Xu Hướng 6/2023 # Sử Dụng Năng Lượng Tiết Kiệm, Hiệu Quả Của Việt Nam: Thực Trạng Và Vấn Đề Đặt Ra # Top 7 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Sử Dụng Năng Lượng Tiết Kiệm, Hiệu Quả Của Việt Nam: Thực Trạng Và Vấn Đề Đặt Ra # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Sử Dụng Năng Lượng Tiết Kiệm, Hiệu Quả Của Việt Nam: Thực Trạng Và Vấn Đề Đặt Ra được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Một biện pháp căn cơ góp phần khắc phục thiếu điện ở Việt Nam

PGS, TS. NGUYỄN CẢNH NAM [*]

Việt Nam đã ban hành Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả vào năm 2010, có hiệu lực thực hiện từ năm 2011.

Tại Khoản 5, Điều 3 của Luật quy định: “Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là việc áp dụng các biện pháp quản lý và kỹ thuật nhằm giảm tổn thất, giảm mức tiêu thụ năng lượng của phương tiện, thiết bị mà vẫn bảo đảm nhu cầu, mục tiêu đặt ra đối với quá trình sản xuất và đời sống”.

Để thực hiện Luật, Chính phủ đã đề ra Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2012 – 2015 (Quyết định số 1427/2012/QĐ-TTg) và Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019 – 2030 (Quyết định số 280/2019/QĐ-TTg).

Quyết định số 1427/2012/QĐ-TTg đề ra cho giai đoạn 2012-2015 là:

Đạt mức tiết kiệm từ 5 – 8% tổng mức tiêu thụ năng lượng của cả nước trong giai đoạn 2012 – 2015 so với dự báo nhu cầu năng lượng theo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 có xét đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tương đương từ 11 triệu TOE (tấn dầu tương đương) đến 17 triệu TOE trong giai đoạn 2012 – 2015.

Quyết định số 1427/2012/QĐ-TTg đề ra mục tiêu:

– Giai đoạn đến năm 2025: Đạt mức tiết kiệm năng lượng 5,0 đến 7,0% tổng tiêu thụ năng lượng toàn quốc trong giai đoạn từ 2019 đến 2025.

– Giai đoạn đến năm 2030: Đạt mức tiết kiệm từ 8,0 đến 10,0% tổng tiêu thụ năng lượng toàn quốc trong giai đoạn từ 2019 đến 2030.

Trên cơ sở mục tiêu chung, Chương trình đề ra mục tiêu cụ thể về tiết kiệm năng lượng cho từng ngành, lĩnh vực.

Để thực hiện mục tiêu đề ra, Chương trình đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp cho nền kinh tế nói chung và các ngành, lĩnh vực.

Tình hình thực hiện sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế giai đoạn từ năm 2010 – 2019 được trình bày trong bảng 1. 

Bảng 1:

Chỉ tiêu

Đơn vị

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Dân số

106ng.

87,07

88,15

89,20

90,19

91,20

92,23

93,25

94,29

95,39

96,48

GDP (giá hiện hành)

103tỷ đ

2158

2780

3245

3584

3938

4193

4503

5006

5542

6037

 

Tỷ USD

110,7

133,3

155,2

171,2

186,2

193,4

205,3

223,7

245,1

262,0

GDP b/q đầu người

USD

1273

1517

1748

1907

2052

2097

2202

2373

2570

2715

Cơ cấu

%

100

100

100

100

100

100

100

100

100

100

– Nông nghiệp

%

18,38

19,57

19,22

17,96

17,70

17,00

16,32

25,34

14,68

13,96

– Công nghiệp

%

32,13

32,24

33,56

33,19

33,21

33,25

32,72

33,40

34,23

34,49

– Dịch vụ

%

36,94

36,73

37,27

38,74

39,04

39,73

40,92

41,26

41,12

41,64

– Thuế SP trừ trợ cấp SP

%

12,55

11,46

9,95

10,11

10,05

10,02

10,04

10,00

9,97

9,91

GDP (giá 2010)

103tỷ đ

2158

2292

2413

2544

2696

2876

3054

3263

3493

3739

 

Tỷ USD

110,7

117,6

123,8

130,5

138,3

147,5

156,7

167,3

179,2

191,8

Tốc độ tăng

%

 

6,24

5,25

5,42

5,98

6,68

6,21

6,81

7,08

7,02

Năng lượng sơ cấp (theo BP)

EJ

1,87

2,13

2,24

2,39

2,61

2,90

3,11

3,32

3,72

4,12

Tốc độ tăng

%

 

13,91

5,17

6,70

9,21

11,12

7,25

6,76

12,05

10,76

Sản lượng điện

109kWh

91,7

101,5

115,1

124,5

141,2

157,9

175,7

191,6

209,2

227,5

Tốc độ tăng

%

 

10,66

13,45

8,09

13,50

11,83

11,27

9,02

9,18

8,74

Hệ số ĐHNL

   

2,23

0,98

1,24

1,54

1,66

1,17

0,99

1,70

1,53

Hệ số ĐHĐN

   

1,71

2,56

1,49

2,26

1,77

1,81

1,32

1,30

1,25

Cường độ NL

GJ/103$

16,90

18,11

18,10

18,32

18,88

19,66

19,85

19,84

20,76

21,49

 

kgOE/

103$

405,6

434,6

434,4

439,7

453,1

471,8

476,4

476,2

498,2

515,8

Cường độ ĐN

kWh/

103$

828,7

863,2

930,4

953,9

1021,5

1070,8

1121,7

1144,9

1167,4

1186,2

Nguồn: [1], [2]. Tác giả tính toán các chỉ tiêu: GDP theo USD giá cố định năm 2010, Tốc độ tăng cung NLSC (%), Tốc độ tăng sản lượng điện (%), Hệ số đàn hồi năng lượng (HSĐHNL), Hệ số đàn hồi điện năng (HSĐHĐN), Cường độ năng lượng (CĐNL) và Cường độ điện năng (CĐĐN).

Ghi chú: HSĐHNL = Tốc độ tăng NLSC (%)/Tốc độ tăng GDP (%); HSĐHĐN = Tốc độ tăng sản lượng điện/Tốc độ tăng GDP; CĐNL = Tổng NLSC cung cấp/GDP; CĐĐN = Tổng sản lượng điện sản xuất/GDP, trong đó GDP theo giá cố định năm 2010 và tỷ giá VND/USD năm 2010 = 19.496. Đơn vị GJ = 24 kgOE.

Theo Niên giám Thống kê Việt Nam (NGTK VN) 2019: Chỉ tiêu CĐNL (kgOE/103USD) năm 2015: 498,6; 2016: 512,8; 2017: 492,3; 2018: 542,2; Chỉ tiêu CĐĐN (kWh/103USD) năm 2015: 1061,2; 2016: 1130,1; 2017: 1184,9; 2018: 1223,1. GDP tính toán từ Tổng cung NLSC/CĐNL là (tỉ USD): năm 2015: 132,7; 2016: 139,3; 2017: 145,8; 2018: 154,5. GDP tính toán từ Tổng điện thương phẩm/CĐĐN là (tỉ USD): Năm 2015: 133,4; 2016: 140,1; 2017: 146,8; 2018: 154,5. Sự chênh lệch GDP từ 2 cách tính chỉ là do sai số khi tính. Vấn đề là không rõ GDP để tính chỉ tiêu CĐNL và CĐĐN trong NGTK 2019 được tính theo thời giá nào, vì không khớp với GDP theo giá hiện hành và GDP theo giá cố định năm 2010 nêu trong NGTK 2019.

Từ năm 2010 đến 2019 sau 10 năm kinh tế – xã hội của nước ta đa có sự phát triển mạnh, dân số tăng từ 87,07 lên 96,48 triệu người (tăng 1,11 lần), GDP (theo giá hiện hành) đã tăng từ 110,7 lên 262,0 tỷ USD (tăng gần 2,4 lần), GDP bình quân đầu người tăng từ 1.273 lên 2.715 USD/người (tăng hơn 2,13 lần). GDP (theo giá cố định 2010) tăng từ 110,7 lên 191,8 tỷ USD, tăng hơn 1,73 lần.

Theo đó, tiêu dùng năng lượng và điện năng ngày càng tăng cao: Tổng cung năng lượng sơ cấp tăng từ 1,87 lên 4,12 EJ (tương đương từ 44,69 lên 98,47 triệu TOE) [2], tăng 2,2 lần, sản lượng điện sản xuất tăng từ 91,7 lên 227,5 tỷ kWh, tăng 2,48 lần.

Xét trên phương diện sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả thông qua các chỉ tiêu: Hệ số đàn hồi năng lượng (HSĐHNL), Hệ số đàn hồi điện năng (HSĐHĐN), Cường độ năng lượng (CĐNL) và Cường độ điện năng (CĐĐN) cho thấy như sau:

HSĐHNL có sự biến động lên xuống thất thường song về cơ bản theo xu thế giảm dần, từ 2,23 năm 2011 xuống còn 1,53 năm 2019.

HSĐHĐN cũng có sự biến động tăng giảm bất thường song về cơ bản theo xu thế giảm, từ 1,71 năm 2011 xuống còn 1,25 năm 2019.

