Bạn đang xem bài viết So Sánh Chức Năng Của Nhà Nước Tư Sản Với Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
43994
Chức năng của nhà nước tư sản
Bản chất của nhà nước tư sản thể hiện thông qua các chức năng đối nội và đối ngoại của nó. Chức năng của nhà nước tư sản chính là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống nhà nước và xã hội.
Qua các giai đoạn phát triển khác nhau của nhà nước tư sản các chức năng của nhà nước tư sản có những thay đổi đáng kể, tuy vậy khi xem xét ta thấy tựu chung nhà nước tư sản có các chức năng đối nội và đối ngoại sau:
* Chức năng củng cố, bảo vệ, duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản
– Củng cố và bảo vệ chế độ tư hữu tư sản
Tất cả các nhà nước tư sản đều coi quyền tư hữu là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Thông qua pháp luật các nhà nước tư sản đã thiết lập và bảo vệ quyền tư hữu cùng với sự giúp đỡ của tất cả bộ máy bạo lực và các biện pháp khác. Song ở các giai đoạn phát triển khác nhau, nhà nước tư sản đã thực hiện chức năng này cũng khác nhau, thích ứng với hoàn cảnh kinh tế của mỗi giai đoạn. Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, nhà nước tư sản bảo vệ quyền tư hữu của toàn bộ giai cấp tư sản. Hiện nay, nhà nước tư sản bảo vệ quyền tư hữu của những nhóm tư bản độc quyền dưới nhiều hình thức khác nhau, như: chuyển sở hữu của nhóm tư bản độc quyền đang bị đe doạ sang sở hữu nhà nước, tạo cho nó những độ quyền trong đầu tư hoặc khai thác tín dụng, giúp đỡ các nhóm tư bản độc quyền mở rộng thị trường ra bên ngoài.
– Trấn áp các giai cấp bị trị về mặt chính trị
Đây là hoạt động thường xuyên của nhà nước tư sản nhằm bảo vệ địa vị thống trị về chính trị của giai cấp tư sản. Tuy vậy hoạt động này cũng có những biểu hiện khác nhau. Trong giai đoạn đầu, để bảo vệ địa vị thống trị của mình, nhà nước tư sản thướng sử dụng bộ máy bạo lực đàn áp trực tiếp các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong giai đoạn hiện nay, nhà nước tư sản vẫn duy trì sự đàn áp chính trị nhưng dưới những hình thức, phương pháp ngụy trang tinh vi hơn, như: quy định các hình thức, thể thức ứng cử, bầu cử …
– Trấn áp giai cấp bị trị về mặt tư tưởng
Một mặt nhà nước tư sản luôn tuyên truyền về tinh thần dân chủ đa nguyên, nhưng trên thực tế trong tất cả các giai đạo phát triển các nhà nước tư sản luôn tìm mọi cách nhằm đảm bảo địa vị độc tôn của ý thức hệ tư sản, ngăn cản việc truyền bá những tư tưởng cách mạng, tiến bộ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hoạt động này được bảo đảm bởi sự liên kết giữa nhà nước tư sản với các thế lực tôn giáo và hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng.
* Chức năng kinh tế
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do chức năng này chưa được chú trọng. Chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhà nước tư sản từng bước can thiệp vào lĩnh vực kinh tế, và khi chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thì sự can thiệp này được tăng cường và làm nảy sinh chức năng mới – chức năng kinh tế.
Mục đích của chức năng này nhằm tạo ra các điều kiện, các đảm bảo vật chất, kỹ thật, pháp lý và chính trị cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn tư bản, đảm bảo sự tăng trưởng của nền kinh tế tư bản, ngăn ngừa và khắc phục những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế.
Để thực hiện chức năng này, nhà nước tư sản sử dụng hàng loạt các hình thức và phương pháp như: sử dụng hệ thống đòn bẩy kinh tế, các kích thích kinh tế thể hiện trong các tác động mang tính hành chính – kinh tế lên hệ thống các quan hệ kinh tế.
Sự biểu hiện của chức năng này thể hiện:
Nhà nước tư sản căn cứ vào tình hình kinh tế – xã hội để xây dựng và đưa ra các chương trình kinh tế cụ thể.
Nhà nước thông qua chương trình đầu tư tài chính nhằm phục vụ trực tiếp cho các chương trình và mục tiêu kinh tế.
Nhà nước đưa ra và thực hiện các chính sách tài chính – tiền tệ, chính sách thuế, chính sách thị trường thích hợp với điều kiện và nhu cầu phát triển kinh tế.
Nhà nước áp dụng các biện pháp để bảo vệ nền sản xuất trong nước trước sức ép của thị trường kinh tế quốc tế.
* Chức năng xã hội
Nhà nước tư sản thực hiện chức năng xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội như: việc làm, thất nghiệp, dân số, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, vấn đề bảo trợ xã hội cho người già, giải quyết các tệ nạn xã hội…Chính sách xã hội và việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước tư sản tuỳ thuộc vào tương quan các lực lượng chính trị trong nhà nước tư sản ở các giai đoạn phát triển và trong từng quốc gia cụ thể.
* Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược và chống phá các phong trào cách mạng thế giới
Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược để mở rộng thuộc địa là chức năng đối ngoại chủ yếu của nhà nước tư sản thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do. Các nhà nước tư sản tìm mọi cách xâm lược các vùng đất mới hoặc gây chiến tranh với nhà nước tư sản khác để chia lại thế giới, xác định quyền thống trị hay mở rộng vùng ảnh hưởng của mình.
Khi hệ thống xã hội chủ nghĩa được thiết lập, chức năng đối ngoại chủ yếu của các nhà nước tư sản là tiến hành chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, đe doạ, chia rẽ phong trào giải phóng dân tộc.
* Chức năng đối ngoại hoà bình, hợp tác quốc tế
Trong giai đoạn hiện nay bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi vì thế nhiều nhà nước tư sản có sự thay đổi tích cực trong quan hệ đối ngoại, giải quyết các vấn đề quốc tế thông qua đối thoại với những chính sách đối ngoại mềm dẻo. Bên cạnh đó, các nhà nước tư sản tăng cường mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực phát triển xã hội như: kinh tế, văn hoá – xã hội, môi trường, khoa học – kỹ thuật, các vấn đề nhân đạo… với các nước có chế độ chính trị khác nhau.
* Chức năng đối nội
– Chức năng kinh tế:
Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, chức năng kinh tế của Nhà nước có sự khác nhau nhất định nhưng bao giờ nó cũng là chức năng cơ bản, quan trọng nhất của nước ta. Chức năng kinh tế của Nhà nước Việt Nam có những nội dung chủ yếu sau đây:
– Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
– Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt; tạo môi trường kinh doanh cho cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân phát triển; phát triển đa dạng kinh tế tư bản Nhà nước; tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển.
+ Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN, hình thành đồng bộ cơ chế quản lý kinh tế thị trường định hướng XHCN.
– Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế.
– Chức năng xã hội:
Là toàn bộ các mặt hoạt động của Nhà nước nhằm tác động vào các lĩnh vực cụ thể của xã hội. Trong điều kiện đất nước đang chuyển sang cơ chế thị trường chức năng xã hội của Nhà nước ta hướng vào những mục tiêu cơ bản sau đây:
– Xác định giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Coi trọng việc phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
– Giải quyết việc làm, chăm lo cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động.
– Thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo, thực hiện các chính sách xã hội để bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng. Chăm sóc sức khoẻ của nhân dân, chăm sóc và bảo vệ trẻ em.
– Chức năng đảm bảo sự ổn định an ninh – chính trị, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, bảo vệ trật tự an toàn xã hội.
– Giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước, giữ vững trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc những thành quả của cách mạng, phục vụ sự nghiệp xây dựng tổ quốc luôn là một chức năng quan trọng của Nhà nước ta.
– Nhà nước quy định các quyền tự do, dân chủ của công dân, xác lập cơ chế bảo vệ và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo ra các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội để công dân thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các quyền tự do, dân chủ của mình, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm đến các quyền tự do, dân chủ của công dân.
– Bảo vệ trật tự, an toàn xã hội là một trong những đòi hỏi bức thiết của sự nghiệp đổi mới, Nhà nước đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, tiến hành các biện pháp cần thiết để ngăn ngừa tội phạm, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.
* Các chức năng đối ngoại
Hoạt động đối ngoại của Nhà nước ta là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc tạo ra các điều kiện quốc tế thuận lợi. Hoạt động đối ngoại của Nhà nước ta trong điều kiện hiện nay bao gồm:
– Bảo vệ vững chắc Nhà nước xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa mọi nguy cơ xâm lăng từ các quốc gia bên ngoài.
