, bóc lột nhưng chúng có yếu tố cần thiết cho việc quản lý kinh tế xã hội mới. Đối với những tổ chức và cơ sở này cần phải giữ lại để cải tạo, tổ chức lại cho phù hợp với mục tiêu xây dựng một chế độ kinh tế – xã hội mới. Song song với việc tiến hành đập tan bộ máy nhà nước cũ, giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, phải nhanh chóng xây dựng bộ máy nhà nước mới của giai cấp mình để bảo vệ thành quả cách mạng, đồng thời để tổ chức và quản lý mọi mặt của xã hội trong điều kiện hoàn cảnh mới.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cách mạng do giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhưng cách mạng của mỗi nước có những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau, cho nên sự ra đời của các nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền sau khi cách mạng thành công cũng có những đặc điểm đặc thù riêng. Mỗi nước sẽ chọn cho mình những phương pháp và hình thức phù hợp. Nhưng đã ra đời trong điều kiện và hoàn cảnh nào thì nhà nước xã hội chủ nghĩa đều là nhà nước có chung một bản chất.
Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử đã diễn ra ở những thời điểm quan trọng và được thể hiện dưới các hình thức sau:
Công xã Paris ra đời trong cuộc khởi nghĩa vũ trang của công nhân Paris năm 1871;
Nhà nước Xô viết, ra đời sau Cách mạng tháng Mười (1917) vĩ đại;
Nhà nước dân chủ nhân dân ra đời do kết quả của cuộc đấu tranh giải phóng và các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sau chiến tranh thế giới thứ hai ở Châu Âu;
Nhà nước Cộng hòa Cu-ba.
Ở Việt Nam, tháng Tám năm 1945, nắm vững thời cơ khi phát xít Nhật đầu hàng đồng minh, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã phát động nhân dân ta vùng dậy làm cách mạng tháng Tám thành công, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông nam châu á. Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước cộng hòa non trẻ đã phải tiến hành cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp, năm 1954 miền Bắc được giải phóng, miền Nam vẫn tiếp tục cuộc kháng chiến chống xâm lược và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong điều kiện đó chính quyền dân chủ nhân dân ở nước ta đã làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản.
Tháng 04/1975 đất nước hoàn toàn giải phóng, Việt Nam bước sang một giai đoạn phát triển mới – giai đoạn cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, trước những thử thách lớn lao của thời đại, với đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề ra và được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang từng bước đổi mới, vượt qua khủng hoảng, vững chắc đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩaVề mặt lý thuyết cũng như thực tiễn đã cho thấy rõ, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới có bản chất khác với bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột. Bản chất đó do cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa và đặc điểm của quyền lực chính trị trong chủ nghĩa xã hội quy định.
Trong chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được thiết lập và củng cố dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất – đó là kiểu quan hệ sản xuất thể hiện sự hợp tác, tương trợ không có áp bức bóc lột. Giai cấp vô sản là người giữ địa vị thống trị về chính trị. Nhưng sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản đã thể hiện bản chất và mục đích khác hẳn với sự thống trị về chính trị của các giai cấp bóc lột. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự thống trị của thiểu số đối với tất cả các giai cấp bị áp bức, bóc lột, để bảo vệ lợi ích của chúng. Còn sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản là sự thống trị của đa số đối với giai cấp bóc lột, chỉ là thiểu số trong dân cư, nhằm mục đích giải phóng giai cấp mình và tất cả người lao động. Mặt cơ bản nhất trong sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản là sự lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với toàn xã hội trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, là công cụ để thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp vô sản. Bản chất và mục đích của nhà nước xã hội chủ nghĩa thể hiện ở những đặc điểm cơ bản sau đây:
(i) Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là một bộ máy chính trị – hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế xã hội của nhân dân lao động, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ là ‘nửa nhà nước’.
Tất cả các nhà nước bóc lột đều là nhà nước theo đúng nghĩa của nó, nghĩa là bộ máy của thiểu số những kẻ bóc lột để trấn áp đa số nhân dân lao động bị áp bức bóc lột … Phù hợp với bản chất đó, các nhà nước bóc lột đều là bộ máy hành chính – quân sự quan liêu, một bộ máy bạo lực để thực hiện sự đàn áp nhân dân lao động, bảo vệ sự thống trị của giai cấp bóc lột.
Cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới là nội dung chủ yếu và mục đích cuối cùng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là một sự nghiệp vĩ đại nhưng đồng thời cũng là công việc cực kỳ khó khăn và phức tạp. Nó đòi hỏi nhà nước phải là một bộ máy có đầy đủ sức mạnh để trấn áp kẻ thù và những phần tử chống đối cách mạng, đồng thời nhà nước phải là một tổ chức có đủ năng lực để quản lý và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa trong đó việc tổ chức quản lý kinh tế là quan trọng, khó khăn và phức tạp nhất. Nước ta từ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp, đồng thời lại phải trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều, các thế lực thù địch thường xuyên tìm mọi cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập của nhân dân ta. Vì vậy, việc cải tạo và xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội lại càng khó khăn phức tạp hơn.Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã nhấn mạnh phải xây dựng nhà nước vững mạnh: “Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.
Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một chế độ nhà nước chứ không phải là vô chính phủ. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta. Nhưng mặt khác, chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng giữa những công dân, thừa nhận cho mọi người có quyền ngang nhau trong việc xác định cơ cấu của nhà nước và quản lý nhà nước”. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo nguyên lý về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện Việt Nam, nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định: Thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của tầng. lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước phải bảo đảm cho nhân dân thực sự tham gia vào quản lý nhà nước, thực sự có quyền lựa chọn những người đại biểu xứng đáng của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước, có quyền, có khả năng và điều kiện thực tế để thực hiện việc kiểm tra, giám sát, phê bình các cán bộ và cơ quan nhà nước, bãi miễn những đại biểu do mình bầu ra nhưng không còn xứng đáng nữa. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đó là phương châm mở rộng dân chủ tạo điều kiện cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc quản lý nhà nước của mình. Nhà nước phải thi hành các biện pháp kiên quyết để xóa bỏ tệ quan liêu, cửa quyền, nghiêm trị những phần tử phạm pháp, thực hiện dân chủ hóa và bảo đảm công bằng xã hội.
(iii) Nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn giữ vai trò tích cực và sáng tạo, là công cụ để xây dựng một xã hội nhân đạo, công bằng và bình đẳng:Khác với các giai cấp trước kia, giai cấp vô sản sau khi trở thành giai cấp thống trị, nắm trong tay quyền lực nhà nước, không có mục đích dùng nhà nước đề duy trì mãi địa vị thống trị của mình, mà là để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xóa bỏ mọi sự áp bức bóc lột và mọi sự thống trị giai cấp. Vì vậy, trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực giai cấp vô sản thực hiện sự liên minh với mọi lực lượng lao động của xã hội để thiết lập những nguyên tắc và cơ chế vận hành quyền lực nhà nước dựa trên cơ sở quyền lực nhân dân, không ngừng mở rộng dân chủ và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
Xuất phát từ mục đích và cách tổ chức quyền lực như vậy, quá trình tồn tại và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ luôn phù hợp với các quy luật vận động khách quan của xã hội, và vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ luôn giữ vai trò chủ động sáng tạo, là công cụ để thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa càng phát triển cao thì tính chất xã hội của nó càng mở rộng. Đến một giai đoạn nhất định của lịch sử, khi những điều kiện xã hội đã thay đổi, cơ sở tồn tại của nhà nước không còn nữa thì nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ “tự tiêu vong”, nhường chỗ cho sự phát triển của một tổ chức tự quản mạnh mẽ, dựa hoàn toàn trên cơ sở của quyền lực nhân dân rộng rãi và hòa nhập với xã hội.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những mô hình đã được tìm tòi, sáng tạo dựa trên cơ sở của lý luận khoa học nói trên. Nhưng đồng thời, bên cạnh những “cái chung”, bản chất nhà nước Việt Nam còn thể hiện những nét riêng cần được làm sáng tỏ. V.I.Lênin đã từng viết: “Tất cả các dân tộc sẽ đi đen chủ nghĩa xã hội nhưng tất cả các dân tộc sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội một cách không hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của nền chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này, nhịp độ khác của việc cải tạo XHCN đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”.
Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định trong Hiến pháp năm 2013:”1- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2- Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2).
Như vậy, tính nhân dân và quyền lực nhân dân là cái cơ bản, xuyên suất, thể hiện bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bản chất đó được biểu hiện cụ thể ở những đặc trưng cơ bản sau:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước dân chủ thực sự và rộng rãi
Mặc dù nước ta bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, đến nay vẫn là một nước nghèo và kém phát triển, nhưng một chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được thiết lập và đang từng bước hoàn thiện dần. Với quan điểm phát triển. Hiến pháp năm 2013 đã chỉ rõ ” Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3). Quan điểm đó là kết quả của một quá trình tìm tòi, kiểm nghiệm, sáng tạo được rút ra để định hướng cho sự phát triển của toàn bộ hệ thống chính trị nước ta nói chung và của Nhà nước ta nói riêng.
Trở lại lịch sử hình thành và phát triển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể nhận thấy rõ quá trình hình thành và phát triển của một chế độ dân chủ mới. Nước ta là một nhà nước dân chủ đầu tiên ra đời ở Đông nam châu A. Những thiết chế nhà nước đầu tiên ra đời đã dựa trên cơ sở của dân chủ: Các hình thức Quốc dân đại hội để bầu ra chính phủ lâm ‘thời; tổng tuyển cử để bầu Chủ tịch nước và đại biểu Quốc hội những năm đầu tiên sau khi cách mạng tháng Tám thành công; sự ghi nhận chính thức trong Hiến pháp 1946, 1959, 1980, và 1992 về xác định quyền lực tối cao thuộc về nhân dân … đã khẳng đính rõ mục tiêu và những bước phát triển của chế độ dân chủ của nước ta.
Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng cộng sản Việt Nam, một lần nữa lại khẳng định: “Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và cũng là bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta” .
Bản chất dân chủ của Nhà nước ta thể hiện một cách toàn diện, trên các lĩnh vực kình tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và xã hội.
Trong lĩnh vực kinh tế, nhà nước thực hiện chủ trương tự do, bình đẳng về kinh tế, tạo ra những điều kiện làm cho nền kinh tế đất nước có tính năng động, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh cho phép mọi đơn vị kinh tế đều có thể hoạt động theo cơ chế tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau và đều bình đẳng trước pháp luật. Để thực hiện chủ trương dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế, nhà nước ta đã chú trọng giải quyết vấn đề căn bản mang tính nguyên tắc là bảo đảm lợi ích kinh tế của người lao động, coi đó là động lực, đồng thời là mục tiêu của dân chủ hóa. Tuy nhiên lợi ích vật chất (kinh tế) luôn phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với các lợi ích chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội. Đồng thời, lợi ích cá nhân phải hài hòa với lợi ích của tập thể và xã hội.
Trong lĩnh vực chính trị, nhà nước ta đã tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc, trong đó quy định tất cả những quyền tự do, dân chủ trong sinh hoạt chính trị, bảo đảm cho người dân được làm chủ về mặt chính trị.
