Xu Hướng 6/2023 # Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Môn Toán # Top 11 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Môn Toán # Top 11 View

Bạn đang xem bài viết Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Môn Toán được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

NỘI DUNG TRANG I. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI : 2 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 2 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 2 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 3 II. NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 4 2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ: 4 3 . MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 HỌC TỐT MÔN TOÁN 5 3.1 . Hướng dẫn học sinh học sinh thuộc bảng nhân, chia. 5 3. 2. Hướng dẫn đọc, viết, so sánh các số tự nhiên. 7 3.3. Hướng dẫn cách đặt tính, thực hiện phép tính 9 3.4. Hướng dẫn giải toán có lời văn. 13 3.5. Hướng dẫn học sinh nắm, thuộc các qui tắc đã học. 17 4. KẾT QUẢ . 18 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 19 1. KẾT LUẬN 19 2. KIẾN NGHỊ: 20 I. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:           Trong các môn học, môn toán là một trong những môn có vị trí rất quan trọng. Các kiến thức, kỹ năng của môn toán có nhiều ứng dụng trong đời sống, giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh.Môn toán còn góp phần rẻn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đó ; góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn toán ở tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin đã làm cho khả năng nhận thức của trẻ cũng vượt trội. Điều đó đã đòi hỏi những nhà nghiên cứu giáo dục luôn luôn phải điều chỉnh nội dung, phương pháp giảng dạy phù hợp với nhận thức của từng đối tượng học sinh nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện góp phần đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương, đất nước. Qua thực tế giảng dạy ở các khối lớp, đặc biệt nhiều năm đứng lớp ở khối 3, tôi thấy: Phần nhiều học sinh chưa nắm vững chắc những kiến thức cơ bản về toán như: Chưa thuộc bảng nhân, chia. Chưa nắm vững cách đọc, viết và so sánh số tự nhiên (đến hàng nghìn, chục).Chưa biết đặt tính, thực hiện phép tính ( cộng, trừ, nhân, chia cột dọc). Đặc biệt các em còn rất yếu trong việc giải toán có lời văn. Chưa thuộc các quy tắc đã học trong giải toán.Trước thực tế đó, bản thân đã dành một thời gian đáng kể đầu tư cho việc đổi mới phương pháp, đặc biệt là đối với môn toán, sau nhiều lần thử nghiệm và trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp, tôi đã rút ra được: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn toán” để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung và đối với học sinh lớp 3B nói riêng. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Nhằm đưa ra Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn Toán. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: – Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa toán 3. – Nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến học sinh chưa hoàn thành môn toán. – Nghiên cứu những biện pháp, phương pháp giáo dục hay phù hợp để khắc sâu kiến thức, hình thành thói quen, giúp học sinh nắm và để học tốt môn Toán. – Học sinh khối 3 . Trường Tiểu học Yên Thái. – Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 3b . Trường Tiểu học Yên Thái. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: – Phương pháp đàm thoại, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp với học sinh lớp 3 B. – Phương pháp quan sát. – Phương pháp điều tra. – Phương pháp thực hành luyện tập. – Phương pháp tổng kết. II. NỘI DUNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN Trong quá trình dạy học toán ở phổ thông nói chung, ở tiểu học nói riêng, môn toán là một trong những môn học quan trọng nhất trong chương trình học ở tiểu học. Môn toán có hệ thống kiến thức cơ bản cung cấp những kiến thức cần thiết, ứng dụng vào đời sống sinh hoạt và lao động. Những kiến thức kĩ năng toán học là công cụ cần thiết để học các môn học khác và ứng dụng trong thực tế đời sống. Toán học có khả năng to lớn trong giáo dục học sinh nhiều mặt như: Phát triển tư duy lôgic, bồi dưỡng những năng lực trí tuệ . Nó giúp học sinh biết tư duy suy nghĩ, làm việc góp phần giáo dục những phẩm chất, đạo đức tốt đẹp của người lao động. Giáo dục toán học là một bộ phận của giáo dục tiểu học. Môn toán ở tiểu học rất quan trọng với các em học sinh không chỉ biết cách tự học mà còn phát triển ngôn ngữ( nói, viết) để diển đạt chính xác, ngắn gọn và đầy đủ các thông tin, để giao tiếp khi cần thiếtmà còn giúp các em hoạt động thực hành vận dụng tăng chất liệu thực tế trong nội dung, tiếp tục phát huy để phát triển năng lực của học sinh.  2. THỰC TRẠNG VẤN ĐÊ Qua quá trình dạy học nhiều năm ở tiểu học, được trực tiếp giảng dạy môn toán cho học sinh nhất là học sinh lớp 3, tôi nhận thấy khi học toán đa phần các em có những hạn chế sau: 2.1. Học sinh chưa thuộc bảng nhân, chia Vì không biết cấu tạo của bảng nhân, bảng chia.Với các chữ số khá lớn, nhiều học sinh cảm thấy gặp khó khăn ngay từ khi bắt đầu học thuộc lòng nó một cách máy móc. Trong khi đó giáo viên chưa giúp các em nhận biết các dấu hiệu của từng bảng nhân, chia. 2.2. Học sinh chưa nắm vững cách đọc, viết và so sánh số tự nhiên (đến hàng nghìn, chục). Chưa nắm vững cách đọc, viết và so sánh số tự nhiên vì học sinh chưa nắm được cấu tạo các số tự nhiên 2.3. Học sinh chưa biết đặt tính, thực hiện phép tính ( cộng, trừ, nhân, chia cột dọc). Các em chưa biết đặt tính, thực hiện phép tính ( cộng, trừ, nhân, chia cột dọc) vì học sinh chưa nắm được quy tắc đặt tính nên khi thực hiện phép tính chưa đúng. 2.4 Đặc biệt các em giải toán có lời văn chưa đúng Các em giải toán có lời văn chưa đúng vì Các em đọc chưa thạo và chưa hiểu đề bài, các em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra lối giải, chưa biết cách trình bày bài giải, diễn đạt vụng và thiếu logic. 2.5 Học sinh chưa thuộc các quy tắc đã học trong giải toán. Chưa thuộc các quy tắc đã học trong giải toán vì các quy tắc thường khô khan khó nhớ. Sau khi tiến hành kiểm tra trước thực nghiệm, tôi thu được kết quả sau: Sĩ số Bảng nhân, chia Đọc, viết và so sánh số tự nhiên Đặt tính, thực hiện phép tính Giải toán có lời văn Các quy tắc đã học trong giải toán Hoàn thành Chưa hoàn thành Hoàn thành Chưa hoàn thành Hoàn thành Chưa hoàn thành Hoàn thành Chưa hoàn thành Hoàn thành Chưa hoàn thành 28 em 10em = 35,7% 18 em = 64,3% 12em = 42,9% 8em = 57,1% 8em = 28,6% 20em = 71,2% 5em = 17,9% 23em = 82,1% 8em = 28,6% 20em = 71,2% Từ những thực trạng trên tôi mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy như sau: 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 HỌC TỐT MÔN TOÁN . 3.1 . Hướng dẫn học sinh học sinh thuộc bảng nhân, chia. – Để luyện cho học sinh thuộc và khắc sâu các bảng nhân, bảng chia tôi làm như sau: + Khi dạy tôi hướng dẫn học sinh lập được bảng nhân, bảng chia và tôi hướng dẫn cho học sinh nắm sâu hơn và dễ nhớ hơn như sau: VD: Bảng nhân 9 9 x 1 = 9, 9 x 2 = 18, 9 x 3 =27, 9 x 4 = 36, 9 x 5 = 45 Ta thấy số hàng chục tăng từ 0-1-2-3-4.9. Ngược lại số hàng đơn vị giảm từ 9-8-7-60 Những dấu hiệu này giúp cho học các em thấy được tính biến ảo, linh động của các con số và do vậy các em thấy hưng phấn, yêu thích với cón số hơn. Mặt khác, đó cũng là các dấu hiệu giúp các em có thể kiểm tra tính đúng đắn khi phát biểu các kết quả. Là những điểm tựa quan trọng giúp các em tự tin hơn khi học các bảng nhân, chia. Ví dụ: 9 x 7 = 62 : Kết quả sai Bởi vì dựa vào một cột mốc nào đó mà các em đã ghi nhớ ( 45 chăng hạn) thì các em sẽ tính nhanh ra được : 45, 54 63, 72 ..Như vậy trong bảng nhân 9 không có số 62. Hoặc các em có thể dựa vào só cuối cùng 9 x 9 = 81 để tính ngược lại 72,63 và suy ra 9 x 7 = 63 -Tính nhân thực chất là phép tính viết gọn của phép tính cộng, do vậy khi dạy học hình thành các bảng nhân và chia, giáo viên cần giúp học sinh nắm cấu tạo của bảng. Nhất là giúp các em biết cách chuyển đổi thuần thục giữa phép tính nhân và phép tính cộng; kiểm tra sự chính xác giữa phép tính nhân và chia. Ví du: Chuyển đổi giữa phép tính nhân( một tích) và phép tính cộng (tổng các số hạng bằng nhau) 9 x 3 = 27 Nghĩa là 9 lấy ba lần bằng 27. Chuyển sang phép cộng ta có: 9 + 9 + 9 = 27 Nếu học sinh nắm vững cấu tạo này học sinh sẽ dễ dàng kiểm tra được tính chính xác của các kết quả về bảng nhân . Mặt khác dựa trên quy tắc này, học sinh sẽ biết cách thành lập các bảng một cách tuần tự và do vậy các em học các bảng nhân thuận lợi hơn . Ví dụ : – 9 x 3 = 27 vậy thì vậy thì 9 x 4 sẽ bằng kết quả 9 x 3 lấy thêm một lần – 9 x 4 = 27 + 9 = 36 Việc học như vậy có căn cơ hơn và do vậy có kết quả vững chắc hơn VD: Bảng chia 6. * Các số bị chia trong bảng chia 6 là các tích của bảng nhân 6, và hơn kém nhau 6 đơn vị. * Số chia trong bảng chia 6 là các thừa số thứ nhất của bảng nhân 6 đều là 6. * Các thương của bảng chia 6 là thừa số thứ hai của bảng nhân 6. + Hàng ngày, đầu giờ học môn toán, thay vì cho học sinh vui, để khởi động, tôi thay vào đó là cả lớp cùng đọc một bảng nhân hoặc chia và cứ thế lần lượt từ bảng nhân 2, bảng chia 2 đến bảng nhân, chia hiện học. + Cuối mỗi tiết học toán tôi thường kiểm tra những học sinh chưa thuộc bảng nhân, chia từ 2 đến 4 em. + Tôi thường xuyên kiểm tra học sinh bảng nhân, chia bằng cách in bảng nhân, chia trên giấy A4, nhưng không in kết quả và bỏ trống một số thành phần của phép nhân, chia trong bảng. Vào cuối tuần dành thời gian khoảng 10 phút cho các em ghi đầy đủ và hoàn chỉnh bảng nhân, chia như yêu cầu. Tôi và học sinh cùng nhau nhận xét, khen ngợi học sinh làm bài tốt, nhắc nhở các em làm bài chưa tốt. + Tôi cũng thường xuyên cho học sinh chép bảng nhân nào mà các em chưa thuộc vào tập riêng. Ngày sau trình bày và đọc cho tổ trưởng nghe vào đầu giờ, sau đó tổ trưởng báo cáo cho giáo viên. * Để khắc sâu kiến thức, tôi còn cho học sinh chơi trò chơi. VD: Trò chơi “Ong đi tìm nhụy” – Chuẩn bị : + 2 bông hoa 5 cánh, mỗi bông một màu, trên mỗi cánh hoa ghi các số như sau, mặt sau gắn nam châm. 5 7 9 6 8 + 10 chú Ong trên mình ghi các phép tính, mặt sau có gắn nam châm 24 : 6 42 : 6 54 : 6 48 : 6 36 : 6 + Phấn màu – Cách chơi : + Chọn 2 đội, mỗi đội 4 em + Giáo viên chia bảng làm 2, gắn mỗi bên bảng mộ bông hoa và 5 chú Ong, ở bên dưới không theo trật tự, đồng thời giới thiệu trò chơi. – 2 đội xếp thành hàng. Khi nghe hiệu lệnh “bắt đầu” thì lần lượt từng bạn lên nối các phép tính với các số thích hợp. Bạn thứ nhất nối xong phép tính đầu tiên, trao phấn cho bạn thứ 2 lên nối, cứ như vậy cho đến khi nối hết các phép tính. Trong vòng 1 phút, đội nào nối đúng và nhanh hơn là đội chiến thắng. Sau khi áp dụng với các bảng nhân, chia từ bảng nhân, chia 2 đến 9 lớp tôi có 28/ 28 học sinh thuộc tất cả bảng nhân chia từ 2 đến 9. 