Nguyên nhân chủ yếu là do tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu thế tăng, trong khi tốc độ tăng trưởng cung ứng NLSC và sản lượng điện năng có xu thế giảm. 

CĐNL có sự gia tăng dần từ năm 2010 đến 2019, tương ứng tăng từ 16,9 lên 21,9 GJ/103USD, tăng 1,27 lần. So với Niên giám Thống kê Việt Nam (NGTK VN) 2019 có sự chênh lệch là do số liệu về cung NLSC và GDP có sự khác nhau.

CĐĐN có sự gia tăng tương đối cao từ năm 2010 đến 2019, tương ứng tăng từ 828,7 lên  1186,2 kWh/103 USD, tăng 1,43 lần. So với NGTK VN 2019 có sự chênh lệch là do sản lượng điện tính khác nhau (NGTK tính theo điện thương phẩm) và GDP khác nhau.

Thiết nghĩ, việc tính chỉ tiêu CĐĐN theo sản lượng điện sản xuất thì hợp lý hơn vì suy cho cùng lượng điện năng bị tổn thất trong quá trình truyền tải và phân phối cũng là tiêu dùng cho nền kinh tế. Theo đó, để giảm CĐĐN và nâng cao hiệu quả sử dụng điện cũng cần phải giảm tổn thất điện năng.  

Qua sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự biến động của các chỉ tiêu CĐNL, CĐĐN nêu trên cho thấy rằng: Nền kinh tế nước ta thời gian qua tuy có sự tái cơ cấu nhất định nhưng xét trên tổng thể chưa theo hướng sử dụng hiệu quả năng lượng và điện năng.

Trong bài viết này chưa có điều kiện đi sâu phân tích chi tiết nguyên nhân cụ thể của tình trạng sử dụng năng lượng và điện năng chưa hiệu quả. Song qua đánh giá kết quả thực hiện Chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả giai đoạn năm 2012 – 2015 và phân tích tốc độ tăng dân số, GDP bình quân đầu người, cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho thấy các nguyên nhân chính bao gồm:

(i) Trình độ công nghệ kỹ thuật, thiết bị và việc quản lý sử dụng trong các ngành, lĩnh vực sản xuất còn bất cập, hạn chế, dẫn đến có mức tiêu hao nhiên liệu, năng lượng, điện năng cao.

(ii) Dân số tăng cùng với thu nhập ngày càng tăng nên mức tiêu dùng năng lượng và điện năng trong sinh hoạt tăng cao (tăng từ khoảng 25 tỷ kWh năm 2010 lên 59,3 tỷ kWh năm 2019).

(iii) Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm và chưa thực sự theo hướng sử dụng năng lượng có hiệu quả.

Cụ thể là khu vực tiêu hao ít năng lượng hơn như dịch vụ tuy có tỷ trọng tăng nhưng còn chậm: Từ năm 2010 đến năm 2019 chỉ tăng thêm 4,6% (từ 36,94% lên 41,64%).

Ngược lại, khu vực tiêu hao nhiều năng lượng, điện năng như công nghiệp, xây dựng cũng có tỷ trọng tăng tuy thấp hơn là 2,36% (từ 32,13% lên 34,49%). Tỷ trọng tiêu dùng điện năng của lĩnh vực công nghiệp – xây dựng năm 2018 chiếm tới 55%, trong khi tỷ trọng của lĩnh vực này trong GDP chỉ là 34,49%; của nông, lâm và ngư nghiệp là 3%, trong khi tỷ trọng trong GDP chiếm tới 13,96%, giảm 4,42% so với năm 2010 (18,38%); của lĩnh vực dịch vụ và các lĩnh khác là 42% (trong đó thương mại – dịch vụ: 6,0%; quản lý – tiêu dùng: 32,0%; khác: 4,0%), trong khi tỷ trọng của lĩnh vực dịch vụ trong GDP chiếm tới 41,64%.

Trong các nguyên nhân nêu trên thì nguyên nhân quan trọng mang tính chiến lược là tái cơ cấu nền kinh tế mới chỉ định hướng chung là chuyển dịch theo hướng công nghiệp và dịch vụ mà chưa gắn với mục tiêu cụ thể về sử dụng năng lượng hiệu quả.

Để biết mức độ sử dụng năng lượng và điện năng của nước ta cao thấp ra sao, trong bảng 2 trình bày các chỉ tiêu cường độ năng lượng và cường độ điện năng năm 2018 (GDP theo giá hiện hành bằng USD năm 2018) của một số nước trong khu vực và trên thế giới.

Bảng 2:

Chỉ tiêu

Đơn vị

Thái Lan

Malaysia

Hàn Quốc

Nhật Bản

Trung Quốc

Úc

Đức

Nga

Việt Nam

GDP (giá hiện hành)

109$

505,0

358,6

1619,4

4971,3

13608,2

1433,9

3947,6

1657,6

245,2

Cơ cấu GDP

%

                 

– Nông nghiệp

 

8,1

7,5

2,0

1,2*

7,2

2,5

0,8

3,1

14,7

– Công nghiệp

 

35,0

38,3

35,1

29,1*

40,7

24,1

27,5

32,1

34,2

– Dịch vụ

 

56,9

53,0

53,6

69,1*

52,2

66,6

61,8

54,1

41,1

GDP (theo PPP)

109$

1261,2

1032,9

2077,8

5413,8

25418,7

1245,1

4394,6

3998,8

706,5

Tiêu dùng NLSC

109GJ

5,60

4,21

12,55

18,84

135,77

6,00

13,44

30,04

3,72

Sản lượng điện

109kWh

177,6

167,3

593,4

1056,2

7166,1

263,1

643,5

1109,2

209,2

CĐNL và CĐ ĐN tính theo GDP giá hiện hành 

           

CĐNL

GJ/103$

11,10

11,74

7,75

3,79

9,98

4,18

3,40

18,12

15,17

CĐĐN

kWh/103$

351,7

466,6

366,4

212,5

526,6

183,5

163,0

669,2

853,3

VN so với:

Lần

                 

– CĐNL

 

1,37

1,29

1,96

4,00

1,52

3,63

4,46

0,84

 

– CĐĐN

 

2,43

1,83

2,33

4,02

1,62

4,65

5,23

1,28

 

CĐNL và CĐ ĐN tính theo GDP sức mua tương đương (PPP)

       

CĐNL

GJ/103$

4,44

4,08

6,04

3,48

5,34

4,82

3,06

7,51

5,26

CĐĐN

kWh/103$

140,8

162,0

285,6

195,1

281,9

211,3

146,4

277,4

296,1

VN so với:

Lần

                 

– CĐNL

 

1,18

1,29

1,04

1,51

0,99

1,09

1,72

0,70

 

– CĐĐN

 

2,10

1,83

1,04

1,52

1,05

1,40

2,02

1,08

 

Nguồn: GDP theo [1], Tiêu dùng NLSC và sản lượng điện năng theo [2]. Tác giả tính toán chỉ tiêu CĐNL và CĐĐN. Ghi chú: GDP (giá hiện hành) là của năm 2018; GDP (theo PPP) là theo sức mua tương đương của năm 2018 lấy theo NGTK VN năm 2019. (*) cơ cấu của năm 2017.

Qua bảng 2 cho thấy:

Thứ nhất: CĐNL của Việt Nam chỉ thấp hơn của Nga (bằng 0,84 lần), nhưng rất cao so với các nước. Cụ thể là cao hơn Thái Lan 1,37 lần; Malaysia 1,29 lần; Hàn Quốc 1,96 lần; Nhật Bản 4,0 lần; Trung Quốc 1,52 lần; Úc 3,63 lần và Đức 4,46 lần.

Thứ hai: CĐĐN của Việt Nam cao hơn tất cả các nước. Cụ thể là cao hơn Thái Lan 2,43 lần; Malaysia 1,83 lần; Hàn Quốc 1,33 lần; Nhật Bản 4,02 lần; Trung Quốc 1,62 lần; Úc 4,62 lần; Đức 5,23 lần và Nga 1,28 lần. Như vậy, rất cao so với Thái Lan, Malaysia, Nhật Bản, Úc và Đức.

Vì rằng, mặt bằng giá của các nước cao thấp khác nhau do sức mua khác nhau làm cho GDP theo giá hiện hành của các nước không có giá trị ngang nhau – tức không đảm bảo tính so sánh được với nhau. Theo đó, các chỉ tiêu CĐNL và CĐĐN tính trên GDP theo giá hiện hành của các nước chưa hoàn toàn phản ánh chính xác hiệu quả sử dụng năng lượng và điện năng để đảm bảo tính so sánh được.

Vì vậy, để khắc phục khiếm khuyết này, GDP được tính theo sức mua tương đương (Purchasing Power Parity – PPP) [1] và các chỉ tiêu CĐNL và CĐĐN tính trên GDP theo PPP, viết tắt là GDP (PPP).

Trong trường hợp này ta thấy, CĐNL và CĐĐN của Việt Nam so với các nước có sự thu hẹp khoảng cách. Cụ thể là, chỉ tiêu CĐNL của Việt Nam thấp hơn của Nga và Trung Quốc, cao hơn chút ít so với Úc và Hàn Quốc, chỉ cao hơn đáng kể so với Thái Lan và rất cao so với Malaysia, Nhật Bản và Đức. Còn chỉ tiêu CĐĐN của Việt Nam cao hơn tất cả các nước. Qua đó, chứng tỏ hiệu quả sử dụng năng lượng và điện năng của Việt Nam vẫn còn thấp và rất thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. 

