Bạn đang xem bài viết Skkn Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Ôn Thi Tốt Nghiệp Thpt Qg Cho Lớp 12A1, 12A2 Ở Trường Thpt Quan Sơn được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
I. Lí do chọn đề tài Đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học môn Lịch sử nói riêng là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu hiện nay, không chỉ của những người làm công tác giảng dạy, mà ngay cả các cấp các Ngành ở Trung ương và địa phương. Làm thế nào để biến những quan điểm đổi mới thành kết quả hiện thực? Chất lượng của kỳ thi tốt nghiệp là kết quả suốt 12 năm quá trình tích lũy kiến thức chương trình PTTH. Nâng cao chất lượng của kỳ thi TN THPT sẽ giúp chúng ta giải quyết bài toán khó này. Chúng ta biết Lịch sử là một môn khoa học xã hội, bộ môn có dung lượng kiến thức lớn, trong mỗi tiết học đòi hỏi học sinh không chỉ có khả năng ghi nhớ mà cần có kĩ năng tư duy, so sánh… Vì vậy, để lĩnh hội một cách có hệ thống chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài học, để tránh tình trạng “Thầy đọc, trò chép” sẽ gây ra sự nhàm chán, đơn điệu, nặng nề trong giờ học. Muốn khắc phục tình trạng trên thì ngoài việc tích cực đổi mới phương pháp trong giờ học trên lớp, công tác bồi dưỡng ngoại khóa là điều rất cần thiết. Đó cũng là vấn đề mà mỗi thầy, cô giáo luôn trăn trở. Cũng chính vì sự trăn trở đó mà bản thân tôi luôn tìm tòi bằng phương pháp nào để nâng cao chất lượng tốt nghiệp THPT thông qua công tác bồi dưỡng môn lịch sử. Từ năm 2016, trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT), Bộ GD&ĐT đã chính thức đưa ra phương án thi đó là học sinh có 4 bài thi gồm 3 bài thi độc lập (Toán, Văn, Ngoại ngữ) và 2 bài thi tổ hợp tự chọn theo hình thức trắc nghiệm là Khoa học tự nhiên (Vật lý, Hóa học, Sinh học) hoặc Khoa học xã hội (Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân). Mỗi bài thi tổ hợp gồm 120 câu hỏi, và như vậy, môn Lịch sử với 40 câu sẽ được gộp cùng hai môn khác trong tổng thời gian làm bài 150 phút. Như vậy, cách thức thi cử đã thay đổi, vậy cách dạy và học cũng phải thay đổi cho phù hợp. Nhưng vấn đề là làm thế nào để bài thi của học sinh có được điểm cao, đặc biệt với môn Lịch sử trước đến nay các em đều cho là khó học nhất? Tôi cho rằng phần Lịch sử được thi dưới hình thức trắc nghiệm là phương án hợp lý. Vì nhiều năm qua, tỷ lệ học sinh chọn môn Lịch sử thi tốt nghiệp quá ít. Chỉ những em nào có mong muốn thi khối C mới chọn. Nguyên nhân là học sinh không muốn phải học quá nhiều. Việc chuyển Lịch sử sang hình thức thi trắc nghiệm phù hợp tình hình giáo dục hiện nay của nước ta, cũng đã được áp dụng tại nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tính ưu việt của bài thi trắc nghiệm là sự khách quan, có thể đo lường và kiểm định chất lượng giáo dục bằng con số cụ thể, không dựa vào cảm tính và mơ hồ. Thông qua bài thi trắc nghiệm, các chuyên gia có thể phân tích, đánh giá chất lượng bài thi, câu hỏi và kết quả. Đây không phải lần đầu tiên Lịch sử được tổ chức thi bằng hình thức trắc nghiệm. Cách đây vài năm, giai đoạn 2006-2009, ngành giáo dục từng phát động, đưa hình thức này vào trong các bài thi đánh giá kết quả học tập của học sinh. Giáo viên lâu năm đều từng dạy và kiểm tra theo hình thức này. Đội ngũ giáo viên hiện nay có đủ kinh nghiệm để thích ứng phương án trắc nghiệm. Với hình thức thi trắc nghiệm, học sinh không phải thuộc lòng quá nhiều, chỉ cần đọc sách, hiểu bài và biết kết nối các vấn đề, suy luận để lựa chọn đáp án là có thể hoàn thiện bài thi. Điều này không ảnh hưởng việc dạy và học trong nhà trường, vì các em có thể tự học, tự ôn bằng việc đọc sách giáo khoa, không phải học thuộc lòng. Thậm chí, cách này còn tạo nên “làn gió mát” trong việc học tập chứ không làm xáo trộn việc dạy và học ở trường. Nhiều năm dạy ở bậc phổ thông, tôi luôn yêu cầu các em đọc sách và tự khai thác, xử lý sách giáo khoa để chinh phục và tìm tòi tri thức. Từ đây, các em biết vận dụng kiến thức để làm bài thi, dù đó là tự luận hay trắc nghiệm. Thi trắc nghiệm, việc đầu tiên học sinh cần thay đổi là đọc kỹ sách giáo khoa. Vì phần lớn kiến thức trong bài thi đều lấy từ sách giáo khoa, các em cần chủ động hơn trong việc khai thác và xử lý sách giáo khoa. Bởi đây là tài liệu căn bản, nền tảng tri thức của mọi đề thi và hình thức thi. Thêm nữa, các em cần biết suy luận thông qua việc phân tích dữ liệu từ các đáp án. Bài thi trắc nghiệm, ngoài những câu hỏi về kiểm tra kiến thức, cần có một số câu hỏi yêu cầu suy luận, phân tích mà đáp án khá giống nhau theo kiểu 50/50. Khi đó, học sinh phải hiểu bài, phân tích câu trả lời để chọn ra đáp ứng. Đây là những câu hỏi mà các bạn rất dễ bị mất điểm và đây cũng chính là cơ sở để sàng lọc, phân loại học sinh Một ví dụ trích từ đề thi Đánh giá năng lực của ĐH Quốc gia Hà Nội như sau: “Cuộc cách mạng màu sắc tư sản vào cuối thế kỉ XIX đã đưa quốc gia nào phát triển thành một nước đế quốc trong thế kỉ XX? A. Thái Lan B. Ấn Độ C. Trung Quốc D. Nhật Bản”. Ở đây, chắc chắn hai câu bị loại là Trung Quốc và Ấn Độ, vì hai nước này đều trở thành thuộc địa của các nước tư bản phương Tây. Chỉ có Thái Lan và Nhật Bản đều tiến hành cải cách và duy tân thành công. Cả hai cuộc cải cách và duy tân đều mang màu sắc của cuộc cách mạng tư sản, nhưng nước trở thành đế quốc trong thế kỉ XX là Nhật Bản. Qua nhiều năm dạy chương trình đổi mới, để đạt kết quả cao trong học tập, bản thân tôi đã vận dụng nhiều phương pháp có hiệu quả: Ôn tập kiến thức cơ bản, tổ chức học theo nhóm, hệ thống kiến thức bằng sơ đồ, tổ chức các trò chơi… đề ra một số phương pháp làm bài tốt góp phần tạo không khí học tập thoải mái, học sinh tự tin bước tiếp con đường học vấn trong tương lai. Với lí do trên tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệp THPT QG cho lớp 12A1, 12A2 ở trường THPT Quan Sơn”. II. Mục đích nghiên cứu Góp phần nâng cao chất lượng học sinh trong các kỳ thi học kỳ, đặc biết là kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia III. Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp 12A1, 12A2 ở trường THPT Quan Sơn IV. Phạm vi nghiên cứu Nội dung thi THPT môn Lịch sử gồm 2 phần lớn: – Lịch sử thế giới 1945 – 2000 – Lịch sử Việt Nam 1919 – 2000 Trong đề tài này tôi chỉ đưa ra một vài biện pháp để hướng dẫn học sinh học bài, ôn tập và cách làm bài thi phần lịch sử Việt Nam và trọng tâm là phương pháp ôn thi trắc nghiệm khách quan. V. Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành làm đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: + Phương pháp nghiên cứu tài liệu bổ trợ + Phương pháp phỏng vấn, so sánh, đối chiếu + Hội giảng, dự giờ, trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp trong quá trình giảng dạy. + Áp dụng kinh nghiệm, phương pháp mới . + Đánh giá kết quả ban đầu và điều chỉnh bổ sung + Kiểm tra đánh giá cuối cùng và hoàn chỉnh công việc B. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận Một số quan điểm đổi mới giáo dục THPT 1. Luật giáo dục số 38/2005/QH11, điều 28: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng môn học, lớp học, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh. 2. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX: “Đổi mới chương trình nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong chuyên nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội. 3. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo quyết định 711/QĐ-TT ngày 13/6/2012 của thủ tướng chính phủ: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học”. Lịch sử có văn hóa, văn hóa gắn liền với các sự kiện lịch sử. Thế nhưng nhiều học sinh hiểu biết về lịch sử dân tộc ít nhiều có giảm đi, phải chăng do phần lớn không được cung cấp đầy đủ về nguồn thông tin này? Đội ngũ giáo viên đứng lớp vẫn còn nhiều hạn chế, còn thờ ơ xem nhẹ môn dạy, chưa có những đầu tư phù hợp cho tiết dạy. Bên cạnh đó, nhiều học sinh vẫn coi Lịch sử là môn phụ nên rất xem thường hệ quả của sự coi thường là điểm thi tốt nghiệp THPT môn Lịch sử của học sinh trong thời gian vừa qua quá thấp. “Trong kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia và tuyển sinh đại học năm 2019, môn lịch sử một lần nữa lại đăng quang ngôi vị “chót bảng”, số lượng bài thi môn này dưới điểm trung bình cũng chiếm đến 80-90%. Thậm chí có trường điểm sử cao nhất chỉ dừng lại ở con số 5,25. Trong khi đó, hồ sơ thi vào các ngành khoa học xã hội và nhân văn lại rất ít ỏi so với các khối A,B,D…”. Phải chăng đây là hồi chuông cảnh tỉnh cho cả xã hội và những người làm công tác giáo dục. II. Cơ sở thực tiễn Là một giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở trường phổ thông, gần 10 năm qua trực tiếp giảng dạy khối 12, ôn thi tốt nghiệp THPT, Cao đẳng, Đại học, qua trao đổi với nhiều giáo viên cùng chuyên môn trong trường và trong toàn tỉnh, tôi xin đưa ra một số nhận xét về một số thực trạng còn tồn tại ở môn học và học sinh khối 12 nơi tôi đang công tác như sau: – Chỉ tiêu tuyển sinh đại học, cao đẳng của các ngành xã hội thấp hơn nhiều so với các ngành kinh tế, kỹ thuật. Sau khi ra trường, số sinh viên học các ngành xã hội khó kiếm được việc làm thậm chí có nhiều sinh viên ra trường từ năm 2013 vẫn chưa xin được việc làm hoặc đi làm trái nghề hoặc bỏ nghề, số có việc làm thu nhập cũng rất thấp. – Số học sịnh chọn khối xã hội khi đăng ký thi tốt nghiệp THPT cũng còn thờ ơ với việc học, có tư tưởng học đối phó, học “tủ”. – Nội dung chương trình “nặng”, đặc trưng kiến thức môn học khô khan nên thời gian trên lớp chỉ đủ cho giáo viên cung cấp cho học những kiến thức cơ bản. – Phần lớn học sinh và kể cả nhiều người trong xã hội đều có quan điểm sai lầm về môn học chỉ cho rằng: Lịch sử chỉ cần học thuộc, không hiểu được lịch sử cũng là một môn khoa học như các môn khoa học khác. Vì vậy chưa có phương pháp học tập đúng đắn. – Bên cạnh đó, một số giáo viên cũng chưa thật sự tâm huyết với nghề, trong quá trình dạy học chưa thực sự đầu tư cho hoạt động chuyên môn. Từ những thực trạng còn tồn tại ở môn học và đặc biệt là đối tượng học sinh lớp 12, tôi xin đưa ra một vài biện pháp hướng dẫn học sinh ôn tập môn học và làm bài thi để giúp các em đạt được kết quả cao hơn trong kỳ thi THPT vô cùng quan trọng, mang tính bước ngoặt trong cuộc đời các em. III. Tổ chức thực hiện các giải pháp Phát huy tính tích cực trong học tập là điều không mới mẻ gì đối với một GV giảng dạy Lịch sử, nhưng việc nâng nó lên thành kỹ năng và gây hứng thú cho người học để đạt kết quả cao lại là một vấn đề không đơn giản. Để góp phần nâng cao chất lượng tốt nghiệp THPT thông qua công tác ôn thi môn lịch sử trong nhà trường phổ thông, tôi xin nêu một vài phương pháp trong việc: ôn tập kiến thức cơ bản, tổ chức học theo nhóm, hệ thống kiến thức bằng sơ đồ, tổ chức các trò chơi… đề ra một số phương pháp làm bài tốt để góp phần vào việc dạy của người thầy và việc học của trò đạt kết quả cao, có chất lượng. 1. Các phương pháp học và ôn tập môn học 1.1. Chia kiến thức theo từng giai đoạn Có thể chia Lịch sử Việt Nam từ 1919-2000 thành các giai đoạn sau: a. 1919 – 1930 b. 1930 – 1945 c. 1945 – 1954 d. 1954 – 1975 e. 1975 – 1986 g. 1986 – 2000 1.2. Hiểu được hoàn cảnh lịch sử và nhiệm vụ cơ bản của mỗi giai đoạn Đây là cơ sở chính để phân chia lịch sử thành các giai đoạn. Mỗi sự kiện lịch sử luôn chịu sự chi phối của những hoàn cảnh nhất định. Trong mỗi hoàn cảnh có nhiệm vụ khác nhau. Sự kiện xảy ra là để giải quyết nhiệm vụ đó. Cụ thể: a. 1919 – 1930: Khẳng định con đường giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX, sau khi dập tắt phong trào Cần vương, thực dân Pháp đã hoàn thành việc bình định nước ta. Phong trào Cần vương kết thúc (1896) chứng tỏ đường lối cứu nước dưới ngọn cờ phong kiến đã thất bại. Nước ta đang khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo. Vì vậy nhiệm vụ quan trọng nhất là phải tìm ra con đường cứu nước phù hợp với lịch sử dân tộc. Đầu năm 1930 khi Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập thì nhiệm vụ này đã hoàn thành. b. 1930 – 1945: Tiến hành giải phóng dân tộc Sau khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh chống Pháp và phong kiến tay sai qua các phong trào cách mạng: 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945). Với thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 nhiệm vụ này đã được hoàn thành. c. 1945 – 1954: Đấu tranh bảo vệ chính quyền, nền độc lập vừa mới giành lại được – kháng chiến chống Pháp tái xâm lược. Sau Cách mạng tháng Tám, nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn và thử thách. Thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. Đảng và Mặt trận Việt minh đã lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống Pháp qua các chiến dịch lớn: Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, Biên giới thu đông 1950, tiến cuộc đông xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngày 7/5/1954 chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, nhiệm vụ cơ bản của giai đoạn này đã hoàn thành. d. 1954 – 1975: Kháng chiến chống Mĩ và đấu tranh chống chính quyền Sài Gòn Sau khi Pháp buộc phải rút quân khỏi nước ta (vì Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ) Mĩ đã thay chân Pháp dựng lên chính quyền Sài Gòn làm tay sai để thực hiện âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và là một căn cứ quân sự. Một lần nữa, nhân dan ta phải đứng lên đấu tranh chống Mĩ và tay sai. Chiến tháng trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã hoàn thành nhiệm vụ này. e. 1975 – 1986: Thống nhất đất nước về mặt nhà nước, bước đầu xây dựng và phát triển kinh tế xã hội theo đường lối xã hội chủ nghĩa. Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, nước ta đã được thống nhất về mặt lãnh thổ nhưng về mặt nhà nước thì chưa. Hậu quả mà hai cuộc chiến tranh để lại là rất nặng nề. Những hội nghị hiệp thương hai miền Nam – Bắc và tổng tuyển cử đã hoàn thành nhiệm vụ này. Nước ta bắt tay vào xây dựng kinh tế – xã hội thông qua các kế hoạch 5 năm. g.1986 – 2000: Cải cách đổi mới đất nước Mười năm đầu sau ngày đất nước thống nhất (1975-1985) trong quá trình xây dựng kinh tế, bên cạnh những thành tựu, nước ta đã vấp phải nhiều khuyết điểm sai lầm. Tình hình thế giới cũng có nhiều thay đổi. Nước ta cần phải cải cách để thoát khỏi khủng hoảng và đưa đất nước đi lên. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 mở đầu thời kỳ đổi mới. Những kế hoạch xây dựn đất nước tiếp tục được đưa ra thực hiện và thu được nhiều kết quả, đất nước đang thay đổi và phát triển từng ngày. 1.3. Hiểu và ghi nhớ những mốc thời gian gắn liền với sự kiện cơ bản a. Nhơ những sự kiện lớn trước: Lấy một sự kiện làm mốc đầu rồi nhớ những sự kiện cách nhau 5 năm, 10 năm 1920: Nguyễn Ái Quốc đọc được luận cương của Leenin, từ đó đã xác định con đường cách mạng vô sản là con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. 1925: Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên – chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. 1930: Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập. 1935: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng – đánh dấu Đảng đã được phục hồi sau thời gian bị Pháp khủng bố trắng. 1940: Phát xít Nhật vào Đông Dương, cấu kết với thực dân Pháp – nhân dân ta sống trong cảnh “1 cổ 2 tròng”. 1945: Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. 1950: Chiến dịch Biên giới thu đông diễn ra và giành thắng lợi, tạo ra một bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến b. Liên hệ và nhớ sự kiện lịch sử với những ngày tháng năm mà bản thân thường hay nhớ: ngày sinh nhật của mình, của bạn thân, ngày gắn liền với những kỷ niệm không quên rồi tính sự kiện lịch sử cách ngày tháng đó bao lâu. 1.4. Nhớ và hiểu những sự kiện của lịch sử thế giới có tác động trực tiếp đến cách mạng Việt Nam. Phần lịch sử Việt Nam 1919-2000 luôn chịu tác động của lịch sử thế giới và khu vực. Vì vậy cũng cần phải hiểu và nhớ một số sự kiện sau: – Quốc tế cộng sản: Là một tổ chức quốc tế do Leenin sáng lập ra năm 1919vowis thành viên là các Đảng cộng sản của các nước. Quốc tế cộng sản chỉ đạo thống nhất đường lối, chủ trương để thực hiện nhiệm vụ chống chủ nghĩa đế quốc. Các đại hội quan trọng: Đại hội II (1920), Đại hội VII (1935). – Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945). Là cuộc chiến tranh do phe phát xít (cầm đầu là Đức) phát động nhằm chia lại thị trường thế giới. Ban đầu là một cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa. Khi Liên Xô đứng lên chống phát xít tính chất cuộc chiến tranh đã thay đổi. Tháng 9/1940: Nhật nhảy vào Đông Dương Tháng 12/1941: chiến tranh châu Á – Thái Bình Dương bùng nổ. Đầu 1945 : Chiến tranh bước vào giai đoạn cuối, phe phát xít lần lượt bị tiêu diệt. Cuối tháng 4/1945: Phát xít Đức bị tiêu diệt hoàn toàn. Chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 6 và 8 tháng 8/1945: Mĩ ném hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản. Ngày 15/8/1945: Phát xít Nhật ký văn kiện đầu hàng vô điều kiện. Chiến tranh thế giớ thứ hai kết thúc. – Tình hình châu Phi những năm 50-60: Phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân châu Phi bùng nổ mạnh mẽ và thu được nhiều thắng lợi, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. – Tình hình Mĩ la tinh những năm 70 của thế kỷ XX: Phong trào đấu tranh chống chế độ thuộc địa kiểu mới của Mĩ phát triển và giành nhiều thắng lợi, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta 2. Tổ chức ôn tập Giáo viên phải xác định được có bao nhiêu thời gian để thực hiện việc ôn tập. Căn cứ vào thời gian đó để chia kiến thức cho mỗi tiết, mỗi tuần, mỗi đợt rồi “ khoán” kiến thức để học sinh thực hiện. Trong thời gian ôn tập giáo viên không cung cấp kiến thức mới, không dạy lại kiến thức cũ mà chỉ khái quát kiến thức trọng tâm, giải đáp thắc mắc của học sinh, hướng dẫn cách học và kiểm tra việc học của học sinh. Việc thường xuyên kiểm tra việc học của học sinh là rất quan trọng. Cuối mỗi tuần, mỗi đợt có thể cho học sinh bốc thăm và trả lời câu hỏi bất kì trong số các câu hỏi mà giáo viên đã “ khoán”. Có thể cho học sinh trình bày miệng hoặc viết lên bảng sau đó giáo viên chấm, nhận xét, nhắc nhở để học sinh tránh mắc lỗi khi học sinh làm bài. Tổ chức kiểm tra cần nhẹ nhàng để giảm áp lực. Có thể tổ chức thi đua giữa các tổ trong lớp để tạo không khí hào hứng cho học sinh. Nếu có điều kiện thì tổ chức thi đua giữa các lớp. 2.1. Ôn tập kiến thức cơ bản – Mục đích: + Kiến thức trung bình vừa sát yêu cầu đề thi TN. + Chủ yếu ôn cho đối tượng học sinh: yếu, kém * Đối với giáo viên: – Thực hiện: gọi học sinh trả lời theo yêu cầu câu hỏi. Có thể áp dụng tất cả các câu hỏi theo nội dung bài trong SGK. Ví dụ 1: Bài 1 Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949) – Câu hỏi: Nêu mục đích và nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc? Trả lời: + Mục đích: Duy trì hòa bình và an ninh thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc. + Nguyên tắc: – Bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia và quyền tự quyết của các dân tộc. – Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả các nước . – Không can thiệp vào công việc nội bộ của bất kỳ nước nào. – Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng phương pháp hòa bình . – Chung sống hòa bình và sự nhất trí giữa năm nước lớn (Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp và Trung Quốc) . Ví dụ 2: Bài 13 phong trào dân tộc dân chủ ở Việt nam (1925-1930) – Câu hỏi: Trình bày ý nghĩa sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam? Trả lời: – Là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộ
Nhiều Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Ôn Thi Tốt Nghiệp Thpt Năm 2013
Tháng 4, học sinh lớp 12 bắt đầu bước vào chặng cao điểm ôn thi tốt nghiệp THPT năm 2013.