3.2. Hướng dẫn đọc, viết, so sánh các số tự nhiên. 3.2.1.Hướng dẫn đọc, viết các số tự nhiên. Khi dạy nội dung này cần cho học snh nắm vững: – Kiến thức về hàng và lớp: + Lớp đơn vị gồm có ba hàng: Hàng đơn vị, hàng chục và hàng trăm + Lớp nghìn gồm có hai hàng : Hàng nghìn , hàng chục nghìn và hàng trăm nghìn – Sơ đồ cấu tạo của hàng và lớp: Lớp nghìn Lớp đơn vị Trăm nghìn Chục nghìn Nghìn Trăm Chục Đơn vị – Vị trí của từng chữ số theo hàng và lớp – Biết qui tắc các giá trị theo vị trí của các chữ số trong cách viết số. – Hướng dẫn phân hàng: VD số: 46971. + Hàng chục nghìn, hàng nghìn, hàng trăm, hàng chục, hàng đơn vị. . Số 46971: Có 4 chục nghìn, 6 nghìn, 9 trăm, 7 chục, 1 đơn vị. . Đọc số 46971: Bốn mươi sáu nghìn, chín trăm bảy mươi mốt. Giáo viên viết: 46971. Phân tích: 4 6 9 7 1 4 chục nghìn 6 nghìn 9 trăm 7 chục 1 đơn vị. Hoặc: lớp nghìn lớp đơn vị. . Khi viết, ta viết từ hàng cao đến hàng thấp (viết từ trái sang phải). . Khi đọc lớp nào ta kèm theo đơn vị lớp đó. . Học sinh đọc: Bốn mươi sáu nghìn, chín trăm bảy mươi mốt. – Hơn thế nữa, tôi còn hướng dẫn thêm cho học sinh cách đọc như sau: VD: Số 46971 và 46911. . Số 46971 đọc là: Bốn mươi sáu nghìn, chín trăm bảy mươi mốt. . Số 46911 đọc là: Bốn mươi sáu nghìn, chín trăm mười một. – Nói cụ thể hơn, từ hai số trên cho học sinh nhận ra được cách đọc ở cùng hàng đơn vị của hai số là khác nhau chỗ mốt và một. Nghĩa là số 46971, hàng đơn vị đọc là mốt, còn số 46911 hàng đơn vị đọc là một. Tuy cùng hàng và đều là số “1” nhưng tên gọi lại khác nhau. Tôi còn phát hiện và giúp học sinh đọc và nhận ra cách đọc của một vài số lại có cách đọc tương tự trên: VD: Số 46705 và 46725 cùng hàng đơn vị là số “5” nhưng lại đọc là “năm” và “lăm”. VD: Số 12010: Học sinh nhiều em đọc là “Mười hai nghìn không trăm linh mười”. Tôi hướng dẫn các em. Trong số tự nhiên chỉ được đọc “linh một, linh hai, . . . .linh chín, không có đọc là linh mười” vậy số 12010 đọc là: Mười hai nghìn không trăm mười. 3.2.2 Hướng dẫn so sánh các số tự nhiên. Trong qui tắc là: Khi ta so sánh trong hai số thì: Số nào có ít chữ số hơn thì số đó bé hơn và ngược lại. VD: 99999 9999. + Còn các số có cùng chữ số thì sao? Ngoài việc làm theo qui tắc thì tôi còn làm như sau: VD: Để tìm số lớn nhất trong các số: 7576 ; 7765 ; 7567 ; 7756. Tôi hướng dẫn họ sinh như sau: – Xếp theo cột dọc, sao cho thẳng hàng nghìn, trăm, chục, đơn vị với nhau. Cụ thể trên bảng phần được xoá là: 7 5 7 6 7 7 6 5 7 7 6 5 7 5 6 7 7 7 5 6 7 7 5 6 Số lớn nhất 7765. 7 7 7 7 5 – Phân theo hàng nghìn, trăm, chục, đơn vị. – So sánh từng hàng để chọn ra số lớn nhất trong hàng như: hàng nghìn đều bằng nhau là 7. Đến hàng trăm chọn được hai số lớn là 7 có trong 4756 và 7765. Sau đó yêu cầu các em chỉ so sánh hai số này và tìm được số lớn nhất là 7765. * Để khắc sâu kiến thức, tôi còn cho học sinh chơi trò chơi. VD: Trò chơi “ Ai đúng-Ai sai ” – Chuẩn bị: Mỗi đội 10 tờ giấy A4 , 5 bút dạ. – Cách chơi: . Gv phát cho mỗi em 2 tờ giấy và 1 bút dạ. Mỗi đội 5 em học sinh đứng thành 1 hàng. Hai đội bốc thăm giành quyền đọc trước. GV cho mỗi đội 2 phút, mỗi em viết 1 số có từ 4-5 chữ số vào một mặt của tờ giấy ( viết to để ở dưới lớp có thể nhìn rõ; ghi cách đọc ở góc trên bằng chữ nhỏ, khi giơ lên đối phương không nhìn thấy). Mặt còn lại ghi cách đọc một số nào đó, cũng ghi cách viết ở góc trên bằng chữ nhỏ. Hết thời gian 2 phút, cô hô: “ Lần thứ nhất bắt đầu” thì đội được đọc trước sẽ nêu cách đọc số mình chuẩn bị ( mỗi số đọc to 2 lần), đội kia phải viết lại được.Sau khi đọc đủ 5 số thì đổi vai trò ngược lại . Lần thứ 2 thì đội đi trước phải nhìn các số của đội kia viết rồi đọc to cho cả lớp nghe và đổi vai trò ngược lại. Sau khi 2 đội kết thúc đọc và viết, GV cùng cả lớp sẽ kiểm tra kết quả. Đội đọc phải giơ đáp án, đội viết phải giơ kết quả. – Cách tính điểm : Cứ mỗi số đúng 10 điểm, đọc chậm và sữa lỗi trừ đi 2 điểm. Nếu làm sai trừ 5 điểm, đội nào nhiều điểm hơn sẽ thắng. Qua một thời gian các em có tiến bộ rõ rệt. Mỗi lần thực hiện các em viết rất rõ ràng và chính xác. 3.3. Hướng dẫn cách đặt tính, thực hiện phép tính Theo tôi, đặt tính cũng là một việc hết sức quan trọng trong quá trình làm tính. Nếu học sinh không biết cách đặt tính hoặc tính sai sẽ dẫn đến kết quả sai. Vì thế theo tôi nghĩ, để học sinh có căn bản khi thực hiện phép tính phải cộng trừ, nhân chia. * Đối với phép cộng, trừ: ( giúp học sinh nhớ và áp dụng) – Phép cộng: VD : 43521 + 54452 = 79973 Số hạng số hạng Tổng + Nếu ta thay đổi chỗ các số hạng của tổng thì tổng không thay đổi. 43521 + 54452 = 54452 + 43521= 79973 + Muốn tìm tổng ta lấy số hạng thứ nhất cộng với số hạng thứ hai. 43521 + 54452 = 79973 + Muốn tìm số hạng chưa biết, ta lấy tổng trừ đi số hạng đã biết. 43521 – x = 79973 x = 79973- 43521 + Bất kì số nào cộng với 0 cũng bằng chính số đó. 5 + 0 = 5 – Phép trừ: VD: 7268 – 3142 = 4124 Số bị trừ số trừ hiệu + Muốn tìm hiệu ta lấy số bị trừ, trừ đi số trừ. 7268 – 3142 = 4124 + Muốn tìm số bị trừ chưa biết, ta lấy hiệu cộng với số trừ. x – 3142 = 4124 x = 3113 + 3142 x = 7268 + Muốn tìm số trừ chưa biết, ta lấy số bị trừ trừ đi hiệu. 7268 – x = 4124 x = 7268 – 4124 x = 3142 + Bất kì số nào trừ 0 cũng bằng chính số đó. 8 – 0 = 8 – Đặt tính và tính: 568 127 695 Lần: 321 Cần hướng dẫn học sinh kĩ là phải đặt tính thẳng hàng (hàng đơn vị thẳng hàng đơn vị, hàng chục thẳng hàng chục, hàng trăm thẳng hàng trăm, hàng nghìn thẳng hàng nghìn). Hướng dẫn học sinh bắt đầu cộng từ hàng đơn vị (hoặc từ phải sang trái). Nên lưu ý học sinh đối với phép trừ có nhớ, cần bớt ra khi trừ hàng kế tiếp. VD: Phép cộng có nhớ một lần. – 8 cộng 7 bằng 15, viết 5 nhớ 1. – 6 cộng 2 bằng 8, thêm 1 bằng 9, viết 9. – 5 cộng 1 bằng 6, viết 6. Chú ý: Trong phép cộng, trừ chỉ nhớ số 1, không nhớ 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. (trừ khi có nhiều số hạng cộng với nhau như bài tập 1b trang 156). * Đối với phép nhân, chia: – Phép nhân: VD: 1427 x 3 = 4281 Thừ số Thừa số Tích + Muốn tìm tích, ta lấy thừa số thứ nhất nhân với thừa số thứ hai. 1427 x 3 = 4281 + Muốn tìm thừa số chưa biết, ta lấy tích chia cho thừa số đã biết. 1427 x x = 4281 x = 4281 : 1427 + Khi ta thay đổi các thừa số trong một tích thì tích không thay đổi. 3 x 9 = 9 x 3 = 27 + Số nào nhân với 1 cũng bằng chính số đó. 3 x 1 = 3; 6 x 1 = 6; . . . + Số nào nhân với 0 cũng bằng 0. 3 x 0 = 0 – Đặt tính và tính: Khi đặt tính giáo viên lưu ý cho học sinh: Viết thừa số thứ nhất ở 1 dòng, viết thừa số thứ hai ở dòng dưới sao cho thẳng cột với hàng đơn vị (nhân số có 2, 3, 4 chữ số với số có 1 chữ số). Viết dấu nhân ở giữa hai dòng thừa số thứ nhất và thừa số thứ hai và lùi ra khoảng 1, 2 mm, rồi kẻ vạch ngang bằng thước kẻ. Khi thực hiện phép nhân này, ta phải thực hiện tính bắt đầu từ hàng đơn vị, sau đó đến hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn , hàng chục nghìn(hoặc tính từ phải sang trái). Các chữ số ở tích nên viết sao cho thẳng cột với theo từng hàng, bắt đầu từ hàng đơn vị, chục, trăm, nghìn của thừa số thứ nhất. VD: 23214 – 3 nhân 4 bằng 12, viết 2 nhớ 1. x 3 – Không viết 1 nhớ 2. 69642 – 3 nhân 1 bằng 3, thêm 1 bằng 4, viết 4. – 3 nhân 2 bằng 6, viết 6. – 3 nhân 3 bằng 9, viết 9. – 3 nhân 2 bằng 6, viết 6. Đối với cách viết từng chữ số của tích có nhớ, ta nên viết số đơn vị, nhớ số chục. (hoặc nhắc học sinh viết số bên tay phải nhớ số bên tay trái). * Nhắc thêm cho học sinh: Nếu trường hợp như: 8 nhân 3 bằng 24, thì viết 4 nhớ 2, …( đối với phép nhân thì chỉ có nhớ 1, 2,… 8, không có nhớ 9) – Phép chia: VD: 36369 : 3 = 12123 + Muốn tìm thương, ta lấy số bị chia, chia cho số chia. 6369 : 3 + Muốn tìm số bị chia chưa biết, ta lấy thương nhân với số chia. x : 3 = 12123 x = 12123 x 3 + Muốn tìm số chia chưa biết, ta lấy số bị chia, chia cho thương. 45 : x = 9 x = 45 : 9 + Số nào chia cho 1 cũng bằng chính số đó. 2 : 1 = 2; . . . . . 9 : 1 = 9 + 0 chia cho bất kỳ số nào cũng bằng 0. 0 : 6 = 0 * Nhắc thêm cho học sinh: không thể chia cho 0. 6 : 0 + Muốn tìm số chia trong phép chia có dư, ta lấy số bị chia trừ đi số dư rồi chia cho thương. 7 : 3 = 2(dư 1) Vậy: (7 – 1) : 2 + Muốn tìm số bị chia trong phép chia có dư, ta lấy thương nhân với số chia rồi cộng với số dư. 9 : 4 = 2 (dư 1) Vậy: 2 x 4 + 1 = 9 + Trong phép chia có dư, số dư nhỏ nhất là 1, số dư lớn nhất kém số chia 1 đơn vị. ( trong chương trình toán 3 số dư trong phép chia nhỏ nhất là 1, lớn nhất là 8). VD: Số chia là 9, thì số dư là 1, 2, 3, 4, . . 8. (số dư phải nhỏ hơn số chia) – Đặt tính và tính: Tôi nghĩ thực hiện đặt tính và tính cộng, trừ, nhân, chia theo cột dọc, thì phép chia là khó nhất vì: – Học sinh hay quên, thực hiện chưa đầy đủ các hàng cao đến hàng thấp hướng dẫn kĩ cho học sinh cách nhân ngược lên và trừ lại, . . . Đặc biệt đối với học sinh chưa hoàn thành toán, tôi hướng dẫn kĩ cách đặt tính, nhằm giúp các em thấy được hàng