Nhìn chung, cho thấy nước nào có lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao và cao hơn nhiều so với tỷ trọng của lĩnh vực công nghiệp trong GDP thì có CĐNL và CĐĐN thấp – tức sử dụng năng lượng và điện năng hiệu quả hơn. Còn nước nào có lĩnh vực công nghiệp cao và cao gần với tỷ trọng của lĩnh vực dịch vụ trong GDP thì có CĐNL và CĐĐN cao – tức sử dụng năng lượng và điện năng kém hiệu quả hơn.

Vấn đề rút ra cho Việt Nam trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng:

1/ Cần nhận thức đúng đắn và phân biệt rõ nội hàm hai khái niệm: Sử dụng năng lượng tiết kiệm và sử dụng năng lượng hiệu quả để có cơ chế, chính sách và giải pháp thực hiện phù hợp.

Hiện nay, nội hàm của hai khái niệm này còn hiểu và quy định chung chung, chưa tách biệt rõ ràng.

Chẳng hạn, như quy định của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2010 nêu: “Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là việc áp dụng các biện pháp quản lý và kỹ thuật nhằm giảm tổn thất, giảm mức tiêu thụ năng lượng của phương tiện, thiết bị mà vẫn bảo đảm nhu cầu, mục tiêu đặt ra đối với quá trình sản xuất và đời sống”.

Như vậy, thực chất quy định này chỉ mới đề cập đến khía cạnh sử dụng năng lượng tiết kiệm với nghĩa vẫn đảm bảo nhu cầu, mục tiêu đặt ra, nhưng với mức tiêu hao năng lượng thấp hơn. Theo đó, các Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả cũng chỉ đề ra mục tiêu giảm tiêu hao và các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện giảm tiêu hao năng lượng.

Ví dụ, như Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019 – 2030 (Quyết định số 280/2019/QĐ-TTg) đã đề ra mục tiêu cụ thể cho giai đoạn 2019-2025 là: Giảm mức tiêu hao năng lượng bình quân cho các ngành/phân ngành công nghiệp so với giai đoạn 2015 – 2018. Cụ thể:

(i) Đối với công nghiệp thép: Từ 3,00 đến 10,00% tùy loại sản phẩm và công nghệ sản xuất.

(ii) Đối với công nghiệp hóa chất: Tối thiểu 7,00%.

(iii) Đối với công nghiệp sản xuất nhựa: Từ 18,00 đến 22,46%.

(iv) Đối với công nghiệp xi măng: Tối thiểu 7,50%.

(vi) Đối với công nghiệp dệt may: Tối thiểu 5,00%.

(vii) Đối với công nghiệp rượu, bia và nước giải khát: Từ 3,00 đến 6,88% (tùy vào loại sản phẩm, quy mô sản xuất).

(viii) Đối với công nghiệp giấy: Từ 8,00 đến 15,80% tùy từng loại sản phẩm và quy mô sản xuất. 

Theo đó, đề ra các nhiệm vụ thực hiện mục tiêu giảm mức tiêu hao năng lượng nêu trên.

Đề nghị quy định lại rõ ràng hai khái niệm sử dụng năng lượng tiết kiệm và sử dụng năng lượng hiệu quả như sau: 

Thứ nhất: Sử dụng năng lượng tiết kiệm là cùng một kết quả đầu ra nhưng với mức tiêu hao năng lượng đầu vào ít hơn. 

Thứ hai: Sử dụng năng lượng hiệu quả là cùng một mức tiêu hao năng lượng đầu vào nhưng đạt được kết quả đầu ra nhiều hơn. 

Tuy kết quả cuối cùng của cả hai trường hợp đều là giảm mức tiêu hao năng lượng trên một đơn vị đầu ra, nhưng bản chất và việc áp dụng trong thực tiễn lại có sự khác nhau.       

Sử dụng năng lượng tiết kiệm thường được áp dụng đối với việc sản xuất, hoặc sử dụng những loại sản phẩm, vật tư, thiết bị, máy móc, phương tiện hiện có với mục tiêu giảm mức tiêu hao năng lượng đầu vào bằng các giải pháp thích hợp.

Ví dụ, việc thay thế các bóng đèn sợi đốt hiện đang sử dụng tiêu hao nhiều điện năng bằng các bóng đèn LED có cùng độ sáng như nhau nhưng mức tiêu hao điện năng thấp hơn nhiều.

Tương tự, việc thay thế thế hệ cũ các điều hòa, quạt gió, nồi cơm điện, xe máy, ô tô, thiết bị, phương tiện, v.v… bằng thế hệ mới có mức tiêu hao nhiên liệu, điện năng, nhiệt lượng thấp hơn. Hoặc việc cải tạo hiện đại hóa, đổi mới  thiết bị, máy móc, phương tiện, tòa nhà, dây chuyền sản xuất hiện có để giảm tiêu hao năng lượng hoặc điện năng, v.v… Như vậy, trong trường hợp này việc giảm tiêu hao năng lượng là do sử dụng tiết kiệm. Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả chủ yếu đang theo hướng này.  

Còn sử dụng năng lượng hiệu quả thường được áp dụng đối với đầu tư để phát triển, hoặc mở rộng các ngành, lĩnh vực, loại sản phẩm, dịch vụ tiêu hao ít năng lượng nhưng có giá trị kinh tế cao với mục đích nâng cao giá trị đầu ra trên một đơn vị năng lượng tiêu hao.

Ví dụ, các ngành luyện kim, vật liệu xây dựng, chế tạo máy, giấy, hóa chất, giao thông vận tải, v.v… là những ngành tiêu thụ nhiều năng lượng nhất. Các ngành nông lâm thủy hải sản và các lĩnh vực dịch vụ du lịch, thương mại, tài chính, ngân hàng, giải trí, v.v… là các ngành, lĩnh vực tiêu thụ ít năng lượng. Cho nên, để nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, thay vì đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu hao nhiều năng lượng (cho dù đã áp dụng giải pháp sử dụng tiết kiệm) chuyển sang đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu hao ít năng lượng. Theo đó cơ cấu kinh tế sẽ chuyển dịch từ các ngành, lĩnh vực tiêu hao nhiều năng lượng sang các ngành, lĩnh vực tiêu hao ít năng lượng – tức là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sử dụng năng lượng hiệu quả.

Như vậy, trong trường hợp này, việc giảm tiêu hao năng lượng là do chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu hao ít năng lượng. Chính vì vậy, như đã nêu trên các nền kinh tế có lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao thường có chỉ tiêu sử dụng năng lượng hiệu quả cao hơn nhiều so với các nền kinh tế có lĩnh vực công nghiệp – xây dựng chiếm tỷ trọng cao. 

2/ Với nhận thức nêu trên, đi đôi với sử dụng năng lượng tiết kiệm cần tăng cường sử dụng năng lượng hiệu quả.

Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị về “Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam đến 2030, tầm nhìn đến 2045” đề ra một trong các mục tiêu là Cường độ năng lượng sơ cấp đến năm 2030 đạt từ 420-460 kgOE/1.000 USD GDP, năm 2045 từ 375-410 kgOE/1.000 USD GDP.

Để thực hiện được mục tiêu đó, đi đôi với việc sử dụng năng lượng tiết kiệm trên cơ sở áp dụng các giải pháp thay thế, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ, thiết bị, sản phẩm và quản lý nhằm giảm tiêu hao năng lượng, Việt Nam cần đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu kinh tế gắn với mục tiêu sử dụng năng lượng hiệu quả trên cơ sở hạn chế phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu hao nhiều năng lượng. Đặc biệt là những ngành, lĩnh vực sản xuất sản phẩm xuất khẩu tiêu hao năng lượng nhiều, chỉ hạn chế ở mức quy mô vừa đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước, đẩy mạnh phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu hao ít năng lượng nhưng đem lại giá trị kinh tế gia tăng cao. Đây là nhiệm vụ của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Trên cơ sở đó, Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả cụ thể hóa mục tiêu và đề ra nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ để thực hiện./. 

[*] HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM; KHOA QUẢN LÝ CÔNG NGHIỆP VÀ NĂNG LƯỢNG – EPU

[1] Niên giám Thống kê Việt Nam (NGTK VN) 2019, 2016, 2014.

[2] BP Statistical Review of World Energy 2020, 2019.   

 

Thực Chất Nguyên Nhân Của Tham Nhũng Và Những Vấn Đề Đặt Ra Ở Việt Nam

Đảng ta xác định tham nhũng là một trong bốn nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Tham nhũng hiện nay đã và đang trở thành quốc nạn, đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và của chế độ xã hội chủ nghĩa. Để góp phần nâng cao nhận thức trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, bài viết này tập trung làm rõ nguyên nhân tham nhũng, trên cơ sở đó, đưa ra một số vấn đề gợi mở và mong được trao đổi cùng bạn đọc.