Giải pháp đột phá đầu tiên được Sở GD-ĐT triển khai từ hội nghị sơ kết học kỳ I năm học 2012-2013, là yêu cầu tất cả các đơn vị trực thuộc gồm các trường THPT, các Trung tâm Giáo dục Thường xuyên rà soát đội ngũ giáo viên dạy ôn thi lớp 12, trọng tâm là 8 môn: Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Văn, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ (Tiếng Anh). Cả 8 môn học nói trên đều quan trọng vì đều là các môn thi Đại học, trong đó có 6 môn sẽ thi tốt nghiệp THPT. Yêu cầu các trường trong quá trình dạy ôn tập phải sâu sát năng lực học tập của từng lớp, thậm chí từng nhóm học sinh để phân loại, phân luồng học sinh phục vụ việc dạy ôn đạt hiệu quả.
Giải pháp đột phá tiếp theo, được thực hiện vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4, nghĩa là trước và sau khi Bộ GD-ĐT công bố tiếp 3 môn thi tốt nghiệp THPT (ngoài 3 môn thi bắt buộc: Toán, Văn, Ngoại ngữ) là Hóa học, Sinh học, Địa lý. Sở GD-ĐT triệu tập tất cả những giáo viên dạy ôn 6 môn thi tốt nghiệp THPT tổ chức tập huấn chuyên đề tại 8 cụm trường (do các trường THPT số 1 làm cụm trưởng), thuộc 8 huyện, thị xã, thành phố.
Tại các buổi tập huấn, giáo viên trực tiếp dạy ôn các môn thi được các chuyên viên của Sở GD-ĐT truyền đạt nhiều kinh nghiệm bổ ích phục vụ công tác dạy ôn. Cũng tại hội nghị, nhiều kinh nghiệm quý của giáo viên cơ sở được phổ biến rộng rãi đến đông đảo các đồng nghiệp toàn tỉnh. Giải pháp này xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của những giáo viên trực tiếp dạy ôn thi tốt nghiệp THPT dưới cơ sở. Những năm trước Sở GD-ĐT chỉ tổ chức 1 hội nghị chuyên đề, nên mỗi trường chỉ được cử từ 2 đến 3 giáo viên tham dự, các đồng nghiệp khác vì thế ít có điều kiện học hỏi lẫn nhau.
Trong quá trình chỉ đạo dạy ôn tập, Sở GD-ĐT mà thường trực phụ trách chuyên môn là Phòng Giáo dục Trung học, rất chú trọng việc dạy ôn tại các trường THPT số 2, 3 và các trường ngoài công lập vì đây cũng là các cơ sở giáo dục có chất lượng đầu vào thấp. Phòng cũng chỉ đạo các trường quan tâm đến những đối tượng học sinh khó khăn, những học sinh yếu để động viên các em quyết tâm tập trung cao độ ôn thi tốt nghiệp THPT đạt kết quả.
Tháng 4 được xem là tháng cao điểm ôn thi nói chung, gồm cả thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh Đại học, do vậy Phòng Giáo dục Trung học cũng chỉ đạo các đơn vị trực thuộc phải nâng cao hơn nữa các giờ dạy chính khóa, giáo viên phải sâu sát hơn với học sinh, tránh tình trạng chỉ phát đề bài cho học sinh tự làm, tự học rồi tự ôn. Dạy ôn tập là phải khái quát được chương trình, 1 tiết dạy ôn phải đạt hiệu quả cao bằng nhiều tiết học thông thường.
Thi tốt nghiệp THPT là kỳ thi Quốc gia hết sức quan trọng nhưng thực chất lại là kỳ thi đại trà, mọi học sinh học lực trung bình đều có thể vượt qua. Do vậy cùng với các giải pháp đồng bộ nâng cao chất lượng dạy ôn, Sở GD-ĐT đề nghị các trường tuyên truyền đến đông đảo giáo viên, học sinh bản chất kỳ thi để không căng thẳng, không bị áp lực bởi kỳ thi này. Một nhiệm vụ quan trọng được triển khai song song và đồng bộ, là các trường phải đặc biệt quan tâm tuyên truyền việc phân luồng hướng nghiệp, tập trung ôn thi Đại học cho những đối tượng học sinh có nhu cầu.
Để giám sát hiệu quả công tác chỉ đạo, sau các hội nghị chuyên đề về ôn thi tốt nghiệp THPT, từ ngày 9-4, Phòng Giáo dục Trung học đã tiến hành kiểm tra và trực tiếp dự các giờ dạy ôn tập dưới cơ sở để kịp thời rút kinh nghiệm; đồng thời nhân rộng những cách làm hay đến các đơn vị cùng cấp khác. Chất lượng dạy ôn cũng như kết quả ôn tập của học sinh sẽ được minh chứng rõ qua các kỳ thi thử tốt nghiệp THPT do các trường tự tổ chức. Đến sát ngày thi Sở GD-ĐT sẽ tổ chức 1 kỳ thi thử quy mô toàn tỉnh để khái quát toàn bộ bức tranh thi tốt nghiệp THPT năm 2013 của tỉnh, đồng thời rút kinh nghiệm lần cuối trước kỳ thi quan trọng này.
Hiện đang là trung tuần tháng 4, học sinh lớp 12 còn khoảng 1 tháng rưỡi cho công việc ôn thi tốt nghiệp THPT, thời gian không còn dài nhưng với tinh thần chỉ đạo sát sao của Sở GD-ĐT và các trường, nếu chăm chỉ ôn tập thì để vượt qua kỳ thi này là không quá sức với tuyệt đại đa số 14.000 học sinh tỉnh Bắc Ninh.
Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Ôn Thi Thpt Quốc Gia Môn Sinh Học
3. Nhận xét chungĐề thi THPT QG 2016 và đề minh họa 2017 có những điểm giống nhau và khác nhau như sau: – Giống nhau:
+ Nội dung chủ yếu trong chương trình lớp 12, phân bố rải khắp ở các chương, các chuyên đề. Phần nhiều tập trung ở các chương: Di truyền biến dị, quy luật di truyền, sinh thái học. + Phần bài tập tập trung ở chương Quy luật di truyền, di truyền quần thể. + Câu hỏi ở mức độ biết chiếm gần 40%, đây là dạng câu hỏi trích dẫn từ sách giáo khoa, bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng. Học sinh đọc hiểu sách giáo khoa nhiều lần là có thể làm được. + Đề thi rất dài (7 đến 8 trang giấy A 4), nhiều dạng toán rất khó. + Nhiều câu hỏi dạng nhiều ý đúng, học sinh phải có kiến thức tổng hợp, giải với nhiều hướng khách nhau mới có được kết quả chung (mất nhiều thời gian). + Tỉ lệ câu hỏi rơi vào các chương đã ổn định tương đối (theo ma trận đề).
+ Nhìn tổng thể đề minh họa 2017 có phần nhẹ hơn 2016 chút ít (tin vào định hướng của BGD nhưng đừng chủ quan vì đề minh họa 2015 dễ nhưng đề chính thức rất khó). + Đề minh họa 2017 có tỉ lệ câu hỏi ở mức độ nhận thức biết chiếm tỉ lệ cao hơn đề 2016, những câu hỏi ở mức độ này bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng hơn, xuất hiện dạng câu hỏi ngắn nhiều hơn. + Xuất hiện nhiều câu hỏi ứng dụng với thực tế hơn. + Chương di truyền và biến dị ít bài tập tính toán hơn đề 2016, chương quy luật di truyền lại xuất hiện với tỉ lệ bài tập cao hơn. + Những câu hỏi ở mức độ vận dụng cao trong đề 2017 thường có phương pháp giải nhanh hoặc rất nhanh nhưng lại đòi hỏi học sinh thông minh, được rèn luyện kĩ hơn. + Phần câu hỏi bài tập giảm 2.5%. + Khó có thể tin là học sinh có thể hoàn thành được bài thi trong thời gian 50 phút.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THI THPT QUỐC GIA MÔN SINH HỌC1. Đối với giáo viên – Xây dựng kế hoạch giảng dạy phù hợp, dạy đúng, dạy đủ PPCT từ lớp 10 đến lớp 12, đảm bảo theo chuẩn kiến thức kĩ năng và tập trung vào phần kiến thức trọng tâm thường xuất hiện trong đề thi. – Trong mỗi bài dạy, giáo viên cần đặc biệt dạy kĩ phần kiến thức trọng tâm của bài. Hoàn thành đầy đủ câu hỏi lệnh, câu hỏi cuối bài trong sách giáo khoa. – Đối với môn sinh học đặc thù đề thi có 60% lý thuyết, lý thuyết không phải là thuộc lòng mà chủ yếu cho dưới dạng hiểu nên cá nhân ít chọn phương án kiểm tra bài cũ hay bắt học sinh học thuộc lòng. – Sau mỗi bài cần giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh về nhà hoàn thành: + Công việc giao cho học sinh phải phù hợp với nhóm đối tượng (không quá khó, không quá dễ, tốt nhất nên sắp xếp công việc yêu cầu hoặc bài tập từ dễ đến khó và phải cân nhắc đến quỹ thời gian cần thiết hoàn thành đối với học sinh trong từng thời điểm). + Phải có kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ về nhà của học sinh, tuyệt đối không giao nhiệm vụ xong rồi vì lý do gì đó quên kiểm tra. – Đối với hình thức thi trắc nghiệm, với mỗi nội dung cần truyền đạt giáo viên chọn phương án giảng dạy theo trình tự: + Bước 1: Giảng dạy lý thuyết cơ bản theo yêu cầu của bài. + Bước 2: Dạy nâng cao, hướng dẫn hình thành, chứng minh các công thức và lồng ghép bài tập tự luận tương ứng. + Bước 3: Giao bài tập trắc nghiệm (từ cơ bản đến nâng cao, thông thường giao bài tập phù hợp để giáo viên có thể hướng dẫn giải trong một tiết) cho học sinh tự giải ở nhà. + Bước 4: Yêu cầu học sinh giải bài tập trắc nghiệm trên lớp. Trong tiết sửa bài tập trên lớp (Đối với lớp chọn giáo viên chỉ giải những câu học sinh đặt vấn đề; đối với lớp yếu giáo viên phải yêu cầu học sinh lên bảng giải từng câu, khi cần giáo viên tham gia hướng dẫn ngay). + Bước 5: Hướng dẫn học sinh phương pháp giải nhanh, những thủ thuật nhẫm đáp án, kĩ thuật đọc lướt tìm từ khóa trong câu trắc nghiệm để có đáp án nhanh nhất (do đề sinh học rất dài, thường từ 7 đến 8 trang A4) một số dạng câu hỏi không nhất thiết học sinh phải đọc hết các từ trong câu hỏi. – Sau mỗi chương, mỗi chuyên đề cần: + Hệ thống lại kiến thức chương, nhắc lại các công thức một cách tổng quát (nếu có thể thì nhắc lại dưới dạng sơ đồ hóa, sơ đồ tư duy, …) thực chất không cần tốn nhiều thời gian; việc nhắc lại khái quát nhưng giúp học sinh nhớ lâu hơn. + Có bài tập tổng hợp chương hoặc giao đề luyện cho học sinh; tốt nhất nên tổ chức kiểm tra ngay sau tiết ôn tập chương (dù chỉ là kiểm tra 15 phút). – Dành nhiều thời gian cho công tác ôn tập ở cuối năm (trước khi dự thi THPT QG). Việc tự học của học sinh trong thời gian này quan trọng hơn bao giờ hết, giáo viên cần giao nhiệm vụ trọng tâm và phù hợp với nhóm đối tượng. – Cần thiết phải có bộ đề thi thử phù hợp, đề phải được xây dựng, chuẩn hóa và bổ sung cập nhật hằng năm. Với bản thân tôi đây cũng là một trong những yếu tố quan trong quyết định kết quả ôn thi. + Khi bắt đầu luyện đề, với 3 đề đầu tiên giáo viên cần sửa sai kịp thời cho học sinh (thậm chí cần xem từng đề xem học sinh nào yếu phần kiến thức nào để động viên các em về nhà tự ôn tập lại). + Trong mỗi đề thi yêu cầu đủ dạng toán theo đề thi hằng năm của Bộ GD, cố gắng tương đương với đề thi của Bộ GD. + Với lớp yếu, đề luyện tập trung vào những dạng toán cơ bản, những dạng thường xuất hiện trong đề thi qua các năm. – Đề thi tốt nghiệp, đại học, cao đẳng, THPT QG qua các năm là nguồn tài liệu đã được chuẩn hóa, giáo viên cần thiết phân dạng lại cho phù hợp với nhu cầu sử dụng từng thời điểm. – Hướng dẫn học sinh phương pháp làm bài thi trắc nghiệm.