Hyip, Make Money Online, Crypto, Bitcoin,: Đề Tài Skkn Môn Toán Lớp 3 In Luôn: Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Phần Số Học Môn Toán Lớp 3

Đề tài SKKN môn toán lớp 3 in luôn: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHẦN SỐ HỌC MÔN TOÁN LỚP 3

Môn toán bao gồm những kiến thức về số học, đo lường, hình học và đại số. Đây là những kiến thức cơ bản mà học sinh cần nắm vững để tạo tiền đề cho các em học tốt hơn môn toán ở những lớp trên, học tốt môn toán còn làm cơ sở cho việc tính toán đúng, chính xác trong cuộc sống của các em sau này.

Việc học về cấu tạo số, ôn tập phép cộng, phép trừ trong phạm vi 1000, phép nhân, phép chia, cách tìm x, tìm y ;… sẽ tạo cho các em biết so sánh, tổng hợp, biết những thao tác tư duy cơ bản để hình thành trí tuệ và năng lực sáng tạo cho học sinh.

Trong môn toán nắm vững những kiến thức các em nắm chưa vững sẽ dẫn đến các em không học tốt được môn toán.

Quanhiều năm dạy lớp 3, tôi nhận thấy một số học sinh còn nhiều hạn chế về việc học phần số học và đại số trong môn toán từ đó dẫn đến các em học chưa tốt môn Toán.

Làm thế nào để giúp học sinh học tốt phần số học và đại số ở môn toán đối với tôi là rất cần thiết, rất được quan tâm. Tôi đã cố gắng suy nghĩ tìm cách giải quyết vấn đề trên. Nếu giải quyết được vấn đề trên sẽ giúp các em học tốt hơn môn toán ở những lớp trên nhất là cho các em vận dụng thực tế vào cuộc sống.

Đề tài tôi viết đã được nói nhiều trong sách giáo khoa chỉnh lí môn toán ở trường tiểu học và sách một số vấn đề về môn toán ở bậc Tiểu học đồng thời cũng được nhiều giáo viên nghiên cứu viết. Tuy nhiên với thời gian dạy lớp 3, tôi đã tùy theo đặc điểm tình hình cụ thể của lớp, của từng năm học mà có những giải pháp chung nhằm giúp cho các em học tốt hơn môn Toán lớp 3. Đó cũng chính là vấn đề tôi chọn đề tài “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHẦN SỐ HỌC MÔN TOÁN LỚP 3” Đề tài có thể áp dụng cho học sinh khối lớp 3 trong việc dạy và học toán ở trường Tiểu học THTH.

Đề tài SKKN môn toán lớp 3 in luôn: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHẦN SỐ HỌC MÔN TOÁN LỚP 3

Áp dụng: Viết sáng kiến kinh nghiệm Toán lớp 3, viết đề tài NCKHSPUD Toán lớp 3, Viết tiểu luận PPGD Toán lớp 3

SKKN, SKKN Toán 3, NCKHSPUD, NCKHSPUD Toán 3, SKKN Tiểu học, NCKHSPUD Tiểu học, SKKN Toán 3

Một Số Biện Pháp Nhằm Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Toán Lớp 1

Như chúng ta đã biết, tiểu học là nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân. Đây chính là hành trang cho thầy và trò trong quá trình dạy học, điều kiện kinh tế xã hội nước ta có những thay đổi lớn, đất nước ta bước vào thời kỳ Công nghiệp hóa – hiện đại hoá có những bước phát triển mạnh. Vấn đề hội nhập, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đặt ra ngày càng cấp bách. Với tốc độ phát triển vũ bão của khoa học, con người được tiếp cận những nguồn thông tin đáp ứng với nhu cầu của đất nước trong giai đoạn hiện nay; đổi mới phương pháp và hình thức dạy học là một việc làm đúng đắn.

Giáo dục Việt Nam đang từng bước khẳng định vị thế. Trong thời điểm mà Cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” đang được các cấp các ngành và toàn xã hội quan tâm hưởng ứng. Song song với các cuộc vận động Ngành triển khai cuộc vận động xây dựng “Trường học thân thiện – học sinh tích cực” Làm thế nào để giúp các em học tập một cách thực sự và có hiệu quả đó chính là cốt lõi của vấn đề “Nhà trường thân thiện – học sinh tích cực” Tích cực phải được thể hiện từ suy nghĩ cho đến thực tế qua kết quả học tập của tất cả các môn học. Thực tế cho thấy mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Trong các môn học cùng với môn Tiếng Việt môn Toán có vị trí quan trọng, vì:

– Các kiến thức kỹ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống: Chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác ở Tiểu học và môn Toán ở các cấp học kế tiếp.

Định hướng giải pháp và hình thức dạy học phù hợp, tối ưu nhất với đặc điểm môn học và tình hình học sinh theo tinh thần đổi mới phương pháp Dạy học.

Xác định mức độ, cách thực hiện đổi mới phương pháp Dạy học theo khả năng và sự cố gắng của giáo viên.

Giúp bản thân làm quen với công tác nghiên cứu, sáng tạo, biết vận dụng các tri thức được trang bị và kinh nghiệm đã có vào việc giải quyết một số vấn đề thực tế đặt ra trong quá trình Dạy – Học. Việc nghiên cứu, phân tích đổi mới phương pháp hình thức Dạy học phù hợp thành công sẽ mang lại những lợi ích cụ thể và thiết thực.Có những hình thức Dạy học giúp giáo viên, học sinh thực hiện Dạy học một cách nhẹ nhàng, hiệu quả phát huy được vai trò chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh. Đồng thời giúp giáo viên biết vận dụng phối hợp các phương pháp và hình thức Dạy học một cách linh hoạt và có hiệu quả.

Trong hệ thống phát triển giáo dục phổ thông, bậc tiểu học được coi như là cái nền mà lớp 1 chính là viên đá đầu tiên để xây dựng nên cái móng. Móng có chắc công trình xây nền mới vững chãi. Bước vào lớp 1 là giai đoạn chuyển từ hoạt động chủ đạo các em “Học mà chơi – chơi mà học” sang hoạt động “Học tập tích cực” Học sinh bắt đầu được hình thành thói quen nề nếp học tập cơ bản. Đến trường mới các em được học đọc, học viết, học đếm, học làm toán và các em còn được học rèn luyện kĩ năng sống hằng ngày. Nơi đây các em được hiểu biết thêm nhiều điều mới lạ. Các em sẽ có nhiều việc để làm hơn. Hoạt động học là một thách thức lớn đối với các em. Trường học sẽ giúp các em khôn lớn hơn – trưởng thành hơn.