– Thiết lập, củng cố và phát triển các mối quan hệ và sự hợp tác với tất cả các nước có chế độ chính trị – xã hội khác nhau trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
– Thiết lập và tăng cường các nỗ lực chung trong cuộc đấu tranh vì một trật tự thế giới mới, vì sự hợp tác bình đẳng và dân chủ, vì hoà bình và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
– Chức năng tổ chức, xây dựng được C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin coi là có tính sáng tạo của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm cải biến trật tự chủ nghĩa tư bản và hình thành trật tự chủ nghĩa xã hội và đây là chức năng căn bản nhất trong hai chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
– Chức năng trấn áp nhằm chống lại sự phản kháng của kẻ thù giai cấp đang chống phá công cuộc tổ chức, xây dựng xã hội mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Chức Năng Xã Hội Của Nhà Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
DƢƠNG THỊ THỤC ANH
CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI – 2004
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
DƢƠNG THỊ THỤC ANH
CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mã số: 5.01.02
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hàm Giá
HÀ NỘI – 2004
1
Chƣơng I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG
6
XÃ HỘI CỦA NHÀ NƢỚC CHXHCN VIỆT NAM
1.1. Khái niệm chức năng xã hội của Nhà nước CHXHCN Việt Nam 1.1.1. Chức năng của nhà nước và chức năng xã hội của nhà nước 1.1.2. Chức năng xã hội của Nhà nước CHXHCN Việt Nam 1.2. Những yếu tố chính ảnh hưởng đến chức năng xã hội của Nhà nước CHXHCN Việt Nam 1.2.1. Yếu tố kinh tế 1.2.2. Yếu tố cơ cấu xã hội 1.2.3. Yếu tố truyền thống văn hoá, tâm lý dân tộc 1.2.4. Hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá
Chƣơng II:THỰC HIỆN CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ
33
NƢỚC
CHXHCN VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Thực trạng việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước CHXHCN Việt Nam trên một số lĩnh vực 2.1.1. Lĩnh vực giáo dục – đào tạo 2.1.2. Lĩnh vực lao động – việc làm và điều tiết thu nhập 2.1.3. Lĩnh vực chăm sóc y tế và bảo vệ sức khoẻ nhân dân 2.1.4. Lĩnh vực bảo đảm xã hội 2.2 . Giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng xã hội của Nhà nước CHXHCN Việt Nam 2.2.1. Một số quan điểm 2.2.2. Một số giải pháp chủ yếu
KẾT LUẬN
65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
67
MỞ ĐẦU
1 . Tính cấp thiết của đề tài Trong điều kiện hiện nay, trước những yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước và đặc biệt là yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc điều chỉnh và tổ chức thực hiện tốt chức năng xã hội của nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về phương diện lý luận nhận thức và thực tiễn . Trước đây, trong quá trình xây dựng nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa hầu như người ta mới chỉ quan tâm nhấn mạnh đến chức năng thống trị (chuyên chính của nhà nước) mà ít đề cập đến vai trò to lớn của chức năng xã hội. Mặt khác, thực tiễn hoạt động của một số nhà nước Tư sản hiện đại trong những chừng mực nhất định, chức năng xã hội của nhà nước cũng đã được thực hiện khá tốt trên một số lĩnh vực như : xây dựng phúc lợi công cộng xã hội, xây dựng quỹ từ thiện, bảo vệ thiên nhiên môi trường… Những hoạt động này đã dẫn đến sự ngộ nhận của một số người về bản chất của nhà nước Tư sản, đánh giá cao hoạt động xã hội của những nhà nước này. Trong những năm gần đây, trước những thay đổi to lớn của đời sống xã hội và quốc tế, dưới ảnh hưởng của những tiến bộ, những thành tựu của khoa học – công nghệ, sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân trở thành một tất yếu như Mác đã từng tiên đoán, thì xu hướng chung của các nhà nước trên thế giới là hướng các hoạt động vào các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm tạo sự ổn định về xã hội, thực hiện tốt chức năng thống trị của mình. Ở nước ta từ sau thành công Cách mạng Tháng Tám, trong tất cả các giai đoạn phát triển của mình với tính cách là nhà nước của dân, do dân và vì dân, trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể nhà nước đã thực hiện chức năng xã hội ở những mức độ và hình thức nhất định. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi, trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hiến pháp càng khẳng định rõ vai trò chức năng xã hội của Nhà nước ta, Hiến pháp 1992 đã khẳng định: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân…, xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no tự do, hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn diện”(Điều3). Như vậy, trên thực tế việc thừa nhận và phát huy tốt chức năng xã hội của nhà nước ngày càng trở thành yêu cầu khách quan. Do đó, vấn đề chức năng xã hội của nhà nước hiện nay đang trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực ( kinh tế, chính trị, pháp lý…).Tuy nhiên, cả về lý luận và thực tiễn từ giác độ triết học, chức năng xã hội của nhà nước vẫn là một vấn đề còn tương đối mới mẻ, cần được tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống, góp phần bổ sung những lý luận khoa học cho công cuộc cải cách và hoàn thiện bộ máy nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Chính yêu cầu này đã thôi thúc
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Vũ Hồng Anh (2001), Về cơ chế thực hiện quyền lực ở nước ta. (Sách: Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam, Lê Minh Thông (chủ biên)), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2.
Vũ Tuấn Anh (chủ biên), (1994), Vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
3.
Báo Nhân dân ngày16/3/1999
4.
Báo Nhân dân ngày 20/8/2000
5.
Báo thanh niên ngày 9/5/2001
6.
Nguyễn Đức Bình, Trần Ngọc Hiên, Đào Trọng Truyến, Nguyễn Văn Thảo, Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), (1999), Đổi mới và tăng
cường hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7.
Bộ giáo dục và đào tạo(1994), Triết học tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
8.
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phần III: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam 1994, Tập 1: Lý luận về nhà nước, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
9.
Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến, (1996), Góp phần đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách, bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Các văn bản pháp luật về chế độ ưu đãi thương binh, gia đình liệt sỹ Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (1986-1994). 11. Chủ quyền kinh tế trong một thế giới đang toàn cầu hóa (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Nguyễn Đăng Dung (2000), Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy Nhà nước, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 13. Lê Sỹ Dược (2000), Cải cách bộ máy hành chính cấp Trung ương trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Trần Thái Dương (1999), “Chức năng nhà nước – quan điểm và nhận thức”. Tạp chí Luật học (2). 15. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 16. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà Nội. 17. Đảng cộng sản Việt Nam(1991),Văn kiện hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VII, Nxb Sự thật, Hà Nội
18. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Đảng cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ III Ban chấp hành trung ương Khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. “Đại hội VIII – Những tìm tòi và đổi mới”, Thông tin chuyên đề, Trung tâm thông tin tư liệu Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 21. Đảng cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Trần Ngọc Đường (chủ biên) (1999), Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Trần Ngọc Đường (chủ biên) (2000), Bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Nguyễn Duy Gia (1994), Nâng cao quyền lực, năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả của pháp luật, Nxb Lao động, Hà Nội. 26. Nguyễn Duy Gia (1996), Cải cách một bước bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Giáo trình triết học Mác – Lênin (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 28. James Goldsmith (1997): Cạm bẫy phát triển: Cơ hội và thách thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. Hồ Chí Minh (1989) toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 30. Hồ Chí Minh (1989) toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Hoàng Văn Hảo (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới sự hình thành và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32.
Trần Trọng Hựu (chủ biên) (1995), Hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nước nhằm tăng cường hiệu lực quản lý các vấn đề thuộc chính sách xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Trần Trọng Hựu (chủ biên) (1994), Chính sách xã hội những vấn đề pháp lý, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 34. Trần Đình Hoan (chủ biên) (1996), Chính sách xã hội về đổi mới cơ chế việc quản lý thực hiện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Nguyễn Duy Hùng (1996), Vai trò quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường – Kinh nghiệm các nước ASEAN, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Phạm Hảo, Võ Văn Tiến, Mai Đức Lộc (2000), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở một số tỉnh miền Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37.
Hiến pháp Việt Nam (1946,1954,1980, 1992) (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Kinh tế thị trường và những vấn đề xã hội (1997), Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội. 39. C.Mác – Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 40. C.Mác – Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 41. C.Mác – Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 42. V.I.Lênin (1974) Toàn tập, Tập 1, Nxb Tiến bộ Mát xcơ va. 43. V.I.Lênin (1976) Toàn tập, Tập 20, Nxb Tiến bộ Mát xcơ va. 44. V.I.Lênin (1976) Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ Mát xcơ va. 45. Phạm Xuân Nam (chủ biên) (1997), Đổi mới chính sách xã hội – Luận cứ và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46.
Phạm Hữu Nghị (2000), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách, pháp luật xã hội, Viện Nghiên cứu Nhà nước – Pháp luật, Nxb Công An nhân dân, Hà Nội.
47.
Nhà nước, thị trường và viện trợ (1995), Nxb Khoa học xã hội.
48. Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi (1998), Ngân hàng thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. Niên giám Thống kê tóm tắt (1999), Nxb Thống kê, Hà Nội. 50. Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội. 51. Nguyễn Phan Quang, Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hoà, Ngô Văn Lý, Nguyễn Thành Nam, Phạm Văn Cảnh (1995), Mấy vấn đề về quản lý nhà nước và củng cố pháp quyền trong lịch sử Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 52. Phạm Ngọc Quang (1992), “Quyền lực – một phạm trù cơ bản của chính trị học”, Nhà nước và pháp luật,(4) 53.
Phạm Ngọc Quang, Trần Thị Ngọc Hiên (1999), “Mối liên hệ giữa bản chất giai cấp, chức năng xã hội của Nhà nước và cải cách nền hành chính Nhà nước trong thời kỳ đổi mới ở nước ta” Tạp chí Triết học (1)
54. Phạm Ngọc Quang, Nguyễn Viết Thông (2000), Góp phần tìm hiểu sự phát triển tư duy lãnh đạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực chủ yếu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 55. Phạm Ngọc Quang, Trần Đình Nghiêm (chủ biên) (2001), “Thời kỳ đổi mới và sứ mệnh của Đảng ta”, Nghiên cứu văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 56. Bùi Thanh Quất (1996), “Suy nghĩ thêm về quyền lực chính trị như một phạm trù khoa học”, Triết học,(5). 57. Nguyễn Duy Quý (1992), “Xây dựng nhà nước pháp luật; một số suy nghĩ về vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta”, Nhà nước và Pháp luật,(2) 58. Quyền con người – Quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam (1993), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 59. Lê Hữu Tầng (1993), “Tư tưởng C.Mác về công bằng và bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội,” Triết học, (2).
60. Bùi Đình Thanh (1993), Chính sách xã hội – Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn, Chương trình khoa học cấp Nhà nước, KX-04. 61. Hà Huy Thành (2000), Những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 62. Alvin Toffler và Heidi Toffler (1996): Tạo dựng một nền văn minh mới, Chính trị của làn sóng thứ 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 63. Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực, kinh nghiệm thế giới và thực tiễn ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 64. Tìm hiểu học thuyết Mác về hình thái kinh tế – xã hội (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 65. Nguyễn Cửu Việt (chủ biên) (2003), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 66. Võ Khánh Vinh (1994), Vai trò của pháp luật trong điều kiện mới của Việt Nam “trong xã hội và pháp luật”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 67. Nguyễn Hữu Vui (2002), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 68. Về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1997), sách tham khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ !
VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ !
VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ !
VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ !
VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ !
VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ !
VUI LÒNG TẢI VỀ ĐỂ XEM BẢN FULL ĐẦY ĐỦ !
Xây Dựng Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mà thông qua đó, đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội; là một tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội; đó là một nhà nước kiểu mới, thay thế nhà nước tư sản nhờ kết quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; là hình thức chuyên chính vô sản được thực hiện trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Với tư cách là một trong những tổ chức cơ bản nhất của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân. Đó là một công cụ quản lý do chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra nhằm thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân, đồng thời cũng thông qua nó, giai cấp công nhân và chính đảng của mình thực hiện sự lãnh đạo đối với toàn xã hội trong quá trình bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân, được thể hiện tập trung qua hai chức năng chủ yếu của nó, đó là chức năng thống trị giai cấp và chức năng xã hội.
b) Đặc trưng, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Khác với các hình thức nhà nước đã từng có trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt. Đó là kiểu nhà nước có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ cơ bản để thực hiện quyền lực của nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản.
Hai là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ chuyên chính giai cấp, nhưng vì lợi ích của tất cá những người lao động tức là tuyệt đại đa số nhân dân; thực hiện sự trấn áp đối với những lực lượng chống đối, phá hoại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn xem mặt tổ chức, xây dựng là đặc trưng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa, của chuyên chính vô sản. V.I.Lênin cho rằng, chuyên chính vô sản không phải là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng không phải chủ yếu là bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là yếu tố cơ bản của nên dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo V.I.Lênin, con đường vận động, phát triển của nó là ngày càng hoàn thiện các hình thức đại diện của nhân dân, mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Năm là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt, “nhà nước không còn nguyên nghĩa”, là “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế – xã hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước cũng không còn, nhà nước “tự tiêu vong”. Đây cũng là một đặc trưng nổi bật của nhà nước vô sản.
Những đặc trưng cơ bản đó cho thấy chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa biểu hiện tập trung ở việc quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực bằng pháp luật.
Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thực hiện cả bằng tổ chức có hiệu quả công việc xây dựng toàn diện xã hội mới, cả bằng việc sử dụng những công cụ bạo lực để đập tan sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững an ninh xã hội.
Bạo lực, trấn áp là cái vốn có của mọi nhà nước, do đó bạo lực, trấn áp cũng là cái vốn có của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đều cho rằng, với bản chất của nhà nước vô sản, thì việc tổ chức, xây dựng mang tính sáng tạo nhằm cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chức năng căn bản, chủ yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Khi xác định những nấc thang, những giai đoạn phát triển của một cuộc cách mạng xã hội do giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm đi tới giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và phát triển toàn diện con người, C.Mác và Ph.Ăngghen đều cho rằng, việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực nhà nước mới chỉ là giai đoạn đầu tiên. Trong giai đoạn tiếp theo, phải sử dụng quyền lực nhà nước “để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất”. Như vậy, rõ ràng chức năng tổ chức và xây dựng phải là chức năng chủ yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề này, V.I.Lênin khẳng định, việc tích cực xây dựng chủ nghĩa cộng sản, sáng tạo ra một xã hội mới, đó là chức năng quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, quan trọng hơn cả việc đập tan sự phản kháng của giai cấp tư sản.
Từ hai chức năng trên, nhà nước xã hội chủ nghĩa có những nhiệm vụ chính là: quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế: cải thiện không ngừng đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, quản lý văn hóa – xã hội, xây dựng nên văn hóa xã hội chủ nghĩa. thực hiện giáo dục – đào tạo con người phát triển toàn diện, chăm sóc sức khỏe nhân dân… Ngoài ra, nhà nước xã hội chủ nghĩa còn có chức năng, nhiệm vụ đối ngoại nhằm mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì sự phát triển và tiến bộ xã hội đối với nhân dân các nước trên thế giới.
Từ thực tế xây dựng xã hội mới ở nước Nga Xôviết. V.I.Lênin đã làm rõ nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa trên hai lĩnh vực kinh tế và xã hội
Đối với lĩnh vực kinh tế, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà nước vô sản là phải nhanh chóng phát triển mạnh số lượng sản phẩm, cùng cố kỷ luật lao động mới và nâng cao năng suất lao động.
Đối với lĩnh vực xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải xây dựng được quan hệ xã hội mới, hình thành những tổ chức lao động mới, tập hợp được đông đảo những người lao động có khả năng vận dụng những thành tựu của khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện từng bước cải tạo những người tiểu sản xuất hàng hóa thông qua những tổ chức thích hợp.
c) Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa
C.Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, giai cấp công nhân khi thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người và mọi sự tha hóa của con người do chế độ tư hữu sản sinh ra, thì trước hết họ phải cùng với nhân dân lao động “phá hủy nhà nước tư sản” chiếm lấy chính quyền thiết lập chuyên chính vô sản. Bởi vì, “giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nên chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản .
Sau khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân phải nắm vững công cụ chuyên chính, phải xây dựng nhà nuớc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, trở thành một công cụ trấn áp các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Sự cần thiết tất yếu phải xác lập chuyên chính vô sản, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh còn xuất phát từ thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ còn tồn tại các giai cấp bóc lột, chúng hoạt động chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó khiến cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động thông qua nhà nước phải trấn áp bằng bạo lực khi cần thiết. V.I.Lênin xem dấu hiệu tất yếu, điều kiện bất buộc của chuyên chính là trấn áp bằng bạo lực những kẻ bóc lột, phản động với tính cách là một giai cấp. Đồng thời, trong thời kỳ quá độ cũng còn có các giai cấp, tầng lớn trung gian khác và do địa vị kinh tế – xã hội vốn có, các giai cấp này thường dao động, không thể tự mình đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước thực tế đỏ, giai cấp công nhân phải tuyên truyền, thuyết phục, lôi cuốn họ đi theo mình trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trò là thiết chế cần thiết bảo đảm sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với toàn xã hội.
Để mở rộng dân chủ tới mức tối đa đối với mọi tầng lớp nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm những giá trị dân chủ chuyên chính của nhân dân, đòi hòi phải có một thiết chế nhà nước phù hợp. Chính vì vậy trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước phải được củng cố, xây dựng để trở thành công cụ bảo vệ và phát triển thành quả của dân chủ. Dân chủ cần phải có chuyên chính để giữ lấy dân chủ, để những hành vi gây tác hại tới quyền dân chủ của nhân dân được xử lý kịp thời… Các quyền đó phải được thể chế hóa trong hiến pháp, pháp luật và được thực hiện bằng những thiết chế tương ứng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa tất yếu gắn liền với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quá trình này cho thấy, dân chủ và pháp luật, dân chủ và kỷ cương không bài trừ và phủ định nhau, trái lại, đó chính là sự thống nhất biện chứng, là điều kiện, tiền đề tồn tại và phát triển của nhau.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Với ý nghĩa đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa là phương thức, phương tiện, là một công cụ chủ yếu của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, để bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa – một trong những công cụ chủ yếu của quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, là một yêu cầu tất yếu khách quan trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
chúng tôi
Chức Năng Của Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Và Một Số Nhiệm Vụ Cơ Bản Thể Hiện Chức Năng Xã Hội Của Nhà Nước Ta
Chúng ta đều biết, chức năng của nhà nước vừa bị quy định, vừa là sự thể hiện bản chất của nhà nước. Tuỳ theo các tiêu chí khác nhau mà chức năng của nhà nước được đề cập, xem xét dưới nhiều góc độ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới hạn ở phạm vi xem xét nhà nước từ góc độ tính chất của quyền lực chính trị mà theo đó, bất kỳ nhà nước nào cũng đều có chức năng thống trị chính trị của giai cấp (chức năng giai cấp) và chức năng xã hội.
Theo quan niệm chung, chức năng giai cấp là cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước bao giờ cũng là công cụ chuyên chính của một giai cấp nhất định. Mọi nhà nước đều sẵn sàng sử dụng bất cứ công cụ, biện pháp nào có thể có để bảo vệ sự thống trị của giai cấp mình. Còn chức năng xã hội của nhà nước là cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước đều phải thực hiện việc quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, đồng thời phải chăm lo một số công việc chung của toàn xã hội. Trong một giới hạn xác định, nhà nước phải hoạt động để thoả mãn những nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nó. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng trước đây, để giữ nhà nước trong tay mình, giai cấp thống trị nào cũng buộc phải nhân danh xã hội mà quản lý những công việc chung. Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề chung của xã hội sẽ tạo điều kiện để duy trì xã hội trong vòng trật tự theo quan điểm và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Như vậy, việc thực hiện chức năng xã hội theo quan điểm và giới hạn của giai cấp cầm quyền là phương thức, là điều kiện để nhà nước đó thực hiện vai trò thống trị giai cấp của nó. Nói về mối quan hệ biện chứng giữa hai chức năng này, Ph.Ăngghen viết: “Ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội của nó”(1).