2. Đối với học sinh – Sinh học là một trong những môn học sinh tự chọn thi THPT QG. Học sinh phải tự giác học tập đối với môn học. Không được chọn theo các bạn, chọn môn thi theo …. mà phải dựa vào năng lực sở trường của bản thân và ý thức ngành nhề trong tương lai. – Tham gia đầy đủ các buổi học, có ý thức tiếp thu bài, có động lực học tập cho bản thân. – Chuẩn bị bài, hoàn thành nhiệm vụ giáo viên giao cho (học sinh yếu có thể hỏi các bạn, hỏi thầy phần nhiệm vụ khó). – Giải pháp học, ôn phù hợp bản thân (sơ đồ hóa kiến thức ôn tập). – Đặt mục tiêu môn học lâu dài và theo từng thời điểm. – Đối với lớp chọn (A 1, A 2) cần tự mua thêm sách để luyện thêm (giới thiệu một số sách).
Skkn Một Số Giải Pháp, Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Tiết Thực Hành Môn Tin Hoc Tại Trường Thpt
TRƯỜNG THPT THẠCH THÀNH II SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ GIẢI PHÁP, NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TIẾT THỰC HÀNH MÔN TIN HOC TẠI TRƯỜNG THPT Người thực hiện: Nguyễn Việt Bắc Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Tin Học THANH HOÁ NĂM 2017 MỤC LỤC I. MỞ ĐẦU Lí do chọn đề tài Mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo đề ra trong Nghị quyết 29-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa XI xác định “Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn”. Ứng dụng Công nghệ thông tin trong quản lí và giảng dạy là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mang tính đột phá của ngành Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Những năm gần đây, sở Giáo dục và Đào tạo, nhà trường đã tập trung đầu tư trang thiết bị, phòng máy… phục vụ việc giảng dạy bộ môn Tin học trong các trường THPT nói chung và trường THPT Thạch Thành 2 nói riêng một cách mạnh mẽ, theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh việc đầu tư trang thiết bị dạy học, Sở Giáo dục và Đào tạo cũng đã chú trọng đầu tư các phần mềm, các phương tiện hỗ trợ, tổ chức tập huấn, tổ chức các cuộc thi nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên Tin học. Nhờ đó, chất lượng bộ môn Tin học ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, nhu cầu phòng máy đối với một ngôi trường có gần 1000 học sinh như trường THPT Thạch Thành 2 là rất lớn, với điều kiện hiện tại, phòng máy nhà trường không đủ đáp ứng nhu cầu thực hành, học tập của học sinh cả ba khối lớp. Hơn nữa, nhiều em học sinh cũng rất hay nghịch hay phá chuột hoặc gỡ các phím trên bàn phím Nếu quản lý phòng máy không chặt không những làm ảnh hưởng đến việc học tập mà còn có thể dẫn đến tình trạng mất một số thiết bị máy tính như Ram, ổ cứng, chuột Và việc tổ chức, quản lí học sinh học thực hành một cách hiệu quả là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng học thực hành cho các em. Và trên cơ sở hướng dẫn của giáo viên, học sinh có kỹ năng khá tốt sử dụng máy vi tính để tự nghiên cứu, học tập, tự nâng cao kiến thức. Vì thế, trách nhiệm của giáo viên, của người quản lí phòng máy là phải lập kế hoạch cụ thể, đề ra các giải pháp mang tính khả thi cao để vừa đảm bảo nhu cầu thực hành của học sinh vừa nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tin học. Với những lí do trên, từ thực tiễn, kinh nghiệm và kết quả triển khai tại phòng máy nhà trường, tôi chọn đề tài cho sáng kiến của mình được biểu đạt dưới tên gọi: “ Một số giải pháp quản lý, nhằm nâng cao chất lượng tiết thực hành môn Tin học tại trường THPT ” Mục đích nghiên cứu 2.1. Đề xuất các giải pháp mang tính khả thi nhằm phục vụ việc quản lí và điều hành phòng máy tại các trường học một cách hiệu quả nhất. 2.2. Đảm bảo giờ thực hành, nâng cao chất lượng giảng dạy Tin học tại trường. 2.3. Góp phần tích cực vào việc giảm áp lực, giảm tải cho giáo viên trong giờ thực hành môn Tin học tại phòng máy. Đối tượng nghiên cứu – Một số phần mềm ứng dụng phục vụ cho việc giảng dạy và kiểm tra kiến thức của học sinh trong môn tin học. – Các giải pháp tối ưu cho việc quản lí và cài đặt một phòng máy có hiệu quả; các phần mềm quản lí và điều khiển máy trạm, máy giáo viên; phần mềm ứng dụng khác. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết; phân loại và hệ thống hóa lý thuyết trong phân tích các văn bản nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu. 4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn * Phương pháp quan sát: quan sát cách dạy và học thực hành, các phần mềm đã cài đặt trên máy tính của trường cũng như một số trường, trung tâm trên địa bàn Huyện. * Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia Chúng tôi sử dụng phương pháp này để lấy ý kiến của các chuyên gia công nghệ thông tin về tính hiệu quả và tính khả thi của các giải pháp và phần mềm đã đề xuất. * Nhóm các phương pháp xử lý thông tin Các phương pháp thống kê toán học được sử dụng để xử lý các kết quả nghiên cứu về định lượng và định tính. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Cơ sở lí luận của đề tài – Chỉ thị số 58-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. – Quyết định số 1982/QĐ-TTg, ngày 31/10/2014 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt đề án Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, hoạt động dạy và học nghề đến năm 2020. – Chỉ thị 29 nêu rõ: “Ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục và đào tạo sẽ tạo ra một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục”, “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng CNTT như một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập ở tất cả các môn học”. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu Lí luận và thực tiễn của quá trình dạy học đã khẳng định thực hành là hoạt động tối ưu nhất để học sinh thông hiểu, vận dụng vào thực tiễn để nâng cao kiến thức đã lĩnh hội. Với bộ môn Tin học, thực hành trên máy tính là sự cụ thể hóa những ngôn ngữ máy trừu tượng, là thao tác quan trọng có tính chất quyết định và là “minh chứng”, là kết quả thực tiễn quá trình dạy – học của giáo viên và học sinh. Mục đích cuối cùng của bộ môn Tin học là ứng dụng, thực hành và sáng tạo bằng ngôn ngữ máy, thao tác trực tiếp trên máy tính. Thực hành trên máy tính là bắt buộc và là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của bài giảng lí thuyết. Giờ dạy – học môn Tin học sẽ không đạt hiệu quả nếu giáo viên hoàn toàn không sử dụng máy tính để minh họa, thực hành các thao tác mẫu của bài học. Nếu thầy và trò trên lớp được học tập hoàn toàn với phấn và bảng (học chay) thì kết quả tiếp thu kiến thức bài học của học sinh có thể suy giảm đến 90%. Mặc dù thiết kế của chương trình tác giả sách giáo khoa đã trình bày các kiến thức của bài học một cách độc lập tối đa với các thao tác cụ thể trên máy tính nhưng phương pháp dạy học hiện đại buộc giáo viên phải phụ thuộc rất nhiều vào việc minh họa hay trình diễn trên máy tính, nhiều kiến thức và bài học được diễn đạt thông qua các bước thực hành và thao tác cụ thể trên máy tính thì vẫn tốt hơn. * Cơ sở vật chất, trang thiết bị phòng máy trường THPT Thạch Thành 2 Nhờ sự quan tâm, đầu tư mạnh mẽ của lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo, trong những năm qua, nhà trường được trang bị thêm máy tính, máy chiếu, máy in, Trường cũng hợp đồng kết nối internet, hệ thống Wifi để phục vụ công tác quản lí và hoạt động chuyên môn, hoạt động học tập của học sinh. Nhà trường có ba phòng máy với 60 máy phục vụ cho hoạt động học tập và thực hành của học sinh và một phòng tra cứu thông tin điện tử tại thư viện. Nhà trường được trang bị nhiều projector, máy chiếu vật thể, Tivi, đầu đĩa phục vụ đắc lực việc ứng dụng CNTT trong quản lí và dạy học. So với các trường trong Huyện thì số lượng máy tính trên số học sinh ở trường chưa đáp ứng yêu cầu theo các văn bản chi đạo. Vì thế việc thực hành của học sinh cũng gặp không ít khó khăn. Để khắc phục những khó khăn chung của ngành, trường, đảm bảo được chất lượng dạy và học môn tin học tôi đã thực hiện một số giải pháp: 3. Một số giải pháp quản lý, nhằm nâng cao chất lượng tiết thực hành môn Tin học tại trường THPT Từ thực tiễn còn nhiều khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu thực hành của học sinh, nhằm giảm chi phí cho việc mua sắm, nâng cấp thiết bị một cách tốt nhất, chi phí tuyển dụng nhân việc phụ trách phòng máy, chi phí hợp đồng các cơ quan tổ chức bên ngoài tham gia bảo trì, bảo dưỡng máy tính cho nhà trường. Đặc biệt là quyết tâm đảm bảo việc thực hành của học sinh và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Tin học tại nhà trường. Trong những năm qua, bản thân tôi cùng với một số thầy cô trong tổ Lý – Tin đã nghiên cứu, tìm tòi áp dụng thành công một số giải pháp trong công tác quản lí, cài đặt phòng máy. Cụ thể: 3.1. Lập kế hoạch mua sắm trang thiết bị Lập kế hoạch là khâu rất quan trọng, giúp cho bản thân, lãnh đạo và đồng nghiệp nhận thức rõ mục đích của việc ứng dụng CNTT, nắm được những thiết bị máy tính đang có và cần bổ sung mua sắm những thiết bị nào để chuẩn bị cho một năm học. Ngay từ đầu năm học, tôi phải kiểm tra toàn bộ trang thiết bị, máy tính hiện có, số máy hoạt động được và không hoạt động được để có ý kiến với lãnh đạo nhà trường và lên kế hoạch mua sắm, sửa chữa. 3.2. Lắp đặt, thay thế, sửa chữa, quản lý giờ thực hành – Bản thân tôi phụ trách công tác thay thế, sửa chữa cài đặt lại tất cả các máy tính đảm bảo hoạt động tốt. – Tiến hành lập sổ theo dõi giờ dạy của giáo viên tại phòng máy. Mỗi giáo viên dạy phòng máy phải đăng kí vào sổ, ghi chép lại sự cố các máy theo từng tiết học. Ngày Tiết Lớp Giáo viên dạy Số máy Sự cố Khắc phục Mẫu sổ theo dõi máy tính gặp sự cố – Trong buổi họp tổ chuyên môn đầu năm, cán bộ giáo viên phụ trách phòng máy có trách nhiệm nhắc giáo viên ghi sổ đăng kí và theo dõi giờ dạy, quán triệt, giáo dục học sinh ý thức bảo quản tài sản nhà trường. – Kịp thời sửa chữa, thay thế khi gặp sự cố hư hỏng phần cứng và phần mềm. – Phòng máy phải lắp đặt mạng cục bộ (chỉ cần mạng ngang hàng) và phải có một máy dành cho giáo viên. Nhờ hệ thống mạng, chúng ta khai thác nhiều ứng dụng giúp việc dạy và học hiệu quả hơn rất nhiều. – Mỗi máy tính đặt một tên phân biệt (Ví dụ: May11, may12,) và cùng chung một nhóm (workgroup) tại một phòng. 3.3. Phân công giáo viên phụ trách phòng Tin học – Đội ngũ giáo viên chuyên ngành Tin học của nhà trường không nhiều. Tuy nhiên, để tiết kiệm biên chế nhân sự, quan trọng hơn là cùng nhau trao đổi kinh nghiệm, tạo điều kiện để giáo viên Tin học thường xuyên thực hành các thao tác bảo trì, sửa chữa, cài đặt các phần mềm ứng dụng – Trách nhiệm của giáo viên phụ trách phòng máy phải thường xuyên theo dõi, cập nhật thông tin từ sổ theo dõi giờ dạy của giáo viên để kịp thời xử lí, sửa chữa, cài đặt, đảm bảo tốt nhất cho giờ thực hành của học sinh. 3.4. Cài đặt hệ điều hành và các ứng dụng Hiện nay, hầu hết máy tính ở các trường phổ thông cấu hình còn thấp và việc dạy và học cũng chưa đòi hỏi nhiều kiến thức sâu. Do đó, chúng ta có thể cài đặt những phần mềm sau: 3.4.1. Cài đặt hệ điều hành – Đối với máy tính dành cho giáo viên phải cài hệ điều hành mạng (Windows server 2003 hay Windows server 2008) và chia sẻ một tài nguyên để làm ổ đĩa ảo dùng chung cho cả phòng. Nhờ ổ đĩa ảo này, chúng ta sẽ quản lí được toàn bộ bài thực hành của học (học sinh thực hành đều lưu bài vào đây), học sinh muốn lấy dữ liệu từ máy giáo viên cũng nhanh và dễ dàng nhất. Nhờ khả năng phân quyền khi chia sẻ tài nguyên trong Windows server 2003 (2008) mà chúng ta quản lý dữ liệu của học sinh một cách tốt nhất. – Đối với các máy tính của học sinh thì cài hệ điều hành windows XP. Chúng tôi đã tìm hiểu, nghiên cứu và ứng dụng bộ ghost Windows XP đa cấu hình tương đối nhẹ, đạt chuẩn trên internet. 