Hiến pháp của Việt Nam ghi nhận toàn bộ các quyền chính trì, xã hội và quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, mít tinh, lao động, học hành, nghỉ ngơi, tự do tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm thân thể, nhà ở, tự do đi lại và bảo đảm cho tất cả công dân được hưởng các quyền đó. Điều đó phù hợp với bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, coi mục đích và động lực chính của sự phát triển dân chủ là vì con người, do con người. Chủ trương của nhà nước được thể hiện trong pháp luật là tạo khả năng rộng rãi để nhân dân tự do bày tỏ nguyện vọng của mình về những vấn đề quan tâm và bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Nhà nước kiên quyết ngăn chặn và xử lý nghiêm những người có hành vi dân chủ cực đoàn, lạm dụng chức quyền tham nhũng, cửa quyền, vi phạm quyền dân chủ và tự do của nhân dân.
Nhà nước Việt Nam là nhà nước gần dân và thân dân. Nhà nước luôn coi trọng việc lắng nghe ý kiến của nhân dân, chú trọng việc xem xét, giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân, tổ chức để nhân dân tham gia góp ý kiến xây dựng đất nước. Trong quá trình thực hiện dân chủ hóa chính trị, Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng quyền hoạt động và các quan điểm chính trị của cá nhân, nếu những quan điểm đó phù hợp với hiến pháp và pháp luật, không đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Nhà nước kiên quyết ngăn chặn và xử lý mọi biểu hiện dân chủ cực đoan, gây rối làm mất ổn định tình hình chính trị, xâm hại đến lợi ích quốc gia và các quyền chính trị của nhân dân.
Để bảo đảm thực hiện quá trình dân chủ hóa và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhà nước luôn đặt ra cho mình nhiệm vụ phải tôn trọng sự kiểm tra, giám sát của nhân dân, đẩy mạnh và không ngừng đấu tranh chống tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng trong bộ máy nhà nước, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật và không có ngoại lệ đối với bất cứ ai có hành vi vi phạm.
Trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa và xã hội, nhà nước thực hiện chủ trương tự do tư tưởng và giải phóng tinh thần, phát huy mọi khả năng của con người; quy định một cách toàn diện các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, học hành, lao động, nghỉ ngơi, tự do tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm thân thể, nhà ở, thư tín … và bảo đảm cho mọi người được hưởng các quyền đó.
Tuy nhiên, dân chủ hóa trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa và xã hội luôn phải đặt trên cơ sở và trong mối quan hệ mật thiết với quá trình dân chủ trong lĩnh vực chính trí và kinh tế. Hệ tư tưởng quán xuyến trong toàn bộ quá trình này là chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ quan điểm đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam đề ra. Nguyên tắc cơ bản để thực hiện dân chủ, phát huy quyền lực nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân là bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị.
Nhà nước thông nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.Nhìn lại toàn bộ quá trình từ sau Cách mạng tháng Tám (1945) đến nay, đặc điểm này luôn quán xuyến và ngày càng thể hiện một cách đậm nét hơn, cao hơn, cụ thể hơn. Với bản chất bao trùm là nhà nước của dân, do dân và vì dân thì đương nhiên trong đó đã hàm chứa tính bình đẳng giữa các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Vấn đề quan trọng là cơ sở pháp lý, hình thức tổ chức thực hiện và kết quả của việc triển khai thực hiện trên thực tế.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tất cả các thời kỳ phát triển của mình đều coi “đại đoàn kết dân tộc” là một nguyên tắc cơ bản để thiết lập chế độ dân chủ, phát huy quyền lực nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, đồng thời là cơ sở để tạo ra sức mạnh của một nhà nước thống nhất.
Chính sách đại đoàn kết dân tộc thể hiện dưới bốn hình thức cơ bản của Nhà nước Việt Nam.
Một là, xây dựng một cơ sở pháp lý vững vàng cho việc thiết lập và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tạo điều kiện cho mỗi dân tộc đều có thể tham gia một cách tích cực nhất vào việc thiết lập, củng cố và phát huy sức mạnh và quyền lực nhà nước. Điều này được thể hiện rõ trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và các văn bản pháp luật quan trọng khác.
Hai là, tổ chức thực hiện một cách mạnh mẽ, nhất quán trong các hoạt động cụ thể của nhà nước nói riêng và của toàn bộ hệ thống chính trị của nước ta nói chung. Tất cả các tổ chức Đảng, Công đoàn, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc, Công đoàn, Đoàn thanh niên … đều coi việc thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc, xây dựng nhà nước Việt Nam thống nhất là mục tiêu chung, là nguyên tắc hoạt động của tổ chức mình.
Ba là, trong khi tổ chức thực hiện, nhà nước luôn chú trọng việc ưu tiên đối với các dân tộc ít người, các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện để các dân tộc tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, cùng tồn tại và phát triển trên cơ sở hòa hợp, đoàn kết, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Bốn là, chú ý tới điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi dân tộc, mỗi địa phương, tôn trọng các giá trị văn hóa tinh thần, truyền thống của mỗi dân tộc, xây dựng bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam với đầy đủ tính phong phú mà vẫn bảo đảm sự nhất quán và thống nhất.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện tính xã hội rộng rãi:Không giống với các nhà nước khác, nhà nước ta một mặt vẫn thể hiện rõ tính chất giai cấp của mình, là nhà nước mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng mặt khác nó lại thể hiện tính chất xã hội rất rộng rãi.
Với mục tiêu xây dựng một xã hội văn minh, nhân đạo, bảo đảm công hằng xã hội, Nhà nước Việt Nam đã quan tâm một cách đặc biệt và toàn diện tới việc giải quyết các vấn đề của toàn xã hội như: Xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, đầu tư cho việc phòng chống thiên tai, giải quyết các vấn đề bức xúc như chăm sóc sức khỏe nhân dân, giải quyết việc làm, chống thất nghiệp, giúp đỡ người già cô đơn, trẻ mồ côi, chống tệ nạn xã hội…
Nhà nước không những chỉ đặt ra cơ sở pháp lý mà còn thực hiện việc đầu tư thỏa đáng cho việc giải quyết các vấn đề xã hội. Đồng thời coi việc giải quyết các vấn đề này là nhiệm vụ của mọi cấp, mọi ngành và của Nhà nước nói chung.
Những đặc điểm có tính bản chất nêu trên của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các điều kiện hiện tại đã được thể hiện cụ thể trong các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước và được pháp luật quy đính một cách chặt chẽ, đồng thời được phản ánh trong tổ chức và hoạt động thực tiễn của Nhà nước ta. Đương nhiên, để có thể đáp ứng đầy đủ các nhu cầu, đòi hỏi để bảo đảm giữ vững và phát huy bản chất của “nhà nước của dân, do dân và vì dân”, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn cần phải tiếp tục đổi mới nhiều mặt, cải tổ sâu sắc từ cơ cấu tổ chức đến hình thức và phương pháp hoạt động phù hợp với các quy định của luật pháp để từng bước xây dựng và phát triển thành nhà nước pháp quyền Vìệt Nam.
Có thể nêu khái quát những đặc điểm cơ bản nhất của Nhà nước pháp quyền Việt Nam như sau(i) Nhà nước có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trong đó các đạo luật giữ vai trò quan trọng; mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, người có chức vụ và công dân đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật.
(ii) Nhà nước trong đó không chỉ có công dân có trách nhiệm đối với nhà nước, mà nhà nước cũng phải có trách nhiệm đầy đủ đối với công dân; khái niệm trách nhiệm ở đây được dùng theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, nghĩa là quan hệ giữa công dân và nhà nước là quan hệ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
(iii) Nhà nước trong đó các quyền dân chủ tự do và lợi ích chính đáng của con người được pháp luật bảo đảm và bảo vệ toàn vẹn; mọi hành vi lộng quyền của bất kỳ cơ quan nhà nước và người có chức vụ nào, cũng như mọi hành vi phạm pháp khác xâm phạm quyền tự do, lợi ích chính đáng của công dân đều bị nghiêm trị.
(iv) Nhà nước trong đó ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được phân định rõ ràng và hợp lý cho các hệ thống cơ quan tương ứng trong mối quan hệ cân bằng, phối hợp và chế ước lẫn nhau tạo thành cơ chế đồng bộ bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân.
(v) Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam là xây dựng một nhà nước với lý tưởng dân chủ, nhân đạo và công bằng nhất, là nhà nước mà nhân dân nói chung cũng như mỗi công dân nói riêng không chỉ là khách thể của quyền lực, mà còn là chủ thể tối cao của quyền lực đó. Ở Nhà nước pháp quyền Việt Nam quy định “mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân” trở thành hiện thực sinh động của đời sống chính trị xã hội, pháp luật thực sự bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân và phục vụ cho dân; là chế độ nhà nước mà công dân là trung tâm, nhà nước được tổ chức văn minh, trật tự, có cơ chế an toàn và hiệu quả, ngăn chặn mọi sự lạm quyền, vi phạm quyền công dân, mọi mặt tổ chức và hoạt động của nhà nước đều đặt trên cơ sở pháp luật, chịu sự chi phối thống nhất của pháp luật, là một cơ thể phức tạp nhưng vận động một cách hài hòa, đồng bộ bảo đảm sự thống nhất cao độ trong tổ chức quản lý xã hội.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, Quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
Bản Chất Của Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa (Xhcn) Việt Nam
87921
1. Bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩaVề bản chất, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của đại đa số nhân dân lao động trong xã hội mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua các đặc trưng sau:
– Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là bộ máy chính trị – hành chính, một bộ máy cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế – xã hội của nhân dân lao động, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ còn là “nửa nhà nước “.
– Dân chủ là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nhà nước xã hội chủ nghĩa với bản chất là nhà nước của đông đảo nhân dân lao động trong xã hội, nhà nước mở rộng dân chủ trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, bao gồm các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, tự do dân chủ và tự do cá nhân… Thông qua các quy định của pháp luật, nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng ghi nhận nhiều hơn các quyền con người thành quyền công dân, đồng thời xây dựng một cơ chế hữu hiệu để nhân dân thực hiện các quyền dân chủ.
– Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước: Nhân dân với tính cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau như:
+ Nhân dân thông qua bầu cử dân chủ lập ra hệ thống cơ quan đại diện;
+ Nhân dân thông qua các tổ chức xã hội tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước ;
+ Nhân dân trực tiếp làm việc, phục vụ trong các cơ quan nhà nước;
Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngoài những đặc điểm thể hiện bản chất chung giống bất kỳ nhà nước xã hội chủ nghĩa thì còn có những đặc điểm riêng thể hiện nét riêng có của mình, cụ thể: Nhà nước ta là nhà nước của tất cả các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam; Nhà nước ta được tổ chức và hoạt động trên cơ sở mối quan hệ bình đẳng và trách nhiệm lẫn nhau giữa nhà nước và công dân; Nhà nước mang tính nhân đạo sâu sắc, tất cả vì giá trị con người; Nhà nước ta mở rộng chính sách đối ngoại, hướng tới việc góp phần xây dựng một thế giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau.Những đặc điểm của Nhà nước ta được thể hiện nhất quán trong các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trong tổ chức và hoạt động của nhà nước và được pháp luật quy định một cách chặt chẽ, thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Điều 2 Hiếu pháp 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Bản chất của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam theo Hiến pháp 2013 là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Cụ thể:
– Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước;
– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân;
– Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ và pháp quyền.
Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay thể hiện cụ thể bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bao gồm các đặc trưng sau:
a) Tính giai cấp công nhân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamTính giai cấp công nhân của Nhà nước ta được quy định bởi tính tiên phong và sự lãnh đạo của giai cấp này. Tính tiên phong của giai cấp công nhân được thể hiện trong quá trình đấu tranh cách mạng, ở sự trung thành với lý tưởng cách mạng, ở khả năng nhận thức và tư tưởng đổi mới, phát triển.
Bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện bản chất của giai cấp công nhân, là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân lao động và của toàn xã hội.
b) Tính dân tộc của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamNhà nước ta là nhà nước của tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đoàn kết dân tộc. Các dân tộc anh em đều bình đẳng trước pháp luật. Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng, được Nhà nước tạo điều kiện, hỗ trợ về mọi mặt để phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội. Các chính sách xã hội thể hiện tính dân chủ, nhân đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa đang được triển khai thực hiện ở vùng đồng bào các dân tộc. Ngày nay, tính dân tộc đó được phát huy nhờ kết hợp với tính giai cấp, tính nhân dân và tính thời đại.
c) Tính nhân dân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamNhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân: Nhân dân thiết lập nên Nhà nước bằng quyền bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, sử dụng quyền lực nhà nước chủ yếu thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức giám sát, khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện các quyết định, hành vi của các cơ quan nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền làm thiệt hại đến quyền lợi của họ; tham gia góp ý vào các dự án chính sách, pháp luật.
Tính nhân dân không phủ nhận các biện pháp cương quyết, mạnh mẽ của Nhà nước nhằm chống lại các hành vi gây mất ổn định chính trị, vi phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Vì vậy, cùng với việc đổi mới, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước, Nhà nước cần tăng cường bộ máy cưỡng chế để đảm bảo an ninh, an toàn cho xã hội và cho từng cá nhân con người.
d) Tính thời đại của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamNhà nước ta là một Nhà nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện thiết chế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nhà nước ta hiện nay đang thực hiện chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội. Nhà nước ta thừa nhận nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là phương tiện để đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh “. Bên cạnh việc chăm lo phát triển kinh tế, Nhà nước Việt Nam còn quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, chú trọng phát triển giáo dục, y tế, văn hóa…
Tính thời đại của Nhà nước ta còn được thể hiện sinh động trong chính sách đối ngoại với phương châm: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, hợp tác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào nội bộ của nhau.
Bản Chất Của Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, đó là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa trước đây nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước kiểu mới về bản chất, khác hẳn với các kiểu nhà nước từng có trong lịch sử. Bản chất bao trùm chi phối mọi lĩnh vực tổ chức và hoạt động của đời sống nhà nước là tính nhân dân của nhà nước.
Điều 2 Hiếu pháp năm 2013 khẳng định: ” Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp “.
Nếu như bạn đang gặp khó khăn khi làm tiểu luận đề tàu về quản lý nhà nước, hãy tham khảo Dịch vụ viết thuê tiểu luận của Luận Văn Việt. Với 15 kinh nghiệm trong lĩnh vực, chúng tôi cam kết sẽ giúp bạn hoàn thành bài luận của mình nhanh chóng và đạt kết quả cao.
2. Bản chất của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nướcĐây là bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã tiến hành đấu tranh cách mạng, trải qua bao hy sinh gian khổ làm nên cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhân dân tự mình lập nên nhà nước. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay là sự tiếp nối sự nghiệp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, là nhà nước do Nhân dân mà nòng cốt là liên minh công – nông – trí thức, tự mình định đoạt quyền lực nhà nước.
Nhân dân với tính cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước với nhiều hình thức khác nhau. Hình thức cơ bản nhất là Nhân dân thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”.
Tính dân tộc của Nhà nước Việt Nam là vấn đề có truyền thống lâu dài, là nguồn gốc sức mạnh của nhà nước. Ngày nay, tính dân tộc ấy lại được tăng cường và nâng cao nhờ khả năng kết hợp giữa tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và tính thời đại. Điều 5 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: ” Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dânTrước đây, trong các kiểu nhà nước cũ, quan hệ giữa nhà nước và công dân là mối quan hệ lệ thuộc, người dân bị lệ thuộc vào nhà nước, các quyền tự do dân chủ bị hạn chế.
Ngày nay, khi quyền lực thuộc về nhân dân thì quan hệ giữa nhà nước và công dân đã thay đổi, công dân có quyền tự do dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời làm tròn nghĩa vụ trước nhà nước. Pháp luật bảo đảm thực hiện trách nhiệm hai chiều giữa nhà nước và công dân; quyền của công dân là nghĩa vụ, trách nhiệm của nhà nước, nghĩa vụ của công dân là quyền của nhà nước.
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước dân chủ và pháp quyềnDân chủ hóa đời sống nhà nước và xã hội không chỉ là nhu cầu bức thiết của thời đại mà còn là một đòi hỏi có tính nguyên tắc, nảy sinh từ bản chất dân chủ của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là thu hút người lao động tham gia một cách bình đẳng và ngày càng rộng rãi vào quản lý công việc của nhà nước và của xã hội. Vì vậy, quá trình xây dựng nhà nước phải là quá trình dân chủ hóa tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời phải cụ thể hóa tư tưởng dân chủ thành các quyền của công dân, quyền dân sự, chính trị cũng như quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Phát huy được quyền dân chủ của nhân dân ngày càng rộng rãi là nguồn sức mạnh vô hạn của nhà nước.
Những đặc điểm mang tính bản chất nêu trên của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện cụ thể trong các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và pháp luật chế định một cách chặt chẽ. Tóm lại, Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, quán triệt tư tưởng, quan điểm của giai cấp công nhân từ pháp luật, cơ chế, chính sách đến tổ chức hoạt động của mình. Đồng thời, Nhà nước ta cũng mang tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc. Đó là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Bài viết trên Luận Văn Việt đã tổng hợp những kiến thức cơ bản về bản chất của nhà nước nói chung và bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng. Nếu còn bất kỳ thắc mắc gì vui lòng liên hệ 0915 686 999 để được tư vấn và hỗ trợ trực tiếp.
Bản Chất, Chức Năng Và Hình Thức Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa (Xhcn)
37833
là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Là tổ chức mà thông qua đó, đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội; là một tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội; đó là một nhà nước kiểu mới, thay thế nhà nước tư sản nhờ kết quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; là hình thức chuyên chính vô sản được thực hiện trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩaNhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có hai bản chất là tính giai cấp và tính xã hội: * Tính giai cấp– Sản phẩm của cuộc cách mạng do giai cấp công nhân và nông dân tiến hành– Luôn đặt dưới sự lãnh đạo của đượcS, đội tiên phong giai cấp công nhân và nông dân.– Là công cụ bảo vệ lợi ích kinh tế, chính trị, tư tưởng của giai cấp công nhân.+ Kinh tế: từng bước xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân, xây dựng và bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân, bảo vệ địa vị của người lao động+ Chính trị: nhà nước là công cụ của nhân dân lao động trấn áp sự phản kháng của gc thống trị cũ đã bị lật đổ và các thế lực thù địch, phản động, phản cách mạng. Trấn áp của đại đa số đối với thiểu số nhỏ có hành vi chống đối+ Tư tưởng: truyền bá rộng rãi và bảo vệ vững chắc những tư tưởng CM, KH của chủ nghĩa Mác – Lênin.– Là tổ chức của quyền lực chung của xã hội, có sứ mệnh Tổ chức và quản lý các mặt của đời sống, nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.– Không chỉ quản lý, nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện họat động kinh tế – xã hội và quan tâm đến vấn đề con người.
2. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa Khái niệm chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩaBản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa quyết định các chức năng cơ bản của mình. Trong đời sống xã hội có nhà nước, căn cứ trên tình hình thực tế của từng giai đoạn cụ thể đã quy định các phương hướng hoạt động của nhà nước trong từng giai đoạn đó, các phương hướng hoạt động cơ bản của nhà nước trong khoa học pháp lý được gọi là chức năng của nhà nước .
Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những phương hướng hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước trong các giai đoạn phát triển cụ thể. Về bản chất, việc thực hiện các chức năng nhà nước bao giờ cũng là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống xã hội. Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa việc thực hiện chức năng nhà nước luôn gắn chặt với việc thực hiện quyền lực nhân dân.
Là một bộ phận hợp thành của đời sống xã hội có nhà nước, cũng như bất kỳ một hiện tượng xã hội nào chức năng của nhà nước không đứng im mà nó luôn có sự vận động và phát triển. Trong đời sống, căn cứ vào nhiệm vụ, mục tiêu của nhà nước ở từng giai đoạn cụ thể mà tương ứng với nó nhà nước có những chức năng khác nhau, ngay cả một chức năng cũng có sự thay đổi về nội dung để phù hợp với đời sống xã hội.
Mặc dù chức năng của nhà nước là những hoạt động riêng, nhưng giữa các chức năng có sự tác động qua lại, tương hỗ lẫn nhau cùng hướng tới việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của nhà nước, vì thế chức năng của nhà nước hợp thành một hệ thống thống nhất có ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, thể hiện sự nhất quán và đồng bộ. Để thực hiện hệ thống chức năng này một bộ máy nhà nước với những cơ quan tương ứng đã được thiết lập.
a) Các chức năng đối nội của nhà nước xã hội chủ nghĩaCũng như bất kỳ kiểu nhà nước nào trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa trong hoạt động đối nội của mình đều phải tiến hành những hoạt động nhằm bảo đảm vị trí thống trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là giai cấp đang lãnh đạo xã hội; bảo vệ cơ sở kinh tế nền tảng cho sự tồn tại của nhà nước; bảo vệ vai trò thống trị về tư tưởng của nhân dân lao động trong xã hội. Tuy nhiên ngoài những chức năng nói trên khi xem xét các chức năng đối nội của nhà nước xã hội chủ nghĩa thấy nổi bật lên hai chức năng sau:
* Chức năng kinh tếChức năng kinh tế là chức năng cơ bản, đặc thù của nhà nước xã hội chủ nghĩa, chức năng này xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa không chỉ là một bộ máy hành chính – cưỡng chế mà còn là một tổ chức quản lý kinh tế – xã hội của nhân dân.
Trong từng giai đoạn phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa chức năng kinh tế có những biểu hiện cụ thể tuỳ thuộc vào nhiệm vụ, mục tiêu của nhà nước ở trong giai đoạn phát triển cụ thể. Trước đây, trong nền kinh tế tập trung, để thực hiện chức năng kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa tự biến mình thành một tổ chức siêu kinh tế, không chỉ dừng lại ở hoạt động quản lý, nhà nước còn tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất và phân phối sản phẩm. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường, đa thành phần kinh tế, định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa hướng tới các nhiệm vụ sau:
– Tạo lập, bảo đảm môi trường lành mạnh để giải phóng các tiềm năng phát triển kinh tế , xây dựng và bảo đảm các điều kiện chính trị, pháp luật , xã hội, tổ chức ổn định cho sự phát triển của tất cả các thành phần kinh tế.
– Củng cố, phát triển các hình thức sở hữu trên cơ sở bảo đảm vai trò chủ đạo của hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
– Tạo các tiền đề cần thiết cho sự hội nhập của các thành phần kinh tế trong nước vào thị trường kinh tế quốc tế.
Để thực hiện được các nhiệm vụ trên, chức năng kinh tế của nhà nước hướng tới các nội dung sau:
– Xây dựng chiến lược, chương trình, chính sách phát triển kinh tế định hướng cho nền kinh tế quốc dân phát triển trong nền kinh tế thị trường.