Đề cập đến chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong khi chú trọng đến chức năng giai cấp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn coi chức năng xã hội là thuộc tính cơ bản nhất và quan trọng nhất của nó. Nói về vấn đề này, V.I.Lênin cho rằng, chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng không phải chủ yếu là bạo lực, mà mặt cơ bản của nó là không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân cùng với việc tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ông viết: “Lần đầu tiên chuyên chính vô sản, tức là thời kỳ quá độ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, sẽ đem lại một chế độ dân chủ cho nhân dân, cho số đông, đi đôi với sự trấn áp tất yếu đối với số ít, đối với bọn bóc lột”(2). Như vậy, có thể nói, bản thân chuyên chính vô sản, theo quan điểm mácxít, tự nó đã thể hiện sự thống nhất giữa chức năng giai cấp và chức năng xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, về thực chất, là chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và vì thế, trong nhà nước này, nền dân chủ phải là nền dân chủ đầy đủ nhất, rộng rãi nhất và thực chất nhất – đó là nền dân chủ bao quát toàn diện mọi lĩnh vực đời sống xã hội và lấy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế làm nền tảng. Chủ nghĩa xã hội sẽ không thể tồn tại và phát triển được nếu thiếu dân chủ, thiếu sự thực hiện một cách đầy đủ và không ngừng mở rộng dân chủ. “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn…”(3) đã được V.I.Lênin coi là một trong những nhiệm vụ cấu thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, là một vấn đề có tính quy luật của sự phát triển và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa – xã hội không còn các giai cấp đối kháng, nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn thực hiện hai chức năng cơ bản, nhưng cơ chế và mục đích thực hiện hai chức năng đó đã có sự thay đổi căn bản. Cũng như mọi nhà nước khác đã từng tồn tại trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa muốn thực hiện được chức năng giai cấp của mình, trước hết phải làm tốt chức năng xã hội, đặc biệt là việc không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân, sử dụng sức mạnh, lực lượng của mình để bảo vệ và bảo đảm tuyệt đối các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ sở, là điều kiện tiên quyết để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo và giữ vững địa vị thống trị xã hội về mặt chính trị, nghĩa là có đầy đủ khả năng để trấn áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch. Điều này có nghĩa là, chức năng giai cấp và chức năng xã hội luôn có mối quan hệ biện chứng, cái nọ làm tiền đề và là cơ sở cho cái kia. Tuy nhiên, trong điều kiện giai cấp vô sản đã giành được chính quyền và thiết lập được nhà nước của mình, thì chức năng giai cấp là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; còn chức năng xã hội (mà trong đó, việc tổ chức xây dựng xã hội mới là chủ yếu) là nhiệm vụ cơ bản, quyết định trực tiếp sự thắng lợi hay thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự khác nhau căn bản giữa việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư bản chủ nghĩa là ở chỗ, nhà nước tư bản chủ nghĩa thực hiện chức năng xã hội không phải với tư cách là mục đích, mà là phương tiện để củng cố, đảm bảo sự thống trị chính trị và kinh tế của thiểu số trong xã hội là giai cấp tư sản đối với đa số là giai cấp công nhân và những người lao động khác. Theo đó, việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước tư bản chủ nghĩa luôn bị giới hạn trong một phạm vi chật hẹp và bị chi phối bởi quan điểm của giai cấp tư sản, xuất phát từ những lợi ích kinh tế và chính trị ích kỷ của một thiểu số dân cư trong xã hội. Ngược lại, việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa được xác định là mục đích chứ không phải là phương tiện để nhà nước ấy đảm bảo sự thống trị chính trị của nó. Chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhằm đảm bảo quyền dân chủ cho đại đa số những người lao động, xây dựng những thiết chế, cơ sở để quyền làm chủ đó được thực hiện một cách thực sự trong thực tế.
2. Một số nhiệm vụ cơ bản thể hiện chức năng xã hội của nhà nước ta
2.1. Không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân
Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ do nhân dân làm chủ và do vậy, nhà nước của chế độ này có nhiệm vụ tạo điều kiện để cho nhân dân tham gia một cách tích cực và rộng rãi vào tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong mọi hoạt động, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng, trừng trị kịp thời mọi hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ: “Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân”(4).
Nhiệm vụ này cũng đã được chúng ta thể chế hoá cụ thể trong Hiến pháp: “Công dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham gia công việc của nhà nước và xã hội, có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng”(6). Chính điều đó đã phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho người dân vừa thực hiện quyền làm chủ gián tiếp thông qua nhà nước, vừa làm chủ trực tiếp ở cơ sở.
Ở nước ta hiện nay, các cơ quan quyền lực nhà nước đều do dân bầu ra, chính quyền nhà nước đã trở thành công cụ sắc bén và có hiệu quả nhất để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng nhà nước, đó là dân chủ đại diện (dân chủ gián tiếp). Quyền làm chủ của nhân dân còn được thực hiện một cách trực tiếp thông qua việc tham gia vào công việc tổ chức nhà nước, tham gia bộ máy nhà nước, quyết định các chủ trương, chính sách của Nhà nước ở các cấp… Tuy nhiên, mức độ thực hiện dân chủ trực tiếp còn phụ thuộc vào phẩm chất, trình độ, năng lực của chính quyền nhà nước; vào trình độ dân trí, trước hết là trình độ văn hoá chính trị, văn hoá pháp luật; vào đặc điểm lịch sử và truyền thống chính trị của dân tộc… Như vậy, thực hiện dân chủ phải là một quá trình lâu dài, từ thấp đến cao. Không thể và không bao giờ có “dân chủ tuyệt đối” hay “dân chủ nói chung”, đặc biệt là không thể có ngay và trên mọi mặt dân chủ trực tiếp trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, nhất là về kinh tế. Chính vì vậy, ở nước ta hiện nay, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện, đồng thời thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng hướng, có hiệu quả. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua đại biểu của mình (dân chủ gián tiếp), đồng thời phát huy cao độ quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân thông qua các tổ chức quần chúng, xã hội, nhất là dân chủ ở cơ sở. Cụ thể là:
– Xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
– Nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp, trước hết ở cấp cơ sở.