3.4.2. Cài đặt các phần mềm ứng dụng – Cài chương trình đóng băng cho các máy (kể cả máy giáo viên): Chương trình đóng băng giúp ta bảo vệ máy tính một cách tốt nhất, tránh virus làm hỏng phần mềm, tránh xóa dữ liệu ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của máy. Hiện nay, có rất nhiều phần mềm đóng băng nhưng phần mềm dễ sử dụng và có hiệu quả nhất là phần mềm shadow defender. Phần mềm này chạy được trên Windows server. Xem hướng dẫn sử dụng và tải tại: Giao diện và chức năng theo dõi học sinh làm bài Vì dữ liệu của học sinh lưu hết trên ổ đĩa ảo nên ta đóng băng tất cả phân vùng của ổ đĩa trên máy học sinh (có thể không đóng băng một phân vùng). – Cài chương trình Netop School 6.0: Đây là một phần mềm rất hay, hỗ trợ giáo viên dạy học và quản lý phòng máy hiệu quả nhất. Thông qua mạng cục bộ, nó tạo nên sự tương tác qua lại giữa máy tính của giáo viên và máy của học sinh. Nhờ phần mềm này, giúp cho việc giảng dạy hiệu quả hơn, truyền đạt kiến thức trở nên sinh động, trực quan và dễ hiểu hơn. Phần mềm cơ bản giúp giáo viên quản lí, điều khiển, theo dõi lớp học, quản lí và chia sẻ dữ liệu nhanh chóng và hiệu quả. Để tìm hiểu cài đặt và hướng dẫn sử dụng, chúng ta tham khảo tại: – Cài đặt một số phần mềm khác như: bộ Office 2003, Unikey, Turbo Pascal (Free Pascal), Fonts, Adobe Presenter 3.4.3. Chia sẻ tài nguyên và ánh xạ ổ đĩa mạng (ổ đĩa ảo) Đăng nhập vào ổ đĩa ảo trên máy giáo viên Chia sẻ một thư mục để làm ổ đĩa dùng chung 3.4.4. Khóa các chức năng học sinh thường hay thay đổi ảnh hưởng đến giờ thực hành. Trong giờ thực hành, với bản tính thích khám phá, tinh nghịch… Các em thường thay đổi hình nền, chơi game của Windows, thay đổi hình trạng chuột làm ảnh hưởng nhiều đến giờ thực hành, mất tập trung Để khắc phục tình trạng này, chúng tôi tiến hành khóa các chức năng đó bằng thao tác sau: Từ Start à Run à gõ chúng tôi Từ cửa sổ đang mở, nhấn đúp vào dòng Administrative Templates à chọn Control Panel à nhấn đúp vào dòng Prohibit Access to the control panel à chọn Enabled à chọn OK. 3.5. Chia thời khóa biểu phù hợp Giờ học thực hành của học sinh Tại trường THPT Thạch Thành 2, số lớp và số học sinh tương đối đông nhưng chỉ có ba phòng máy nên bản thân đã tham mưu Ban giám hiệu chia thời khóa biểu sao cho mỗi lớp có một buổi thực hành (4 tiết) trên tuần, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các em được học thực hành. 3.6. Bố trí vị trí ngồi của học sinh tại từng máy Hàng năm, dựa vào danh sách lớp, giáo viên phân chia 2 học sinh/1 máy theo hai ca học. Việc này tưởng chừng như đơn giản nhưng thật ra rất có hiệu quả. Một khi ta giao trách nhiệm cho hai em học sinh một máy từ đầu cho đến hết năm học, các em chịu trách nhiệm theo dõi hư hỏng và bảo quản máy đó trong cả tiết học, năm học. Điều này giúp các em có ý thức tốt hơn trong việc bảo vệ tài sản nhà trường. Nhờ đó, phòng máy nhà trường không khi nào xảy ra trường hợp mất, hỏng chuột, gỡ đổi phím và nhiều thiết bị khác Những kết quả đạt được Trong những năm học qua, với sự quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện của lãnh đạo ngành; lãnh đạo các cấp và Ban giám hiệu nhà trường, đội ngũ giáo viên Tin học của nhà trường và bản thân đã cụ thể hóa những văn bản chỉ đạo bằng những giải pháp nêu trên đã phần nào phát huy hết công năng của phòng máy; giáo viên, học sinh không phải dạy – học “chay” nữa và chất lượng dạy học bộ môn Tin học tại trường được nâng lên rõ rệt cùng với đó là một số kết quả khác cũng được chú trọng như: – Đảm bảm đúng, đủ giờ thực hành của học sinh theo phân phối chương trình. – Chi phí nâng cấp, thay thế, sửa chữa được hạn chế thấp nhất. – Tổ chức được các lớp học và thi nghề tin học cho học sinh của trường và rất nhiều em trong số đó có kết quả xếp loại khá, giỏi, phần nào góp phần nâng cao những thành tích chung của nhà trường. – Tổ chức được các lớp tập huấn E-Learning cho cán bộ giáo viên. – Nhiều tiết thao giảng, tiết kiểm tra định kỳ của các khối lớp cũng được tổ chức tại phòng thực hành, đảm bảo được yêu cầu môn học. PHẦN III: KẾT LUẬN Phải khẳng định rằng, môn Tin học có đặc thù khác với các môn học khác, để tiếp thu kiến thức thì cần rất nhiều thời gian cho việc thực hành. Thực hành trên máy tính là bắt buộc và là một cấu thành của bài giảng lý thuyết. Đối với môn tin học rất khó dạy khi giáo viên hoàn toàn không được dùng máy tính để minh họa hay thực hành các thao tác mẫu của bài học. Nếu thầy và trò trên lớp được học tập hoàn toàn với phấn và bảng (học chay), việc tiếp thu kiến thức bài học có thể suy giảm. Và rồi bao nhiêu kiến thức các em sẽ quên theo thời gian Trong hoàn cảnh thực tế của các trường trên toàn quốc nói chung và tại trường Thạch Thành 2 nói riêng rất khó để có được một mô hình lý tưởng về điều kiện thực hành trên máy tính để học sinh tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả nhất. Thực tế, trong nhiều năm trở lại đây, chính nhờ sự quan tâm sâu sắc của lãnh đạo ngành, lãnh đạo nhà trường đã quyết tâm đầu tư trang thiết bị máy móc cho phòng Công nghệ thông tin của trường ngày một nhiều hơn, ngày một hoàn thiện, khang trang hơn nhưng so với số học sinh của trường thì nó vẫn còn khá khiêm tốn, tổng số máy trên tổng số học sinh quá nhỏ (60 máy /1000 học sinh) . Tuy nhiên, nhu cầu phòng máy đối với một ngôi trường có gần 1000 học sinh như trường THPT Thạch Thành 2 là rất lớn, với điều kiện hiện tại thì còn nhiều việc phải làm, phải đầu tư thêm. Hy vọng một ngày nào đó nó được khang trang, đáp ứng đầy đủ nhu cầu học tập của học sinh nhà trường./. XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 15 tháng 05 năm 2017 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Nguyễn Việt Bắc TÀI LIỆU THAM KHẢO Quản trị mạng Microsoft Windows server 2003 (sưu tầm trên Internet) Một số bài viết trên các diễn đàn (Forums) như: Vn-zoom, phienbanmoi…
Cập nhật thông tin chi tiết về Skkn Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Ôn Thi Tốt Nghiệp Thpt Qg Cho Lớp 12A1, 12A2 Ở Trường Thpt Quan Sơn trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!