Thực chất của vấn đề tham nhũng

Tham nhũng là hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của đất nước, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển làm cho kinh tế chậm phát triển, thất thoát, lãng phí tài sản của dân, thiệt hại ngân sách, gây rối loạn nền kinh tế, gia tăng khoảng cách giàu nghèo, tình trạng nghèo đói ngày càng trầm trọng. Hơn nữa, nó làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước, làm cho chế độ chính trị dần suy yếu từ bên trong, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch tấn công ta, dẫn đến sụp đổ nếu không kịp thời chấn chỉnh.

Thực trạng báo động ở nước ta hiện nay là tệ tham nhũng ngày càng trầm trọng, trở nên phổ biến trong tất cả các lĩnh vực từ công an đến hải quan, từ tài nguyên môi trường đến xây dựng, thuế, ngân hàng, y tế, giáo dục cho đến cả thanh tra, kiểm sát, tòa án,… Từ lĩnh vực kinh tế cho đến cả chính trị với quy mô các vụ án ngày càng lớn, tính chất ngày càng nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Theo thống kê của Tổ chức Minh bạch Thế giới về chỉ số tham nhũng của các nước trên thế giới qua các năm, Việt Nam xếp hạng thứ 112/182 trong năm 2011.

  Chỉ số tham nhũng của Việt Nam qua các năm gần đây

Năm

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

Chỉ số, điểm

2.4

2.4

2.6

2.6

2.6

2.6

2.7

2.7

2.7

2.9

Hạng

85/102

100/133

102/145

107/158

111/163

123/179

121/180

120/180

116/178

112/182

Số liệu thống kê khoảng 10 năm trở lại đây (từ 2002 đến 2011) cho thấy tình trạng tham nhũng ở nước ta ngày càng có xu hướng tăng lên. Trong xã hội ta hiện nay, việc “bôi trơn”, quà cáp, đã trở thành một thói quen có tính “quy luật” mà hầu như ai cũng ít nhất một lần nghĩ đến và thực hiện để được thiên vị, ưu tiên, “thuận buồn xuôi gió”. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản về phòng, chống tham nhũng, nhưng cho đến nay vẫn chưa đẩy lùi được tham nhũng.

Để cung cấp thêm thông tin làm cơ sở vững chắc về mặt lý luận trong việc phòng và chống tham nhũng, vận dụng cặp phạm trù nhân – quả trong phép biện chứng duy vật để phân tích về mặt triết học nguyên nhân của nó, chúng tôi xác định một số nguyên nhân chủ quan và khách quan sau:

Về nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất, nguyên nhân và động cơ chủ yếu của tham nhũng là lòng tham của con người. Cách đây hơn 2.200 năm, Hàn Phi Tử trong thiên Vong trưng (Những điềm mất nước) và thiên Gian hiếp thí thần (Bọn bề tôi gian dối, ức hiếp và giết nhà vua) cho rằng, con người sinh ra vốn tham dục, vị lợi; bản chất con người là “ích kỷ” và đặc tính chủ yếu của nó là “sự ham mê lợi ích và thù ghét tai họa” nên luôn “thích điều lợi và tìm nó, ghét cái hại và tránh nó, …”. Lẽ cố nhiên đam mê lợi ích không phải lúc nào cũng xấu, nhưng để lòng tham dẫn dắt, che mờ lý trí, điều khiển, kiểm soát hành động và vì lợi ích của bản thân, của nhóm lợi ích mà chà đạp lên lợi ích của tập thể, cộng đồng và quần chúng nhân dân thì rõ ràng là không thể chấp nhận được. Mọi hành vi tham nhũng dù dưới hình thức nào chăng nữa đều có thể quy về “lợi ích cá nhân”. Lợi ích nhóm cũng xuất phát từ lợi ích cá nhân mà ra. Nếu không vì lợi ích của bản thân thì chẳng ai còn muốn tham nhũng nữa. Vì lợi ích cá nhân, người ta có thể làm tất cả, bất chấp mọi thủ đoạn, mọi hậu quả để đạt được dù hành vi đó là vi phạm đạo đức, pháp luật, hay vi phạm nghiêm trọng kỷ luật đảng.

Thứ hai là do lối sống “ăn bám”, ỷ lại, lười lao động thích hưởng thụ của một bộ phận, tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là giới trẻ ngày nay. Chính lối sống này kết hợp với bản chất ích kỷ, đam mê lợi ích vật chất của các bậc phụ huynh, cán bộ, công chức,… là chất xúc tác để thúc đẩy con người ta lao vào các “phi vụ” phạm pháp. Lối sống hưởng thụ len lỏi vào các cơ quan công quyền thể hiện ở sự quan liêu và suy đồi của không ít cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; cống hiến thì ít mà muốn hưởng thụ thì nhiều, nên sách nhiễu, làm khó để vòi vĩnh, “gợi ý”, “lót đường”, “rải thảm”.

Thứ ba là do cuộc sống, áp lực công việc, do môi trường xung quanh; do giáo dục, do cơ chế và do chính bản thân mà đạo đức con người ngày càng bị suy thoái, tha hóa. Điều này làm cho tệ tham nhũng càng có điều kiện thuận lợi để phát sinh và lan rộng trong toàn xã hội. Tình trạng này đang có xu hướng ngày càng tăng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X nhận định: “Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức nói riêng còn yếu kém. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp, còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu trong cuộc sống đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm”. Hơn nữa, một bộ phận cán bộ, công chức chưa có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị. Điều này dẫn đến sự tha hóa, suy thoái về đạo đức không thể tránh khỏi của các công chức, viên chức nhà nước, sẵn sàng vì lợi ích cá nhân mà tham nhũng. Đảng và Nhà nước ta đã nhận ra được nguyên nhân này, nhưng biện pháp giải quyết chưa thật sự hiệu quả.

Ở nguyên nhân này, môi trường làm việc là điều kiện khách quan ảnh hưởng đến sự suy thoái đạo đức. Hiện tượng đút lót, quà cáp để vụ lợi trong các cơ quan công quyền không phải là điều quá xa lạ và diễn ra ở hầu hết mọi nơi. Trong một môi trường như vậy, nếu như không “nhập gia tùy tục”, người ta sẽ bị hất tung khỏi “vòng xoáy cuộc đời”. Theo lo-gíc phát triển khách quan của cuộc sống, nếu mỗi con người không giữ được đạo “trung dung”, “trung thứ” và “tính trực” và nếu “quân bất quân, thần bất thần, tử bất tử” (Khổng Tử) thì xã hội sẽ lâm nguy, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”. Nguyên nhân này dần dần hình thành hiện tượng tham nhũng tập thể, vì vậy khi có thanh tra, kiểm tra thì bao che lẫn nhau, dẫn đến việc khó khăn trong vấn đề phòng, chống tham nhũng.

Thứ tư là do tâm lý, “truyền thống văn hóa” và trình độ nhận thức của một bộ phận người dân còn yếu kém. Với quan niệm “dầu bôi trơn bánh xe”, “đầu xuôi đuôi lọt”, “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” và nghĩ rằng giải pháp nhanh nhất, hiệu quả nhất để giải quyết công việc là “thủ tục đầu tiên” cũng là nguyên nhân thúc đẩy tham nhũng. Hơn thế, người ta còn dùng hối lộ, quà cáp như một hình thức “kết thân”, “đầu tư chiều sâu”, “đầu tư vào tương lai” để tạo thuận lợi cho con đường công danh sự nghiệp sau này cho cả bản thân lẫn người thân. Chính hành vi tâm lý và trình độ nhận thức này đã vô tình làm cho không ít cán bộ, nhân viên bị tham nhũng thụ động. Tình trạng này kéo dài làm xuất hiện tư tưởng gây khó dễ ở cán bộ, công chức để nhận “phong bì” từ dân mới giải quyết công việc, cho rằng nhận hối lộ là một thủ tục tất yếu trong quá trình xử lý công việc. Bởi vậy, một số cán bộ, đảng viên khi có quyền lực đã đem địa vị, quyền hành ra để “mặc cả” và cho rằng “muốn ăn chân giò phải thò chai rượu”. Vô hình trung điều này tạo nên một cách suy nghĩ, một thói quen xấu trong cả cán bộ công chức và cả những người muốn dùng tiền để giải quyết công việc, dần dần hình thành nên “văn hóa phong bì”.

Thứ năm và cũng là nguyên nhân quan trọng, dễ dẫn đến tham nhũng nhất đó chính là sự sơ hở, bất cập, thiếu công khai, thiếu minh bạch, cơ chế “xin – cho” còn tồn tại. Đây là nguyên nhân thường xuyên được đề cập và lặp đi lặp lại nhiều lần trong các phiên họp của Quốc hội. Nguyên nhân này thể hiện ở chỗ: cơ chế kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng, quản lý, luân chuyển tài sản có nhiều sơ hở, giao tài sản cho nhân viên nhưng không có biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ, gian lận trong công tác để chiếm đoạt tài sản,… Các thủ tục, quy định của Nhà nước chưa được công khai, rõ ràng nên nhân dân có suy nghĩ “tiếp cận, giải quyết” mới xong, tạo điều kiện cho cán bộ tham nhũng; thiếu công khai, minh bạch trong công tác quản lý, trong công tác kê khai tài sản, trong công tác sử dụng tài sản, và thiếu minh bạch trong các văn bản, quy định, thủ tục. Hơn nữa, việc thiếu trách nhiệm giải trình của các lãnh đạo cấp cao ở các cơ quan, đơn vị cũng dẫn đến tình trạng thiếu công khai, minh bạch mặc dù việc báo cáo nghe có vẻ vẫn rất “ổn”, “tốt” trong khi thực tế đó chỉ là “báo cáo láo”.