Trong mỗi giờ dạy học giáo viên chủ động xây dựng sự phối hợp các phương pháp dạy học mang tính hệ thống trong cả một năm học (từ đơn giản đến phức tạp, từ trực quan đến tư duy trừu tượng khái quát.)

+ Giai đoạn học tập cơ bản: Học sinh biết tính nhẩm được: 1 + 1 = 2

+ Giai đoạn thực hành, luyện tập: Bước đầu hình thành ở các em những kiến thức đơn giản chỉ là nhìn hình vẽ nêu được bài toán, trả lời bài toán và ghi phép tính thích hợp. Giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn để học sinh tự tìm ra kết quả đúng. Dạng toán này thường là dạng toán tập trung khơi dậy sự sáng tạo và phát triển tư duy học toán cho học sinh lớp 1. Các em thường chỉ biết nêu bài toán theo kiểu thuận theo tranh, còn dạng bài toán có phép tính trừ thứ hai học sinh rất lúng túng trong khi nêu bài toán. Người giáo viên biết phối hợp phương pháp chuyển tải các kiến thức đó đến với các em, giúp các em nêu bài toán một cách dễ dàng hơn.

Ví dụ 2: Hình vẽ (Dạng toán bớt)

– Nêu miệng bài toán “Có 5 con ngựa bớt 2 con ngựa. Hỏi còn lại mấy con ngựa?”

– Trả lời bài toán”Có 5 con ngựa bớt 2 con ngựa. Còn lại 3 con ngựa?”

Học sinh Viết được phép tính thích hợp là:

+ Cùng hình vẽ các em nêu bài toán và phép tính khác:

– Nêu miệng bài toán”Có 5 con ngựa, còn lại 3 con ngựa. Hỏi đã bớt mấy con ngựa?”

– Trả lời bài toán “Có 5 con ngựa, còn lại 3 con ngựa. Đã bớt 2 con ngựa”

Viết được phép tính tương ứng:

+ Chuyển sang giai đoạn giải toán có lời văn: Bài toán: “Tổ em có 4 bạn nam và 6 bạn nữ. Hỏi tổ em có tất cả mấy bạn?”

– Trước khi trình bày bài giải yêu cầu nêu được câu lời giải của bài toán. Muốn nêu được câu lời giải của bài toán các em phải tìm hiểu kĩ bài toán cho ta biết gì? và bài toán hỏi ta điều gì? Lúc này bản thân từng em một phải tự nêu câu lời giải của mình cho cả lớp nghe. Giáo viên hướng dẫn các em tìm câu lời giải phù hợp với đề bài toán đã cho.

– Yêu cầu học sinh giải miệng được bài toán 4 + 6 = 10 và trình bày được bài giải đủ 4 bước:

Số bạn tổ em có là:

+ Giai đoạn học tập sâu hơn:

Giúp học sinh hiểu được không chỉ có 4 + 6 = 10, 6 + 4 = 10 mà có thể tìm các số khác cộng lại để kết quả bằng 10:

Dạng toán tập trung khơi dậy sự tò mò tìm tòi sáng tạo và phát triển tư duy học toán cho học sinh lớp 1. Một số không ít học sinh tìm được các phép tính khác nhưng tóm lại cùng có kết quả chung của giáo viên đưa ra.

…. + … +…. + …. = 10 2 + 4 + 3 + 1 = 10

…+ …. + … +…. = 9 3 + 1 + 2 + 3 = 9

…. + … + … – …. = 7 1 + 4 + 1 + 1 = 7

….+ …. + … – …. = 4 5 + 2 + 1 – 4 = 4

Dạng toán này cũng không kém phần khơi dậy sự tìm tòi phát triển tư duy trong học toán cho học sinh lớp 1.

9 – 4 = + 0 9 – 4 = 5 + 0

– Phát hiện (sự mất kiến thức cơ bản của học sinh ở một phần, một giai đoạn nào đó) để kịp thời bổ sung và nắm được phần kiến thức cơ bản, không bị thua kém so với các bạn khác trong lớp.

Ví dụ 3: Bài tập thực hành dạng: “Điền số thích hợp vào ô trống”

Nếu học sinh nào đó khi làm bài tập dạng này thường hay sai tức là em đó chưa nắm được cấu tạo các số đã học. Như vậy giáo viên có thể bố trí thời gian thuận lợi (Có thể ngay trong giờ học hoặc dành thời gian ngoài giờ học) để hướng dẫn các em cách làm. Điều quan trọng là giúp các em hiểu được mức tối thiểu ở dạng bài tập này là phải “Nắm vững được cấu tạo số” và nắm chắc bảng cộng, bảng trừ trong phạm vi các số đã học, để các em vượt qua dạng bài tập này một cách dễ dàng.

Chẳng hạn muốn điền đúng số vào ô trống trong phép tính sau:

8 + = 10 8 + 2 = 10

Buộc các em phải nắm được 10 gồm 8 và 2, từ đó học sinh biết xác định được số cần điền vào ô trống là số 2. Vậy 8 + 2 = 10 cũng chính là bảng cộng trong phạm vi 10 mà các em cần nắm vững.

Cách khác có thể lấy 10 – 8 = 2; 2 chính là số cần tìm ghi vào ô trống để có phép tính đúng.

– Bước đầu giúp các em có khả năng tự học, tự tìm tòi tư duy toán học. Đổi mới chương trình giáo dục và cùng với nó là đổi mới phương pháp dạy học môn Toán lớp 1 nói riêng và đổi mới cách đánh giá là những phương diện thể hiện sự quyết tâm cách tân, đem lại những thay đổi về chất lượng và hiệu quả giáo dục trong các nhà trường tiểu học nói chung và trong mỗi tiết dạy học toán nói riêng của cá nhân. Muốn có một giờ học tốt, thì giờ học đó giáo viên phải phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập cho người học. Ngoài những yêu cầu có tính chất truyền thống như: bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng, nội dung dạy học, đặc trưng môn học, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh; các giờ học đổi mới phương pháp dạy học còn có những yêu cầu mới như: được thực hiện thông qua việc giáo viên tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh theo hướng chú ý đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, khả năng tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin; được thực hiện theo nguyên tắc tương tác nhiều chiều: giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (chú trọng cả hoạt động dạy của người dạy và hoạt động học của người học). Về bản chất, đó là giờ học có sự kết hợp giữa học tập cá thể (hình thức học cá nhân) với học tập hợp tác (hình thức học theo nhóm, theo lớp); chú trọng kết hợp học với hành, nâng cao trí thức với rèn luyện các kĩ năng, gắn với thực tiễn cuộc sống; phát huy thế mạnh của các phương pháp tiên tiến, hiện đại; các phương tiện dạy học và những ứng dụng của công nghệ thông tin trong quá trình dạy học …

Ngày nay việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một nhu cầu cấp thiết đối với hệ thống giáo dục Việt Nam vì nó giúp giáo viên có nhiều thời gian hơn để dẫn dắt học sinh nắm bắt vấn đề, tạo tình huống có vấn đề để kích thích sự tư duy sáng tạo của học sinh. Mặt khác, nó cũng sẽ giúp học sinh chủ động hơn trong quá trình lĩnh hội tri thức khi được tiếp xúc với nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Từ đó, hình thành cho người học kĩ năng tự tiếp thu tri thức, độc lập trong tư duy và hứng thú, hăng say trong học tập. Do đó, công nghệ thông tin ngày nay chiếm giữ vị trí quan trọng trong dạy học. Bản thân nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng và hiệu quả của ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học theo lớp, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường công nghệ thông tin. Đối với việc soạn bài với những ứng dụng của công nghệ thông tin cũng mang lại những hiệu quả khác biệt. Bản thân phải thường xuyên cập nhật kiến thức về chuyên môn và tin học. Đặc biệt, khi bắt tay vào soạn bài có ứng dụng công nghệ thông tin, thực sự bị cuốn hút và càng làm nhiều thì càng nảy sinh nhiều ý tưởng, từ đó lòng yêu nghề và sự sáng tạo cũng được bồi đắp thêm. Hiệu quả của phương pháp giảng dạy mới với những ứng dụng của công nghệ thông tin là không thể phủ nhận. Những ứng dụng của công nghệ thông tin đã giúp người thầy thay đổi cách “chế biến” những bài giảng đơn điệu thành những “món ăn” tinh thần ngon và bổ dưỡng những bài học hấp dẫn, lý thú đạt kết quả cao hơn. Học sinh luôn mong muốn được học những tiết học có ứng dụng công nghệ thông tin. Muốn ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy hiệu quả thì ngoài những hiểu biết căn bản về nguyên lý hoạt động của máy tính và các phương tiện hỗ trợ. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh, giáo viên tích hợp công nghệ thông tin vào từng môn học

Nếu chúng ta biết khai thác tốt và ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin vào việc thiết kế bài giảng thì việc tiếp thu kiến thức của học sinh sẽ trở nên dễ dàng hơn. Điều này rất cần thiết và phù hợp với mục tiêu của nền giáo dục nước ta là “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.

+ Đối với dạng bài cung cấp kiến thức mới: Sử dụng hình ảnh cụ thể để hình thành giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức mới dễ dàng …

+ Đối với dạng bài luyện tập thực hành: Sử dụng hình thức thi đua theo nhóm hay theo dãy bàn, hình thức làm bảng con nhờ bảng con học sinh được thực hành kĩ năng viết, làm tính; giáo viên có thể đánh giá việc nắm vững kiến thức, kĩ năng viết, kĩ năng tính của học sinh. Sử dụng bảng con làm thay đổi trạng thái học tập, khích lệ sự cố gắng của mỗi học sinh và tạo ra không khí thi đua học tập sôi nổi trong lớp. Sử dụng vở trắng cho học sinh thực hành kĩ năng viết và làm tính đối với học sinh lớp 1 là rất cần thiết trong tiết học toán. Giáo viên cần hạn chế việc dùng phiếu bài tập trong giờ học toán cho học sinh thực hành, mà cần tăng số lần sử dụng vở trắng để học sinh thực hành càng nhiều càng tốt.

+ Đối với việc củng cố bài dạy: Sử dụng hình thức trò chơi hoặc đố vui để cá nhân, tập thể cùng thi đua lẫn nhau.

Ví dụ 1: Khi dạy Bài phép cộng trong phạm vi 8.

Để khắc sâu cấu tạo số 8 và ghi nhớ các phép cộng trong phạm vi 8, sử dụng các “Câu đố vui” như sau:

“Có 8 cây bút chia hai chị em, chị nhường em phần nhiều hơn”

Hỏi: Chị được mấy cây bút ?