2.2. Tổ chức và quản lý kinh tế
Nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ một nền kinh tế chậm phát triển, còn phổ biến là sản xuất nhỏ, nên nhiệm vụ tổ chức, quản lý kinh tế của nhà nước là hết sức khó khăn, phức tạp, chính vì thế mà nhiệm vụ phát triển kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt và là một nhiệm vụ khá mới mẻ. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp, song song với đó lại phải vừa thực hiện nhiệm vụ giữ vững an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội, vừa phải bảo đảm ổn định và cải thiện không ngừng đời sống nhân dân về mọi mặt, nhiệm vụ tổ chức, xây dựng của Nhà nước ta càng trở nên nặng nề. Trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, thứ VIII, thứ IX và mới đây, lần thứ X, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá những tư tưởng, quan điểm lớn về phát triển kinh tế đất nước: phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với sự đa dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với “những hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(7); thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; phát huy mạnh mẽ vai trò của khoa học và công nghệ; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư, kinh tế đối ngoại; v.v..
Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, đường lối kinh tế thể hiện rõ nhiệm vụ tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta xác định là: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững;…
2.3. Tổ chức và quản lý văn hoá, khoa học, giáo dục
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là “xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”(8). Để có thể xây dựng thành công một xã hội như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải tổ chức, quản lý sự nghiệp giáo dục, văn hoá, phát triển khoa học và công nghệ – đó được coi là “quốc sách hàng đầu” để phát huy nhân tố con người. Thực hiện nhiệm vụ này, cần phải xây dựng và phát triển nền văn hoá mới, con người mới, nền khoa học và công nghệ hiện đại – đó cũng chính là những động lực quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ này được biểu hiện cụ thể ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; thực hiện lối sống cần kiệm, văn minh, bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác, chống lại mọi biểu hiện của các loại văn hoá ngoại lai không lành mạnh.
Thứ hai, phát triển khoa học và công nghệ với bước đi và hình thức thích hợp, bảo đảm cơ sở khoa học cho các quyết định quan trọng của các cơ quan lãnh đạo, quản lý, coi đó là công cụ chủ yếu để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế – xã hội .
Thứ ba, đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ cán bộ, trí thức và những người lao động có tri thức, có tay nghề, có đạo đức cách mạng và tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Đồng thời với đó là việc giáo dục thế giới quan Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho toàn thể nhân dân; đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng, quan điểm xét lại, cơ hội, những luận điệu xuyên tạc, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta.
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã xác định phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những lĩnh vực chủ yếu. Theo đó, việc tổ chức, quản lý văn hoá, khoa học và giáo dục của Nhà nước ta vừa là để thực hiện những nhiệm vụ kinh tế – xã hội trước mắt, vừa là để chuẩn bị cho đất nước bước vào giai đoạn phát triển tiếp theo, hoà nhập (trên cơ sở giữ vững bản sắc riêng và tinh hoa văn hoá của dân tộc) với tiến trình phát triển chung của nền văn hoá, khoa học và giáo dục thế giới. Quan điểm cơ bản của Đảng ta coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội; giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu đã thể hiện rõ ràng nhiệm vụ này của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ này, Nhà nước ta đã tiến hành xây dựng hệ thống các cơ quan tổ chức, quản lý văn hoá, văn học, nghệ thuật, khoa học, giáo dục, các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đào tạo một đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ, đồng thời xây dựng hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật tương xứng với yêu cầu và đáp ứng tốt yêu cầu thực tế của các lĩnh vực cụ thể.
Như vậy, xét một cách tổng thể, nhiệm vụ sáng tạo và xây dựng xã hội mới là nhiệm vụ quan trọng nhất trong chức năng xã hội của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận duy vật biện chứng, xét đến cùng, có thể nói, nhiệm vụ cơ bản và quyết định của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ tổ chức và quản lý kinh tế, bởi một xã hội chỉ có thể ổn định, vận động và phát triển được khi có một cơ sở kinh tế – xã hội phù hợp. Yếu tố kinh tế, nhất là lực lượng sản xuất, xét đến cùng, là yếu tố quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội. Tuy nhiên, xem xét vấn đề này ở góc độ kiến trúc thượng tầng của xã hội – xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thì nhiệm vụ bảo vệ các quyền tự do và không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân là nhiệm vụ quan trọng nhất, bởi việc thực hiện nhiệm vụ này là sự thể hiện trực tiếp nhất bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Cập nhật thông tin chi tiết về So Sánh Chức Năng Của Nhà Nước Tư Sản Với Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!