– Phát huy những mặt tích cực, ngăn ngừa và hạn chế những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
– Điều tiết những lợi ích giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, bảo đảm công bằng xã hội.
-Phương pháp quản lý kinh tế chủ yếu là các biện pháp kinh tế và pháp luật. Trong đó pháp luật phải trở thành chuẩn mực cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm cơ sở cho các tổ chức kinh tế và các cơ quan quản lý kinh tế của nhà nước hoạt động.
* Chức năng xã hộiNội dung cơ bản của chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể khía quát ở các hướng chính sau:
– Nhà nước coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
– Nhà nước xác định khoa học – công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế
– xã hội của đất nước.
– Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách bảo tồn văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá của nhân loại.
– Nhà nước xây dựng, thực hiện chính sách chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
– Nhà nước xây dựng chính sách thu nhập hợp lý, điều tiết mức thu nhập giữa những người có thu nhập cao sang những người có thu nhập thấp qua các chính sách về thuế.
– Nhà nước xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với những người có công, người về hưu, người già yếu cô đơn…
– Nhà nước chủ động tìm các biện pháp để giải quyết các tệ nạn xã hội như ma tuý, mãi dâm…
* Chức năng giữ vững an ninh – chính trị, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân.Đây là một trong những chức năng quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong tất cả các giai đoạn phát triển.
Nội dung của chức năng này thể hiện ở những mặt cơ bản sau:
– Nhà nước phải tăng cường sức mạnh về mọi mặt, sử dụng các hình thức và phương pháp để giữ vững sự ổn định chính trị, kiên quyết chống lại những ý đồ, hành vi nhằm gây mất ổn định an ninh – chính trị của đất nước.
– Bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thiết lập trật tự pháp luật. Để thực hiện điều này đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải tích cực chủ động trong hoạt động của mình, nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật, kết hợp sức mạnh của nhà nước với sức mạnh của xã hội để ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt là tội phạm.
b) Các chức năng đối ngoại của nhà nước xã hội chủ nghĩa * Chức năng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩaĐây là một trong những chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững độc lập, chủ quyền của quốc gia, bảo đảm sự ổn định cho quốc gia. Để thực hiện chức năng này các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều tập trung xây dựng một quân đội chính quy hiện đại có đủ khả năng đối phó với các mưu đồ can thiệp bằng vũ trang từ bên ngoài vào các nhà nước.
* Chức năng củng cố, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.Mục đích của chức năng này nhằm mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời góp phần vào việc thiết lập một thế giới dân chủ và tiến bộ.
3. Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa 4. Hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa Khái niệm hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩaHình thức nhà nước là một trong những vấn đề cơ bản của lý luận chung về nhà nước và pháp luật, có ý nghĩa lớn về lý luận và thực tiễn. Trong mối quan hệ giữa bản chất và hình thức nhà nước thì bản chất là yếu tố có ý nghĩa quyết định, nhưng hình thức nhà nước có tác động tích cực lên quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Một vấn đề có tính quan trọng là sau khi dành được chính quyền việc cấp thiết là phải định ra mô hình tổ chức nhà nước, phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước.
Ở bình diện chung nhất, khái niệm “hình thức nhà nước” gồm 3 yếu tố cấu thành: hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.
Các nhà nước xã hội chủ nghĩa do có cùng bản chất dân chủ nên về cơ bản đều có những đặc điểm giống nhau về hình thức nhà nước, cụ thể:
– Về hình thức chính thể: Tất cả các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều được tổ chức theo hình thức cộng hoà dân chủ, dù tên gọi ở mỗi nước có khác nhau.
– Về hình thức cấu trúc nhà nước: Các nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể được cấu trúc dưới hình thức nhà nước liên bang, cũng có thể dưới hình thức cấu trúc nhà nước đơn nhất.
– Về chế độ chính trị: Trong tất cả các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều có chế độ chính trị dân chủ, với việc mở rộng dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội tới đông đảo tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội.
a) Hình thức chính thể của nhà nước xã hội chủ nghĩa * Công xã Pari:Công xã Pari là hình thức nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên, ra đời trong cuộc khởi nghĩa vũ trang ngày 18/3/1871 của công nhân thủ đô Pari đã chiến thắng quân đội chính phủ Thiers. Công xã Pari có những đặc trưng sau:
– Công xã xoá bỏ chế độ đại nghị tư sản, thiết lập hệ thống cơ quan đại diện mới. Hội đồng công xã là cơ quan quyền lực cao nhất, các uỷ viên trong hội đồng được bầu theo nguyên tắc phổ thông và phần lớn xuất thân từ thành phần công nhân. Các uỷ viên có thể bị bãi miễn nếu họ không hoàn thành nhiệm vụ hoặc không còn uy tín.
– Công xã Pari thực hiện việc đập tan bộ máy nhà nước cũ của giai cấp tư sản, xây dựng bộ máy nhà nước mới của giai cấp công nhân. Sắc lệng đầu tiên được ban hành là sắc lệnh về xoá bỏ quân đội thường trực thay thế bằng chế độ toàn dân vũ trang. Công xã cũng thực hiện việc giải tán lực lượng cảnh sát cũ, thành lập lực lượng an ninh mới, giải tán các toà án và viện công tố , thành lập toà án và viện công tố mới, thành lập toà án đặc biệt… Đến ngày 19/4/1871 Công xã đã thiết lập được Chính phủ của giai cấp công nhân.
– Công xã đã xoá bỏ những nguyên tắc tổ chức cuẩ bộ máy nhà nước tư sản, xác lập các nguyên tắc mới về tổ chức bộ máy nhà nước mới của giai cấp vô sản.
– Công xã Pari thiết lập một chế độ dân chủ mới với nhiều biện pháp nhằm thu hút, tạo điều kiện cho nhân dân lao động tham gia quản lý công xã và xã hội đồng thời bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân
Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa gồm: Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.
– Công xã Pari đã thi hành các biện pháp cưỡng chế đối với các phần tử phản cách mạng.
Những đặc điểm trên cho thấy Công xã Pari đã là một hình thức nhà nước chuyên chính vô sản, mặc dù nó còn sơ khai và thời gian tồn tại không lâu, như V.I LêNin đã nói, nó thực chất là “một hình mẫu phác thảo” cho việc tổ chức và xây dựng chính quyền của giai cấp vô sản và thực chất nó là chính phủ của giai cấp công nhân, là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp của những người lao động chống lại giai cấp những người chiếm hữu.
* Cộng hoà Xô ViếtXuất hiện lần đầu trong cuộc tổng bãi công của công nhân thành phố Pêtrôgrát năm 1905 với tư cách là Hội đồng đại biểu công nhân. Đến cuộc cách mạng tháng 2 – 1917, Xô viết hiện diện bên cạnh Chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản với tư cách là tổ chức quyền lực của giai cấp công nhân và binh lính Nga. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tình hình nước Nga,V.I. Lênin khẳng định hình thức Xô Viết là hình thức thích hợp nhất cho điều kiện nước Nga lúc bấy giờ. Chính vì vậy, sau khi tiến hành thành công Cách mạng Tháng 10, hình thức Xô viết đã trở thành hình thức chính thể được áp dụng ở nước Nga và sau là Liên bang xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Hình thức Cộng hoà Xô Viết có những đặc trưng sau:
– Cộng hoà Xô Viết là tổ chức quyền lực của quần chúng, thể hiện ý chí và nguyện vọng của quần chúng. Ở xô Viết có sự kết hợp giữa sự quản lý nhà nước và sự tự quản của nhân dân (Xô Viết đại diện cho cả giai cấp công nhân, nông dân và binh lính Nga).
– Các Xô Viết tạo thành một hệ thống cơ quan được tổ chức và hoạt động dựa trên nguyên tắc tập trung – dân chủ, biểu hiện: Các cơ quan quyền lực từ trung ương xuống đến địa phượng đề hình thành bằng con đường bầu cử; Các cơ quan này phải chịu trách nhiệm báo cáo trước dân; Các quyết định của cơ quan cấp trên có hiệu lực bắt buộc với cơ quan cấp dưới; Kết hợp sự lãnh đạo tập trung với sáng kiến và hoạt động sáng tạo ở cơ sở; Thực hiện chế độ trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước và cá nhân đối với công việc được giao.
– Cộng hoà Xô Viết tập trung trong tay Xô Viết cả quyền lập pháp và hành pháp.
– Cộng hoà Xô Viết không có sự thoả hiệp giữa các đảng trong việc tham gia chính quyền. Nhà nước được xây dựng trên cơ sở sự lãnh đạo của một đảng chính trị duy nhất – Đảng Bônsêvích.
– Chế độ dân chủ trong Nhà nước Xô Viết thể hiện tính giai cấp công khai và không khoan nhượng, thể hiện: quyền bầu cử chỉ thuộc về những người lao động, các phần tử phản động không những chỉ bị tước quyền bầu cử mà còn bị hạn chế những quyền chính trị khác như cấm hội họp, cấm tự do báo chí và ngôn luận; giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân cũng không có sự bình đẳng trong việc bầu các đại biểu của mình vào đại hội Xô Viết. Để bầu vào Xô Viết toàn Nga, các Xô Viết thành phố cứ 25 000 cử tri được bầu 1 đại biểu trong khi các Xô Viết nông thôn thì 125 000 cử tri mới được bầu 1 đại biểu.
Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết ra đời trên cơ sở Hiệp ước thành lập liên bang năm 1922. Qua các bản Hiến pháp 1924, 1936, 1977 đã từng bước hoàn thiện cách tổ chức, cơ cấu và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo Hiến pháp 1977 bộ máy nhà nước được tổ chức như sau:
– Xô Viết tối cao là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất gồm 2 viện: Viện dân tộc và Viện liên bang.
– Cơ quan thường trực của Xô Viết tối cao là Đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao – cơ quan quyền lực cao nhất giữa 2 kỳ họp Xô Viết tối cao.
– Chính phủ (Hội đồng bộ trưởng) là cơ quan chấp hành và điều hành của quyền lực nhà nước do Xô Viết tối cao bầu ra và chịu trách nhiệm trước Xô Viết tối cao.
– Toà án tối cao là cơ quan xét xử cao nhất.
Trong công cuộc cải tổ do Đại hội Đảng cộng sản Liên Xô lần thứ XXVII khởi xướng, cơ cấu nhà nước có sự thay đổi mạnh, cụ thể: Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô được thành lập và là cơ quan quyền lực tối cao; Xô Viết tối cao được Đại hội bầu ra là cơ quan hoạt động thường xuyên; chế định tổng thống được thành lập và là người đứng đầu nhà nước; Uỷ ban Hiến pháp cũng được thành lập.
Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau nên Nhà nước Xô Viết đã không dành được thắng lợi trong công cuộc cải tổ và đi đến sụp đổ vào năng 1991.
* Nhà nước dân chủ nhân dânHình thức Nhà nước dân chủ nhân dân ra đời sau Đại chiến thế giới II, hình thức này có những đặc trưng sau:
– Nhà nước dân chủ nhân dân (trừ Việt Nam và Bungari) có đặc điểm chung là sử dụng kết hợp phương pháp hoà bình và bạo lực để dành và tổ chức chính quyền, thực hiện bước chuyển tiếp từ cách mạng dân chủ nhân dân sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.