Hỏi: Em được mấy cây bút ?

– Từ ví dụ trên, học sinh sẽ suy nghĩ và trả lời nhiều đáp án khác nhau như:

Chị được 2 cây bút, em được 6 cây bút.

Hoặc chị được 3 cây bút và em được 5 cây bút.

Hay chị được 4 cây bút, em cũng được 4 cây bút, …

– Kèm theo câu trả lời của học sinh giáo viên khen ngợi những học sinh có câu trả lời đúng và nhanh nhất.

Ví dụ 2: Khi dạy Toán – Tiết 65. Luyện tập chung.

– Tổ chức “Nhiều hình thức trò chơi” học sinh tham gia chơi trong khi học như trò chơi (Tiếp sức). Đồng thời chia nhóm nhỏ để học sinh tham gia trò chơi một cách linh hoạt: Cứ 4 em trong một dãy dọc của mỗi tổ là một nhóm. Sau đó phát cho mỗi nhóm 1 tấm phiếu bià có ghi 4 phép tính (tương ứng với 4 em chơi), úp tấm bìa dưới mặt bàn trước mặt các em ngồi bàn đầu dãy.

7 = 4 + .3 3 = 1 + ..2.. 5 = 3 +..2..

8 = ..5..+ 3 2 = 1 + ..1.. 9 = 7 +..2..

6 = ..5..+ 1 7 = ..5..+ 2 9 = ..2..+ 7

Cách chơi: Thời gian trong 2 phút, mỗi em lần lượt làm một phép tính trong phiếu bìa.

: Khi hô hiệu lệnh “Bắt đầu”: Lập tức các em đầu nhóm mở tấm phiếu bìa tính nhanh và ghi kết quả phép tính đầu tiên vào.

– Sau đó lần lượt chuyển cho các bạn kế tiếp thực hiện phép tính và ghi kết quả các phép tính còn lại. Cho đến lúc em ở cuối nhóm điền xong thì nhanh chóng mang tấm phiếu bìa lên gắn ở bảng lớp. Giáo viên cùng học sinh các nhóm theo dõi xem nhóm nào làm xong trước tiên.

– Sau đó học sinh dưới lớp nhận xét kết quả tính của mỗi nhóm và tính điểm thi đua cho các nhóm, nhóm nào làm nhanh và đúng nhiều phép tính nhóm đó thắng cuộc.

– Để kết thúc trò chơi, cả lớp thưởng cho nhóm thắng cuộc một tràng pháo tay thật giòn và kèm theo lời khen ngợi của giáo viên.

Để sử dụng kết hợp các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học có hiệu quả và hợp lí tôi luôn bám sát mục tiêu từng tiết dạy để đảm bảo tính vừa sức, tạo không khí học tập nhẹ nhàng hứng thú cho học sinh mà không cảm thấy nhàm chán.

Tuân thủ những mục tiêu nguyên tắc chung của việc giải Toán lớp 1.

Bản thân luôn học hỏi đồng nghiệp, tự tìm tòi sáng tạo làm ra một số đồ dùng để phục vụ cho việc dạy – học của bản thân, vẽ cắt một số mô hình bằng giấy bìa các con vật. Qua những đồ dùng giáo viện tự tạo không chỉ dành cho dạy – học bài mới mà giáo viên còn thường xuyên sử dụng vào việc củng cố bài giảng nhằm gây hứng thú và khắc sâu kiến thức cơ bản.

Ví dụ: Khi dạy tiết 49: “Phép cộng trong phạm vi 7”

– Tự tạo ra một số mô hình con vật: gà con màu vàng, ô tô màu xanh, con chim. Để cung cấp các phép tính cộng trong phạm vi 7 với các phép tính:

6 + 1 = 7 5 + 2 = 7 4 + 3 = 7

1 + 6 = 7 2 + 5 = 7 3 + 4 = 7

– Song song với việc chuẩn bị các mô hình còn sử dụng thêm tranh vẽ các chấm tròn dùng để củng cố mối quan hệ giữa các phép tính cộng, trừ trong phạm vi 5.

– Nhận xét 2 phép tính đều có kết quả bằng 7. Vậy 4 + 3 = 3 + 4 ở đây các số 4 và số 3 đã đổi chổ cho nhau vì thế đều có kết quả bằng 7.

– Giáo viên đưa ra kết luận: “Trong phép cộng khi ta đổi chổ các số thì kết quả không thay đổi”.

– Củng cố mối quan hệ trong phép cộng và phép trừ: 4 + 3 = 7 thì 7 – 4 = 3; 7 – 3 = 4.

Luôn chú trọng đến yếu tố tâm lí, nhằm động viên kịp thời và cũng chú trọng đến việc nhắc nhở nhẹ nhàng với một số trường hợp nhằm giáo dục đức tính chăm chỉ, cẩn thận, tự tin và lòng hứng thú yêu thích học Toán.

Đối với những học sinh tiếp thu bài chậm hay có tính nhút nhát, thường xuyên mời các em lên bảng trả bài và làm bài nhằm rèn luyện tính mạnh dạn cho các em, từ việc gọi các em lên bảng thường xuyên lại được cô giáo và các bạn động viên kịp thời, giải quyết được phần nào về việc bế tắc trong tiếp thu bài ở lớp của các em.

Đối với những học sinh khá giỏi thường xuyên được động viên nhưng cũng không tránh khỏi đôi lúc cần phải nhắc nhở nhẹ nhàng để tránh sự chủ quan trong học tập của các em.

– Dạy trẻ học Toán ở nhà là giúp các em củng cố, bổ sung kiến thức để hoàn thiện hơn những gì đã học tập trên lớp. Ở nhà cũng không cần dạy thêm những gì mà nhà trường không dạy, nhưng ở nhà cần đưa ra một cách tiếp cận mới đem đến những gì cần thiết cho sự phát triển toàn diện của trẻ.

– Phụ huynh thường không có kinh nghiệm dạy trẻ nên khi kèm con học thường mau chóng nổi nóng, dễ làm trẻ mất bình tĩnh và lòng tự tin trong khi học tập.

– Chính vì vậy, giáo viên chủ nhiệm cần phải có kế hoạch thăm hỏi một số gia đình học sinh thường xuyên để kiểm tra việc hướng dẫn của phụ huynh và việc học tập của các em đến đâu?

– Từ đó giáo viên có thể hướng dẫn cho phụ huynh một số biện pháp kèm con em học tập ở nhà có hiệu quả.

– Giáo viên chủ nhiệm giúp phụ huynh biết: Cần xem bài học của con mình hôm nay là gì? xác định mục đích chính của bài học đó. Từ đó thông qua việc vui chơi, trò chuyện với con trẻ bằng các ngôn ngữ và phương pháp toán học đưa toán học ngày càng gắn bó với các em, gần gũi với cuộc sống hằng ngày của trẻ để các em yêu thích học Toán hơn.

– Giúp các em khắc sâu một phần nào kiến thức và kĩ năng đã được học ở lớp.

Ví dụ 1: Khi dạy tiết 21: Bài số 10.

– Để giúp học sinh củng cố cách viết đúng chữ số 10, bố mẹ có thể đưa ra câu đố vui như sau: Để mua 10 cái bánh, mà lại viết mua 01 cái bánh thì sẽ nhận được mấy cái bánh? Từ câu đố trên đã giúp các em phần nào nắm chắc hơn về cách viết số 10; vị trí của số 1 và số 0 trong cách viết số 10.

– Để khắc sâu biểu tượng về quan sát và đếm: Đố con, tìm trên cơ thể người cái gì có đến 10? Học sinh sẽ đếm ngay hai bàn tay có 10 ngón.

Ví dụ 2: Khi dạy tiết 23: Luyện tập chung.

– Để củng cố về các hình vuông, hình tròn, hình tam giác các bậc phụ huynh có thể cùng ngồi ghép với các em để tạo ra một số hình khác chính là các đồ vật gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em, các em được khắc sâu việc nhận biết các hình một cách nhẹ nhàng.

– Dạy con theo cách “Học mà chơi – chơi mà học” sẽ thấm sâu vào trẻ một

cách tự nhiên theo kiểu “Mưa dầm thấm lâu” giúp trẻ cảm thấy tự tin và thoải mái trong việc tiếp thu bài học.

– Mỗi tiết học trên lớp, giáo viên kiểm tra chấm bài, sửa lỗi cho học sinh bằng mực đỏ, ghi rõ số lỗi sai sót.

Chẳng hạn: Viết phép tính chưa thẳng cột, hoặc viết số còn nhỏ và xấu chưa đúng theo quy định viết chữ số 2 ô li vở, hay trình bày bài làm chưa khoa học, khoanh tròn vào kết quả chưa đúng, …

– Khi ở nhà cha mẹ có thể dành thời gian kiểm tra kết quả học tập trên lớp của con. Kiểm tra đối chiếu bài làm của con với phần sửa bài của giáo viên ghi mẫu trong vở, để cha mẹ có thể thấy rõ lỗi sai sót của con em mình – từ đó có thể giúp con sửa chữa và rèn luyện thêm khi tự học ở nhà.

– Trong thời gian học ở nhà cha mẹ có thể tự giao bài tập con làm thêm theo các dạng bài ôn tập trên lớp, để rèn luyện thêm dạng bài này các em còn hay sai khi làm bài. Sau đó kiểm tra đánh giá về cách viết chữ số, cách viết phép tính, kết quả tính và cách trình bày xem đã đúng so với những quy định của giáo viên hay chưa. Từ đó có ý kiến trao đổi với giáo viên để phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh tìm ra biện pháp kèm cặp giúp đỡ các em tiến bộ trong học tập.

– Sau khi thực hiện đổi mới phương pháp và hình thức dạy học linh hoạt trong học Toán chẳng những kết quả học tập được nâng lên từng bước rõ rệt, mà không khí học tập của học sinh trên lớp trở nên sôi động. Kĩ năng tính toán thành thạo hơn, các dạng bài tập thực hành được các em trình bày một cách rõ ràng và cẩn thận, sạch đẹp.

– Mối quan hệ giữa phụ huynh và giáo viên, giữa giáo viên và học sinh được gần gũi thân thiện hơn.

– Từ đó giúp giáo viên củng cố bổ sung kịp thời công tác chủ nhiệm lớp, đồng thời khơi dậy được ý thức trách nhiệm của một số phụ huynh trước đây vốn ít quan tâm chăm sóc đến việc học tập của con em. Nhất là khâu giám sát hướng dẫn kèm tự học ở nhà của các em. Đồng thời cuốn hút được đa số phụ huynh tham gia vào lớp học. Điều quan trọng là kết quả học tập không chỉ riêng môn Toán mà tất cả các môn học khác đều được nâng cao.