Thứ sáu, một nguyên nhân cần được nghiên cứu thêm đó là tư duy chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn phảng phất tư duy “truyền thống”, phong kiến, manh mún, chắp vá, thiếu tính hệ thống dẫn đến thiếu mạnh dạn và quyết tâm trong việc thực hiện đường lối đổi mới, đặc biệt là đổi mới tư duy chính trị. Giữa đổi mới tư duy chính trị và đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta chưa có sự đồng bộ, thống nhất cần thiết nên thường xuyên diễn ra tình trạng “đánh trống bỏ dùi”, “đầu voi đuôi chuột” làm tầm thường hóa hệ thống pháp luật.

Ngoài ra còn có nguyên nhân nữa mang tính chất khái quát là chúng ta chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ. Hồ Chí Minh từng cho rằng “dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết những vấn đề xã hội”. Tuy nhiên dân chủ phải gắn liền với dân trí. Nhìn chung trình độ dân trí, kể cả quan trí của chúng ta chưa cao nên nhân dân chưa có nhiều khả năng tham gia làm chủ, quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Mặc dù chúng ta đã có bước tiến đáng kể về việc ban hành quy chế dân chủ, song nhìn chung việc thực hiện đưa quy chế vào cuộc sống còn nhiều hạn chế, khó khăn.

Bên cạnh một số nguyên nhân chủ quan cơ bản nêu trên còn có những nguyên nhân khách quan rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng tham nhũng ở nước ta.

Về nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất là việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa triệt để, không theo kịp được trình độ phát triển của hoạt động thực tiễn. Trong quá trình lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, để xây dựng, phát triển và bình ổn trật tự xã hội còn nghiêng về “đức trị”, “nhân trị” mà chưa nghiêng về “pháp trị”. Chính sách thưởng phạt chưa đủ sức răn đe người phạm tội và khuyến khích người lập công, tố giác tội phạm.

Thứ hai là do hệ thống pháp luật, chính sách ở nước ta thiếu đồng bộ, chưa thỏa đáng và nhất quán; trong xử lý, chế tài chưa nghiêm minh, pháp luật còn nhiều kẽ hở, cơ chế quản lý còn nhiều yếu kém. Các thủ tục hành chính hay giấy tờ, đất đai đều chưa minh bạch, rườm rà, cơ chế quản lý bất động sản chưa hiệu quả và chặt chẽ tạo kẽ hở cho các cán bộ, viên chức tham nhũng. Pháp luật là công cụ mạnh nhất để ngăn chặn, chế tài và xử lý tham nhũng nhưng pháp luật lại chưa nghiêm, lỏng lẻo tạo điều kiện, cơ hội cho tham nhũng phát triển.

Thứ ba là do những bất cập trong triết lý về giáo dục, chưa hình thành được một triết lý giáo dục đủ tầm cỡ, làm trụ cột lâu dài, xuyên suốt và bền vững trong quá trình phát triển, kể cả giáo dục nói chung và giáo dục pháp luật nói riêng; giáo dục đạo đức cán bộ, đảng viên trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường chưa được chú trọng đúng mức. Hơn nữa, việc đưa những người thiếu năng lực và thiếu phẩm chất đạo đức vào làm cho các cơ quan nhà nước do “quan hệ”, nể nang, “đi đêm”,… làm suy thoái hệ thống chính trị và làm cho tình trạng tham nhũng ngày càng phát triển nhanh chóng.

Thứ tư là do sự quản lý, thanh tra, kiểm tra lỏng lẻo, yếu kém của Nhà nước; xử lý qua loa, chỉ mang tính “hình thức” như cảnh cáo, phê bình hoặc chủ trương “đại sự hóa tiểu sự, tiểu sự hóa vô sự” vì người vi phạm thường là cán bộ có quyền lực và địa vị, nên chưa mang tính răn đe. Các cán bộ cấp cao và cấp trên chưa làm gương cho cấp dưới, chưa thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với phương châm “một tấm gương sống về đạo đức gấp hàng trăm, hàng nghìn bài diễn thuyết”. Việc chấp hành kỷ luật cũng bị xem nhẹ dẫn đến tình trạng “phép vua thua lệ làng”, “trên bảo dưới không nghe”,… Người quản lý, thanh tra, kiểm tra, điều tra cũng chưa thật sự mạnh tay và làm việc có hiệu quả, vẫn còn nặng tình trạng “báo cáo tốt”, tệ hại hơn còn đồng lõa, “gợi ý” làm cho tệ tham nhũng gia tăng, khó có thể ngăn chặn, phát hiện, xử lý kịp thời.

Thứ năm là do việc thực hiện chính sách phòng, chống tham nhũng của nước ta chưa hiệu quả, đồng bộ, chưa đáp ứng được thực trạng tham nhũng hiện nay, thiếu một chương trình phòng, chống lâu dài, tổng thể mà chỉ chủ yếu tập trung vào việc giải quyết những vụ “tham nhũng vặt”, nhỏ lẻ. Mặt khác, các chính sách của nước ta chưa khuyến khích toàn dân và cả hệ thống chính trị cùng phòng, chống tham nhũng. Chúng ta chưa có cơ chế hữu hiệu để bảo vệ những người phát hiện và dám tố cáo tham nhũng. Việc tuyên dương người đứng lên tố cáo tham nhũng hiện nay cũng chưa phải là giải pháp hiệu quả để động viên toàn dân tham gia. Hơn nữa, người “đưa hối lộ” đi tố cáo tham nhũng cũng bị khép tội “đưa hối lộ” nên cũng làm hạn chế việc tố cáo tham nhũng của nhân dân.

Thứ sáu là do mặt trái (bản chất) của nền kinh tế thị trường và sự phân cực giữa các giai tầng trong xã hội ngày càng sâu sắc làm cho các giá trị đạo đức bị đảo lộn. Đồng tiền đang lên ngôi trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Khi đồng tiền được xem là “thước đo của vạn vật” thì các giá trị đạo đức, nhân phẩm sẽ đứng trước bên bờ vực. C. Mác từng cảnh báo: “Trong xã hội tư bản đồng tiền là một vấn đề trung tâm của mọi quan hệ cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè đều bị dìm chết trong dòng nước băng giá của đầu óc vị kỷ” và khẳng định: “Tất cả những mối liên hệ phức tạp và muôn màu muôn vẻ ràng buộc con người phong kiến đều bị giai cấp tư sản thẳng tay phá vỡ, không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác, ngoài mối lợi lạnh lùng với “lối trả tiền ngay” tiền trao cháo múc không tình nghĩa”. Việc chạy theo sức mạnh của đồng tiền làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ đi ngược lại truyền thống văn hóa của dân tộc. Có không ít tổ chức, cá nhân vì những mục tiêu riêng để tồn tại trong cuộc cạnh tranh khốc liệt đã dùng mọi thủ đoạn, trong đó có thủ đoạn hối lộ được sử dụng phổ biến nhất. Hơn nữa, chính sách tuyển dụng, trọng dụng và đãi ngộ các nhân viên công quyền chưa thỏa đáng (chính sách tiền lương) là nguyên nhân góp phần thúc đẩy mọi người cần phải kiếm thêm để bù đắp cho gia đình họ làm cho tình trạng tham nhũng phát triển và lan rộng.

Đảng và Nhà nước ta đã đã có nhiều chủ trương, biện pháp phòng, chống tham nhũng nhưng vẫn chưa hiệu quả. Do đó cần phải có nhận thức toàn diện hơn về bản chất và nguyên nhân của tham nhũng để có giải pháp hữu hiệu. Muốn triệt phá tham nhũng, chúng ta cần loại trừ hết các nguyên nhân và điều kiện phát sinh tham nhũng. Các biện pháp phòng và chống cũng phải mang tính hệ thống, toàn diện.

Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Dân ta quan niệm: “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, “phòng cháy hơn chữa cháy”. Vì vậy, trước hết đấu tranh chống tham nhũng phải bắt đầu từ phòng ngừa tham nhũng. Tác dụng của phòng ngừa tham nhũng có ý nghĩa sau:

Một là, các biện pháp phòng ngừa được thực hiện một cách thường xuyên sẽ có tác dụng rộng khắp, có tính lan tỏa đến từng đối tượng, ngăn ngừa mầm mống hành vi tham nhũng.

Hai là, phòng ngừa tham nhũng sẽ làm giảm thiểu thiệt hại về kinh tế và chính trị hơn là để tham nhũng xảy ra.

Ba là, bên cạnh việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, bộ máy nhà nước pháp quyền cũng đồng thời phải hoàn thiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng.

