Xu Hướng 6/2023 # Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Môn Tin Học Ở Trường Tiểu Học Nga Lĩnh # Top 6 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Môn Tin Học Ở Trường Tiểu Học Nga Lĩnh # Top 6 View

Bạn đang xem bài viết Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Môn Tin Học Ở Trường Tiểu Học Nga Lĩnh được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

TT NỘI DUNG Trang 1 Mở đầu 2 1.1 Lí do chọn đề tài 2 1.2 Mục đích nghiên cứu 3 1.3 Đối tượng nghiên cứu 3 1.4 Phương pháp nghiên cứu 3 2 Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm 3 2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 3 2.2 Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 4 2.3 Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 5 2.3.1 Tăng cường giáo dục ý thức học tập, thường xuyên uốn nắn tư thế thực hành cho học sinh 5 2.3.2 Vận dụng linh hoạt và sáng tạo, lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng dạng bài và đối tượng học sinh để nâng cao chất lượng dạy học Tin học 7 2.3.3 Thường xuyên kết hợp lý thuyết và thực hành giúp học sinh nắm vững kiến thức và thao tác thành thạo máy tính. 10 2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản than, đồng nghiệp và nhà trường. 12 3 Kết luận, kiến nghị 14 3.1 Kết luận 14 3.2 Kiến nghị 15 Tài liệu tham khảo 16 1. Mở đầu: 1.1. Lí do chọn đề tài: Đất nước ta đang chuyển dần sang thời kì thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam nhiều khoá đã nhấn mạnh: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phát huy nguồn nhân lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế nêu rõ mục tiêu tổng quát của giáo dục và đào tạo là giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả [4]. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng các phương tiện hiện đại càng quan trọng và cần thiết. Do đó, Tin học trở thành công cụ không thể thiếu trong đời sống xã hội. Ngày nay tin học đã có những bước tiến nhanh chóng về ứng dụng của nó trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Tin học được quan tâm nhiều hơn bao giờ hết vì nó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống văn minh góp phần đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiến đến nền kinh tế tri thức. Máy tính cùng với phần mềm là công cụ đắc lực giúp chúng ta học tập, quản lý, tổ chức, sắp xếp và xử lý công việc một cách nhanh chóng và chính xác. Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Đảng và nhà nước ta đã yêu cầu Bộ giáo dục và Đào tạo đưa môn Tin học vào trong nhà trường ngay từ Tiểu học. Học sinh được tiếp xúc với môn Tin học để làm quen dần với lĩnh vực công nghệ thông tin, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những phần nâng cao trong các cấp tiếp theo. Trong những năm gần đây Tin học là môn học mới được đưa vào nhà trường nên các em học sinh say mê hứng thú học và được các nhà trường quan tâm đầu tư, đáp ứng yêu cầu dạy và học. Cũng như các môn học khác, việc xây dựng chương trình môn Tin học theo đúng quy trình và đảm bảo đầy đủ các thành tố như: mục tiêu dạy học, nội dung và chuẩn cần đạt tới, phương pháp và phương tiện dạy học, cách thức đánh giá kết quả học tập của học sinh. Qua quá trình nghiên cứu và thực tế giảng dạy môn tin học khối 3, 4, 5 tại Trường tiểu học Nga Lĩnh tôi thấy rằng môn Tin học ở bậc tiểu học bước đầu giúp học sinh làm quen với một số kiến thức ban đầu về công nghệ thông tin, hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết cho người lao động hiện đại. Tuy nhiên việc dạy học Tin học vẫn còn những bất cập và hạn chế nhất định, hiệu quả chưa thực sự cao. Bởi vậy, việc dạy học tốt môn Tin học là yêu cầu bức thiết hiện nay. Vậy người giáo viên phải nghiên cứu nội dung và vận dụng phương pháp dạy học như thế nào để giúp học sinh học khối 3 học tốt môn Tin học? Đó là điều bản thân tôi trăn trở, suy nghĩ và mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn Tin học ở Trường Tiểu học Nga Lĩnh – Nga Sơn” nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 3 học tốt môn tin học trong giai đoạn hiện nay. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Môn tin học lớp 3. Học sinh khối 3 Trường tiểu học Nga Lĩnh – Nga Sơn – Thanh Hóa. 1.4. Các phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm, bản thân đã áp dụng một số phương pháp chính sau đây: – Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc và nghiên cứu một số tài liệu về phương pháp dạy học môn Tin học tiểu học. – Phương pháp khảo sát thực tiễn : Khảo sát bằng bài kiểm tra và thông qua các tiết học Tin học. – Phương pháp thống kê: Thống kê, phân loại học sinh theo mức đạt được. – Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp: Phân tích lý luận và thực tiễn ứng dụng các biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn tin học. – Phương pháp thực nghiệm: Thực nghiệm một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 học tốt môn tin học để đúc rút kinh nghiệm. 2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm: Tin học là môn học mang tính khoa học và công nghệ. Học sinh học tốt môn Tin học có điều kiện thuận lợi để trẻ thích ứng với đời sống xã hội hiện đại, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và trở thành người có ích cho xã hội để xây dựng và bảo vệ đất nước trong tương lai. Chính vì lẽ đó nên Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện cho giáo dục tin học trong các nhà trường được phát triển. Điều đó thể hiện qua các chỉ thị, nghị quyết, thông tư hướng dẫn, đặc biệt là Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa công nghệ thông tin vào nhà trường. Và quyết định số 50/QĐ-BGD&ĐT ngày 30/10/2003 về việc ban hành chương trinh môn Tin học ở bậc tiểu học. Mục đích của việc ứng dụng CNTT vào nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng là sử dụng CNTT như một công cụ lao động trí tuệ, giúp lãnh đạo các nhà trường nâng cao chất lượng quản lý các nhà trường, giúp các thầy cô giáo nâng cao chất lượng dạy học, trang bị cho học sinh kiến thức về CNTT, học sinh sử dụng máy tính như một công cụ học tập nhằm nâng cao chất lượng học tập góp phần rèn luyện học sinh một số phẩm chất cần thiết của người lao động trong thời kỳ hiện đại. Đối với chương trình tin học tiểu học môn Tin học là môn tự chọn nên học sinh tiếp thu kiến thức một cách thoải mái không bị gò ép. Là môn học trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực mới nên học sinh rất hứng thú học, nhất là những tiết thực hành. Học sinh tiểu học tư duy trìu tượng chưa phát triển, tư duy cụ thể giữ vai trò quan trọng. Chính vì thế, giáo viên phải lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Do vậy việc dạy học môn Tin học cần được quan tâm và tổ chức có hiệu quả, vận dụng phù hợp và linh hoạt với điều kiện thực tế trong nhà trường để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. * Về phía nhà trường: Trường tiểu học Nga Lĩnh là trường chuẩn Quốc gia Mức độ 2 nên đã được trang bị một phòng máy tính. Bên cạnh đó được sự quan tâm của các cấp uỷ, chính quyền, các ban ngành hỗ trợ cơ sở vật chất cho nhà trường. Tạo điều kiện mua sắm sửa chữa máy móc, trang thiết bị, sách giáo khoa và phần mềm kèm theo tạo điều kiện cho giáo viên trong việc giảng dạy môn Tin học được tốt hơn. Song bên canh đó vẫn còn hạn chế về số lượng cũng như chất lượng máy tính, mỗi ca thực hành có tới 3 em ngồi cùng một máy nên các em không có nhiều thời gian để thực hành, làm bài tập một cách đầy đủ. Hơn nữa nhiều máy cấu hình máy đã cũ, chất lượng không còn tốt nên hay hỏng hóc, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của học sinh. * Về phía giáo viên: – Việc dạy của giáo viên còn chưa bài bản, chưa phát huy hết tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Thêm vào đó việc đầu tư cho nghiên cứu bài dạy chưa nhiều, việc đổi mới phương pháp chưa triệt để, hình thức tổ chức dạy học còn rập khuôn, máy móc. Dẫn đến nội dung các tiết dạy còn nghèo nàn, đơn điệu. – Giáo viên đã biết lựa chọn hình thức tổ chức dạy học cho học sinh nhưng việc vận dụng các hình thức tổ chức dạy học chưa linh hoạt. – Tài liệu tham khảo dành riêng cho bộ môn tin học còn quá ít. Nhất là những tài liệu nói về phương pháp dạy học đặc trưng của môn Tin học. – Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc tiểu học nên chương trình và phân phối chương trình bước đầu chưa có sự thống nhất và đang hoàn chỉnh. – Tuy giáo viên đã được đào tạo cơ bản về kiến thức Tin học, nhưng khi thực hành, máy móc gặp sự cố, trục trặc, giáo viên không xử lý kịp thời dẫn đến học sinh thiếu máy, không thực hành được. * Về phía học sinh: – Đời sống kinh tế của địa phương còn gặp nhiều khó khăn, rất ít học sinh ở nhà có máy vi tính. Vì vậy học sinh chỉ được tiếp xúc với máy vi tính ở trường là chủ yếu, do đó sự tìm tòi và khám phá máy tính với các em học sinh còn hạn chế, nên thao tác của các em chưa thành thạo. – Học sinh thường ngồi tự do, chưa đúng tư thế trước máy tính khi thực hành. – Một số học sinh đứng trước máy tính còn có tâm lý sợ máy hỏng nên việc sử dụng máy tinh còn rất hạn chế. Kết quả khảo sát thực tế tại thời điểm tháng 9/2017 ở khối lớp 3 với tổng số học sinh 54 em như sau: Mức độ thao tác Trước khi thực hiện chuyên đề Số HS Tỷ lệ Thao tác nhanh, đúng 4 7,4 Thao tác đúng 18 33,3 Thao tác chậm 21 38,9 Chưa biết thao tác 11 20,4 Bảng 1 Từ kết quả thực trạng và bảng số liệu trên cho thấy: Tỷ lệ học sinh thao tác nhanh và đúng rất ít. Số học sinh thao tác chậm và chưa biết thao tác còn chiếm tỷ lệ cao. Ngồi trước máy tính học sinh đang còn rất lúng túng, thao tác chậm, chưa tự tin. Qua tìm hiểu, tôi thấy nổi bật lên các nguyên nhân sau: Một là: Ban giám hiệu, tổ chuyên môn chưa quan tâm chú trọng nhiều trong việc bồi dưỡng về đổi mới phương pháp dạy học đối với môn Tin học. Hai là: Bản thân giáo viên chưa chịu khó học hỏi tìm tòi để đổi mới PPDH. Việc đầu tư thời gian nghiên cứu cho tiết dạy chưa nhiều. Ba là: Trong quá trình lên lớp giáo viên tổ chức các giờ học còn thiếu linh hoạt, nặng về áp đặt, chưa phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Bốn là: Việc đổi mới phương pháp dạy học còn hạn chế, lúng túng, vận dụng chưa có chiều sâu, các giờ học giáo viên chưa mạnh dạn giao việc thực hành cho học sinh. Còn thói quen đọc – chép, thuyết – giảng, lệ thuộc sách giáo khoa. Trăn trở với chất lượng học sinh, tôi luôn đặt ra câu hỏi làm thế nào để học sinh thao tác nhanh, đúng cao hơn và đặc biệt là có nhiều học sinh sử dụng thành thạo máy tính. Bởi vậy cần phải có những giải pháp phù hợp và hữu hiệu để nâng cao chất lượng dạy học tin học ở khối lớp 3. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyêt vấn đề: Để giúp học sinh lớp 3 học tốt môn Tin học góp phần tích cực trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, tôi xin đề xuất một số giải pháp sau: 2.3.1. Tăng cường giáo dục ý thức học tập, thường xuyên uốn nắn tư thế thực hành cho học sinh. Giáo viên luôn chú trọng giáo dục ý thức học tập của học sinh, tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng công nghệ thông tin và tầm quan trọng của môn Tin học trong thực tiễn và tương lai sau này. Học sinh khối 3 là lứa tuổi hồn nhiên, chưa có ý thức nhiều về hành vi của mình nên giờ thực hành rất dễ xảy ra tình trạng lộn xộn, đùa giỡn trong khi thực hành, ngồi thực hành với tư thế tùy tiện theo thói quen của mình. Vì vậy giáo dục ý thức học tập cho học sinh có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách của học sinh sau này. Giáo viên cần phải chú ý đúng mức, kịp thời uốn nắn những sai lệch, hình thành những thói quen, thao tác đúng đắn cho học sinh. Bởi vì vốn kiến thức ban đầu luôn có vai trò hết sức quan trọng, là nền tảng cho các cấp học sau này. Những sai lệch ngay từ ban đầu sẽ tạo nền những thói quen không đúng và rất khó sửa chữa, ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Phải tạo không khí lớp học thoải mái nhẹ nhàng, giáo viên phải làm cho học sinh thương yêu, tôn trọng mình thì tiết học mới đạt hiệu quả. Giáo viên không nên dùng biện pháp mạnh khi học sinh không chép bài vì làm như thế học sinh sẽ không thu hoạch được gì. Đồng thời, trong giờ học giáo viên nên động viên đúng mức đối với học sinh chưa hoặc không làm bài tập, cho dù các em làm sai, trên cơ sở đó giáo viên có thể chỉ ra chỗ sai, chỗ thiếu cho từng học sinh. Bên cạnh đó giáo viên cần khen ngợi, khích lệ kịp thời đối với từng học sinh, làm cho học sinh có lòng tin vào bản thân mình. Giờ học thực hành vẽ của học sinh lớp 3A- Trường TH Nga Lĩnh Giờ thực hành phải thực hiện nghiêm túc giống như một tiết học lý thuyết bình thường. Giáo viên hướng dẫn học sinh ngồi thực hành phải đúng tư thế và đảm bảo các yêu cầu sau:      – “Ngồi thẳng, tư thế thoải mái sao cho không phải ngẩng cổ hay ngước mắt khi nhìn vào màn hình, không ngồi nghiêng, ngồi ngửa khi thực hành.      – Tay đặt ngang tầm bàn phím và không phải vươn xa, chuột đặt bên tay phải.      – Nên giữ khoảng cách giữa mắt học sinh đến màn hình từ 50cm đến 80cm.      – Không nên nhìn quá lâu vào màn hình.      – Máy tính nên đặt ở vị trí sao cho ánh sáng không chiếu thẳng vào màn hình và không chiếu thẳng vào mắt của học sinh”. Hoc sinh lớp 3B – Trường TH Nga Lĩnh đang thực hành đúng yêu cầu Mặt khác, phòng máy tính phải gọn gàng, sạch sẽ đảm bảo an toàn cho học sinh. Học Tin học phải thường xuyên tiếp xúc với máy tính, mà nhất là học sinh tiểu học ở lứa tuổi còn nhỏ nếu không giáo dục tốt cho học sinh về ý thức vệ sinh học đường khi thực hành máy tính thì học sinh rất dễ mắc các bệnh như cận thị, vẹt cột sống, mệt mỏi khi ngồi học ảnh hưởng đến sự phát triển cả về thể lực, trí lực của học sinh sau này. 2.3.2. Vận dụng linh hoạt và sáng tạo, lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng dạng bài và đối tượng học sinh để nâng cao chất lượng dạy học Tin học.       Để thực hiện tốt biện pháp này, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành thái độ, biết thực hành, vận động một cách linh hoạt không bị động hoàn toàn theo lệnh của giáo viên. Giáo viên đóng vai trò chủ đạo điểu khiển, định hướng quá trình hoạt động của học sinh. Học sinh thông qua những hoạt động cụ thể để định hướng thành động cơ, kiến tạo tri thức mới cho mình. Chẳng hạn khi dạy một nội dung lý thuyết Tin học người giáo viên cần đưa ra một hệ thống rất nhiều câu hỏi từ dễ đến khó. Lúc đầu bao giờ cũng nêu ra những câu hỏi rất dễ để lôi cuốn, phát huy tính tích cực hoạt động đến tất cả các đối tượng học sinh mà nhất là những học sinh chưa hoàn thành, giáo viên cần ưu tiên, khuyến khích các đối tượng này. Sau đó đưa ra các câu hỏi khó dần để tất cả học sinh tham gia ý kiến và tự hình thành tri thức mới, giáo viên góp ý, nhận xét để học sinh xác nhận lại tri thức mới đó. Ví dụ: Chương 1: Làm quen với máy tính. Ở chương này, ngay từ bài học đầu tiên “Người bạn mới của em”. Khi dạy học nội dung là cách tắt máy. Trong sách giáo khoa không trình bày quy trình cũng như các thao tác để tắt máy. Chính vì vậy, giáo viên không nêu trực tiếp cách tắt máy, làm như vậy là áp đặt cho học sinh phải nắm ngay kiến thức mới. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học khơi dậy sự tích cực, tự giác hoạt động của học sinh. Học sinh tự hoạt động, khám phá, tìm tòi và đưa ra cách tắt máy an toàn. Chẳng hạn: Khi tổ chức hoạt động dạy học, giáo viên nêu câu hỏi: Khi không làm việc nữa, cần tắt máy tính. Nếu em không tắt máy tính mà cứ để máy tính hoạt động suốt cả ngày thì có ảnh hưởng gì? + Đại diện nhóm trả lời. + Giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét và đưa ra kết luận. + Học sinh nhận xét và đưa ra kết luận: Em không tắt máy tính mà cứ để máy tính hoạt động suốt cả ngày thì sẽ tốn điện, máy tính sẽ bị hao mòn nên nhanh hỏng,      Vậy em tắt máy bằng cách nào? Học sinh trả lời theo nhiều cách khác nhau như: Rút nguồn điện, nhấn vào nút Power trên thân máy và trên màn hình, dùng chuột để tắt máy, dùng bàn phím để tắt máy. Giáo viên có thể đưa ra liên hệ thực tế gợi mở để học sinh dễ dàng tìm ra cách giải quyết. Chẳng hạn, một chiếc xe đang chạy trên đường với tốc độ cao nếu phanh gấp dừng đột ngột thì chiếc xe đó như thế nào? Học sinh trả lời được câu hỏi này thì sẽ trả lời được câu hỏi trước đó. Giáo viên có thể nêu câu hỏi để kết luận: Vậy cách tắt máy nào là an toàn nhất, ít làm hư hỏng máy tính? Học sinh tự tìm ra kiến thức mới cho mình. Giáo viên nhận xét: Em tắt máy theo từng bước bằng cách sử dụng chuột hoặc bàn phím là an toàn nhất, máy tính không bị hư hỏng và bền hơn. Học sinh xác nhận lại tri thức mới.      Hay khi dạy học với nội dung thực hành, giáo viên không thể áp đặt, bắt buộc học sinh thực hành một cách thụ động theo ý muốn của mình, mà người giáo viên phải có phương pháp để phát huy tính tích cực, tự giác bằng các biện pháp như khuyến khích, khen thưởng, để học sinh tích cực thực hành, chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho mình. Trong mỗi tiết học giáo viên cần quan tâm đến từng đối tượng học sinh tùy theo trình độ, giáo viên sẽ giao những nhiệm vụ học tập vừa với sức học, tránh những yêu cầu quá dễ hoặc quá khó cho học sinh. Dạy học theo nhóm, trình độ, kết hợp các phương pháp dạy học phù hợp giúp cho tất cả các học sinh cùng tiến bộ. Trong mỗi lớp học bao giờ cũng có những học sinh ở các mức độ khác nhau như: học sinh hoàn thành tốt, học sinh hoàn thành và học sinh chưa hoàn thành. Do vậy nếu giáo viên không phân loại mức độ học sinh, không có phương pháp giảng dạy thích hợp dễ gây nhàm chán cho học sinh hoàn thành tốt, học sinh hoàn thành và tâm lý căng thẳng cho học sinh chưa hoàn thành từ đó dễ nảy sinh tâm lý chán nản, lười biếng cho học sinh. Giáo viên thường xuyên cải tiến nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học phù hợp trong mỗi tiết học như: – Phối hợp các hình thức dạy học theo lớp, theo nhóm hay hoạt động cá nhân một cách phù hợp có hiệu quả. Tạo nhiều hình thức thi đua trong tổ, nhóm. Ví dụ: Trong chương “Em tập gõ bàn phím” Đây cũng là phần trọng tâm của chương trình lớp 3. Phần này đòi hỏi phải có sự tập luyện thường xuyên thì mới đạt hiệu

Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Toán Lớp Một

PHÒNG GD & ĐT THỌ XUÂN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP MỘT Người thực hiện: Trần Thị Hà Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thọ Xương – Thọ Xuân SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán THANH HÓA NĂM 2017 MỤC LỤC Nội dung Trang 1. Mở đầu 01 1.1. Lí do chọn đề tài. 01 1.2. Mục đích nghiên cứu. 01 1.3. Đối tượng nghiên cứu 01 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 02 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 02 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. 02 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 02 2.3.Các biện pháp thực hiện. 03 2.3.1. Xây dựng lớp học thân thiện. 03 2.3.2. Dạy toán thông qua đồ dùng trực quan của giáo viên, học sinh và áp dụng công nghệ thông tin vào việc dạy toán. 03 2.3.3. Dạy học sinh nắm được bản chất các kiến thức toán học. 07 2.3.4. Bồi dưỡng cho học sinh năng lực quan sát, biết suy nghĩ lập luận, phân tích đề toán. 9 2.3.5. Dạy toán thông qua các trò chơi. 11 2.3.6. Kết hợp việc kiểm tra bài cũ để học tốt bài mới. 14 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. 15 3. Kết luận 15 Tài liệu tham khảo 1. Mở đầu. 1.1. Lí do chọn đề tài. Như chúng ta đã biết, toán học là khoa học suy diễn trừu tượng nhưng toán học ở tiểu học lại mang tính trực quan, cụ thể bởi vì mục tiêu của môn toán học ở Tiểu học là hình thành những biểu tượng toán học ban đầu và rèn luyện kĩ năng toán cho học sinh, tạo cơ sở phát triển tư duy và phương pháp toán sau này. Một mặt khác toán học còn có tính thực tiễn. Các kiến thức toán học đều bắt nguồn từ cuộc sống. Mỗi mô hình toán học là khái quát từ nhiều tình huống trong cuộc sống. Dạy học toán học ở tiểu học là hoàn thiện những gì vốn có trong học sinh, cho học sinh làm và ghi lại một cách chính thức các kiến thức toán học bằng ngôn ngữ và các kí hiệu toán học. Mỗi tiết học là dịp để học sinh hình thành những kiến thức và kĩ năng mới, vận dụng một cách sáng tạo nhất, thông minh nhất. Môn Toán còn góp phần giáo dục những đức tính tốt như: trung thực, cần cù, cẩn thận, ý thức vượt khó, tìm tòi sáng tạo và nhiều kĩ năng tính toán cần thiết để con người phát triển toàn diện, hình thành nhân cách tốt đẹp cho con người lao động trong thời đại mới. Môn Toán lớp Một mở đường cho trẻ đi vào thế giới kỳ diệu của toán học. Sau này lớn lên các em có thể trở thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ, trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực đời sống và sản xuất. Các em sẽ không bao giờ quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm, tập viết 1, 2, 3, học các phép tính cộng, trừ. Những con số, những phép tính đơn giản ấy lại rất cần thiết cho suốt cuộc đời của các em. Ở lứa tuổi học sinh lớp Một thì nhận thức cảm tính chiếm ưu thế hơn nhận thức lý tính. Các em dễ dàng tiếp thu, ghi nhớ công thức, kiến thức dựa trên mô hình, sơ đồ, hình ảnh động mà các em được trực tiếp quan sát. Các em rất tò mò, ham thích tìm hiểu toán học, tìm hiểu không gian xung quanh và các em cũng rất thích tham gia các hoạt động mang tính thực tiễn. Muốn làm được điều này, giáo viên phải tạo điều kiện để học sinh phát huy năng khiếu tiềm ẩn, đồng thời giúp các em khơi nguồn sáng tạo ngay từ khi học lớp Một. Khơi dậy những tiềm năng này sẽ tạo nên hứng thú học tập, phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh. Là giáo viên trực tiếp dạy lớp Một. Tôi rất băn khoăn làm sao để các em có hứng thú, học tốt môn Toán vì vậy tôi đã đi sâu nghiên cứu “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán lớp Một” 1.2. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu đề tài này nhằm giúp học sinh có hứng thú trong giờ học Toán. Phát huy tính tích cực, chủ động, rèn luyện phương pháp suy nghĩ từ đó giúp học sinh nắm bài tốt hơn, nhớ bài lâu hơn. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài này nghiên cứu về các biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán lớp Một. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng một số phương pháp sau: – Phương pháp điều tra. – Phương pháp trực quan. – Phương pháp đàm thoại. – Phương pháp trò chơi học tập. – Phương pháp luyện tập thực hành. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Trí thông minh là sự tổng hợp, phối hợp nhịp nhàng các năng lực trí tuệ như: quan sát, ghi nhớ, óc tưởng tượng, năng lực tư duy mà đặc trưng là năng lực tư duy độc lập, linh hoạt, sáng tạo, vận dụng những hiểu biết đã học để giải quyết vấn đề được đặt ra một cách tốt nhất. Môn Toán là môn học có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận logic, thao tác tư duy cần thiết. Muốn cho học sinh thích học môn toán thầy, cô giáo phải tìm mọi cách để gây hứng thú trong quá trình dạy học, gợi ra sự tò mò, ham hiểu biết, nắm được cái mới lạ mà giờ học toán sẽ đem lại cho các em. Một điểm đổi mới trong phương pháp dạy học hiện nay luôn coi trọng việc lấy học sinh làm trung tâm, người thầy chỉ đóng vai trò là người giúp các em đi đúng hướng, giúp các em tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo. Chính vì vậy, ở lớp Một, việc giúp học sinh học tốt môn Toán là hết sức cần thiết. 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 2.2.1. Thực trạng Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học, đặc biệt dạy lớp Một, tôi nhận thấy các em học sinh lớp Một chưa có hứng thú khi học môn Toán. Nhiều em còn mơ hồ, lúng túng, chưa nắm chắc được kiến thức, nhanh quên các kiến thức đã học, một số em làm đúng kết quả nhưng khi cô hỏi lại lại không biết để trả lời. Chứng tỏ các em chưa nắm được bản chất các kiến thức đã học. Kết quả khảo sát môn Toán của lớp 1d cuối năm học 2015 – 2016 Tổng số bài kiểm tra Điểm 9 – 10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 – 6 Điểm dưới 5 SL TL SL TL SL TL SL TL 27 bài 7 bài 25.9% 7 bài 25,9% 11 bài 40.8% 2 bài 7.4% 2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng trên. Do các em mới chuyển giai đoạn từ hoạt động vui chơi là chủ đạo sang hoạt động học tập là chủ đạo nên nhiều em chưa làm quen, bắt nhịp được với việc học tập đặc biệt là học môn Toán. Một số em tiếp thu kiến thức, hình thành kĩ năng tính toán chậm, khả năng phân tích tổng hợp, tư duy còn hạn chế. Một số em chưa có động cơ học tập, chưa tự giác. Một số em còn rụt rè, nhút nhát, tự ti chưa dám bộc lộ hết khả năng của mình. 2.3. Các biện pháp thực hiện 2.3.1. Xây dựng lớp học thân thiện Đối với học sinh lớp Một, đi học thực sự là một bước chuyển, một bước ngoặt có ý nghĩa lớn lao đối với sự phát triển trí tuệ, tâm lí và nhân cách của các em. Đa số các em khi mới chuyển từ Mầm Non sang Tiểu học các em còn bỡ ngỡ, rụt rè, lạ lẫm, chưa thích ứng được với môi trường mới, kém hứng thú với hoạt động học tập. Vì vậy tôi thấy việc đầu tiên phải làm đó là xây dựng “Lớp học thân thiện” Bởi vì: “Lớp học thân thiện” là nơi mà ở đó các em luôn vui vẻ, hoà đồng, đoàn kết thương yêu nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong học tập, sinh hoạt. Nơi đây, các em luôn nhận được sự thương yêu đoàn kết của bạn bè, của thầy cô giáo. Sự thân thiện đó thể hiện qua những việc làm cụ thể sau: Ngay từ ngày đầu vào lớp Một giáo viên phải trò chuyện với các em để tìm hiểu về gia đình, về sở thích, về tâm tư nguyện vọng của các em. Tạo bầu không khí vui vẻ, gần gũi, tôn trọng học sinh để các em cảm nhận được sự thoải mái khi tham gia việc học tập của mình. Nhẹ nhàng uốn nắn, sửa sai cho học sinh kịp thời, thường xuyên. Khen ngợi, động viên khi các em tiến bộ dù là rất nhỏ, để các em tự tin hơn, giúp các em thấy được thế mạnh của mình, đồng thời tạo dựng cho các em lòng tin vào bản thân, xoá đi nổi lo âu, sợ hãi trong lòng khi các em không làm được bài. Trong lớp tôi luôn nhắc nhở các em phải xưng hô với bạn bè đúng mực. Nhắc nhở các em thực hiện tốt nội qui của trường, của lớp. Biết đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau trong học tập cũng như khi tham gia các hoạt động của lớp. Môi trường học tập xanh, sạch, đẹp, an toàn, thân thiện là yếu tố rất quan trọng góp phần thu hút học sinh đến trường, đến lớp. Vì vậy tôi cũng rất quan tâm đến việc sắp xếp bàn, ghế cho ngay hàng, thẳng lối, lớp học luôn sạch sẽ. Trang trí thêm cho lớp học các câu khẩu hiệu “Thi đua dạy tốt, học tốt”, “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, các bảng biểu, lẳng hoa, Được học tập trong môi trường, lớp học sạch đẹp, thân thiện, học sinh sẽ cảm thấy tự tin hơn, thích học hơn, yêu thầy, mến bạn hơn. Phát huy được tính tự giác, tích cực, phấn đấu học tốt hơn. 2.3.2. Dạy toán thông qua đồ dùng trực quan của giáo viên, học sinh và áp dụng công nghệ thông tin vào việc dạy Toán. Trong quá trình dạy học tôi nhận thấy học sinh lớp Một muốn học tốt môn Toán thì phải có đồ dùng trực quan. Đây là yêu cầu không thể thiếu được đối với từng học sinh ngay từ buổi đầu đến trường. Bởi vì xuất phát từ đặc điểm nhận thức của học sinh lớp Một từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Đồ dùng của học sinh là một hộp gồm: 10 que tính, 10 hình tròn, tam giác, hình vuông. Bộ số từ 1 đến 10 và các dấu cộng, trừ bằng, dấu lớn, dấu bé. Muốn đạt được yêu cầu này giáo viên phải thông báo cho phụ huynh biết và chuẩn bị cho con mình ngay từ đầu năm học. Bộ đồ dùng toán này sẽ giúp cho học sinh lớp Một tự hình thành và xây dựng bài mới. Giúp cho học sinh nào cũng được làm việc độc lập. Tự mình khám phá, hiểu và vận dụng kiến thức Toán một cách chắc chắn, vững vàng, tự tin. Dựa vào đồ dùng toán của học sinh và bộ đồ dùng Toán của giáo viên, kết hợp với việc áp dụng công nghệ thông tin của giáo viên để giáo viên chỉ là người tổ chức hướng dẫn sao cho học sinh đi đúng hướng. Qua đó rèn cho các em tính độc lập, cẩn thận, chính xác, hào hứng khi học Toán. Ví dụ 1: Dạy bài: Số 6. Học sinh lấy 5 hình tròn lấy thêm 1 