– Hiện nay dạy học rất chú trọng đến việc đổi mới phương pháp và hình thức Dạy – Học lấy học sinh làm trung tâm. Để thực hiện sứ mệnh của người giáo viên trong sự nghiệp đổi mới nền giáo dục phổ thông, điều thiết yếu và cốt lõi nhất là đòi hỏi bản thân giáo viên đề cao lương tâm trách nhiệm, sự nhiệt tình. Đồng thời giáo viên phải năng động sáng tạo, tự học hỏi thêm để tìm tòi những giải pháp thiết thực nhất cho việc dạy học của bản thân ngày càng đạt được hiệu quả.

– Trong đó đặc biệt học sinh lớp 1 cần có sự quan tâm giúp đỡ và hướng dẫn thường xuyên của người lớn. Nhằm giúp trẻ lĩnh hội kiến thức, hình thành niềm tin và phát triển nhân cách tốt. Như vậy sự kết hợp giáo dục giữa gia đình và nhà trường cũng là một yếu tố quan trọng góp phần thiết thực vào việc đổi mới và phát triển toàn diện nền giáo dục phổ thông.

– Phải biết tạo ra không khí học tập thật thoải mái, tự nhiên, tránh gây căng thẳng. Giáo viên luôn tôn trọng nhân cách của học sinh. Biết trân trọng những phát hiện của các em dù là nhỏ nhất để hình thành ở các em niềm tin ban đầu ở bản thân.

– Bước đầu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đã có nhiều khởi sắc tốt đẹp, đó chính là bản thân đã có sự chuyển đổi về nhận thức và chuyển tải lượng lớn kiến thức, hình ảnh trực quan sinh động được đến với các em. Giáo viên tiết kiệm được nhiều thời gian, học sinh dễ tiếp thu bài học, tiết học cũng để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí các em hơn. Giáo viên không còn độc diễn, thay vào đó học sinh được tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu phong phú. Nhờ đó tiết học không còn khô cứng, mang tính áp đặt, giáo điều. Đó cũng là niềm mong mỏi và hi vọng của bản thân. Hi vọng tương lai không xa, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học sẽ trở nên phổ biến để góp phần nâng cao chất lượng của nền giáo dục nước nhà.

– Giáo viên luôn tạo ra sự mới mẻ, biết đưa học sinh tới những bất ngờ thú vị. Bằng những ngôn ngữ, hình ảnh, kinh nghiệm và các phương tiện dạy học, giáo viên cần thu hút được sự chú ý của học sinh. Giúp các em có một động cơ học tập đúng đắn, có ước mơ và hoài bão.

– Biết khai thác triệt để vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh, kích thích được sự tò mò, lòng ham hiểu biết, ham hoạt động. Biết tổ chức các hoạt động học tập

chohọc sinh một cách nhịp nhàng, sáng tạo và hiệu quả.

– Cần quan tâm tới từng đối tượng học sinh, từ đó phát huy khả năng và sở trường của các em, có sự đối xử công bằng và bình đẳng, khen chê hợp lí, mang tính giáo dục cao.

– Tạo mọi điều kiện cho học sinh đề xuất sáng kiến và cùng cô giáo thực hiện các giải pháp để việc dạy và học có hiệu quả ngày càng cao.

Quá trình thực hiện đề tài khó có thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Bản thân rất mong Hội đồng khoa học quý thầy giáo, cô giáo cùng các bạn đồng nghiệp giúp đỡ, góp ý cho đề tài được tốt hơn và vận dụng vào việc dạy học đạt hiệu quả cao.

Bấm vào đây để tải về

Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Tiếng Việt Lớp 3

Để góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo các thế hệ học sinh thành những con người năng động,sáng tạo trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .Những con người biết tiếp thu tri thức khoa học kĩ thuật hiện đại, biết vận dụng tìm ra các giải pháp,phương pháp hợp lí cho những vấn đề trong cuộc sống của bản thân và xã hội .Thì giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu .Nhờ có giáo dục mới đào tạo các thế hệ tương lai của đất nước . Để đạt được những thành quả nói trên,các em phải trải qua các cấp học từ mẫu giáo đến đại học và sau đại học vì vậy môn tiếng việt ở tiểu học có vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh .Mục tiêu của môn tiếng việt là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng việt (đọc,viết , nghe ,nói ) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của trẻ. Thông qua việc dạy và học tiếng việt góp phần rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy cung cấp những kiến thức sơ giản về tiếng việt và những hiểu biết về xã hội, tự nhiên và con người, nền văn học Việt Nam và nước ngoài.Đồng thời bồi dưỡng tình yêu tiếng việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của tiếng việt góp phần hình thành nhân cách con ngườiViệt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chương trình tiếng việt lớp 3 các em phải học gồm 6 phân môn . Mỗi phân môn có một nhiệm vụ quan trọng, đối với phân môn tập đọc chủ yếu là rèn cho học sinh các kĩ năng đọc:đọc thành tiếng và đọc hiểu nghe và nói.Bên cạnh đó thông qua hệ thống bài đọc theo chủ điểm, Các em đọc đúng và đọc trôi chảy,rành mạch câu, đoạn, bài và biết được cách đọc thầm hiểu được nội dung chính của bài nhằm khai thác nội dung bài đọc cung cấp cho các em những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người,cung cấp vốn từ, cách diễn đạt những tác phẩm văn học như đề tài,cốt truyện,nhân vật,góp phần hình thành nhân cách học sinh.Phân môn luyện từ và câu cung cấp những kiến thức sơ giản về tiếng việt bằng con đường quy nạp và kĩ năng dùng từ đặt câu khi nói và viết bỗ sung thêm từ ngữcho phần đọc.phân môn chính tả chủ yếu rèn cho học sinh viết chữ hoa,viết được đoạn văn,khổ thơ bằng cách nghe viết,hoặc nhớ viết,các emviết đúng chính tả,trình bày sạch sẽ.Bên cạnh đó, học sinh phải làm một số bài tập để nắm vững từ ngữ và biết cách dùngtừ đặt câu cho phù hợp.Phân môn tập làm văn giúp học sinh biết làm mẫu đơn theo hướng dẫn,viết được đoạn văn tả ngắn về người thân,biết diễn đạt ý trọn vẹn,

Ở phần đọc yêu cầu các em đọc đúng,rõ ràng rành mạch các đoạn đối thoại,các văn bản nghệ thuật, hành chính báo chí,tốc độ đọc nhanh hơn lớp 2.Biết dựa vào câu hỏi trả lời ýchính của bài,biết nhận xét một số hình ảnh nhân vật hoặc đặt tên cho đề bài cốt truyện, biết kể chuyện từng đoạn dựa vào phần gợi ý ở sách giáo khoa.Ở phần viết yêu cầu các em viết đúng chính tả rõ ràng,biết tìm hình ảnh so sánh,nhân hóa trong khổ thơ,đoạn văn.Qua thực dạy trên lớp,tôi nhận thấymột số học sinh vẫn học chưa tốt các em đọc và viết thể hiện ý vănchưa trọn vẹn,dùng từ đặt câuchưa đúng,viết chưa chính xác từ ngữ. vì vậy tôi mạnh dạn viết ra đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 3”

2) NỘI DUNG VÀ CÁCH THỨC THỰC HIÊN GIẢI PHÁP BIỆN PHÁP :

Để học tốt môn tiếng việt,trước hết các em phải đọc và viết tốt,nói và viết cho trọn câu,dùng từ đặt câu cho phù hợp biết dùng các dấu câu trong đoạn văn phù hợp với nội dung cần thể hiện.Biết nghe và khi nhận thông tin xử lí thông tin nhanh chống .Vì vậy những nội dung tôi quan tâm nghiên cứu thực hiện đó là:

Giải pháp thứ nhất: Dạy học sinh biết thể hiện giọng điệu ngắt nghỉ,đọc đúng,đọc trơn câu văn,đoạn văn,bài thơ và trả lời câu hỏi trong giờ tập đọcvà kết hợp cử chỉ điệu bộ khi kể chuyện.

Khi dạy bài tập đọc hay bài học thuộc lòng trong chương trình tiếng việt lớp ba,trước hết giáo viên phải bám vào mục đích yêu cầu của bài soạn,bám vào chuẩn kiến thức kĩ năng.Trong giờ dạy tập đọc chủ yếu rèn luyên cho học sinh hai kĩ năng: Kĩ năng đọc thành tiêng và kĩ năng đọc hiểu.Đối với từng bài dạy khi mở bài giáo viên dùng tranh ảnh,vật thật để giới thiệu bài có nội dung hướng học sinh vào bài học hôm nay,khi đọc giáo viên đọc mẫu bài giọng đọc rõ ràng,đọc đúng từng câu biết cách ngắt nghỉ sau những câu văn có cụm từ dài hay sau những dấu câu.Biết nhấn giọng những câu đối thoại giữa nhân vật hay sự vật hiện tượng một cách tự nhiên không bị gò bó tạo cho học sinh thấy được sự hấp dẫn ở phần đọc.Sau đó người giáo viên điều khiển cách đọc cho học sinh,học sinh biết dấu hiệu một câu,dấu hiệu một đoạn,hay một bài thơ có mấy khổ thơ.Khi đọc các em phải đọc ngắt, nghỉ ở dấu câu,đọc đúng từ ngữ trong câu .

Chẳng hạn,trong quá trình học học sinh hay mắc lỗi đọc từ có phụ âm / và vần iêt/ iêc; oi/ oai; ưu/ ươu; ât/âc; um/uôm….. Để đọc đúng các âm vần trong từ ngữ thì giáo viên phải dùng phương pháp làm mẫu phối hợp răng, lưỡi, miệng để học sinh quan sát cách phát âm của giáo viên mà đọc.Ngoài ra giáo viên dùng các đồ dùng trực quan để đi sâu khai thác kênh hình và kết hợp kênh chữ gây hứng thú học tập cho các em .Khi đọc đoạn văn có nhiều câu đối thoại của nhân vật hay những câu có dấu chấm than thì giáo viên phải nhấn giọng để tạo ra hình ảnh gợi hình gợi cảm lôi cuốn người đọc.Trong khi luyện đọc cho học sinh giáo viên theo dõi cách đọc câu,đoạn, cách ngắt nghỉ trong câu để phát hiệncáichưa chính xác,kịp thời sửa cho các em.Giaó viên không để cho học sinh đọc tự do,mà phải hướng dẫncho các em đọc . Học sinh đọc phần luyện đọc thì tiếp đến giáo viên phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài, những bài có câu hỏi khó giáo viên có thể tách ra những câu hỏi nhỏ và gợi ý cho các em trả lời tránh tình trạng dùng câu hỏi lặp đi lặp lại nhiều lần để hỏi học sinh .Gây hứng thú cho các em khi trả lời nội dung câu hỏi.Giáo viên phải đầu tư cả hình thức nội dung để tiết học có hiệu quả chọn phương pháp sử dụng cho phù hợp mang lại kiến thức mới cho học sinh đạt hiệu quả nhất.Khi luyện đọc lại bài thường đọc theo cách phân vai có thể các em chọn vai và nhập vai đọc chọn vai và nhập vai theo nhân vật có thể các em chọn vai và đọc thành từng nhóm.Nhóm nào đọc tốt nhất thì đọc mẫu,giáo viên nhận xét sau đó rút kinh nghiệm để các nhóm đọc chưa chính xác thì đọc chính xác hơn .Cho các nhóm thi đọc lại với nhau rồi tự nhận xét giữa các nhóm và giáo viên nhận xét đánh giá khả năng đọc của từng nhóm .