Để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả theo chúng tôi định hướng cơ bản, chung nhất hiện nay chúng ta cần tập trung vào ba vấn đề lớn. Một là phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng; hai là nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; ba là phát huy, khơi dậy tinh thần làm chủ của các tổ chức chính trị – xã hội, cơ quan truyền thông, báo chí và quần chúng nhân dân. Cụ thể:

Đối với Đảng ta cần thành lập cơ quan phòng, chống tham nhũng độc lập như kinh nghiệm của một số nước; tăng cường công tác chính trị, tư tưởng đảng viên; tăng cường quản lý đội ngũ đảng viên; thường xuyên đưa nội dung kiểm điểm, phê bình, tự phê bình vào nề nếp sinh hoạt đảng theo Điều lệ Đảng, tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI; đề cao trách nhiệm, xử lý nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên, nhất là những người giữ chức vụ trọng yếu trong bộ máy của Đảng và Nhà nước có biểu hiện tiêu cực hay thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng ở các ngành, cơ quan đơn vị mình phụ trách. Điều 5 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định: “người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị,… chịu trách nhiệm khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách”, Điều 10 Luật Cán bộ công chức quy định: “Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị”.

Đối với cơ quan, chính quyền Nhà nước cần phải lấy tinh thần đấu tranh chống tham nhũng của Xin-ga-po để nghiên cứu, học tập, tăng cường chính sách thưởng phạt để người ta không thể, không dám, không muốn, không cần tham nhũng. Để làm được việc đó trước hết cần minh bạch, thực hiện minh bạch là công cụ, biện pháp chống tham nhũng hiệu quả nhất. Minh bạch trong nhiều vấn đề, lĩnh vực: trong khiếu nại của nhân dân, trong việc kê khai và quản lý tài sản, ngân sách, trong mua sắm, trong quản lý đất đai, nhà ở, vốn, nguồn viện trợ, đầu tư,… Ngoài ra cũng có nhiều biện pháp khác được đề xuất cần được thực hiện cùng với việc minh bạch:

Thứ nhất, cần điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung pháp luật nước ta, cần quy định chặt chẽ hơn, xử lý nghiêm minh hơn, giảm bớt sự rườm rà không cần thiết các thủ tục hành chính, phải có biện pháp chế tài đủ mạnh để những công chức thấy rằng việc tham nhũng đem lại cho họ “mất” nhiều hơn “được”.

Thứ hai, cần cải cách hệ thống chính sách giáo dục ở nước ta, xóa bỏ tình trạng đặt nặng lý thuyết, chú trọng đào tạo chuyên môn và phẩm chất đạo đức của thế hệ tương lai. Đồng thời các cán bộ cấp cao phải đi đầu trong việc thực hiện gương mẫu, nâng cao phẩm chất đạo đức, chuyên môn. Đồng thời tăng cường, củng cố tư tưởng chính trị, rèn luyện cho các đảng viên, các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước để tăng cường sự vững mạnh của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước ta.

Thứ ba là phải kiềm chế mặt trái của nền kinh tế thị trường, tăng cường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường cổ phần hóa, phát triển kinh tế xã hội đồng bộ, giảm sự phân hóa giàu nghèo, hạn chế sự độc quyền. Đồng thời tăng lương, tăng phúc lợi, tạo sự công bằng, xứng đáng cho các công chức, viên chức. Khi đồng lương đủ giúp họ trang trải cuộc sống thì họ cũng ít suy nghĩ đến tham nhũng hơn. Giải pháp này cần hoạch định lâu dài và có kế hoạch cụ thể.

Thứ tư, cần đẩy mạnh việc thanh tra, kiểm soát trong tất cả các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế đến xã hội, xử lý mạnh tay đối với các hành vi tham nhũng, làm gương cho người khác, tách riêng bộ phận Thanh tra ra khỏi Chính phủ. Thực hiện thanh tra toàn diện, từ trung ương đến địa phương, trên mọi lĩnh vực. Tăng cường quản lý tài sản, ngân sách, nguồn viện trợ cũng như việc sử dụng tài sản của Nhà nước cũng như sử dụng chúng một cách hợp lý. Phải dựa vào nhân dân và báo chí để tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, đưa nhân dân vào các bộ phận thanh tra, kiểm soát tham nhũng để hoạt động hiệu quả hơn, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân. Báo chí là công cụ đắc lực và hiệu quả trong việc ngăn ngừa và vạch trần tệ tham nhũng. Đồng thời cũng cần hạn chế sự độc quyền của các cán bộ, công chức trong một số lĩnh vực hay thủ tục nào đó dẫn đến tham nhũng.

Thứ năm, cần tuyển chọn, chọn lọc kỹ càng khi phân công, bổ nhiệm các cán bộ, công chức, bảo đảm phẩm chất đạo đức của các nhân viên nhà nước từ cấp thấp đến cấp cao. Ngăn chặn tham nhũng từ lúc bắt đầu nhất là đối với các quan chức đứng đầu và lực lượng thanh tra, quản lý. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, thanh lọc, giáo dục trong bộ máy nhà nước. Lực lượng thanh tra, quản lý cần được tuyển chọn đặc biệt kỹ càng vì đây là lực lượng có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình phòng, chống và diệt trừ tệ tham nhũng ở nước ta.

Về chính trị, cần thực hiện dân chủ một cách triệt để hơn, toàn diện hơn. Công khai, minh bạch với nhân dân. Khẳng định tư tưởng Nhà nước là “của dân, do dân, vì dân” và phát triển vững chắc dựa vào sức của nhân dân. Theo các học giả trên thế giới thì tham nhũng tỷ lệ nghịch với dân chủ. Ở các nước phát triển, pháp luật nghiêm minh thì khó mà thấy tình trạng tham nhũng diễn ra.

Việc phòng chống tham nhũng cũng cần có sự hợp tác và hỗ trợ kinh nghiệm từ các nước trên thế giới. Đồng thời, cần đẩy mạnh tuyên truyền trong nhân dân về ý thức phòng, chống tham nhũng, yêu cầu cả hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân cùng chung tay trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, mạnh dạn tố cáo, đóng góp ý kiến, thay đổi tâm lý không tốt đã ăn sâu vào không ít tầng lớp trong xã hội./.

                                                 Tài liệu tham khảo  

1. Trịnh Doãn Chính (chủ biên), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997

2. Phan Ngọc (dịch), Hàn Phi Tử, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2005

3. Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1998

4. C. Mác và Ph. Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb. Sự Thật, Hà Nội

5. Giáo trình chính sách kinh tế – xã hội, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2000

6. Luật Phòng, chống tham nhũng, số 55/2005/QH11 của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005

7. Tài liệu tham khảo về phòng, chống tham nhũng - Viện Khoa học thanh tra thuộc Thanh tra Chính phủ – Xuất bản năm 2012

8. Quyết định số 138/2009/QĐ-TTg ngày 09 tháng 12 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, tên gọi, nhiệm vụ và quy chế hoạt động của bộ phận giúp việc Ban Chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về phòng, chống tham nhũng

9. Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều Luật Phòng chống tham nhũng

10. Washington: Quỹ Tiền tệ Quốc tế Shleider, A. và Wishney, R.W. (1993): “Tham nhũng”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế học

11. Trích Tool to support transparency in local govemance (Công cụ hỗ trợ cho tính minh bạch trong công tác quản lý ở địa phương)

12. Theo thống kê của Tổ chức minh bạch thế giới (Transparency International) năm 2011

Giải Pháp Sử Dụng Năng Lượng Tiết Kiệm Và Hiệu Quả Cho Doanh Nghiệp Và Tòa Nhà

Dịch vụ năng lượng ESCO ra đời chính là để giải quyết bài toán tài chính cho doanh nghiệp. ESCO được biết đến như một trong những phương án kinh doanh hiệu quả nhất hiện nay khi tất cả các bên tham gia đều có lợi. 

Khi các doanh nghiệp, tòa nhà muốn đầu tư tiết kiệm năng lượng nhưng không có ngân sách triển khai, không biết các bước triển khai có hiệu quả, không tính toán được tiềm năng tiết kiệm năng lượng thì việc hình thành công ty dịch vụ năng lượng ESCO chuyên cung cấp các giải pháp năng lượng toàn diện bao gồm thiết kế và thực hiện các dự án tiết kiệm năng lượng, bảo tồn năng lượng, cho thuê cơ sở hạ tầng năng lượng,… ESCO sẽ thực hiện gói dịch vụ năng lượng bao gồm lập kế hoạch, xây dựng, lắp đặt, vận hành và bảo trì, tối ưu hóa, đóng góp tài chính,… ESCO bảo đảm cho các chi phí đầu tư, kết quả tiết kiệm năng lượng và chịu rủi ro về thương mại để thực hiện giải pháp hiệu quả năng lượng và quản lý trong cả thời gian thực hiện dịch vụ. Với việc áp dụng mô hình ESCO sẽ đảm bảo khách hàng được hưởng lợi từ việc hiện đại hóa hệ thống năng lượng và được cung cấp năng lượng an toàn hơn mà không chịu rủi ro tài chính, không phải bỏ ra vốn đầu tư ban đầu để xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng, được công ty ESCO chia sẻ lợi nhuận từ các khoản chi phí năng lượng tiết kiệm được, được hưởng toàn bộ hệ thống thiết bị năng lượng mà công ty ESCO đã đầu tư sau thời hạn thỏa thuận hoàn trả chi phí đầu tư ban đầu giữa hai bên, giảm chi phí bảo dưỡng, rủi ro pháp lý và tránh bị xử phạt, tăng tính cạnh tranh. Ngoài ra việc áp dụng mô hình ESCO còn mang lại lợi ích rất lớn đối với xã hội đó là: Giảm lượng khí phát thải nhà kính vào môi trường, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên; góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, giảm bớt biến động giá; giảm chi phí đầu tư, giảm phụ tải, giảm tổn thất, tăng lợi nhuận cho các nhà máy điện.