– Trong tất cả các nước đều tồn tại hình thức mặt trận đoàn kết dân tộc với sự tham gia rộng rãi của các đảng phái chính trị và tổ chức quần chúng, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản các nước. Mặt trận giữ vai trò quan trọng trong việc tham gia vào thành lập, củng cố bộ máy chính quyền.
– Nhà nước dân chủ nhân dân trong thời kỳ đầu mới thành lập có sử dụng một số chế định pháp lý cũ nhưng không trái với nguyên tắc của chế độ mới và có bổ sung thêm những nội dung mới.
– Thực hiện nguyên tắc bầu cử bình đẳng, phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín để thành lập cơ quan quyền lực nhà nước.
– Cơ sở xã hội của Nhà nước dân chủ nhân dân rộng rãi hơn nhiều so với cơ sở xã hội trong Nhà nước Xô Viết.
– Tổ chức cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất được hình thành tương tự như hình thức hình thành các cơ quan tương ứng trong chế độ cũ, tuy có sự thay đổi về bản chất và nội dung hoạt động cho thích ứng với xu hướng chính trị mới.
– Chế định nguyên thủ quốc gia có lúc, có nơi là cơ quan tập thể với tên gọi là Hội đồng nhà nước hoặc Đoàn chủ tịch cơ quan quyền lực nhà nước tối cao.
Trong những năm cuối của thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, các nhà nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu đã không kịp thời đổi mới cho thích ứng với tình hình trong nước và thế giới vì thế đã dẫn đến hậu quả là sụp đổ vào năm 1990 – 1991.
b) Hình thức cấu trúc nhà nước xã hội chủ nghĩaỞ nhà nước xã hội chủ nghĩa có hai hình thức cấu trúc nhà nước cơ bản: nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang.
* Nhà nước đơn nhấtNhà nước đơn nhất được biểu hiện qua các đặc điểm, cụ thể:
– Thể hiện sự thống nhất cao của nhà nước, các đơn vị hợp thành chỉ là những đơn vị hành chính – lãnh thổ không có dấu hiệu chủ quyền quốc gia.
– Mối quan hệ quyền lực giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương mang tính trực thuộc rõ ràng, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương.
– Nhà nước và xã hội tổ chức và hoạt động trên cơ sở 1 hiến pháp và 1 hệ thống pháp luật thống nhất, trong đó các đạo luật chỉ do cơ quan quyền lực tối cao ban hành.
Ngày nay, trong môi trường dân chủ và đổi mới, ở các nước xã hội chủ nghĩa đều có xu hướng tăng tính chủ động, sáng tạo cho chính quyền cơ sở, địa phương được mở rộng quyền hạn trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá – xã hội; trung ương tập trung giải quyết những vấn đề lớn, những vấn đề liên ngành, có tính chiến lược, hướng dần tới việc chuyển dần dịch vụ hành chính cho cá nhân, tổ chức xã hội thực hiện.
* Nhà nước liên bangDo sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, ngày nay trong các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới không có nhà nước nào có cấu trúc nhà nước liên bang. Trong quá khứ, Nhà nước liên bang xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm sau:
– Nhà nước liên bang xã hội chủ nghĩa được hình thành trên cơ sở của nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng của các quốc gia độc lập có chủ quyền. Bản thân mỗi nước cộng hoà là những cấu trúc nhà nước hoàn chỉnh, có tổ chức bộ máy riêng, có hiến pháp và hệ thống pháp luật riêng.
– Trong nhà nước liên bang tồn tại hai hình thức quyền lực nhà nước: chính quyền liên bang và chính quyền của các nước cộng hoà.
– Các đạo luật của liên bang là cơ sở pháp lý có tính nguyên tắc cho việc ban hành các đạo luật ở các nước cộng hoà.
– Nhà nước tổ hoạt động trên cơ sở nguyên tắc tập trung – dân chủ.
– Nhà nước liên bang thực hiện chính sách bình đẳng giữa các dân tộc.
– Khi còn tự nguyên đứng trong nhà nước liên bang các nước cộng hoà không phải là chủ thể độc lập của các quan hệ quốc tế, mặc dù họ vẫn có quyền tham gia vào các quan hệ quốc tế.
– Các nước cộng hoà có thể ra khỏi nhà nước liên bang để trở thành nhà nước độc lập.
c) Chế độ chính trị của nhà nước xã hội chủ nghĩaTất cả các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều có chung một đặc điểm trong chế độ chính trị là nó mang tính dân chủ cao, thể hiện và bảo vệ lợi ích của đông đảo nhân dân lao động trong xã hội. Phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước của nhà nước xã hội chủ nghĩa chủ yếu là thuyết phục, giáo dục, lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật.
Xem xét về mối quan hệ giữa hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa với bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới góc độ triết học duy vật thì đó chính là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, trong mối quan hệ này thì nội dung nào hình thức ấy và hình thức như thế nào thì phản ánh nội dung như thế ấy. Song xét cho cùng thì trong mối quan hệ này bao giờ hình thức cũng do nội dung quyết định, bản chất của nhà nước chính là nội dung vì vậy nó đóng vai trò quyết định, do đó, mặc dù có nhiều hình thức nhà nước nhưng xét đến cùng những hình thức nhà nước đều có những đặc điểm chung giống nhau.
Tuy vậy, mỗi nhà nước xã hội chủ nghĩa, phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể đều tự chọn cho mình một hình thức nhà nước phù hợp, ở mỗi hình thức đó vừa có những đặc điểm chung của nhà nước xã hội chủ nghĩa lại vừa có những đặc điểm riêng phù hợp với hoàn cảnh của nước mình. Như V. I. Lênin đã nhận định: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của nền chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”.
So Ánh Bản Chất Và Chức Năng Của Nhà Nước Xã Hội Chue Nghĩa Với Nhà Nước Tư Bản Chủ Nghĩa Câu Hỏi 243484
Nhà nước xã hội chủ nghĩavànhà nước tư sảnđều là cơ sở tồn tại của xã hội loại người tại các giai đoạnlịch sửnhất định.
Sự khác nhau giữa nhà nước XHCN và nhà nước tư sản khái niệm + Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Là tổ chức mà thông qua đó, đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội; là một tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội; đó là một nhà nước kiểu mới, thay thế nhà nước tư sản nhờ kết quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; là hình thức chuyên chính vô sản được thực hiện trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. + Nhà nước tư sản là kiểu nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển trong lòng hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhà nước tư sản thiết lập nguyên tắc chủ quyền nhà nước trên danh nghĩa thuộc về nhân dân; cơ quan lập pháp là cơ quan đại diện của các tầng lớp dân cư trong xã hội do bầu cử lập nên; thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực và kiềm chế, đối trọng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng trong bầu cử nghị viện và tổng thống; hình thức chính thể phổ biến của nhà nước tư sản là cộng hòa và quân chủ lập hiến. Cơ sở kinh tế : + Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa có đặc trưng là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, lao động là nghĩa vụ đối với mọi người, thực hiện chế độ phân phối theo số lượng và chất lượng lao động.
Lưu ý: chế độ công hữu không phải là phương tiện để xây dựng CNXH mà làmục tiêucần đạt tới của CNXH (quá trình này diễn ra phụ thuộc vào sự phát triển của llsx)
+ Cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản về tư liệu sản xuất (chủ yếu dưới dạng nhà máy, hầm mỏ, đồn điền…), được thực hiện thông qua hình thức bóc lột giá trị thặng dư.
+ Quan hệ sản xuất liên minh giữa giai cấp công nhân và nông dân và tầng lớp trí thức, có đặc trưng là: quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân.
+ Cơ sở xã hội của nhà nước tư sản là một kết cấu xã hội phức tạp trong đó có hai giai cấp cơ bản, cùng tồn tại song song có lợi ích đối kháng với nhau là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Trong hai giai cấp này giai cấp giữ vị trí thống trị là giai cấp tư sản, mặc dù chỉ chiếm thiểu số trong xã hội nhưng lại là giai cấp nắm hầu hết tư liệu sản xuất của xã hội, chiếm đoạt những nguồn tài sản lớn của xã hội. Giai cấp vô sản là bộ phận đông đảo trong xã hội, là lực lượng lao động chúnh trong xã hội. Về phương diện pháp lý họ được tự do, nhưng không có tư liệu sản xuất nên họ chỉ là người bán sức lao động cho giai cấp tư sản, là đội quân làm thuê cho giai cấp tư sản. Ngoài hai giai cấp chính nêu trên, trong xã hội tư sản còn có nhiều tầng lớp xã hội khác như: nông dân, tiểu tư sản, trí thức…
– Sản phẩm của cuộc cách mạng do giai cấp công nhân và nông dân tiến hành
– Luôn đặt dưới sự lãnh đạo của đượcS, đội tiên phong giai cấp công nhân và nông dân.
– Là công cụ bảo vệ lợi ích kinh tế, chính trị,tư tưởngcủa giai cấp công nhân.
+ Kinh tế: từng bước xóa bỏ chế độsở hữutư nhân, xây dựng và bảo vệ chế độsở hữu toàn dân, bảo vệ địa vị củangười lao động
+ Chính trị: nhà nước là công cụ của nhân dân lao động trấn áp sự phản kháng của gc thống trị cũ đã bị lật đổ và các thế lực thù địch, phản động, phản cách mạng. Trấn áp của đại đa số đối với thiểu số nhỏ có hành vi chống đối
+ Tư tưởng: truyền bá rộng rãi và bảo vệ vững chắc những tư tưởng CM, KH của chủ nghĩa Mác – Lênin.
– Là tổ chức của quyền lực chung của xã hội, có sứ mệnh Tổ chức vàquản lýcác mặt của đời sống, nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
– Không chỉ quản lý, nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện họat động kinh tế – xã hội và quan tâm đến vấn đềcon người.
Đặc điểmchung qua các thời kì:
– Giai đoạn của CNTB tự docạnh tranh: TS và với là đồng minh chống phong kiến.
+ Cạnh tranh tự do cá thể
+ Chưa có yếu tố độc quyền
– Giai đoạn của CNTB độc quyềnlũng đoạn nhà nướchay gđ chủ nghĩa đế quốc: bộ máy bạo lực đàn áp phong trào đấu tranh.
+ Hình thành tập đoàn TB lớn sở hữu tập thể.
+ Xuất hiện sở hữu TB nhà nước (Tập đoàn tư bản khống chế, không phải sở hữu toàn dân).
– Giai đoạn của CNTB hiện đại:
+ Yếu tố tư nhân hóa phát triển mạnh.
+ Người lao động có sở hữu tư liệu sản xuất.
Bộ máy nhà nước
+ * Đặc điểm:
– Mang tính nhân dân sâu sắc: tổ chức và hoạt động trên cơ sở sự ủy nhiệm của ND
– Luôn đảm bảoquyền lực nhà nướclà thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa cáccơ quan nhà nướctrong việc thực hiện quyền LP, HP, TP (có sự chuyên môn hóa cao,hạn chếlà thiếu đồng bộ).
– Các cơ quan quản lý kinh tế phát triểnhoàn thiệnđể thực hiện quản lý mọi mặt đời sống xã hội và các cơ quan cưỡng chế chuyên nghiệp ngày càng tổ chức thu hẹp lại.
– Đảm bảo sự lãnh đạo củaĐảng cộng sản.
* Các bộ phậncấu thành:
-Nguyên thủ quốc gia: doquốc hộibầu, đứng đầu và thay mặt nhà nước.