hình tròn có tất cả 6 hình tròn. Học sinh lấy 5 hình vuông lấy thêm 1 hình vuông có tất cả 6 hình vuông. Các em kiểm tra đếm lại 1, 2, 3, 4, 5, 6 trên các hình. Đếm lại theo nhóm. 5 1 ® 6 Chú ý học sinh lấy theo nhóm (5 hình tròn vàng thêm 1 hình tròn xanh) Giáo viên (sử dụng bộ đồ dùng của giáo viên) đưa hình ảnh nhóm 5 hình tròn màu vàng thêm 1 hình tròn màu xanh tất cả là 6 hình tròn, tiếp tục giáo viên đưa ra 6 bông hoa, 6 con gà để học sinh nhận biết số lượng là 6. Để học sinh nắm chắc cấu tạo số 6, giáo viên hướng dẫn học sinh lấy 6 que tính tách thành 2 phần tùy ý để có khái niệm như: 6 gồm 5 và 1 6 gồm 1 và 5 6 gồm 4 và 2 6 gồm 2 và 4 6 gồm 3 và 3 Qua đồ dùng học Toán của cô và trò đã giúp học sinh nhận biết khái niệm về số 6 một cách chắc chắn, nắm được cấu tạo số 6, nhận biết được số lượng trong phạm vi 6, số sáu được viết bằng chữ số 6 không phụ thuộc vào hình dáng, kích thước to lớn, nhỏ bé. Ví dụ 2: Khi dạy bài: Phép cộng trong phạm vi 6. Giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng cộng như sau: Yêu cầu học sinh lấy 5 hình tròn rồi lấy thêm 1 hình tròn nữa. (Tất cả học sinh cùng lấy) Từ mô hình học sinh lập đề toán, lập phép tính: 5 + 1 = 6 1 + 5 = 6 Yêu cầu học sinh lấy 4 hình tam giác rồi lấy thêm 2 hình tam giác nữa. (Tất cả học sinh cùng lấy) Từ mô hình học sinh lập đề toán, lập phép tính: 4 + 2 = 6 2 + 4 = 6 Tương tự như thế giáo viên yêu cầu học sinh lấy 3 hình vuông lấy tiếp 3 hình vuông nữa. Nhìn vào mô hình học sinh lập đề toán và sử dụng số, dấu +, dấu = trong bộ đồ dùng Toán để cài phép tính tương ứng 3 + 3 = 6 Như vậy học sinh đã lập được các phép cộng trong phạm vi 6 và khắc sâu được khái niệm phép cộng, thực hành làm tính cộng trong phạm vi 6 tương đối tốt. Được làm việc trên đồ dùng trực quan như vậy học sinh rất hứng thú, nhớ bài nhanh hơn, nhớ lâu hơn. Ví dụ 3: Khi dạy bài: Bài toán có lời văn (Toán 1 trang 115) Bài toán có lời văn đang còn rất mơ hồ đối với các em nên tôi đã sử dụng hình ảnh động để hướng dẫn: Bài 1: Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán. Giáo viên xuất hiện bài toán: Bài toán: Có .. bạn, có thêm bạn nữa đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn? Giáo viên hiệu ứng 1 bạn ra trước sau đó hiệu ứng tiếp 3 bạn chạy tới. Nhìn vào hình ảnh này học sinh dễ dàng viết ngay được số vào chỗ chấm để có bài toán đầy đủ. Tôi tiến hành tương tự như thế với bài 2 trang 115, bài 4 trang 116 sách Toán 1. Bài 2: Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán. Bài toán: Có con thỏ, thêm con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu con thỏ?         Bài 4: Nhìn tranh viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán. Bài toán: Có . Con chim đậu trên cành, có con chim nữa bay đến. Hỏi..? Việc đưa hình ảnh như vậy tôi thấy học sinh học rất sôi nổi, nắm bài tương đối tốt. Nhìn vào các hình ảnh này học sinh dễ dàng hoàn thành những phần còn thiếu của bài toán. Ví dụ 4: Khi dạy bài: Phép cộng trong phạm vi 4 (Toán 1 trang 47) Tôi dạy bài này (bằng giáo án điện tử) tôi đã sử dụng hình ảnh động. Khi hình thành kiến thức mới, giáo viên hiệu ứng đưa hình 3 con chim đậu trên cành ra trước học sinh rất thích thú với hình ảnh này, sau đó giáo viên hiệu ứng tiếp thêm 1 con chim từ từ bay đến với ảnh này đã thu hút được sự chú ý của học sinh. Học sinh nhìn vào hình ảnh sẽ lập được đề toán và lập được phép tính tương ứng 3 + 1 = 4 với hình ảnh giáo viên vừa đưa ra, các em hào hứng quan sát để tiếp tục phát hiện ra phép tính khác như: 1 + 3 = 4 và đưa ra 3 + 1 cũng bằng 1 + 3 đều bằng 4 Qua việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Toán ở lớp Một đã giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp, kĩ năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi. Biện pháp này tạo cho lớp học sôi động, học sinh hào hứng học tập, 100% các em được tham gia vào bài mới. 2.3.3. Dạy học sinh nắm được bản chất các kiến thức toán học Để học sinh học tốt môn toán người giáo viên cần phải dạy cho học sinh nắm chắc kiến thức từng bài, từng phần trong chương trình toán 1, hiểu cặn kẽ bản chất của kiến thức đó. Vì vậy khi dạy cho học sinh học toán, giáo viên cần phải biết lựa chọn phương pháp, biện pháp thích hợp để học sinh nắm được các kiến thức bản chất nhất rồi từ đó làm cơ sở cho việc học các kiến thức tiếp theo. Ví dụ 1: Khi dạy học sinh làm tính cộng: 2 + 3 = 5. Bằng kinh nghiệm sống của trẻ, các em có thể trả lời ngay được kết quả là 5, song nếu chỉ nghĩ rằng học sinh chỉ học thuộc các phép tính làm đúng kết quả thôi thì chưa đủ mà người giáo viên cần làm cho học sinh hiểu cặn kẽ bản chất, ý nghĩa của phép cộng. Cụ thể giáo viên cho học sinh thực hiện thao tác “gộp” hai nhóm đồ vật một nhóm có (2 đồ vật ) với một nhóm (có 3 đồ vật ) để tạo thành một nhóm lớn hơn bao gồm tất cả các đồ vật của hai nhóm đó (5 đồ vật). Để tìm được kết quả của phép cộng trên học sinh cần thực hiện đếm toàn bộ các đối tượng trong hai nhóm đồ vật và từ đây học sinh sẽ hiểu được vì sao 2 cộng 3 lại bằng 5 (2 + 3 = 5). Bằng các hình ảnh trực quan, động tác, hoạt động của học sinh để từ đó các em nắm được “động tác gộp các nhóm đồ vật vào nhau chính là cơ sở của phép cộng hay nói cách khác đó chính là ý nghĩa của phép cộng.” Từ các hình ảnh cụ thể, từ những hoạt động của chính mình, học sinh đã biết vận dụng các kiến thức về ý nghĩa phép cộng. Dần dần các em hiểu về phép cộng một cách trừu tượng, khái quát hơn, thông qua việc hình thành cấu tạo số để hình thành phép cộng một cách có cơ sở, từ đó mở rộng sự hiểu biết của mình. Ví dụ 2: Khi dạy phép cộng trong phạm vi 3, sau khi hiểu ý nghĩa phép cộng là: 2 gộp 1 là 3 thì sẽ có phép tính 2 + 1 = 3, học sinh đã biết khái quát hơn về ý nghĩa bằng cách dựa vào cấu tạo số Từ việc hiểu ý nghĩa để vận dụng dựa vào cấu tạo số như trên, học sinh cần được hiểu ý nghĩa phép tính cộng một cách toàn diện hơn, khái quát hơn, đầy đủ hơn: 2 gộp 1 được 3 2 thêm 1 được 3 ð 2 + 1 = 3 2 tăng 1 được 3  Khi dạy các số tròn chục, giáo viên gợi ý cho học sinh nắm chắc cấu tạo số rồi hướng dẫn học sinh là nét đặc biệt của các số tròn chục là hàng đơn vị luôn bằng 0. Từ nhận biết cơ bản này, học sinh sẽ áp dụng vào việc thực hiện phép cộng, trừ các số tròn chục một cách thuận lợi. 30 + 50 = 80 80 – 30 = 50 Vì chữ số hàng đơn vị của các số tròn chục luôn bằng 0 (nên 0 đơn vị cộng với 0 đơn vị cho ta kết quả ở hàng đơn vị bằng 0) và (0 đơn vị trừ đi 0 đơn vị cũng cho ta kết quả ở hàng đơn vị bằng 0). Vì vậy học sinh chỉ cần cộng, trừ các chữ số ở hàng chục thì sẽ ra kết quả của phép tính. Ví dụ 3: Khi hình thành khái niệm “ Một chục” tôi hướng dẫn học sinh: + 10 que tính bó lại ta được 1 chục que tính + 10 quả trứng gà ta nói 1 chục trứng gà + 10 cái bát ta nói 1 chục cái bát. + 10 quả cam là 1 chục quả cam để rồi dẫn dắt học sinh nêu được: 10 đơn vị bằng 1 chục. (10 đơn vị = 1 chục) – Như vậy “chục” là đơn vị hàng cao hơn “đơn vị”. Trong cuộc sống ta hay nói: mua hai chục trứng, mua một chục bát, – Về số lượng 10 đơn vị và 1 chục là bằng nhau nhưng khác nhau về bản chất khái niệm. “Chục” là đơn vị hàng cao hơn, được hình thành qua đơn vị, để rồi chục lại là cơ sở hình thành các số lớn hơn tiếp theo. Ví dụ 4: Khi dạy giải toán có lời văn: Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như “thêm, và, tất cả, ” hoặc “bớt, bay đi, ăn mất, còn lại , ” (có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn. Trước tiên giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đàm thoại “Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?” và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất tốt để giúp học sinh phân tích đề toán. Bài toán: Nhà Lan có 5 con gà, mẹ mua thêm 3 con nữa. Hỏi nhà Lan có tất cả mấy con gà? Giáo viên hướng dẫn: – Bài toán cho biết gì? (Nhà Lan có 5 con gà) – Bài toán còn cho biết gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà) – Bài toán hỏi gì? (Nhà Lan có tất cả mấy con gà?) Giáo viên nêu tiếp: “Muốn biết nhà Lan có tất cả mấy con gà em làm thế nào? (Lấy 5 + 4 = 9); hoặc: “Nhà Lan có tất cả mấy con gà ?” (có tất cả 9 con gà). – Em tính như thế nào để được 9 ? (Lấy 5 + 4 = 9). Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp “9 này là 9 con gà”, nên ta viết “con gà” vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà). Sau đó nhấn mạnh để học sinh hiểu từ “con gà” phải viết trong ngoặc đơn vì nếu viết 5 + 4 = 9 con gà là sai. Nếu muốn được kết quả là 9 con gà thì phải viết 5 con gà + 4 con gà = 9 con gà. Nhưng việc viết một phép tính giải với các danh số như vậy là rất khó khăn và tốn nhiều thời gian với các em nên ta dùng cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là cách viết tắt của một câu văn: “5 + 4 = 9, 9 ở đây là 9 con gà”. Giáo viên hướng dẫn cách viết đáp số: Trong đáp số của bài toán thì không có phép tính và đáp số là trả lời cho câu hỏi của bài toán nên ta không đặt đơn vị “con gà” ở trong ngoặc đơn mà ghi như sau: Đáp số: 9 con gà. Giáo viên lưu ý:“Khi giải toán các em phải nêu được phép tính để tìm ra đáp số (đáp số ở đây là 9 con gà). Nếu chỉ nêu đáp số thì chưa phải là giải toán. Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, đáp số giáo viên hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải. Một bài toán có nhiều cách đặt câu lời giải khác nhau chẳng hạn như: *Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi) và thay từ mấy bằng từ “số”, thêm từ “là” cuối câu để có câu lời giải: “Nhà Lan có tất cả số con gà là:” Bài giải Nhà Lan có tất cả số con gà là: 5 + 4 = 9 (con gà ) Đáp số: 9 con gà *Cách 2: Đưa từ “con gà” ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ “Hỏi” và thêm từ “Số” (viết trước từ con gà), thêm từ “là” ở cuối câu để có câu lời giải: “Số con gà nhà Lan có tất cả là:” Bài giải Số con gà nhà Lan có tất cả là: 5 + 4 = 9 (con gà ) Đáp số: 9 con gà *Cách 3: Dựa vào câu hỏi của bài

Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Tiếng Việt Lớp 3

Để góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo các thế hệ học sinh thành những con người năng động,sáng tạo trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .Những con người biết tiếp thu tri thức khoa học kĩ thuật hiện đại, biết vận dụng tìm ra các giải pháp,phương pháp hợp lí cho những vấn đề trong cuộc sống của bản thân và xã hội .Thì giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu .Nhờ có giáo dục mới đào tạo các thế hệ tương lai của đất nước . Để đạt được những thành quả nói trên,các em phải trải qua các cấp học từ mẫu giáo đến đại học và sau đại học vì vậy môn tiếng việt ở tiểu học có vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh .Mục tiêu của môn tiếng việt là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng việt (đọc,viết , nghe ,nói ) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của trẻ. Thông qua việc dạy và học tiếng việt góp phần rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy cung cấp những kiến thức sơ giản về tiếng việt và những hiểu biết về xã hội, tự nhiên và con người, nền văn học Việt Nam và nước ngoài.Đồng thời bồi dưỡng tình yêu tiếng việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của tiếng việt góp phần hình thành nhân cách con ngườiViệt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chương trình tiếng việt lớp 3 các em phải học gồm 6 phân môn . Mỗi phân môn có một nhiệm vụ quan trọng, đối với phân môn tập đọc chủ yếu là rèn cho học sinh các kĩ năng đọc:đọc thành tiếng và đọc hiểu nghe và nói.Bên cạnh đó thông qua hệ thống bài đọc theo chủ điểm, Các em đọc đúng và đọc trôi chảy,rành mạch câu, đoạn, bài và biết được cách đọc thầm hiểu được nội dung chính của bài nhằm khai thác nội dung bài đọc cung cấp cho các em những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người,cung cấp vốn từ, cách diễn đạt những tác phẩm văn học như đề tài,cốt truyện,nhân vật,góp phần hình thành nhân cách học sinh.Phân môn luyện từ và câu cung cấp những kiến thức sơ giản về tiếng việt bằng con đường quy nạp và kĩ năng dùng từ đặt câu khi nói và viết bỗ sung thêm từ ngữcho phần đọc.phân môn chính tả chủ yếu rèn cho học sinh viết chữ hoa,viết được đoạn văn,khổ thơ bằng cách nghe viết,hoặc nhớ viết,các emviết đúng chính tả,trình bày sạch sẽ.Bên cạnh đó, học sinh phải làm một số bài tập để nắm vững từ ngữ và biết cách dùngtừ đặt câu cho phù hợp.Phân môn tập làm văn giúp học sinh biết làm mẫu đơn theo hướng dẫn,viết được đoạn văn tả ngắn về người thân,biết diễn đạt ý trọn vẹn,

Ở phần đọc yêu cầu các em đọc đúng,rõ ràng rành mạch các đoạn đối thoại,các văn bản nghệ thuật, hành chính báo chí,tốc độ đọc nhanh hơn lớp 2.Biết dựa vào câu hỏi trả lời ýchính của bài,biết nhận xét một số hình ảnh nhân vật hoặc đặt tên cho đề bài cốt truyện, biết kể chuyện từng đoạn dựa vào phần gợi ý ở sách giáo khoa.Ở phần viết yêu cầu các em viết đúng chính tả rõ ràng,biết tìm hình ảnh so sánh,nhân hóa trong khổ thơ,đoạn văn.Qua thực dạy trên lớp,tôi nhận thấymột số học sinh vẫn học chưa tốt các em đọc và viết thể hiện ý vănchưa trọn vẹn,dùng từ đặt câuchưa đúng,viết chưa chính xác từ ngữ. vì vậy tôi mạnh dạn viết ra đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 3”

2) NỘI DUNG VÀ CÁCH THỨC THỰC HIÊN GIẢI PHÁP BIỆN PHÁP :

Để học tốt môn tiếng việt,trước hết các em phải đọc và viết tốt,nói và viết cho trọn câu,dùng từ đặt câu cho phù hợp biết dùng các dấu câu trong đoạn văn phù hợp với nội dung cần thể hiện.Biết nghe và khi nhận thông tin xử lí thông tin nhanh chống .Vì vậy những nội dung tôi quan tâm nghiên cứu thực hiện đó là:

Giải pháp thứ nhất: Dạy học sinh biết thể hiện giọng điệu ngắt nghỉ,đọc đúng,đọc trơn câu văn,đoạn văn,bài thơ và trả lời câu hỏi trong giờ tập đọcvà kết hợp cử chỉ điệu bộ khi kể chuyện.