Hiện nay trên địa bàn tỉnh Nghệ An việc áp dụng mô hình ESCO vào các tòa nhà, các cơ sở sản xuất công nghiệp, kinh doanh dịch vụ, thậm chí tại các hộ gia đình. Cụ thể ở một số lĩnh vực như sau: Sử dụng bình nước nóng NLMT quy mô công nghiệp trên các tòa nhà khách sạn, trường học, bệnh viện; hệ thống đèn chiếu sáng công cộng dân lập do địa phương quản lý, công suất bóng đèn và vị trí lắp đặt là tự phát, được tính tiền điện bằng hình thức khoán hàng tháng, nên rất bất cập trong công tác quản lý như: Lắp đặt không an toàn, phức tạp về công suất và chủng loại bóng, tính toán lượng điện năng tiêu thụ mang tính tương đối,… Do đó, việc ứng dụng mô hình ESCO đối với hệ thống này là cần thiết, giảm áp lực về chi phí đầu tư cho địa phương. Theo đó các nhà cung cấp bóng đèn tiết kiệm điện, đèn LED sẽ phối hợp với địa phương để đầu tư cải tạo, thay thế dần hệ thống đèn chiếu sáng dân lập hiện hữu nhằm tiết kiệm điện và đảm bảo an toàn trong nhân dân; Các cơ sở sản xuất công nghiệp.

Việc thiếu nguồn vốn và không biết các bước triển khai có hiệu quả, không tính toán được tiềm năng tiết kiệm năng lượng nên các doanh nghiệp không giám mạo hiểm vay vốn đầu tư vào tiết kiệm năng lượng nên việc đầu tư mô hình ESCO sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí tiêu hao năng lượng. Việc ứng dụng thí điểm mô hình ESCO sẽ là cơ hội để đánh giá hiệu quả, mức độ phản ứng và sự tham gia của khách hàng vào thị trường dịch vụ năng lượng, từ đó có sơ sở đề xuất đến cơ quan có thẩm quyền những cơ chế, chính sách để hỗ trợ phát triển mô hình này. Mô hình ESCO là một giải pháp mới, làm phong phú thêm các giải pháp thực hiện tiết kiệm năng lượng, từ đó góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả trong công tác tiết kiệm năng lượng hiện nay.

                                                                                               Công Nhâm-TKNL

Biến Đổi Khí Hậu Toàn Cầu Và Vấn Đề Đặt Ra Đối Với Việt Nam

Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu, là thách thức nghiêm trọng nhất đối với nhân loại trong thế kỷ XXI. Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu, cả về chính trị, kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh. Vì thế, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu ở nước ta là vấn đề quan trọng, cấp thiết.

Biến đổi khí hậu và nỗ lực ứng phó toàn cầu

Trong quá trình phát triển, biến đổi khí hậu (do phát thải khí nhà kính gây ra) là một trong những vấn đề an ninh phi truyền thống, đe dọa tới sự tồn vong của toàn nhân loại. Theo Tổ chức Khí tượng thế giới, nồng độ khí nhà kính trong khí quyển năm 2015 đã vượt qua ngưỡng 400/106 thể tích; trong khi đó, giới hạn an toàn của chỉ số này là 350/106 thể tích. Còn theo báo cáo của Nhóm Công tác về Cơ sở khoa học thuộc Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (công bố ngày 27-9-2013) thì nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển đã không ngừng gia tăng; trong đó, nồng độ khí CO2 (giai đoạn 2005 – 2011) đã tăng 40% so với năm 1750. Nhiệt độ bề mặt trái đất tăng nhanh, trong giai đoạn 1901-2012 đã tăng 0,890C; riêng giai đoạn 1951 – 2012 tăng khoảng 0,720C. Điều đó được thể hiện ở số ngày, đêm lạnh/năm giảm, số ngày, đêm và đợt nắng nóng/năm tăng lên rõ rệt. Mực nước biển trung bình của thế giới cũng có xu thế tăng trong suốt thế kỷ XX, với mức tăng bình quân 1,7 mm/năm (giai đoạn 1900 – 1992) và 3,2 mm/năm (giai đoạn 1993 – 2010). Về lượng mưa, các vùng có số đợt mưa lớn tăng nhiều hơn số vùng có số đợt mưa lớn giảm. Các cơn bão mạnh xuất hiện ngày một nhiều, nhất là những siêu bão, với sức gió chưa từng có trong lịch sử nhân loại.

Để cứu trái đất – ngôi nhà chung của các thế hệ hôm nay và mai sau khỏi thảm họa biến đổi khí hậu, ngày 12-12-2015, Thỏa thuận về khí hậu đã được 196 bên thông qua tại Hội nghị lần thứ 21 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP 21) tại Pa-ri (Pháp). Đây là Thỏa thuận đánh dấu bước đột phá quan trọng trong nỗ lực của Liên hợp quốc sau hơn 2 thập kỷ, nhằm thuyết phục chính phủ các nước hợp tác để giảm lượng khí thải gây ô nhiễm, hạn chế gia tăng nhiệt độ của trái đất. Từ đây, sẽ mở ra một kỷ nguyên phát triển mới trên toàn cầu – kỷ nguyên phát triển phát thải các-bon thấp, với các mô hình sản xuất, tiêu dùng thân thiện với môi trường; hạn chế, tiến tới xóa bỏ sử dụng nhiên liệu hóa thạch, thúc đẩy phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Quá trình ấy có sự tham gia tích cực của các thành phần trong xã hội, từ các nhà hoạch định chính sách, nhà khoa học, công nghệ, giáo dục, hoạt động văn hoá, doanh nghiệp, cả xã hội và cộng đồng, v.v.

Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Việt Nam là một trong những quốc gia đang phát triển và là nước dễ bị tổn thương đặc biệt do tác động của biến đổi khí hậu gây ra. Theo kịch bản biến đổi khí hậu cho Việt Nam phiên bản 2016 1 cho thấy, nhiệt độ trên các vùng, miền của nước ta đều có xu thế tăng so với thời kỳ cơ sở (1986 – 2005), với mức tăng lớn nhất ở khu vực phía Bắc. Nếu theo kịch bản trung bình (RCP4.5), nhiệt độ trung bình/năm trên toàn quốc giai đoạn 2016 – 2035 có mức tăng phổ biến từ 0,6oC – 0,8oC. Còn theo kịch bản cao (RCP8.5), nhiệt độ trung bình/năm ở nước ta vào đầu thế kỷ XXI có mức tăng phổ biến từ 0,8oC – 1,1oC. Ngoài ra, nhiệt độ thấp nhất trung bình và cao nhất trung bình ở cả hai kịch bản trên đều có xu thế tăng lên.

Về lượng mưa, dự báo sẽ tiếp tục tăng trên phạm vi toàn quốc. Theo kịch bản trung bình, lượng mưa trung bình/năm vào đầu thế kỷ này có xu thế tăng ở hầu hết cả nước, phổ biến từ 5% – 10%; vào giữa thế kỷ có mức tăng từ 5% – 15%; trong đó, một số tỉnh ven biển đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ có thể tăng trên 20%. Theo kịch bản cao, lượng mưa trung bình/năm có xu thế tăng tương tự như kịch bản trung bình. Đáng chú ý là vào cuối thế kỷ, mức tăng nhiều nhất có thể lên tới trên 20% và được phân bố ở Bắc Bộ, Trung Trung Bộ, một phần Nam Bộ và Tây Nguyên. Trong đó, lượng mưa 1 ngày lớn nhất và 5 ngày lớn nhất trung bình có xu thế tăng từ 40% – 70% (phía Tây Tây Bắc, Đông Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Thừa Thiên – Huế, vùng Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ). Các khu vực khác có mức tăng phổ biến từ 10% – 30%.

Về mực nước biển dâng trung bình ở Việt Nam có khả năng cao hơn mức trung bình toàn cầu. Theo kịch bản trung bình, đến năm 2050 là 22 cm; năm 2100 là 53 cm. Theo kịch bản cao, các số liệu của các thời điểm tương ứng lần lượt là 25 cm và 73 cm. Dự báo, nếu mực nước biển dâng 1 m và không có các giải pháp ứng phó, khoảng 16,8% diện tích đồng bằng sông Hồng, 1,5% diện tích các tỉnh ven biển miền Trung (từ Thanh Hóa đến Bình Thuận), 17,8% diện tích thành phố Hồ Chí Minh, 38,9% diện tích đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ ngập chìm trong nước.