– Cơ quan quyền lực nhà nước:
+ Quốc hội: do nhân dân bầu.
+Hội đồng nhân dân: cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, nhân dân địa phương bầu.
– Cơ quanhành chínhnhà nước:
+ Chính phủ: quốc hội thành lập.
+ UBND: HĐND thành lập.
– Cơ quanxét xử: tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ.
– Cơ quankiểm sát: cóthẩm quyềnrộng.
– Cơ quan quốc phòng, an ninh: tổ chức với đặc thù riêng.
+ * Đặc điểm:
– Nhà nước tư sản có bộ máy phát triển khá phức tạp. Thông thường, sau khi lật đổ được chế độ phong kiến giai cấp tư sản ở các nước kế thừa bộ máy nhà nước cũ, hoàn thiện nó cho thích ứng với điều kiện mới. Ngay cả ở Pháp, nơi cách mạng tư sản được coi là triệt để, bộ máy nhà nước cũ vẫn được duy trì.
– Một trong nhữngnguyên tắc cơ bảncủa việc tổ chức bộ máy nhà nước tư sản là nguyên tắc phân chia quyền lực.
– Đa nguyên, đa đảng: ảnh hưởng mạnh mẽ đến tổ chức họat động.
– Nguyên tắcdân chủ.
* Các bộ phận cấu thành:
– Nghị viện: lập pháp (1 viện, 2 viện).
– Nhà vua hoặc tổng thống.
– Chính phủ: hành pháp – thủ tướng..
– Hệ thốngtòa án.
– Hệ thống quân đội -cảnh sát.
– Bộ máy hành chính.
Chứng năng + * Đối nội:
– Tổ chức và quản lý kinh tế
+ CNXH chỉ có thể cách mạng sức sống và thắng lợi của mình bằng việc đưa ra và thực hiện một kiểu tổ chức lao động cao hơn so với CNTB.
+ Nhà nước xã hộiCN thay mặt nhân dân trực tiếp quản lý tư liệu sản xuất của xã hội.
– Giữ vững an ninh chính trị, trấn áp sự phản kháng của các lực lượng chống đối: quan trọng trong gđ CM mớithành công.
– Bảo vệ trật tựpháp luật, các quyền và lợi íchhợp phápcủa cáccá nhân, tổ chức trong xã hội: đòi hỏi khách quan của xã hội.
+ Cần cóhệ thống pháp luậthoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất, kỹ thuật pháp lý cao.
+ Thường xuyên ktragiám sátviệcthực hiện pháp luật.
– Tổ chức và quản lý các mặt khác của xã hội: nếu thực hiện tốt sẽ thể hiện tính ưu việt, uy tín và vị thế nhà nước XHCN.
+ Văn hóa: xây dựng nền văn hóa mới, tiên tiến,dân tộc, đại chúng
+ Giáo dục, đào tạo: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
+ Khoa học, công nghệ
+ Y tế, môi trường
+Dân số, lao động, việc làm:
+ Giai cấp, dân tộc,tôn giáo: đảm bảo sựbình đẳng, đoàn kết,tôn trọng tự do tín ngưỡng.
– Bảo vệ Tổ quốc: coi đây lànhiệm vụchiến lược.
+ Chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; XD nền quốc phòng toàn dân;…
– Mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nhà nước khác, cáctổ chức quốc tế:
+ Củng cố và tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết, hợp tác lẫn nhau trên tinh thần quốc tế vô sản.
+ Mở rộng quan hệ quốc tế với các nước cóchế độ chính trịkhác nhau và các tổ chức quốc tế.
– Ủng hộ phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ,tiến bộtrên thế giới.
– Tham gia giải quyết các vấn đề chung của thế giới.
+ * Củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu tư sản: thực hiện bằng nhiều biện pháp
– Dùng pháp luật đề ghi nhậnquyền sở hữutài sảnlà một quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
– Dùng cácquy địnhcủaluật dân sựvà cáchình phạtcủa luật hình để bảo vệ quyền sở hữu và trừng phạt những hành vi xâm phạm.
*Chức năngtrấn áp: bảo vệ địa vị thống trị và thiết lập trật tự xã hội.
– Sử dụng bộ máy bạo lực đàn áp các cuộc đấu tranh,trấn áp hành vi xâm phạm trật tự xã hội.
– Sử dụng phương tiệnthông tinđại chúng tác động đời sống tinh thần toàn xã hội, tuyên truyền cho hệ tư tưởng tư sản, tê liệt tinh thần phản kháng.
* Chức năng kinh tế – xã hội:
– Giai đoạn đầu: chủ yếu tập trung vào các hoạt động nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản mà không quan tâm nhiều đến giải quyết các vấn đề bức bách trong xã hội.
– Bắt đầu can thiệp vào cuối giai đoạn thứ 2
+ Mục đích là để tạo ra các đk đảm bảovật chấtkĩ thuật, pháp lý và chính trị cho các họat động sản xuấtkinh doanh.
+ Điều tiết nền kinh tế theo hai hướng gần như đối lập:
Tác động sự cân đối của nền kinh tế tạo sự ổn định về kinh tế dẫn đến sự ổn định xã hội
Khuyến khích cạnh tranh để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
– Giai đoạn 3: do sự phát triển các phong trào dân chủ dân sinh, do sự phát triển của trình độ xã hội, do sự thay đổi của bầu không khí chính trị,do ảnh hưởng phát triển cách mạng trên thế giới mà nhiều NNTS đã chú ý giải quyết các vấn đề xã hội vì quốc kế dân sinh.
* Tiến hành chiến tranh xâm lược khi có điều kiện: chức năng cơ bản ở giai đoạn 1 và 2.
* Phòng thủ và bảo vệ đất nước.
* Xúc tiến và thành lập các liên minh trên thế giới: giai đoạn 3.
Hình thức nhà nước + * Hình thức chính thể: Chính thể cộng hòa
– Quốc hội được quy định làcơ quan đại biểucao nhất; cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; do dân trực tiếp bầu ra 1 cách dân chủ; chịu sự giám sát của nhân dân; thành viên Quốc hội có thể bị bãi hoặcmiễn nhiệm; không có tình trạng QH bị nước… giải tán trướcthời hạn; Quốc hội thành lập chính phủ, chủ tịch.
– Nguyên thủ quốc gia là mắt xích,cơ chếphối hợp hoạt động các cq tối cao trong nhà nước.
– Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, thực hiện chức năng hành pháp; chịutrách nhiệmtrước Quốc hội; không có tình trạng tập thể chỉnh phủ bị giải tán.
– Đảng Cộng sản là chính đảng duy nhất nắm giữ quyền lực nhà nước.
*Hình thức cấu trúc nhà nước
– Đơn nhất: đầy đủ tính chất.
* Chế độ chính trị:dân chủ xã hội chủ nghĩa, giáo dục thuyết phục là biện pháp hàng đầu.
+ * Hình thức chính thể – Chính thể quân chủ: hạn chế
+ Quân chủ nhị hợp: vua bịhạn chế quyềnlập pháp, hành pháp thì rộng rãi,quyền lập phápdo nghị viện đảm nhiệm
+ Quân chủ nghị viện (đại nghị): vua chỉ mang tính biểu tượng, không thực quyền, nghị viện thực hiện quyền lp, chính phủ thực hiệnquyền hành pháp(chính phủ bị quy định bởi nghị viện trên cơ sở Đảng chiếm đa số ghế ở nghị viện, cp có thể bị nv bất tín nhiệm).
– Chính thể cộng hòa
+Cộng hòa tổng thống: nghị viện lp, tổng thống hp, tổng thống =chính phủ.
+ Cộng hòa nghị viện: nghị viện lp, chính phủ hp,tổng thống đại diện quốc gia (t2 quân chủ đại nghị).
+Cộng hòa hỗn hợp: tổng thống + nghị viện, nghị viện lp, tổng thống và cphủ hp, cphủ phải chịu trách nhiệm trước tổng thống và nghị viện.
* Hình thức cấu trúc nhà nước:
-Nhà nước đơn nhất: hai biến dạng
+ Cơ quan nhà nước ở địa phương phục tùng tuyệt đối cơ quan nhà nước ở TW.
+ Cơ quan nhà nước ở địa phương có quyền tự trị nhất đinh: do nhân dân bầu ra, nhà nước TWkiểm soát1 cách gián tiếp.
-Nhà nước liên bang: hình thành bằng nhiều con đường như tự nguyện lien kết, mua hoặc xâm chiếm lãnh thổ của nước khác rồi nhập vào thành1 bang của mình (điển hình nhất là lminh Châu Âu: sau khi liên minh ra đời NNLM mới hình thành theo đúng nghĩa là có bộ máy nhà nước riêng, còn trước đó chỉ có liên minh các nhà nước nhằm thực hiện 1 mục tiêu về kinh tế, chính trị,quân sự….
* Chế độ chính trị:
– Xu hướng chung: xu hướng dân chủ ngày càng thể hiện rõ, nhà nước sử dụngphương phápdân chủ để thực thi quyền lực nhà nước.
– Yếu tố phản dân chủ có nguy cơ quay trở lại.
Các Chức Năng Cơ Bản Của Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa
Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp, ý nghĩa xã hội, mục đích và nhiệm vụ của nhà nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp, ý nghĩa xã hội, mục đích và nhiệm vụ của nhà nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ chủ yếu để thiết lập và tổ chức thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Bản chất, nội dung của chủ nghĩa xã hội quyết định các chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong mỗi giai đoạn cách mạng cụ thể.
Nội dung, nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa rất rộng và phức tạp, do đó những chức năng của nhà nước cũng rất phong phú và đa dạng. Chức năng nhà nước là một khái nhiệm quản lý, trong đó nội dung, mục đích của quản lý nhà nước được biểu hiện một cách cụ thể. Vì vậy có thể nói, các chức năng của nhà nước là những “con kênh” thông qua đó hoạt động quản lý của nhà nước được thực hiện. Mặc dù mỗi chức năng nhà nước đều có đối tượng tác động riêng, nhưng các chức năng đều có mối liên hệ qua lại mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không thể tách rời nhau. Tất cả các chức năng nhà nước hợp thành một hệ thống thống nhất thể hiện bản chất và những nhiệm vụ chiến lược quan trọng nhất của nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, an ninh, văn hóa … Để thực hiện các chức năng đó, một hệ thống các cơ quan nhà nước tương ứng được thành lập. Vì các chức năng nhà nước thống nhất với nhau, cho nên các cơ quan nhà nước trong khi thực hiện các chức năng đó cũng có sự quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau, tạo thành hệ thống các cơ quan nhà nước thống nhất và đồng bộ.
Ví dụ: Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã xác định hai nhiệm vụ chiến lược ở nước ta là “xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đó là những nhiệm vụ bao trùm và được cụ thể hóa thành nội dung các chức năng của nhà nước ta.
Cũng cần phân biệt chức năng của nhà nước nói chung với chức năng của các cơ quan nhà nước. Chức năng nhà nước tồn tại một cách khách quan, phản ánh bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là những mặt hoạt động rộng lớn có tính chất định hướng lâu dài. Một chức năng chung của nhà nước có thể do nhiều loại cơ quan nhà nước với các chức năng và nhiệm vụ cụ thể khác nhau thực hiện. Chức năng của các cơ quan nhà nước bao giờ cũng phụ thuộc vào chức năng của nhà nước nói chung. Việc thực hiện chức năng của các cơ quan nhà nước suy cho cùng là nhằm để thực hiện chức năng của nhà nước nói chung.