Khi dạy bài tập đọc hay bài học thuộc lòng trong chương trình tiếng việt lớp ba,trước hết giáo viên phải bám vào mục đích yêu cầu của bài soạn,bám vào chuẩn kiến thức kĩ năng.Trong giờ dạy tập đọc chủ yếu rèn luyên cho học sinh hai kĩ năng: Kĩ năng đọc thành tiêng và kĩ năng đọc hiểu.Đối với từng bài dạy khi mở bài giáo viên dùng tranh ảnh,vật thật để giới thiệu bài có nội dung hướng học sinh vào bài học hôm nay,khi đọc giáo viên đọc mẫu bài giọng đọc rõ ràng,đọc đúng từng câu biết cách ngắt nghỉ sau những câu văn có cụm từ dài hay sau những dấu câu.Biết nhấn giọng những câu đối thoại giữa nhân vật hay sự vật hiện tượng một cách tự nhiên không bị gò bó tạo cho học sinh thấy được sự hấp dẫn ở phần đọc.Sau đó người giáo viên điều khiển cách đọc cho học sinh,học sinh biết dấu hiệu một câu,dấu hiệu một đoạn,hay một bài thơ có mấy khổ thơ.Khi đọc các em phải đọc ngắt, nghỉ ở dấu câu,đọc đúng từ ngữ trong câu .

Chẳng hạn,trong quá trình học học sinh hay mắc lỗi đọc từ có phụ âm / và vần iêt/ iêc; oi/ oai; ưu/ ươu; ât/âc; um/uôm….. Để đọc đúng các âm vần trong từ ngữ thì giáo viên phải dùng phương pháp làm mẫu phối hợp răng, lưỡi, miệng để học sinh quan sát cách phát âm của giáo viên mà đọc.Ngoài ra giáo viên dùng các đồ dùng trực quan để đi sâu khai thác kênh hình và kết hợp kênh chữ gây hứng thú học tập cho các em .Khi đọc đoạn văn có nhiều câu đối thoại của nhân vật hay những câu có dấu chấm than thì giáo viên phải nhấn giọng để tạo ra hình ảnh gợi hình gợi cảm lôi cuốn người đọc.Trong khi luyện đọc cho học sinh giáo viên theo dõi cách đọc câu,đoạn, cách ngắt nghỉ trong câu để phát hiệncáichưa chính xác,kịp thời sửa cho các em.Giaó viên không để cho học sinh đọc tự do,mà phải hướng dẫncho các em đọc . Học sinh đọc phần luyện đọc thì tiếp đến giáo viên phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài, những bài có câu hỏi khó giáo viên có thể tách ra những câu hỏi nhỏ và gợi ý cho các em trả lời tránh tình trạng dùng câu hỏi lặp đi lặp lại nhiều lần để hỏi học sinh .Gây hứng thú cho các em khi trả lời nội dung câu hỏi.Giáo viên phải đầu tư cả hình thức nội dung để tiết học có hiệu quả chọn phương pháp sử dụng cho phù hợp mang lại kiến thức mới cho học sinh đạt hiệu quả nhất.Khi luyện đọc lại bài thường đọc theo cách phân vai có thể các em chọn vai và nhập vai đọc chọn vai và nhập vai theo nhân vật có thể các em chọn vai và đọc thành từng nhóm.Nhóm nào đọc tốt nhất thì đọc mẫu,giáo viên nhận xét sau đó rút kinh nghiệm để các nhóm đọc chưa chính xác thì đọc chính xác hơn .Cho các nhóm thi đọc lại với nhau rồi tự nhận xét giữa các nhóm và giáo viên nhận xét đánh giá khả năng đọc của từng nhóm .

* VÍ DỤ: Tập đọc: Người mẹ ( SGK Trang 39 tập một lớp3 )

Giaó viên hướng dẫn cách đọc đoạn trên: cách ngắt,nghỉ ở chỗ câu có dấu phẩy thì nghỉ ngắn hơi hơn so với dấu chấm và ngắt nghỉ nhấn giọng đúng chỗ ở câu hỏi và câu trả lời của nhân vật . Thể hiện giọng đọc các nhân vật(bà mẹ,Thần Chết,Người dẫn chuyện: Giaó viên hướng dẫn giọng đọc từng nhân vật như sau giọng Thần chết ngạc nhiên,giọng người mẹ khi nói câu: vì tôi là mẹ giọng điềm đạm khiêm tốn, khi yêu cầu Thần Chết: Hãy trả con cho tôi giọng dứt khoát. – Thấy bà/Thần Chết ngạc nhiên/hỏi://

.- Làm sao ngươi có thể tìm đếntận nơi đây/

Sau khi đã hướng dẫn đoạn văn trên, giáo viên cho học sinh đọc cá nhân, chú ý cách đọc của từng học sinh, học sinh đọc chưa chính xác từ ngữ, cách nhấn giọng giữa nhân vật, giáo viên hướng dẫn lại cho học sinh đọc lại đoạn đó, từ đó khắc phục học sinh đọc và đọc chính xác.

Giáo viên tổ chức cho học sinh đọc cách phân vai các nhân vật, rồi phân học sinh thành bốn nhóm cho các nhóm luyện đọc.Sau đó gọi từng nhóm lên đọc các nhóm còn lại theo dõi nhận xét -đánh giá để các em rút kinh nghiệm.Cuối giờ luyện đọc cả lớp bình bầu nhóm bạn đọc hay nhất tuyên dươngvà khen thưởng.

Bên cạnh giờ tập đọc,có nửa tiếtdành cho kể chuyện,chủ yếu ở tiết này rèn kĩ năng nói:Dựa vào các gợi ý trong sách giáo khoa học sinh biết nhập vai kể lại được từng đoạn của câu chuyện theo lời nhân vật.Các em biết thay đổi giọng kể phù hợp với nội dung,biết phối hợp lời kể với điệu bộ,nét mặt.

Rèn kĩ năng nghe:Chăm chú theo dõi bạn kể chuyện,biết nhận xét đánh giá lời kể của bạn,kể tiếp được lời kể của bạn.

Ví dụ: Kể lại đoạn ba và đoạn bốn trong bài ” Người mẹ”

Đoạn 3. Bà đến một hồ lớn.Không có một bóng thuyền.Nước hồ quá sâu.Nhưng bà nhất định vượt qua hồ để tìm con .Hồ bảo:

– Tôi sẽ giúp bà,nhưng bà phải cho tôi đôi mắt .Hãy khóc đi,cho đến khi đôi mắt rơi xuống.

Bà mẹ khóc,nước mắt tuôn rơi lã chã,đến nổi đôi mắt theo dòng lệ rơi xuống hồ,hóa thành hai hòn ngọc.Thế là bà được đưa đến nơi ở lạnh lẽo của Thần Chết.

Đoạn 4. Thấy bà thần chết ngạc nhiên ,hỏi:

Khi kể hai đoạn trên giáo viên phân vai các nhân vật (người dẫn chuyện,bà mẹ,Thần Chết,Hồ nước ) hướng dẫn học sinh nhập vai nhân vật. Học sinh nhớ lại chuyện kể lại đoạn chuyện thể hiện nhấn giọng từng từ ngữ:nhỏ xuống,tuôn rơi lã chã,hãy khóc đi, đôi mắt hóa thành hai hòn ngọc…giọng kể

người mẹ điềm đạm,khiêm tốn nhưng cương quyết, tha thiết toát lên được sự sẳn lòng hi sinh của người mẹ trên đường đi tìm con .Nhân vật Thần Chết khi thấy người mẹ ngạc nhiên.Từng học sinh nhập vai nhân vật khi kể kết hơp mọi cử chỉ và thể hiện điệu bộ, nét mặt phù hợp với từng nhân vật .Giaó viên tổ chức cho các em thi kể chuyện theo nhóm,các nhóm nhập vai nhân vật và trình bày đoạn truyện như đã hướng dẫn.Đại diện từng nhóm thi kể, sau đó giáo viên và các nhóm nhận xét,đánh giá chọn ra nhóm kể hay nhất tuyên dương trước lớp

Song song với việc dạy luyện đọc kể chuyện cho học sinh thì kĩ năng thực hành viết, nghe viết không kém phần quan trọng

Trong phần cơ sở lí luận chúng ta đã biết phương pháp luyện tập là rất cần thiết đối với học sinh Tiểu học. Thật vậy,trong giờ dạy tập viết,chính tả kiến thức mà học sinh chiếm lĩnh được phải thể hiện thành kĩ năng, kĩ xảo.Muốn vậy, cần phải thường xuyên luyện tập thực hành cho học sinh. Việc luyện tập ở đây có nghĩa là luyện đọc và luyện viết.Khi học sinh luyện tập chữ viết giáo viên cần uốn nắn cách ngồi viết với nhiều hình thức luyện tập

Tập viết chữ vào bảng con học sinh luyện tập viết bằng phấn hoặc bút bảng để trước khi viết vào vở, những chữ cái vần khó giáo viên hướng dẫn kĩ cách viết , những chữ viết chưa chính xác để dễ sữa chữa bằng dẻ lau, từ đó học sinh luyện viết vào vở. Muốn học sinh sử dụng có hiệu quả vở tập viết giáo viên cần hướng dẫn tỉ mĩ nội dung và yêu cầu về kĩ năng . Viết ở từng bài ( mẫu chữ,các dấu chỉ khoảngcách giữa các chữ,dấu chỉ vị trí đặt bút, thứ tự viết nét) giúp các em viết đủ,viết đúng số dòng quy định.

Ngoài ra,giáo viên cho học sinh viết thêm các tiếng ngoài bài. cho học sinh viết càng nhiều càng tốt . Giáo viên có thể quán xuyến được lớp, bám sát học sinh .Giáo viên phân nhóm cho học sinh viết ở nhà, khi học sinh viết đúng được từ ngữ, câu, chuyển sang giai đoạn viết chính tả học sinh viết đúng một đoạn văn,bài thơ học sinh nhìn bảng giáo viên viết mẫu học sinh viết vào vở . Đối với những loại bài nghe viết học sinh viết một bài hoặc một đoạn văn dài trên 70 tiếng,học sinh viết đúng chính tả, trình bày chữ viết đẹp và cẩn thận. Khi dạy chính tả giáo viên đọc to chậm rãi từ ngữ,câu,phát âm đúng những từ ngữ học sinh hay mắc lỗi có phụ âm ( c/ k; g/gh; ng/ g; l/n; s/x ) Cùng với một số vần như ( an/ ang;ac/at; ưu/ ươu; ât/ ăc…)và những tiếng lẫn lộn giữa (dấu hỏi và dấu ngã ) để các em viết đúng. khi học sinh viết giáo viên cho học sinh đánh vần trước các âm,vần khó và luyện viết ở bảng con nhiều lần. khả năng một số em đọc tốtthì các em viếtnhanh, chính xác . Bên cạnh đó còn một số học sinh chưa đọc thành thạo, khả năng nghe và viết chưa tốt .Để giúp các em viết đúng chính tả giáo viên đọc chậm từng câu nhiều lần quan sát cách viết xem các em viết được chưa mà điều chỉnh khi đó các em mới hoàn thành bài viết . Cuối giờ chính tả, còn thời gian làm lại các bài tập phân biệt tiếng có âm đầu và vần để tạo thành tiếng, từ, viết đúng chính tả . Mục đích giúp các em viết đúng chính tả.

Ngoài hai giải pháp vừa nêu trên,giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu, biết nghe và trả lời câu hỏi phục vụ cho việc học tập và giao tiếp .

Giải pháp thứ ba: Thực hành kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu khi nói và viết để học tốt môn luyện từ và câu và môn tập làm văn:

Ở lớp 3, phân môn luyện từ và câu giúp các em mở rộng vốn từ,biết đặt các kiểu câu ? ? ? Và những bộ phận chính của các kiểu câu ấy. ngoài ra , có những bộ phận câu trả lời cho các câu hỏi khi nào? ở đâu ? như thế nào? Và các dấu câu,dấu chấm,dấu chấm hỏi,dấu chấm than,dấu phẩy…. ngoài ra dưạ vào khổ thơ đoạn văn tìm các hình ảnh so sánh hay nhân hóa.Khi dạy các dạng bài trên đặt câu thì giáo viên luôn hướng cho học sinh biết mỗidạng có cách đặt câu khác nhau .Khác ở cách dùng từ,nghĩa của các từ trong câu .Để hỏi và trả lời câu hỏi có nội dung cần gì ?