* VÍ DỤ: Tập đọc: Người mẹ ( SGK Trang 39 tập một lớp3 )

Giaó viên hướng dẫn cách đọc đoạn trên: cách ngắt,nghỉ ở chỗ câu có dấu phẩy thì nghỉ ngắn hơi hơn so với dấu chấm và ngắt nghỉ nhấn giọng đúng chỗ ở câu hỏi và câu trả lời của nhân vật . Thể hiện giọng đọc các nhân vật(bà mẹ,Thần Chết,Người dẫn chuyện: Giaó viên hướng dẫn giọng đọc từng nhân vật như sau giọng Thần chết ngạc nhiên,giọng người mẹ khi nói câu: vì tôi là mẹ giọng điềm đạm khiêm tốn, khi yêu cầu Thần Chết: Hãy trả con cho tôi giọng dứt khoát. – Thấy bà/Thần Chết ngạc nhiên/hỏi://

.- Làm sao ngươi có thể tìm đếntận nơi đây/

Sau khi đã hướng dẫn đoạn văn trên, giáo viên cho học sinh đọc cá nhân, chú ý cách đọc của từng học sinh, học sinh đọc chưa chính xác từ ngữ, cách nhấn giọng giữa nhân vật, giáo viên hướng dẫn lại cho học sinh đọc lại đoạn đó, từ đó khắc phục học sinh đọc và đọc chính xác.

Giáo viên tổ chức cho học sinh đọc cách phân vai các nhân vật, rồi phân học sinh thành bốn nhóm cho các nhóm luyện đọc.Sau đó gọi từng nhóm lên đọc các nhóm còn lại theo dõi nhận xét -đánh giá để các em rút kinh nghiệm.Cuối giờ luyện đọc cả lớp bình bầu nhóm bạn đọc hay nhất tuyên dươngvà khen thưởng.

Bên cạnh giờ tập đọc,có nửa tiếtdành cho kể chuyện,chủ yếu ở tiết này rèn kĩ năng nói:Dựa vào các gợi ý trong sách giáo khoa học sinh biết nhập vai kể lại được từng đoạn của câu chuyện theo lời nhân vật.Các em biết thay đổi giọng kể phù hợp với nội dung,biết phối hợp lời kể với điệu bộ,nét mặt.

Rèn kĩ năng nghe:Chăm chú theo dõi bạn kể chuyện,biết nhận xét đánh giá lời kể của bạn,kể tiếp được lời kể của bạn.

Ví dụ: Kể lại đoạn ba và đoạn bốn trong bài ” Người mẹ”

Đoạn 3. Bà đến một hồ lớn.Không có một bóng thuyền.Nước hồ quá sâu.Nhưng bà nhất định vượt qua hồ để tìm con .Hồ bảo:

– Tôi sẽ giúp bà,nhưng bà phải cho tôi đôi mắt .Hãy khóc đi,cho đến khi đôi mắt rơi xuống.

Bà mẹ khóc,nước mắt tuôn rơi lã chã,đến nổi đôi mắt theo dòng lệ rơi xuống hồ,hóa thành hai hòn ngọc.Thế là bà được đưa đến nơi ở lạnh lẽo của Thần Chết.

Đoạn 4. Thấy bà thần chết ngạc nhiên ,hỏi:

Khi kể hai đoạn trên giáo viên phân vai các nhân vật (người dẫn chuyện,bà mẹ,Thần Chết,Hồ nước ) hướng dẫn học sinh nhập vai nhân vật. Học sinh nhớ lại chuyện kể lại đoạn chuyện thể hiện nhấn giọng từng từ ngữ:nhỏ xuống,tuôn rơi lã chã,hãy khóc đi, đôi mắt hóa thành hai hòn ngọc…giọng kể

người mẹ điềm đạm,khiêm tốn nhưng cương quyết, tha thiết toát lên được sự sẳn lòng hi sinh của người mẹ trên đường đi tìm con .Nhân vật Thần Chết khi thấy người mẹ ngạc nhiên.Từng học sinh nhập vai nhân vật khi kể kết hơp mọi cử chỉ và thể hiện điệu bộ, nét mặt phù hợp với từng nhân vật .Giaó viên tổ chức cho các em thi kể chuyện theo nhóm,các nhóm nhập vai nhân vật và trình bày đoạn truyện như đã hướng dẫn.Đại diện từng nhóm thi kể, sau đó giáo viên và các nhóm nhận xét,đánh giá chọn ra nhóm kể hay nhất tuyên dương trước lớp

Song song với việc dạy luyện đọc kể chuyện cho học sinh thì kĩ năng thực hành viết, nghe viết không kém phần quan trọng

Trong phần cơ sở lí luận chúng ta đã biết phương pháp luyện tập là rất cần thiết đối với học sinh Tiểu học. Thật vậy,trong giờ dạy tập viết,chính tả kiến thức mà học sinh chiếm lĩnh được phải thể hiện thành kĩ năng, kĩ xảo.Muốn vậy, cần phải thường xuyên luyện tập thực hành cho học sinh. Việc luyện tập ở đây có nghĩa là luyện đọc và luyện viết.Khi học sinh luyện tập chữ viết giáo viên cần uốn nắn cách ngồi viết với nhiều hình thức luyện tập

Tập viết chữ vào bảng con học sinh luyện tập viết bằng phấn hoặc bút bảng để trước khi viết vào vở, những chữ cái vần khó giáo viên hướng dẫn kĩ cách viết , những chữ viết chưa chính xác để dễ sữa chữa bằng dẻ lau, từ đó học sinh luyện viết vào vở. Muốn học sinh sử dụng có hiệu quả vở tập viết giáo viên cần hướng dẫn tỉ mĩ nội dung và yêu cầu về kĩ năng . Viết ở từng bài ( mẫu chữ,các dấu chỉ khoảngcách giữa các chữ,dấu chỉ vị trí đặt bút, thứ tự viết nét) giúp các em viết đủ,viết đúng số dòng quy định.

Ngoài ra,giáo viên cho học sinh viết thêm các tiếng ngoài bài. cho học sinh viết càng nhiều càng tốt . Giáo viên có thể quán xuyến được lớp, bám sát học sinh .Giáo viên phân nhóm cho học sinh viết ở nhà, khi học sinh viết đúng được từ ngữ, câu, chuyển sang giai đoạn viết chính tả học sinh viết đúng một đoạn văn,bài thơ học sinh nhìn bảng giáo viên viết mẫu học sinh viết vào vở . Đối với những loại bài nghe viết học sinh viết một bài hoặc một đoạn văn dài trên 70 tiếng,học sinh viết đúng chính tả, trình bày chữ viết đẹp và cẩn thận. Khi dạy chính tả giáo viên đọc to chậm rãi từ ngữ,câu,phát âm đúng những từ ngữ học sinh hay mắc lỗi có phụ âm ( c/ k; g/gh; ng/ g; l/n; s/x ) Cùng với một số vần như ( an/ ang;ac/at; ưu/ ươu; ât/ ăc…)và những tiếng lẫn lộn giữa (dấu hỏi và dấu ngã ) để các em viết đúng. khi học sinh viết giáo viên cho học sinh đánh vần trước các âm,vần khó và luyện viết ở bảng con nhiều lần. khả năng một số em đọc tốtthì các em viếtnhanh, chính xác . Bên cạnh đó còn một số học sinh chưa đọc thành thạo, khả năng nghe và viết chưa tốt .Để giúp các em viết đúng chính tả giáo viên đọc chậm từng câu nhiều lần quan sát cách viết xem các em viết được chưa mà điều chỉnh khi đó các em mới hoàn thành bài viết . Cuối giờ chính tả, còn thời gian làm lại các bài tập phân biệt tiếng có âm đầu và vần để tạo thành tiếng, từ, viết đúng chính tả . Mục đích giúp các em viết đúng chính tả.

Ngoài hai giải pháp vừa nêu trên,giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu, biết nghe và trả lời câu hỏi phục vụ cho việc học tập và giao tiếp .

Giải pháp thứ ba: Thực hành kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu khi nói và viết để học tốt môn luyện từ và câu và môn tập làm văn:

Ở lớp 3, phân môn luyện từ và câu giúp các em mở rộng vốn từ,biết đặt các kiểu câu ? ? ? Và những bộ phận chính của các kiểu câu ấy. ngoài ra , có những bộ phận câu trả lời cho các câu hỏi khi nào? ở đâu ? như thế nào? Và các dấu câu,dấu chấm,dấu chấm hỏi,dấu chấm than,dấu phẩy…. ngoài ra dưạ vào khổ thơ đoạn văn tìm các hình ảnh so sánh hay nhân hóa.Khi dạy các dạng bài trên đặt câu thì giáo viên luôn hướng cho học sinh biết mỗidạng có cách đặt câu khác nhau .Khác ở cách dùng từ,nghĩa của các từ trong câu .Để hỏi và trả lời câu hỏi có nội dung cần gì ?

Ví dụ :Tìm các bộ phận câu :

-Trả lời câu hỏi Ai(cái gì,con gì) ?

a)Đàn Sếu đang sải cánh trên cao.

b)Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về.

c)Các em tới chỗ ông cụ,lễ phép hỏi.

Giaó viên giúp học sinh nắm yêu cầu của bài.Đây là những câu đặt theo mẫu câu Ai làm gì ?nhiệm vụ các emlà tìm bộ phận câu trả lời cho câu hỏi ai(cái gì, con gì)và bộ phận câu trả lời cho câu hỏi làm gì ?)

Sau đó giáo viên chỉ định từng cặp học sinh khá giỏi lên tìm ý a

Giáo viên gọi học sinh nhận xét cặp bạn tìm đã chínhxác chưa ?

Học sinh trả lời bạn làm đã chính xác rồi.

Giaó viên chỉ định từng cặp học sinhlên tìm

Giáo viên và cả lớp nhận xét, tuyên dương.

Cách dạy các kiểu câu còn lại giáo viên luôn hướng học sinh hiểu cách nói của từng vế câu khơi dậy cho học sinh thấy được được sự khác nhau giữa các kiểu câu.Học sinh dựa vào một số câu mẫu tập nói và đặt câu phù hợp tương ứng với từng loại kiểu câu .