Về nguyên tắc, các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều có những chức năng giống nhau. Nhưng do mỗi nước có những đặc điểm và hoàn cảnh không hoàn toàn giống nhau cho nên trong mỗi nước các chức năng của nhà nước cũng có những đặc điểm khác nhau về mức độ, phạm vi, tầm quan trọng và phương pháp tổ chức thực hiện.
Trong quá trình phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa, phụ thuộc vào tình hình thực tiễn của cách mạng mỗi nước, các chức năng của nhà nước sẽ có những thay đổi nhất định và có thể xuất hiện những chức năng mới
Thứ nhất, Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế
Đây là chức năng cơ bản đặc thù của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong chủ nghĩa xã hội, nhà nước không những là tổ chức của quyền lực chính trị, mà còn là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu; trực tiếp tổ chức và quản lý nền kinh tế đất nước. Việc tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa là một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ, nhằm cải tạo và xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa (và quan hệ sản xuất bóc lột nói chung) được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và bóc lột người lao động, để xác lập củng cố và phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, thỏa mãn nhu cầu của người lao động.
Tổ chức và quản lý kinh tế là chức năng có tầm quan trọng đặc biệt, nhưng rất khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải có sự nhận thức đúng đắn các vấn đề có tính quy luật của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ. Đồng thời phải có những chính sách, phương pháp và biện pháp tác động phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nội dung của chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa rất rộng, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cần giải quyết, trong đó công tác kế hoạch hóa, xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế là những vấn đề then chốt.
Tổ chức và quản lý kình tế là chức năng cơ bản của bất kỳ nhà nước xã hội chủ nghĩa nào. Nhưng do đặc điểm và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước không giống nhau, vì vậy việc thực hiện chức năng tổ chức và quản lý kinh tế trong mỗi nước cũng có những đặc điểm riêng. Ở Việt Nam trong hơn năm mươi năm qua việc thực hiện chức năng này đã được quan tâm đáng kể và đã thu được nhiều kết quả. Sau ngày miền Nam giải phóng cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề tổ chức và quản lý kinh tế của nước ta đã trở thành vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và luôn luôn mang tính thời sự nóng bỏng. Kết quả thực hiện chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước tác động một cách trực tiếp tới tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Trên cơ sở phân tích tình hình cụ thể của nước ta trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, tổng kết việc tổ chức và quản lý kinh tế trong thời gian qua, Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tả là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”. Tư tưởng chỉ đạo đó thể hiện trong các chính sách và biện pháp lớn chỉ đạo nội dung của chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước ta đó là:
Phải sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định.
Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế. .Việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ cộng hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa làm cho nó thực sự mang bản chất xã hội chủ nghĩa, phù hợp với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất.
Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng bảo đảm tính kế hoạch trong quản lý kinh tế quốc dân, sử dụng đúng đắn các quan hệ hàng hóa tiền tệ; Sử đụng kết hợp nhiều phương pháp quản lý trong đó các phương pháp kinh tế là chủ yếu để tạo ra một cơ chế mới về quản lý kính tế “cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ” …
Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước …
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đại hội Đảng lần thứ VII đã thông qua “chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000” trong đó đã cụ thể hóa tư tưởng và những phương hướng nói trên, nhấn mạnh phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng: “Tiếp tục xóa bỏ cơ chế tập trung quan liên bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Thiết lập trật tự, kỷ cương theo cơ chế mới vừa là nội dung vừa là điều kiện để ổn định và phát triển kinh tế xã hội.
Việc thiết lập trật tự, kỷ cương của cơ chế đó bao gồm những vấn đề lớn là
-Phải hình thành một thị trường hoàn chỉnh bao gồm cả sức lao động, vốn và tiền tệ… thông suốt trong cả nước và với thị trường thế giới; giá cả, tỷ giá hối đoái, lãi xuất tín dụng hình thành theo cơ chế thị trường; tạo môi trường và điều kiện cho sự cạnh tranh hợp pháp và sự hợp tác, liên doanh, tự nguyện, bình đẳng giữa các đơn vị trực thuộc mọi thành phần kinh tế ở trong nước và vốn nước ngoài; cả nước chấp hành luật kinh doanh thống nhất; nâng cao khả năng tiếp thị (marketing) của các doanh nghiệp.Bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nước với chức năng quản lý vĩ mô tập trung thực hiện các vấn đề: Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như bảo đảm sự ổn định về chính trị, kinh tế xã hội, duy trì trật tự pháp luật, xây dựng cơ sở hạ tầng … Dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển; hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia.
-Đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu của nhà nước bao gồm: Đổi mới việc xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế – xã hội theo cơ chế thị trường; tăng cường kế hoạch hóa vĩ mô, chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang kế hoạch hóa định hướng; xây dựng hệ thống kế toán, thống kê và thông tin kinh tế đáp ứng nhu cầu kịp thời, chính xác, đầy đủ, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và từng bước hiện đại hóa; đổi mới căn bản hệ thống tài chính – tiền tệ.
-Thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của xí nghiệp quốc doanh, bảo đảm cho xí nghiệp thực hiện đẩy đủ các quyền; chủ động tổ chức sản xuất kinh doanh; Tự chủ về tài chính; tuyển chọn, sắp xếp lao động, trả lương và cho thôi việc theo luật lao động; giao dịch với khách hành trong và ngoài nước; lựa chọn các hình thức liên kết, liên doanh…
Đồng thời với việc đổi mới cơ chế quản lý cần thực hiện các chính sách và giải pháp về vốn, về dân số và việc làm, về thu nhập, bảo hiểm xã hội …
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện đường lối đổi mới đã khẳng định một số nhận thức mới về cơ chế quản lý mới, đồng thời chỉ rõ: “Từ nay đến năm 2000, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xóa bỏ cơ chế tập trong quan liêu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Theo đó, trong thời gian tới nhà nước ta phải
-Tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh
-Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hóa. Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ giá cả.
-Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước.
Thứ hai, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp sự phản kháng của giai cấp bóc lột đã bị lật đô và âm mưu phản cách mạng khác:
Đây là một chức năng hết sức quan trọng, nhất là trong giai đoạn đầu sau khi cách mạng thành công.Mặc dù sau cách mạng các giai cấp bóc lột đã bị lật đổ, chính quyền đã về tay của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhưng do bản chất phản động và trên thực tế giai cấp bóc lột đã bị lật đổ vẫn còn giữ được trong một thời gian nhất định một số ưu thế như điều kiện sinh hoạt giàu có, học vấn, kính nghiệm quản lý và nghệ thuật quân sự. Vì vậy chúng luôn tìm mọi cách để “phản kháng lại một cách lâu dài, dai dẳng và liều mạng”. V.I.Lênin đã nhấn mạnh rằng, bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản là một thời kỳ lịch sử lâu dài trong đó cuộc đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra gay gắt. Chừng nào mà thời kỳ đó chưa chấm dứt thì bọn bóc lột vẫn còn nuôi hy vọng phục hồi địa vị thống trị của mình và những hy vọng này sẽ biến thành mưu đồ phục hồi. Giai cấp bóc lột có thể sẵn sàng “lao mình vào cuộc chiến với một nghị lực tăng gấp mười lần, với một sự cuồng nhiệt và lòng hận thù tăng gấp tỉ am lần để chiếm lại cái thiên đường đã mất”. Mặt khác các thế lực đế quốc và phản động quốc tế luôn tìm mọi cách để tấn công và làm suy yếu chủ nghĩa xã hội, nuôi dưỡng và khuyến khích bọn phản cách mạng tiến hành các âm mưu phá hoại và bạo loạn gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thực hiện tốt chức năng trấn áp mọi sự phản kháng của các giai cấp bóc lột và mọi âm mưu phá hoại của bọn phản cách mạng để giữ vững chính quyền, bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc thực hiện chức năng này phải được tiến hành một cách kiên quyết, không khoan nhượng, mơ hồ.
Để thực hiện chức năng này nhà nước xã hội chủ nghĩa phải không ngừng tăng cường sức mạnh về mọi mặt, phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Nước ta, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời cho đến nay, đã là một thực tiễn sinh động để chứng minh nguyên lý nói trên. Các giai cấp bóc lột đã bị lật đổ vẫn có sự phản kháng quyết liệt và dai dẳng. Bọn phản động được sự giúp đỡ của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế đã không từ bỏ một thủ đoạn nào để phá hoại, mong muốn làm suy yếu chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhà nước và nhân dân ta đã kịp thời đập tan mọi âm mưu phá hoại và mọi sự phản kháng của bọn phản cách mạng giữ vững chính quyền, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố, vai trò làm chủ tập thể của nhân dân lao động ngày càng được phát huy.
Tuy vậy, cho đến nay chúng vẫn chưa từ bỏ mọi mưu đồ đen tối và phản động của chúng. Vì vậy, Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII đã nhấn mạnh: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và của Nhà nước. Không ngừng nâng cao giác ngộ và cảnh giác chính trị của nhân dân, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân trong điều kiện mới”.
Thực hiện tết chức năng trấn áp sẽ tạo điều kiện hòa bình, ổn định cho việc thực hiện các chức năng khác của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, kết quả thực hiện các chức năng khác sẽ có tác động tích cực đến việc thực hiện chức năng trấn áp.
Thứ ba, chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghe
Xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân, chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoả học và công nghệ là một trong những chức năng quan trọng, thể hiện vai trò và trách nhiệm của nhà nước trên ba lĩnh vực nhằm:
Nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần của nhân dân, xây dựng nền văn hóa mới, lối sống mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Bồi dưỡng nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước.
Khuyến khích sự phát triển của khoa học, công nghệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học, kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thỏa mãn những nhu cầu về vật chất và tinh thần của nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, phần lớn các cơ sở văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật đều là sở hữu toàn dân. Vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa không những đề ra và cần phải tổ chức thực hiện chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục và khoa học, mà còn có đủ điều kiện để thực hiện tốt chức năng đó.
Thứ tư, chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ có nội dung rất rộng với những nhiệm vụ hết sức phong phú và phức tạp, thể hiện trên các mặt với những vấn đề cơ bản là:
– Về văn hóa: Nhiệm vụ trung tâm đặt ra là xây dựng nền văn hóa mới, lối sống mới, con người mới, thiết lập trật tự kỷ cương trong mọi hoạt động của nhà nước và xã hội; đấu tranh chống những tư tưởng, văn hóa lạc hậu và thù địch. Để thực hiện tết nhiệm vụ đó, phải tiến hành cuộc cách mạng về văn hóa. Cuộc cách mạng văn hóa tiến hành trong mỗi nước cũng có những đặc điểm khác nhau tùy thuộc vào tình hình và điều kiện cụ thể của nước đó. Ơ nước ta cách mạng về tư tưởng văn hóa được xác định là một trong ba cuộc cách mạng phải tiến hành đồng thời và có quan hệ mật thiết với nhau đó là: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng văn hóa.
Để thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng văn hóa cần phải giải quyết tết những vấn đề cơ bản sau đây:
Chọn lọc, giữ gìn và nâng cao tinh hoa văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và từng dân tộc, đồng thời tiếp thu những giá trị văn hóa, khoa học của nhân loại để xây dựng nền văn hóa hiện đại mang bản sắc Việt Nam.