Ví dụ :Tìm các bộ phận câu :

-Trả lời câu hỏi Ai(cái gì,con gì) ?

a)Đàn Sếu đang sải cánh trên cao.

b)Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về.

c)Các em tới chỗ ông cụ,lễ phép hỏi.

Giaó viên giúp học sinh nắm yêu cầu của bài.Đây là những câu đặt theo mẫu câu Ai làm gì ?nhiệm vụ các emlà tìm bộ phận câu trả lời cho câu hỏi ai(cái gì, con gì)và bộ phận câu trả lời cho câu hỏi làm gì ?)

Sau đó giáo viên chỉ định từng cặp học sinh khá giỏi lên tìm ý a

Giáo viên gọi học sinh nhận xét cặp bạn tìm đã chínhxác chưa ?

Học sinh trả lời bạn làm đã chính xác rồi.

Giaó viên chỉ định từng cặp học sinhlên tìm

Giáo viên và cả lớp nhận xét, tuyên dương.

Cách dạy các kiểu câu còn lại giáo viên luôn hướng học sinh hiểu cách nói của từng vế câu khơi dậy cho học sinh thấy được được sự khác nhau giữa các kiểu câu.Học sinh dựa vào một số câu mẫu tập nói và đặt câu phù hợp tương ứng với từng loại kiểu câu .

Khi học sinh đặt thành câu nói và viết thành đoạn thì lúc này biết dùng các dấu câu để phân biệt từng ý và nội dung của mỗi ý cho phù hợp.Các em biết cách dùng các dấu để ngắt nghỉ khi đọc hoặc khi viết .

: Em chọn dấu chấm hay dấu chấm hỏi để điền vào ô trống ?

Nam nhờ chị viết thư thăm ông bà vì em vừa mới vào lớp2,chưa viế tthành thạo ……Viết thư xong, chị hỏi :

– Em muốn còn nói thêm gì nữa không ……

– Dạ có …….. Chị viết hộ em vào cuối thư : ” Xin lỗi ông bà vì chữ cháu xấu và nhiều lỗi chính tả .”

Học sinh dựa vào đoạn văn trên biết cách dùng dấu câu để đặt vào ô trống sao cho đúng với từng câu tương ứng với mỗi ô trống .Học sinh làm đúng đoạn văn giáo viên gọi từng em đọc thể hiện cách đọc sau mỗi câu có dùng dấu chấm hay dấu chấm hỏi.

Nam nhờ chị viết thư thăm ông bà vì em vừa mới vào lớp 2,chưa t viết thành thạo ……Viết thư xong, chị hỏi :

– Em muốn còn nói thêm gì nữa không ……

– Dạ có …….. Chị viết hộ em vào cuối thư : ” Xin lỗi ông bà vì chữ cháu xấu và nhiều lỗi chính tả .”

Sau khi học sinh làm xong bài tập trên giáo viên gọi học sinh thể hiện cách đọc và đọc lại đoạn văn trên rồi giáo viên nhận xét, sửa bài.

Ngoài kĩ năng dùng từ đặt câu phân biệt các kiểu câu,sử dụng dấu câu trong đoạn văn các em biết tìm những hình ảnh so sánh,nhân hoá các sự vật, hiện tượng gần gũi trong cuộc sống như nụ hoa hồng, cánh diều,cái đĩa, áng mây…

Chẳng hạn,khi dạy môn luyện từ và câu:Tên bài. so sánh-dấu chấm

Yêu cầu của tiết này tìm được những hình ảnh so sánh trong các câu thơ,câu văn.Nhận biết các từ chỉ sự so sánh

a)Hai bàn tay em

Như hoa đầu cành

Mùa hè,trời là cái bếp lò nung.

Hàng xoan trước ngõ

Hoa xao xuyến nở

Như mây từng chùm

Khi dạy bài trên giáo viên gọi học sinhđọc kĩ yêu cầu của bài,học sinh đọc lần lượt từng câu thơ.Giáo viên hướng dẫn trước hết các em tìm những hình ảnh sự vật hiện tượng ở trongkhổ thơ.sau đó,ta thấy các sự vật trên so sánh như thế nào?

Từ đó,các em tìm sự vật được so sánh

Hàng xoan trước ngõ

Học sinh học tốt môn luyện từ và câu thì phân môn tập làm văn giúp các em biết dùng lời nói phù hợpvới hoàn cảnh giao tiếp trong sinh hoạt gia đình, sinh hoạt tập thể,biết giới thiệu các thành viên các hoạt động của tổ;biết viết đơn viết được bức thư ngắn để báo tin tức hỏi thăm sức khỏe người thân trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa tinh thần trách nhiệm trong công việc.

Ví dụ:kể về gia đình em với một người bạn mới quen.

Yêu cầu của đề văn trêncác em chỉ cần nói 5đến 7câu giới thiệu về gia đình em.

.Gia đình em có bao nhiêu người,bố mẹ em làm nghề gì?Gia đình em sống có thương yêu nhau và hòa thuận không? Dựa vào các gợi ý trêncác em viết thành đoạn văn trình bày đủ ý để trao đổi với bạn. Ngoài kĩ năng xây dựng đoạn văn còn giúp các em dựa vàomẫu đơn đã có mẫu sẵn để viết một mẫu đơn như:Đơn xin phép nghỉ học, đơn xin vào đội, đơn xin cấp thẻ đọc sách…Để viết một mẩu đơn các em nắm được trình tự của lá đơn, viết đúng theo trình tự và chính xác

Để học tốt môn tiếng việt ngoài việc dùng các biện pháp luyện đọc đúng,viết đúng,thực hành luyện viết,giáo viên còn dùng biện pháp Tổ chức trò chơi.

Giải pháp thứ tư : Tổ chức trò chơi trong quá trình dạy học :

Giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức được học ,mở rộng vốn từ ,khắc sâu kiến thức được học , nắm chắc âm, vần biết vận dụng vào từng trường hợp cụ thể .

Tạo môi trường để rèn luyện sự linh hoạt, nhạy bén, có thói quen phản ứng nhanh cho học sinh giúp các em mạnh dạn trước tập thể

Thông qua trò chơi tạo không khí thi đua sôi nổi trong mỗi tiết học,làm cho tiết học nhẹ nhàng và sôi nổi đem lại kết quả tốt .

Tổ chức trò chơi phải phù hợp với thời điểm của từng tiết dạy .

Nộidung chơi phải đảm bảo kiến thức về mặt kĩ năng theo chuẩn kiến thức,các yêu cầu về kiến thức phải có tính hệ thống .

Trò chơi phải phù hợp, vừa sức ,không quá khó phải thu hút được sự ham thích của học sinh .Trò chơi phát huy được tinh thần tập thể, kích thích được tính thi đua học tập, giúp học sinh tăng khả năng khi nhận thông tin và giải quyết thông tin nghe,nói,đọc,viết.

* Phương pháp tiến hành:

Tổ chức trò chơi dẫn dắt các em chiếm lĩnh kiến thức mới cần đạt lúc đó để củng cố hệ thống hóa kiến thức trong một bài hay một chương.Giaó viên cần phổ biến tên trò chơi,nội dung chơi, vật dụng phục vụ cho trò chơi,luật chơi, trước khi phổ biến trò chơi ,nên cho các em chơi thử để các em tự tin .

Mục tiêu: Giúp học sinh chọn tiếng đã học ghép vào chổ trống để tạo thành từ ngữ có nghĩa( Trong phần bài tập,cuối giờ viết chính tả)

Cách chơi : Giáo viên chọn hai đội chơi,lớp cử đại diện mỗi đội 03 bạn đặt tên cho đội mình.Trong vòng một phút hai đội thi đua tìm tiếng phù hợp và điền vào chỗ trống theo thứ tự từng tiếng tương ứng rồi ghi trên bảng lớp.Hết thời gian mỗiđội cử đại diện của đội mình lên.đọc kết quả đã ghi cả lớp bổ sung và nhận xét.giáo viên đánh giá, nhận xét hai đội và kết luận đội thắng cuộc và tuyên dương đề nghị các bạn cho tràng vỗ tay khích lệ hai đội .

Bài tập : Em chọn chữ nào trong ngoặc đơnđể điền vào chỗ trống?

b)khẻo hay khoẻo): người lẻo …

* Hai đội thi điền được kết quả như sau:

Mục tiêu: Giúp học sinh biết chon những tiếng đã cho ghép lại với nhau để tao thành từ mới có nghĩa tương đương nhau ( môn luyện từ và câu)

Chuẩn bị phấn viết ,bảng con ,giẻ lau.

Cách chơi: Giáo viên cho học sinh chơi cá nhân,trong vòng một phút, học sinh chọn tiếng ghép vào tiếng đã cho để tạo thành từ ngữ có nghĩa gần giống nhau để ghi vào bảng con hết thời gian học sinh trình bày,em nào ghép đúng giáo viên chọn gắn lên bảng .

Đánh giá Tìm và ghép được tiếng trong bài

Bàì4 Tìm những từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống:

a) Công cha nghĩa mẹ ơn….

b) Trời mưa đường đất sét trơn như…

c) Ở thành phố có nhiều tòa nhà cao…

Học sinh tìm các tiếng thích hợp viết vào bảng con những từ cần điền là: Thầy; bôi mỡ; tầng.

Học sinh tìm từ điền vào câu đúng, giáo viên nhận xét tuyên dương.

3, KẾT QUẢ THU ĐƯỢC QUA KHẢO NGHIỆM

Sau thời gian sử dụng các biện pháp trên, trong giờ day các phân môn ở sách tiếng việt lớp 3 tôi thấy không khí lớp học sôi nổi,khơi dậy tính tích cực của các em, đặc biệt các kĩ năng đọc, viết, các em chưa đạt ngày càng tiến bộ.

Giúp các em mạnh dạn, tự tin trong học tập, tinh thần đồng đội ,tình thầy trò tình bạn bè được phát triển:

*Chất lượng cụ thể qua các lần kiểm tra như sau:

Nói chung, đến nay hầu hết các em học sinh chưađạtcó sự tiến bộ rõ rệt .Bên cạnh đó vẫn còn một vài em còn đọc chậm,viết chậm , dự kiến tiếp tục rèn luyện đến cuối năm học

Việc áp dụng một số giải pháp trong môn tiếng việt lớp 3 tôi đã đạt những bước tiến bộ rõ rệt.Học sinh tiếp thu bài nhanh, viết ít mắc lỗi chính tả,khả năng nhận biết các kiểu câu dễ dàng hơn so với trước.Cách diễn đạt ý văn trọn vẹn giúpngười đọc hiểu được vấn đề cần thể hiện trong bài.

Các phương pháp phải được áp dụng một cách đồng bộ, thường xuyên và linh hoạt. Không có phương pháp nào là vạn năng và chẳng có phương pháp nào là tối ưu cả, mà tối ưu hay không là phụ thuộc chủ yếu vào cách sử dụng của GV vào điều kiện cụ thể của đối tượng HS lớp mình, tùy nội dung từng bài mà quyết định áp dụng một hay một số phương pháp thích hợp. GV cần lưu ý làm mới cách tổ chức các hoạt động học để luôn hấp dẫn các em.

Giáo viên phải tận tụy, nhiệt tình, theo dõi sát sao từng HS, qua đó phát hiện những thiếu sót của từng em, tìm nguyên nhân, hướng khắc phục cho từng nhóm để có biện pháp giúp đỡ kịp thời; có hiệu quả, không nôn nóng, không vội vã để rồi quở trách HS.

Cần có sự đánh giá, rút kinh nghiệm qua từng tháng, học kỳ để kịp thời điều chỉnh phương pháp nhằm đạt hiệu quả tốt nhất.

Phải có sự hỗ trợ, phối hợp giúp đỡ từ phía phụ huynh HS để việc áp dụng các biện pháp được thuận lợi, có hiệu quả.