Trước tình hình đó, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn coi biến đổi khí hậu là vấn đề sống còn đối với quốc gia, dân tộc; từ đó, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, ngành, địa phương, lực lượng tích cực, chủ động ứng phó trên mặt trận này, đạt nhiều kết quả quan trọng. Về nhận thức, Việt Nam đã sớm tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (Công ước khí hậu), Nghị định thư Kyoto. Đặc biệt, ngày 22-4-2016, Việt Nam đã cùng 175 quốc gia trên thế giới ký Thỏa thuận Pa-ri tại Niu-Y-oóc (Mỹ). Cùng với đó, nhiều hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu được thực hiện. Qua đó, nhận thức của các cấp, ngành, địa phương và toàn dân về biến đổi khí hậu cùng nguy cơ tác động của nó đối với các lĩnh vực đời sống xã hội từng bước được nâng cao.

Việc triển khai thực hiện các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính có nhiều chuyển biến tích cực. Theo đó, kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng đã được xây dựng, thường xuyên cập nhật và công bố. Chương trình mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu được triển khai thực hiện và đã đạt được kết quả bước đầu. Chương trình hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu (SP-RCC) đã xây dựng trên 300 nội dung chính sách, huy động cho ngân sách nhà nước gần 1 tỷ USD. Việc nghiên cứu, đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến một số lĩnh vực, làm cơ sở để xây dựng kế hoạch hành động ứng phó thường xuyên được chú trọng. Năng lực dự báo, cảnh báo, tổ chức thực hiện cùng điều kiện, phương tiện phòng, chống thiên tai ở các khu dân cư, nhất là tại các vùng có nguy cơ cao về thiên tai được nâng lên một bước mới. Các chương trình, dự án về tiết kiệm năng lượng, sử dụng năng lượng mới, tái tạo (năng lượng gió, mặt trời, nhiên liệu sinh học) cùng các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính được triển khai tích cực. Việc thực hiện Chương trình giảm mất và suy thoái rừng, nhằm giữ khả năng hấp thụ khí nhà kính của hệ sinh thái rừng bước đầu phát huy hiệu quả. Ngoài ra, Việt Nam đã sớm xây dựng báo cáo Đóng góp dự kiến (do quốc gia tự quyết định) và trình Ban Thư ký Công ước khí hậu vào tháng 9-2015. Theo đó, chúng ta cam kết giảm 8% so với kịch bản phát triển thông thường (BAU) vào năm 2030 và có thể tăng lên 25% nếu có hỗ trợ tích cực từ cộng đồng quốc tế.

Cùng với kết quả đạt được, thời gian tới, việc thực thi Thỏa thuận Pa-ri vừa mở ra thời cơ cho nước ta trong hợp tác ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là tạo động lực để chúng ta thay đổi mô hình tăng trưởng và cơ hội tranh thủ các nguồn lực (cả nội lực và ngoại lực) để hướng tới một nền kinh tế các-bon thấp; đồng thời, đặt ra những khó khăn, thách thức gay gắt. Trong tương lai gần, biến đổi khí hậu sẽ tiếp tục tác động, gây hậu quả nặng nề đối với đời sống người dân và cả nền kinh tế, nhất là ở các ngành, lĩnh vực nhạy cảm, như: nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản và chăn nuôi. Điều đó đòi hỏi chúng ta, một mặt cần huy động nhiều nguồn lực hơn cho thích ứng và khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra; mặt khác, vẫn phải nỗ lực đảm bảo các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo. Trong khi đó, việc chi phí đầu tư cho cải tiến, đổi mới công nghệ, phát triển năng lượng tái tạo để thay thế cho các nhiên liệu hóa thạch (theo cam kết) không hề nhỏ, tạo áp lực lớn đối với tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra, thực hiện nghĩa vụ của một bên tham gia Thỏa thuận, Việt Nam phải thay đổi cách thức tiến hành kiểm kê khí nhà kính cũng như chế độ báo cáo theo phương thức: chuyển từ mục tiêu mang tính tương đối sang các tiêu chí có tính định lượng rõ ràng, với các tiêu chuẩn cao hơn. Điều đó cũng sẽ kéo theo nhu cầu lớn về nguồn lực. Đây là những thách thức rất lớn đối với nước ta.

Một số giải pháp chính

Trong thời gian tới, Thỏa thuận Pa-ri sẽ tạo ra bước ngoặt lớn về ứng phó với biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu cũng như ở cấp quốc gia. Để chúng ta có thể tận dụng cơ hội, chuyển hóa thách thức, vừa đảm bảo các mục tiêu tăng trưởng, vừa từng bước phát triển kinh tế gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh theo hướng bền vững, cần triển khai các giải pháp đồng bộ; trong đó, tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:

Một là, trên cơ sở chỉ ra thuận lợi, khó khăn (khi thực hiện Thỏa thuận Pa-ri) đối với Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới, chúng ta cần chủ động xây dựng các kế hoạch, phương án phòng, chống và thích ứng. Trong đó, việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng các-bon thấp, chống chịu cao là một trong những giải pháp tất yếu để phát triển đất nước nhanh hơn, tốt hơn, tránh được bẫy thu nhập trung bình khi tài nguyên thiên nhiên, nhất là than đá, dầu mỏ còn lại không nhiều và không khuyến khích sử dụng. Đồng thời, cần nhấn mạnh yêu cầu thay đổi hành vi và lối sống của toàn xã hội nhằm hướng tới hình thành các mô hình sản xuất và thói quen tiêu dùng bền vững, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên; từ đó, tạo cho mỗi thành viên trong xã hội ý thức chủ động phòng, tránh thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu, góp phần giảm dần thiệt hại về người và tài sản.

Hai là, chủ động rà soát các cơ chế, chính sách ứng với các nội dung của Thỏa thuận; trên cơ sở đó, tiến hành sửa đổi, bổ sung và ban hành những cơ chế, chính sách về ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm phù hợp với những quy định mới sẽ hình thành trên quy mô toàn cầu và khu vực trong tương lai. Trước mắt, cần tổ chức nghiên cứu kỹ những nội dung của Thỏa thuận, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện phù hợp theo quan điểm, mục tiêu và các nhiệm vụ, giải pháp đã nêu trong Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đồng thời, lồng ghép nội dung đó vào quá trình xây dựng, thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế – xã hội của các bộ, ngành và địa phương ngay từ giai đoạn 2016 – 2020 để chuẩn bị các điều kiện cho giai đoạn tiếp theo. Về lâu dài, cần chủ động luật hóa những quy định mang tính ràng buộc của Thỏa thuận vào chính sách, pháp luật của Việt Nam, tiến tới xây dựng Luật Biến đổi khí hậu quốc gia. Cùng với đó, cần sớm ban hành chính sách khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp trong thực hiện mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính theo lộ trình phù hợp, nhằm tiến tới xóa bỏ các chính sách hỗ trợ giá đối với nhiên liệu hóa thạch, kể từ sau năm 2020; thực hiện bù giá đối với các dự án phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, tái chế và sản xuất điện từ chất thải.

Ba là, tăng cường việc tuân thủ, thực thi các quy định quốc tế và đẩy mạnh triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về ứng phó với biến đổi khí hậu. Tích cực nghiên cứu, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu và công cụ phục vụ việc đánh giá, giám sát; xây dựng và vận hành hệ thống báo cáo thống nhất về các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu cũng như việc huy động, sử dụng nguồn hỗ trợ từ Trung ương và địa phương. Tăng cường vai trò giám sát của các tổ chức chính trị – xã hội, người dân nhằm đảm bảo tính minh bạch trong triển khai thực hiện.

Bốn là, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực; hoạt động nghiên cứu khoa học; phát triển công nghệ phù hợp để chuyển đổi mô hình tăng trưởng, sản xuất, tiêu dùng theo hướng phát thải các-bon thấp và cách thức thích ứng chủ động, hiệu quả với biến đổi khí hậu. Coi trọng phát triển một số chuyên ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn, như: vật liệu thông minh, chuyển hóa năng lượng, năng lượng tái tạo.

Năm là, tiếp tục phát huy nội lực, tranh thủ hỗ trợ quốc tế để thực hiện các cam kết của Việt Nam. Trong đó, cần khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân tăng cường đầu tư vào hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu. Sớm hoàn thành việc nghiên cứu, thử nghiệm công tác phát triển thị trường trao đổi tín chỉ các-bon trong nước và tham gia thị trường các-bon toàn cầu để đa dạng hóa nguồn lực đầu tư cho ứng phó với biến đổi khí hậu trong nước và đóng góp tự nguyện về tài chính với cộng đồng quốc tế.

Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu, đã và đang là thách thức gay gắt đối với Việt Nam. Vì thế, thực hiện tốt các giải pháp trên, sẽ tạo cơ sở, tiền đề vững chắc để chúng ta tin tưởng việc tận dụng thành công các cơ hội và hóa giải hiệu quả những thách thức do Thỏa thuận Pa-ri mang lại, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững.

TS. TRẦN HỒNG HÀ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường

1 – Kịch bản này có sử dụng số liệu của 150 trạm quan trắc trên đất liền và hải đảo; số liệu mực nước biển của 17 trạm hải văn và của kỹ thuật đo đạc từ vệ tinh; sử dụng kết quả cập nhật các mô hình khí hậu toàn cầu.

Cập nhật thông tin chi tiết về Sử Dụng Năng Lượng Tiết Kiệm, Hiệu Quả Của Việt Nam: Thực Trạng Và Vấn Đề Đặt Ra trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!