Dùng nhiều hình thức và phương tiện, trong đó chú trọng sử dụng và phát huy vai trò của pháp luật để giáo dục, nâng cao trình độ văn hóa nói chung và văn hóa pháp lý nói riêng của nhân dân, trau dồi đạo đức, bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn và thẩm mỹ, nâng cao trình độ hiểu biết và hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật của nhân dân; ngăn chặn các văn hóa phẩm và hoạt động văn hóa nghệ thuật độc hại. Hình thành nếp sống và làm việc theo pháp luật, tôn trọng đạo đức bảo vệ nhân phẩm con người, chống những tư tưởng lạc hậu, lối sống thấp hèn, suy đồi đạo đức.
Khuyến khích tự do sáng tạo các giá trị văn hóa, vun đắp tài năng. Giữ gìn và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống, tôn tạo và bảo vệ các di tích văn hóa, lịch sử. Nhà nước cần có những đầu tư thỏa đáng và có cơ chế quản lý bằng pháp luật, các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Tuy nhiên, cần tránh khuynh hướng hành chính hóa các đơn vị hoạt động văn hóa nghệ thuật, cũng như thương mại hóa đơn thuần trong lĩnh vực này. Tăng cường, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng thông tin đại chúng để thỏa mãn nhu cầu về thông tin và nâng cao sự hiểu biết của nhân dân.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà nước phải có chính sách phù hợp về giáo dục và đào tạo để tạo ra nguồn nhân lực dồi dào, nâng cao dân trí và đào tạo nhân tài; phải xây dựng được đội ngũ trí thức mạnh, những nhà kinh doanh, người quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia công nghệ và công nhân lành nghề cho trước mắt và lâu dài.
Đại hội Đảng lần thứ VIII trên cơ sở đánh giá về công tác giáo dục và đạo tạo những năm qua, căn cứ vào tình hình thực tiễn hiện nay, dự báo sự phát triển tiếp theo đã khẳng định: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Đồng thời Đại hội cũng đã xác định những nội dung cơ bản mà Nhà nước cần tiến hành trong những năm tới là: Coi trọng cả ba mặt: Mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh vực giáo dục và đào tạo trong 5 năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo điều kiện cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, có việc làm; khắc phục những tiêu cực, yếu kém trong giáo dục và đào tạo.
– Về khoa học và công nghệ
Khoa học và công nghệ đóng vai trò then chết trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc. Đối với đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. khoa học và công nghệ còn là động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn tới trình độ tiên tiến của thế giới. Vì vậy, nhà nước cần đặc biệt quan tâm, có chính sách đúng đắn và quản lý có hiệu quả bảo đảm cho sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ.
Tại đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã xác định rõ vai trò của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, đồng thời đề ra những phương hướng và biện pháp lớn để thúc đẩy sự phát triển của khoa học trong những năm tới, cụ thể là:
Khoa học xã hội phải góp phần xứng đáng trong việc đổi mới tư duy, xây dựng luận cứ khoa học cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xây dựng lập trường, quan điểm, ý thức và nhân cách đúng đắn, khắc phục những tư tưởng sai lầm. Phải nhanh chóng khắc phục sự chậm trễ của khoa học xã hội, đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy; phát triển nhanh các ngành kinh tế học, xã hội học, luật học … Đặc biệt là khoa học quản lý nhà nước và quản lý kinh tế. Nhiệm vụ chủ yếu của khoa học xã hội trong những năm tới là nghiên cứu vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết MÁC-LÊNIN, tư tưởng HỒ CHÍ MINH, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của nước ta và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của khoa học thế giới để triển khai thực hiện thắng lợi những phương hướng mới do đại hội Đảng lần thứ VIII đề ra.
Đối với khoa học tự nhiên và công nghệ cần đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học tự nhiên và công nghệ tiên tiến trong tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản lý và quốc phòng – an ninh. Nắm bắt các công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, những công nghệ mới trong chế tạo máy để có thể đi nhanh vào hiện đại ơ những khâu quyết định.
Nhà nước cần có những chính sách và biện pháp đúng đắn để xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học và công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh các hình thức đào tạo cán bộ khoa học, trong đó phải chú trọng đào tạo đội ngũ chuyên gia đầu đàn. Kiện toàn hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ, sắp xếp và bố trí cán bộ khoa học và công nghệ một cách hợp lý theo hướng gắn khoa học và công nghệ với giáo dục đào tạo, gắn nghiên cứu khoa học với thực tiễn.
Để phát triển khoa học và công nghệ, nhà nước cũng phải tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất, kỹ thuật; xây dựng và thực hiện tết hệ thống chính sách và cơ chế đồng bộ cho phát triển khoa học và công nghệ, trong đó cần chú trọng tới chính sách ưu đãi nhân tài, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tạo lập thị trường cho các hoạt động khoa học và công nghệ. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ…
Thứ năm, chức năng bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích cơ
Đây là chức năng có ý nghĩa quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mục đích của chức năng này là nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, thiết lập, củng cố và điều chỉnh hệ thống các quan hệ xã hội bảo đảm sự phát triển đúng hướng, phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, việc bảo vệ trật tự xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không những chỉ đề ra pháp luật quy định quyền và lợi ích của công dân, mà còn tạo những điều kiện và có những biện pháp để bảo đảm cho các quyền lợi đó được thực hiện. Muốn thực hiện tết chức năng này nhà nước cần phải có những biện pháp đồng bộ về xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật. Đồng thời phải giáo dục để nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
3. Các chức năng đối ngoại
Thứ nhất, chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính quy luật trong suốt thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản trên phạm ví toàn thế giới. Điều đó xuất phát từ sự còn tồn tại trong một thời gian dài những lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa đế quốc với bản chất xâm lược và phản động, luôn ngoan cố bám giữ những mục tiêu của chúng. Chúng không từ một âm mưu và thủ đoạn nào từ khiêu khích, phá hoại đến bao vây lật đổ và tiến hành chiến tranh xâm lược, để phản kích các lực lượng cách mạng và hòa bình, chống các nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều phải chú trọng tới chức năng bảo vệ Tổ quốc, coi việc củng cố quốc phòng để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia, tạo điều kiện hòa bình ổn định cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên lâu dài. Nền quốc phòng trong các nước xã hội chủ nghĩa là nền quốc phòng vì mục đích tự vệ, nhưng đòi hỏi phải có đầy đủ sức mạnh và khả năng tác chiến cao để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại và xâm lược của các thế lực đế quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã lần lượt đánh thắng hai đế quốc Pháp và Mỹ, giành độc lập tự do cho dân tộc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, đã đập tan nhiều âm mưu quân sự và chính trì của bọn phản động trong nước và các thế lực phản động quốc tế, tạo điều kiện hòa bình ổn đình cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy, trong thời gian tới nhà nước và nhân dân ta phải tiếp tục nêu cao cảnh giác cách mạng phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước và xã hội, quyết tâm ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu hành động phá hoại và xâm lược của kẻ thù. Trên cơ sở phân tích tình hình trong nước và quốc tế trong thời đại ngày nay, Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ các tư tưởng chỉ đạo đối với việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh trong tình hình mới:
Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Kết hợp quốc phòng và an ninh với kình tế. Gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị để tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng lực lượng quân đội và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân; quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, tích cực, chủ động, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá ta.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng an ninh.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và công an, đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng và an ninh.
Đây là chức năng rất quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nó xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa và phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại. Nội dung của chức năng này bao gồm những điểm cơ bản sau đây:
-Củng cố và tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết, hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước xã hội chủ nghĩa. Các nước xã hội chủ nghĩa có cùng bản chất và có nhiều điểm tương đồng như cơ sở kinh tế, chính trị, tư tưởng và có cùng mục đích là phát huy quyền lực nhân dân, đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột, xây đựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, củng cố và tăng cường mối quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó không những tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho mỗi nước trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà còn góp phần vào việc tăng cường thế và lực của chủ nghĩa xã hội nói chung.
Mở rộng quan hệ với các nước có chê độ chính trị khác nhau trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau bình đẳng và cùng có lợi. Đây là mặt hoạt động có ý nghĩa quan trọng, tạo ra môi trường hòa bình và điều kiện quốc tế thuận lợi để mỗi nước đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ quyền của mỗi nước, đồng thời để các nước xã hội chủ nghĩa góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong tình hình hiện nay mặt hoạt động đối ngoại này của nhà nước xã hội chủ nghĩa rất sôi động nhưng cũng rất phức tạp, đòi hỏi phải có sự nhạy bén trong việc xác định tình hình, đề ra chính sách phù hợp và xử lý các vấn đề chính xác để một mặt, giữ vững được đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; mặt khác, củng cố vị trí của nhà nước xã hội chủ nghĩa trên trường quốc tế, tranh thủ được những điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước.
-Mở rộng mối quan hệ và hợp tác với các tổ chức quốc tế. Trong xã hội hiện đại, các tổ chức quốc tế ngày càng phát triển mạnh về số lượng và phạm vi hoạt động ngày càng mở rộng. Vì vậy, bên cạnh việc tăng cường quan hệ với các nhà nước, nhà nước xã hội chủ nghĩa còn mở rộng quan hệ và tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế. Mặt hoạt động này có những đặc thù riêng, nhưng nhìn chung nó vẫn dựa trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của việc thực hiện chức năng đối ngoại của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
-Ủng hộ và góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thê giới vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Xuất phát từ bản chất của mình và phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn tham gia và góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Có thể nói đây là vấn đề có tính quy luật và việc thực hiện tết mặt hoạt động đối ngoại này là trách nhiệm của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin tư tưởng HỒ CHÍ MINH, trên cơ sở tổng kết tình hình trong nước và quốc tế trong thời gian vừa qua và nhận định về xu hướng phát triển của thế giới trong thời đại ngày nay, Đại hội Đảng lần thứ VIII đã vạch ra chính sách đối ngoại của nhà nước ta trong thời gian tới là:
-Tiếp tục đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Thực hiện chính sách hợp tác nhiều mặt với các nước, các tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
-Tăng cường quan hệ với các nước trong tổ chức ASEAN, không ngừng củng cố mối quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát triển và trung tâm kinh tế – chính trị trên thế giới, đồng thời nêu cao tinh thần đoàn kết với các nước đang phát triển, với phong trào không liên kết.
-Tăng cường hoạt động ơ Liên hợp quốc, tích cực tham gia các tổ chức tài chính, thương mại và các diễn đàn quốc tế.
-Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, độc lập dân tộc và tiến bộ; mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền khác.
-Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân và quan hệ với các tổ chức phi chính phủ.
Tổ bộ môn Luật Dân sự – Khoa Luật Trường Đại học Hòa Bình, tổng hợp
Liên kết đào tạo và hợp tác việc làm giữa Trường Đại học Hòa Bình và Công ty Luật TNHH Everest là hoạt động cần thiết để giải quyết thực trạng chênh lệch giữa nhu cầu của doanh nghiệp và sự đáp ứng của nhà trường. Hướng đến mục tiêu đào tạo 100% sinh viên có việc làm sau khi trường, Trường Đại học Hòa Bình triển khai liên kết chặt chẽ với Công ty Luật TNHH Everest trong công tác đào tạo sinh viên và tạo điều kiện việc làm cho sinh viên mới ra trường. Để được tư vấn pháp luật, Quý khách vui lòng gọi tới tổng đài 19006198.
Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Ra Đời Và Bản Chất Của Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!