Khi học sinh đặt thành câu nói và viết thành đoạn thì lúc này biết dùng các dấu câu để phân biệt từng ý và nội dung của mỗi ý cho phù hợp.Các em biết cách dùng các dấu để ngắt nghỉ khi đọc hoặc khi viết .

: Em chọn dấu chấm hay dấu chấm hỏi để điền vào ô trống ?

Nam nhờ chị viết thư thăm ông bà vì em vừa mới vào lớp2,chưa viế tthành thạo ……Viết thư xong, chị hỏi :

– Em muốn còn nói thêm gì nữa không ……

– Dạ có …….. Chị viết hộ em vào cuối thư : ” Xin lỗi ông bà vì chữ cháu xấu và nhiều lỗi chính tả .”

Học sinh dựa vào đoạn văn trên biết cách dùng dấu câu để đặt vào ô trống sao cho đúng với từng câu tương ứng với mỗi ô trống .Học sinh làm đúng đoạn văn giáo viên gọi từng em đọc thể hiện cách đọc sau mỗi câu có dùng dấu chấm hay dấu chấm hỏi.

Nam nhờ chị viết thư thăm ông bà vì em vừa mới vào lớp 2,chưa t viết thành thạo ……Viết thư xong, chị hỏi :

– Em muốn còn nói thêm gì nữa không ……

– Dạ có …….. Chị viết hộ em vào cuối thư : ” Xin lỗi ông bà vì chữ cháu xấu và nhiều lỗi chính tả .”

Sau khi học sinh làm xong bài tập trên giáo viên gọi học sinh thể hiện cách đọc và đọc lại đoạn văn trên rồi giáo viên nhận xét, sửa bài.

Ngoài kĩ năng dùng từ đặt câu phân biệt các kiểu câu,sử dụng dấu câu trong đoạn văn các em biết tìm những hình ảnh so sánh,nhân hoá các sự vật, hiện tượng gần gũi trong cuộc sống như nụ hoa hồng, cánh diều,cái đĩa, áng mây…

Chẳng hạn,khi dạy môn luyện từ và câu:Tên bài. so sánh-dấu chấm

Yêu cầu của tiết này tìm được những hình ảnh so sánh trong các câu thơ,câu văn.Nhận biết các từ chỉ sự so sánh

a)Hai bàn tay em

Như hoa đầu cành

Mùa hè,trời là cái bếp lò nung.

Hàng xoan trước ngõ

Hoa xao xuyến nở

Như mây từng chùm

Khi dạy bài trên giáo viên gọi học sinhđọc kĩ yêu cầu của bài,học sinh đọc lần lượt từng câu thơ.Giáo viên hướng dẫn trước hết các em tìm những hình ảnh sự vật hiện tượng ở trongkhổ thơ.sau đó,ta thấy các sự vật trên so sánh như thế nào?

Từ đó,các em tìm sự vật được so sánh

Hàng xoan trước ngõ

Học sinh học tốt môn luyện từ và câu thì phân môn tập làm văn giúp các em biết dùng lời nói phù hợpvới hoàn cảnh giao tiếp trong sinh hoạt gia đình, sinh hoạt tập thể,biết giới thiệu các thành viên các hoạt động của tổ;biết viết đơn viết được bức thư ngắn để báo tin tức hỏi thăm sức khỏe người thân trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa tinh thần trách nhiệm trong công việc.

Ví dụ:kể về gia đình em với một người bạn mới quen.

Yêu cầu của đề văn trêncác em chỉ cần nói 5đến 7câu giới thiệu về gia đình em.

.Gia đình em có bao nhiêu người,bố mẹ em làm nghề gì?Gia đình em sống có thương yêu nhau và hòa thuận không? Dựa vào các gợi ý trêncác em viết thành đoạn văn trình bày đủ ý để trao đổi với bạn. Ngoài kĩ năng xây dựng đoạn văn còn giúp các em dựa vàomẫu đơn đã có mẫu sẵn để viết một mẫu đơn như:Đơn xin phép nghỉ học, đơn xin vào đội, đơn xin cấp thẻ đọc sách…Để viết một mẩu đơn các em nắm được trình tự của lá đơn, viết đúng theo trình tự và chính xác

Để học tốt môn tiếng việt ngoài việc dùng các biện pháp luyện đọc đúng,viết đúng,thực hành luyện viết,giáo viên còn dùng biện pháp Tổ chức trò chơi.

Giải pháp thứ tư : Tổ chức trò chơi trong quá trình dạy học :

Giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức được học ,mở rộng vốn từ ,khắc sâu kiến thức được học , nắm chắc âm, vần biết vận dụng vào từng trường hợp cụ thể .

Tạo môi trường để rèn luyện sự linh hoạt, nhạy bén, có thói quen phản ứng nhanh cho học sinh giúp các em mạnh dạn trước tập thể

Thông qua trò chơi tạo không khí thi đua sôi nổi trong mỗi tiết học,làm cho tiết học nhẹ nhàng và sôi nổi đem lại kết quả tốt .

Tổ chức trò chơi phải phù hợp với thời điểm của từng tiết dạy .

Nộidung chơi phải đảm bảo kiến thức về mặt kĩ năng theo chuẩn kiến thức,các yêu cầu về kiến thức phải có tính hệ thống .

Trò chơi phải phù hợp, vừa sức ,không quá khó phải thu hút được sự ham thích của học sinh .Trò chơi phát huy được tinh thần tập thể, kích thích được tính thi đua học tập, giúp học sinh tăng khả năng khi nhận thông tin và giải quyết thông tin nghe,nói,đọc,viết.

* Phương pháp tiến hành:

Tổ chức trò chơi dẫn dắt các em chiếm lĩnh kiến thức mới cần đạt lúc đó để củng cố hệ thống hóa kiến thức trong một bài hay một chương.Giaó viên cần phổ biến tên trò chơi,nội dung chơi, vật dụng phục vụ cho trò chơi,luật chơi, trước khi phổ biến trò chơi ,nên cho các em chơi thử để các em tự tin .

Mục tiêu: Giúp học sinh chọn tiếng đã học ghép vào chổ trống để tạo thành từ ngữ có nghĩa( Trong phần bài tập,cuối giờ viết chính tả)

Cách chơi : Giáo viên chọn hai đội chơi,lớp cử đại diện mỗi đội 03 bạn đặt tên cho đội mình.Trong vòng một phút hai đội thi đua tìm tiếng phù hợp và điền vào chỗ trống theo thứ tự từng tiếng tương ứng rồi ghi trên bảng lớp.Hết thời gian mỗiđội cử đại diện của đội mình lên.đọc kết quả đã ghi cả lớp bổ sung và nhận xét.giáo viên đánh giá, nhận xét hai đội và kết luận đội thắng cuộc và tuyên dương đề nghị các bạn cho tràng vỗ tay khích lệ hai đội .

Bài tập : Em chọn chữ nào trong ngoặc đơnđể điền vào chỗ trống?

b)khẻo hay khoẻo): người lẻo …

* Hai đội thi điền được kết quả như sau:

Mục tiêu: Giúp học sinh biết chon những tiếng đã cho ghép lại với nhau để tao thành từ mới có nghĩa tương đương nhau ( môn luyện từ và câu)

Chuẩn bị phấn viết ,bảng con ,giẻ lau.

Cách chơi: Giáo viên cho học sinh chơi cá nhân,trong vòng một phút, học sinh chọn tiếng ghép vào tiếng đã cho để tạo thành từ ngữ có nghĩa gần giống nhau để ghi vào bảng con hết thời gian học sinh trình bày,em nào ghép đúng giáo viên chọn gắn lên bảng .

Đánh giá Tìm và ghép được tiếng trong bài

Bàì4 Tìm những từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống:

a) Công cha nghĩa mẹ ơn….

b) Trời mưa đường đất sét trơn như…

c) Ở thành phố có nhiều tòa nhà cao…

Học sinh tìm các tiếng thích hợp viết vào bảng con những từ cần điền là: Thầy; bôi mỡ; tầng.

Học sinh tìm từ điền vào câu đúng, giáo viên nhận xét tuyên dương.

3, KẾT QUẢ THU ĐƯỢC QUA KHẢO NGHIỆM

Sau thời gian sử dụng các biện pháp trên, trong giờ day các phân môn ở sách tiếng việt lớp 3 tôi thấy không khí lớp học sôi nổi,khơi dậy tính tích cực của các em, đặc biệt các kĩ năng đọc, viết, các em chưa đạt ngày càng tiến bộ.

Giúp các em mạnh dạn, tự tin trong học tập, tinh thần đồng đội ,tình thầy trò tình bạn bè được phát triển:

*Chất lượng cụ thể qua các lần kiểm tra như sau:

Nói chung, đến nay hầu hết các em học sinh chưađạtcó sự tiến bộ rõ rệt .Bên cạnh đó vẫn còn một vài em còn đọc chậm,viết chậm , dự kiến tiếp tục rèn luyện đến cuối năm học

Việc áp dụng một số giải pháp trong môn tiếng việt lớp 3 tôi đã đạt những bước tiến bộ rõ rệt.Học sinh tiếp thu bài nhanh, viết ít mắc lỗi chính tả,khả năng nhận biết các kiểu câu dễ dàng hơn so với trước.Cách diễn đạt ý văn trọn vẹn giúpngười đọc hiểu được vấn đề cần thể hiện trong bài.

Các phương pháp phải được áp dụng một cách đồng bộ, thường xuyên và linh hoạt. Không có phương pháp nào là vạn năng và chẳng có phương pháp nào là tối ưu cả, mà tối ưu hay không là phụ thuộc chủ yếu vào cách sử dụng của GV vào điều kiện cụ thể của đối tượng HS lớp mình, tùy nội dung từng bài mà quyết định áp dụng một hay một số phương pháp thích hợp. GV cần lưu ý làm mới cách tổ chức các hoạt động học để luôn hấp dẫn các em.

Giáo viên phải tận tụy, nhiệt tình, theo dõi sát sao từng HS, qua đó phát hiện những thiếu sót của từng em, tìm nguyên nhân, hướng khắc phục cho từng nhóm để có biện pháp giúp đỡ kịp thời; có hiệu quả, không nôn nóng, không vội vã để rồi quở trách HS.

Cần có sự đánh giá, rút kinh nghiệm qua từng tháng, học kỳ để kịp thời điều chỉnh phương pháp nhằm đạt hiệu quả tốt nhất.

Phải có sự hỗ trợ, phối hợp giúp đỡ từ phía phụ huynh HS để việc áp dụng các biện pháp được thuận lợi, có hiệu quả.

Cập nhật thông tin chi tiết về Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Môn Toán trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!