Một Số Biện Pháp Để Dạy Tốt Môn Tin Học Ở Tiểu Học

CNTT, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, mở cửa và hội nhập, hướng tới nền kinh tế tri thức của nước ta nói riêng - thế giới nói chung. Chỉ thị số: 3398 /CT-BGDĐT của bộ giáo dục đào tạo ngày 11/8/2011 chỉ rõ một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm học 2011/2012 là " Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy - học và công tác quản lý giáo dục. " Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn Tin học vào trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn Tin học để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những phần nâng cao trong các cấp tiếp theo. II. Mục đích nghiên cứu. Nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới phương pháp dạy môn Tin học ở Tiểu học. F Mục tiêu của CNTT trong trường học Mục đích của việc ứng dụng CNTT vào trường nói chung và trường Tiểu học nói riêng là sử dụng CNTT như một công cụ lao động trí tuệ, giúp lãnh đạo các nhà trường nâng cao chất lượng quản lí, giúp các thầy giáo, cô giáo nâng cao chất lượng dạy học; trang bị cho HS kiến thức về CNTT, HS sử dụng máy tính như một công cụ học tập nhằm nâng cao chất lượng học tập; góp phần rèn luyện HS một số phẩm chất cần thiết của người lao động trong thời kỳ hiện đại hóa. FMục tiêu của việc dạy học môn Tin học ở bậc Tiểu học là nhằm giúp cho học sinh : - Có hiểu biết ban đầu về Tin học và ứng dụng Tin học trong học tập và trong đời sống. - Có khả năng sử dụng máy tính trong việc học những môn học khác, trong hoạt động vui chơi giải trí nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và thích ứng với đời sống xã hội hiện đại. - Bước đầu làm quen với cách giải quyết vấn đề có sử dụng công cụ Tin học. III. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu. - HS khối 3-4-5 - Theo dõi và kiểm tra đánh giá việc tiếp thu bài của HS. - Kiểm tra chất lượng sau giờ học. Phương pháp nghiên cứu lí luận: Bộ môn Tin học là một bộ môn mới ở trường Tiểu học và chủ yếu là sử dụng phương pháp trực quan sinh động để ứng dụng thực hành do đó việc nghiên cứu lí luận là không thể thiếu do vậy khi xây dựng đề tài này tôi đã nghiên cứu các tài liệu tham khảo sau: Giáo trình Word thực hành, Giáo trình Excel thực hành,Tin Học Thực Hành, Đồ họa thực hành, Hướng dẫn sửa lỗi máy tính, Giáo trình photoshop, Sách giáo khoa quyển 1, Sách giáo khoa quyển 2, Sách giáo khoa quyển 3. Phương pháp ứng dụng thực tiễn. - Phương pháp quan sát. - Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới) - Phương pháp điều tra. (Phỏng vấn học sinh khối 3,4, 5. Sử dụng bảng biểu đối chiếu). - Phương pháp khảo nghiệm thăm lớp, dự giờ. Kiểm tra chất lượng sau giờ học. B. PHẦN NỘI DUNG I) Cơ sở lí luận và thực tiễn. 1. Cơ sở lí luận. - Nghị quyết 40/2000/QH10 và chỉ thị 14/2001/CT-TT ngày 9/12/2000 vầ việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông: Nội dung chương trình là tích cực áp dụng một cách sáng tạo các phương pháp tiên tiến, hiện đại, ứng dụng CNTT vào dạy và học. - Trong nhiệm vụ năm học 2005-2006 Bộ trưởng giáo dục và đào tạo nhấn mạnh : Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguồn nhân lực CNTT từ nay đến năm 2010 của chính phủ về đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền thông giai đoạn 2004-2006. - Chỉ thị 29/CT của trung ương Đảng về việc đưa CNTT vào nhà trường. - Thông tư số 14/2002/TT- BGD& ĐT ngày 1/4/2002 về việc hướng dẫn quán triệt chủ trương đổi mới giáo dục phổ thông. 2. Cơ sở thực tiễn. * Tình trạng hiện nay. - Nội dung chương trình môn Tin học hiện nay được dạy theo bộ sách Cùng học Tin học Quyển 1; Quyển 2; Quyển 3 do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. - Nhà trường đã được trang bị phòng máy với 24 máy dành cho HS và 1 máy chủ dành cho GV. Các máy được kết nối với nhau tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy. - Nhà trường đã trang bị cho GV đầy đủ SGK và các phần mềm kèm theo. Một số thuận lợi và khó khăn khi trực tiếp giảng dạy môn Tin học tại trường: * Một số điều kiện thuận lợi. Nhà trường đã trang bị khá đầy đủ các trang thiết bị, Sách giáo khoa và các phần mềm kèm theo tạo điều kiện thuận lợi cho GV trong việc giảng dạy. Nội dung sách nhẹ nhàng, trình bày đẹp, sách chú trọng nhiều về phần thực hành rất phù hợp với lứa tuổi HS Tiểu học. HS từ khối 3 đến khối 5 được học môn Tin học. Mỗi lớp được học với thời lượng 2 tiết/ 1tuần. HS đã nắm được các kiến thức cơ bản của bài học. Từ đó HS đã biết sử dụng và ứng dụng phần mềm vào việc học tập. Kỹ năng thực hành của HS khá tốt. * Một số khó khăn và tồn tại: Về phía giáo viên: Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc tiểu học nên chương trình và sự phân phối chương trình bước đầu có sự thống nhất và đang hoàn chỉnh. Hiện nay Bộ giáo dục và đào tạo mới đang thí điểm dạy môn Tin học từ lớp 3 cho một số tỉnh và thành phố và biên soạn quyển sách cùng học tin học quyển 1,2,3. Tuy giáo viên đã được đào tạo cơ bản về kiến thức Tin học, nhưng khi thực hành, máy móc gặp sự cố, trục trặc, giáo viên không xử lý kịp thời dẫn đến học sinh thiếu máy, không thực hành được. Do mới là môn tự chọn nên giáo viên dạy Tin học tiểu học là giáo viên hợp đồng trường, chỉ tiêu biên chế chưa có, lương thấp nên cũng phần nào làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học. Tài liệu tham khảo dành riêng cho bộ môn Tin học còn quá ít. Nhất là những tài liệu nói về phương pháp dạy học đặc trưng của môn Tin học. Phần mềm Encore ( Em học nhạc) đã được cài đặt nhưng việc sử dụng còn gặp nhiều khó khăn do: + GV chưa sử dụng thành thạo phần mềm nhạc. + Kiến thức về âm nhạc còn hạn chế. Về phía học sinh: Đa số HS không có máy ở nhà để luyện tập nên các thao tác của HS chưa được thành thạo. Đây là môn học phụ nên một số HS chưa học nghiêm túc và phụ huynh chưa quan tâm. Việc rèn luyện thói quen gõ 10 ngón tay cho HS còn gặp khó khăn do HS không có nhiều thời gian cho việc luyện tập trên lớp. II) Một số biện pháp để dạy tốt môn Tin học ở Tiểu học: Cải thiện chất lượng phòng máy: Việc sửa chữa máy tính trong phòng máy đã có nhân viên bảo trì đến sửa chữa. Nhưng người quản lí trực tiếp và thường xuyên nhất chính là GV. Để có một tiết thực hành đạt hiệu quả cao và không ảnh hưởng nhiều đến HS thì tất cả các máy trong phòng phải hoạt động tốt. Thế nhưng trong quá trình sử dụng máy tính, chúng ta vẫn thường xuyên gặp phải những lỗi hệ thống từ nhỏ đến lớn. Trong đó, những sự cố bất thường như: treo máy, khởi động lại, thậm chí tắt luôn không khởi động được.làm ảnh hưởng rất nhiều đến giờ dạy. Trước khi gọi nhân viên bảo trì tới sửa, là một GV Tin học, bạn cũng cần phải nắm bắt một số những thủ thuật cơ bản nhất để xử lí kịp thời. Với những sự cố bất ngờ trên, việc xác định nguyên nhân của nó sẽ giúp ta tìm ra cách giải quyết, xử lí vấn đề dễ dàng hơn: - Việc đầu tiên là cần phải kiểm tra tất cả các cáp (cáp nguồn, cáp dữ liệu) để chắc chắn là mọi thứ đã được gắn chặt và đúng cách. Kiểm tra lại những phần mềm hay phần cứng được cài đặt gần đây: Nếu sự cố xảy ra ngay sau vừa cài đặt một phần cứng hay chương trình phần mềm, bạn hãy gỡ bỏ chúng ra và khởi động trở lại. Nếu máy tính vẫn hoạt động bình thường thì đó chính là nguyên nhân. Còn việc cài đặt lại sẽ do nhân viên bảo trì tiếp tục làm sau đó. Chạy các chương trình diệt virút hiệu quả: Để chương trình này chạy tốt bạn phải luôn cập nhập phiên bản mới nhất. Các chương trình được xem là tốt nhất hiện nay như: Norton Antivirus 2006, AGV Antivirus Kiểm tra nhiệt độ thùng máy : Sự quá nhiệt là một nguyên nhân khác, thường xảy ra do sự hoạt động kém của các quạt giải nhiệt, các loại bụi bẩn bám trong thùng máy. Nếu thấy bên trong thùng máy có nhiều bụi bẩn bám vào, bạn nên vệ sinh nhưng phải rất cẩn thận vì nó có nguồn điện thế cao, rất dễ gây nguy hiểm. Tốt hơn hết là nên báo lại cho nhân viên bảo trì. Kiểm tra lại bộ nhớ Ram: Đây là nguyên nhân chủ yếu mà tôi thường gặp mỗi khi máy không khởi động được hoặc bị lỗi bất thường khi đang hoạt động. Nếu phát hiện ra bộ nhớ có vấn đề, hãy tháo các thanh Ram ra, lau sạch chân thanh Ram và gắn lại thật chặt, hoặc lần lượt gắn từng thanh Ram ở các vị trí khác nhau để kiểm tra. Đôi lúc máy chạy nhưng màn hình không lên hình. Hãy mượn màn hình đang sử dụng tốt khác để thử. Tóm lại : Là GV Tin học, công việc chính là giảng dạy. Nhưng nếu Gv có thể khắc phục được những sự cố nhỏ một cách kịp thời đó sẽ đem lại hiệu quả lớn trong quá trình nâng cao chất lượng giờ thực hành. Sắp xếp nội dung, phương pháp học tập cho từng phần học phù hợp, hiệu quả. Nội dung giảng dạy là chương trình SGK Cùng học Tin học quyển 1, 2, 3. Nội dung rất phù hợp, lôi cuốn HS. Để thực hiện dạy đạt hiệu quả, ngoài việc thực hiện đúng theo chương trình, tôi đã thực hiện như sau: * Phần 1: Làm quen với máy tính ( Lớp 3) Khám phá máy tính ( lớp 4, 5) Ở phần học này, ngay từ bài học đầu tiên, GV cần giúp cho HS xác định rõ và nhận biết các bộ phận của máy tính và tác dụng của các bộ phận đó bằng cách cho HS quan sát ngay trong giờ giảng lý thuyết. Sau đó, vấn đề làm tôi quan tâm nhất là tạo cho các em có thao tác đúng và thành thạo khi sử dụng chuột, bàn phím, Ví dụ: Ở bài Bàn phím máy tính: Để giúp các em làm quen với bàn phím, Gv cho Hs nêu tên tất cả các phím và cho chơi một số trò chơi có nội dung về bàn phím. Trong đó có trò chơi Pi-an no( phần mềm Pianito). Nhưng theo tôi phần mềm này không đạt hiệu quả vì các máy của HS không có tai nghe hay loa nên HS dễ nhàm chán vì gõ mà không thấy có kết quả gì. Vì thế, theo tôi ngay từ bài học này GV có thể hướng dẫn HS làm quen luôn với phần mềm Mario. Như thế HS vừa nắm được tên của các phím, vừa gây được hứng thú học tập của các em. Còn phần mềm đó GV nên giới thiệu cho HS và khuyến khích các em chơi ở nhà. Ví dụ : Bài Chuột máy tính: Để giúp các em sử dụng thành thạo các thao tác ngay trong tiết học GV cần lồng ghép một số trò chơi như: Trò chơi Dots, trò chơi Stickhoặc mội vài trò chơi khác nhưng phải có tính giáo dục ( thay vì đợi đến Phần trò chơi HS mới được chơi) . Đối với những HS yếu, cũng giống như HS lớp 1, GV phải cầm tay các em để chỉ dẫn. Với phương pháp này, HS nắm bắt rất nhanh, rất hứng thú và nhanh chóng sử dụng được chuột. Ở lớp 4 và 5: Lúc này các em đã được hiểu biết nhiều hơn về máy tính nên GV sẽ có những yêu cầu cao hơn. HS phải nắm được cách sắp xếp thông tin theo hệ thống của máy tính. Biết cách sắp xếp và tìm kiếm thông tin. Ví dụ : Lớp 5 GV yêu cầu mỗi HS phải tạo được cho mình một thư mục riêng để khi lưu các tài liệu sẽ được đưa về một chỗ, các bài làm của các em sẽ được sắp xếp ngăn nắp hơn, dễ tìm kiếm hơn và lưu có hệ thống hơn. * Phần 2: Học và Chơi cùng máy tính GV yêu cầu HS cần có thái độ nghiêm túc khi học và làm việc trên máy tính, không phân biệt phần mềm học tập hay phần mềm trò chơi. GV cần liên hệ thực tế để giúp HS nắm được từ việc học và chơi trên máy tính đến đời sống thường ngày. Ví dụ: + Luyện tính kiên trì, trí thông minh, luyện sử dụng chuột qua trò chơi Dots, Stiks, + Yêu thích môn Toán qua trò chơi Cùng học toán. + Chơi thể thao, tìm hiểu thiên nhiên qua trò chơi Golf, Khám phá rừng nhiệt đới. Ở chương học này, thời gian thực hành khá dài, dễ gây nhàm chán. GV nên chủ động dạy dàn trải trong các tiết học. * Phần 3: Em tập gõ bàn phím : Đây cũng là phần trọng tâm của chương trình lớp 3. Phần này đòi hỏi phải có sự tập luyện thường xuyên thì mới đạt hiệu quả cao được. GV cần giúp HS hiểu được lợi ích của việc gõ phím bằng 10 ngón để từ đó HS có ý thức hơn trong việc rèn luyện. Không cần nhiều, ở mỗi tiết thực hành, nếu còn thời gian hãy khuyến khích HS luyện gõ trong 10 phút thôi sẽ mang lại hiệu quả rất tốt. Cần phải chú trọng và nghiêm túc rèn từ lớp 3 về cách đặt tay lên bàn phím, cách gõ phímthì đến lớp 4 - 5 HS mới có thói quen gõ 10 ngón. * Phần 4: Em tập vẽ. Với phần học này, HS rất có hứng thú học tập. Ở phần học này GV cần chú trọng cho HS thực hành nhiều, giảm tiết lý thuyết hoặc có thể giảng lý thuyết ngay trong tiết thực hành. Như vậy học sinh mới có thao tác thành thạo được. Ngoài việc dạy những yêu cầu cơ bản trong SGK. Nếu có điều kiện GV có thể thiết kế các bài tập khác để phần học này thêm phong phú. Ví dụ: Bài Vẽ đường cong: SGK yêu cầu HS vẽ con cá và chiếc lá. Gv có thể giới thiệu thêm cho các em một số mẫu vẽ khác như Cái nôi em bé, Sóng biển, cái quạt, hoặc em hãy tự nghĩ ra những vật gì có sử dụng đường cong để vẽ dành cho những HS đã hoàn thành bài vẽ theo yêu cầu. Ở lớp 4 - 5, yêu cầu đã được nâng cao hơn. Ngoài những kiến thức cơ bản cần đạt được ra, GV cần quan tâm nhiều đến vấn đề ứng dụng của các kiến thức đó vào bài vẽ. Ví dụ : Khi vẽ một bức tranh về giao thông, ở ngã tư có 4 cột đèn. HS có thể sao chép và lật hình để có 4 cột đèn theo ý mình mà không tốn nhiều thời gian. * Phần 5: Em tập soạn thảo. Nội dung kiến thức chủ yếu là tạo cho HS những kiến thức cơ bản nhất để soạn thảo và trình bày một văn bản. Ở phần này GV cũng chú ý đến dạy thực hành hơn, dạy xong lý thuyết là cho HS thực hành ngay như vậy HS mới nắm được. Ở lớp 3 HS được làm quen với 2 cách gõ là kiểu VNI và kiểu Telex. Gv cần cung cấp cả 2 cách gõ này và khuyến khích các em lựa chọn cách gõ phù hợp để việc soạn thảo dễ dàng hơn. Ở lớp 4 và 5 HS đã được học cách trình bày văn bản. GV hãy tạo điều kiện cho các em ứng dụng những kiến thức vừa học vào trình bày những văn bản thông thường . Ví dụ: Khi dạy bài Căn lề (lớp 4) GV đưa thêm một số bài thơ, bài ca dao tục ngữ hay một đoạn văn bản đã học trong SGK Tiếng Việt mà HS đã học ở trên lớp để các em thực hành. * Phần 6: Thế giới Logo của em. Logo là một ngôn ngữ lập trình, có đầy đủ các đặc điểm của một ngôn ngữ máy tính, xuất phát từ ngôn ngữ LISP, ngôn ngữ của trí tuệ nhân tạo. Logo là ngôn ngữ để học. Để hỗ trợ thực hiện quá trình học và suy nghĩ bằng cách khuyến khích HS tìm tòi khám phá. Logo có bảng kí tự, từ khóa riêng, cú pháp riêng và khá chặt chẽ. Ở lớp 4 và lớp 5 HS mới được làm quen với phần mềm này và đây cũng là lần đầu tiên HS được làm quen với ngôn ngữ lập trình. Do vậy, khi thực hành những câu lệnh của Logo GV cần lưu ý HS phải rất cẩn thận khi viết các câu lệnh, tránh để HS hiểu tùy tiện, áp dụng những ngôn ngữ thông thường dành cho câu lệnh. Đứng trước mỗi bài tập, bài thực hành, GV luôn luôn yêu cầu HS chia công việc được giao thành những nhiệm vụ nhỏ hơn và cuối cùng dùng những lệnh cơ bản của Logo để thực hiện. Sau khi chia nhỏ và phân tích bài toán, cần rèn luyện cho HS cách nhìn tổng hợp bài toán. Khuyến khích HS làm việc tập thể, làm việc theo nhóm . Ví dụ: B2/123 SGK . Viết chương trình gồm một số thủ tục để tạo ra hình trang trí theo mẫu. Thủ tục 1: Vẽ hình vuông với câu lệnh Repeat 4[FD 50 T 90] Thủ tục 2: Vẽ tam giác: Repeat 3 [FD 50 RT 120] Thủ tục 4: Vẽ ngôi nhà: dùng hai thủ tục 1 và 2 tong thân thủ tục 3. Thủ tục 4: Vẽ vành bánh xe (lặp 12 lần thủ tục 3). Tận dụng những nguồn tài nguyên sẵn có của máy vi tính, hoặc truy cập mạng để tìm hiểu thông tin, tìm kiếm tài nguyên trên Internet phục vụ cho quá trình dạy và học. Giáo viên có kế hoạch bồi dưỡng để nâng cao kiến thức bản thân đáp ứng được những yêu cầu đổi mới, cập nhập thông tin một cách đầy đủ, chính xác. III) Đánh giá kết quả thực hiện. Sau khi nghiên cứu và qua quá trình trải nghiệm tôi nhận thấy đã đạt được hiệu quả đáng khích lệ. Số lượng HS sử dụng thạo máy tính mỗi năm một tăng lên. Tiết dạy cũng trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả hơn, tạo được nhiều hứng thú cho học sinh trong quá trình tiếp thu bài. Chất lượng đạt được trong năm học 2014 -2015: Kết quả Tin học Điểm kiểm tra môn Tin học TSHS 9;10 7;8 5;6 SHS % SHS % SHS % Tổng số 226 180 63.77 46 29.47 0 0 + Khối 3 86 69 80.23 17 19.77 0 0 + Khối 4 74 61 82.43 13 17.57 0 0 + Khối 5 66 50 75.76 16 24.24 0 0 PHẦN KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ 1. KẾT LUẬN Nâng cao hiệu quả giáo dục luôn là vấn đề cấp bách đựơc đặt lên hàng đầu trong sự nghiệp giáo dục. Dạy tốt - học tốt là mục tiêu mà những người làm công tác giáo dục hướng tới. Tôi xin trích dẫn lời nói của nguyên Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh trong lễ khai giảng năm học mới tại một trường ở thị xã Sơn Tây " Muốn có chất lượng, hiệu quả ở một trường học, giữa hai yếu tố dạy và học thì yếu tố học là cực kỳ quan trọng. Dạy tốt mà học không tốt thì cũng không có được kết quả tốt. Muốn tiếp thu tốt kiến thức, các thầy cô giáo dạy thì học sinh phải chăm chỉ học". Theo tôi song song với việc bồi dưỡng nhân tài, nâng cao chất lượng giáo dục thì việc đưa giảng dạy bộ môn Tin học là nhiệm vụ cần thiết và cấp bách góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với việc phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ mới - Thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin phù hợp với quan điểm của Đảng là: Phấn đấu nước ta tới 2020 là nước công nghiệp hiện đại và ngay trong nhiệm vụ năm học 2011/2012 Bộ trưởng giáo dục đào tạo nhấn mạnh: Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguồn nhân lực CNTT và đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền thông của ngành. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp dạy - học và công tác quản lý giáo dục. Tiếp tục thực hiện tổ chức dạy học môn Tin học theo Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sáng kiến kinh nghiệm mang nội dung "Một số biện pháp để dạy tốt môn Tin Học ở Tiểu Học" sẽ phần nào giúp các đồng nghiệp có thêm những kinh nghiệm nhằm góp phần quan trọng vào việc giảng dạy bộ môn Tin học còn mới mẻ trong trường tiểu học hiện nay đặc biệt là những trường đang bắt đầu áp dụng bộ môn Tin học trong trường Tiểu học. Những biện pháp tôi vừa trình bày không phải quá xa lạ đối với chúng ta, nó tựa như những thứ "Rau cỏ trị bệnh" mà ta bắt gặp trong cuộc sống đời thường. Bất cứ ai cũng có thể hiểu và áp dụng được. Tuy vậy, trong thực tế không phải lúc nào cũng đựơc giáo viên chú trọng nó đòi hỏi ở lương tâm người thầy, cần phải coi học sinh như chính những đứa con của mình. Khi những cố gắng của người giáo viên đạt kết quả tốt, được học sinh tin yêu. Đó mới chính là phần thưởng lớn nhất trong cuộc đời dạy học của mình. Tôi mong muốn những biện pháp cũng như quan điểm của mình được quý vị đón nhận và áp dụng triển khai trong để chứng minh tính khả thi của sáng kiến kinh nghiệm rất mong Ban giám hiệu và các đồng chí đồng nghiệp góp ý kiến để sáng kiến kinh nghiệm ngày càng hoàn thiện hơn. * Nhà trường: Môn tin học là môn chủ yếu thực hành trên máy tính là dụng cụ học tập có giá trị cao về vật chất do đó cần có sự quan tâm đúng mức của các cấp các ngành và nhà trường tạo điều kiện sắm sửa máy móc, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn Tin học để giúp cho các em có điều kiện học tập tốt nhất. * Giáo viên: - Tìm tòi sáng tạo cách dạy, cách học tạo sự hứng thú tiếp thu bài . - Yêu nghề, mến trẻ, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ - Thăm lớp dự giờ, hội thảo phương pháp giảng dạy các bộ môn khác. - Tích cực tham mưu với nhà trường để tăng cường nâng cấp máy, trang thiết bị dạy học. * Phụ huynh học sinh: Cần có sự quan tâm đúng mực quản lý thời gian và tạo điều kiện mua sắm máy tính để các em thực hành ở nhà Kim Thư, Ngày 13 tháng 04 năm 2015 Người viết Nguyễn Thị Thu Giang ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM KHẢO TRƯỜNG ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM KHẢO PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN

Cập nhật thông tin chi tiết về Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp 3 Học Tốt Môn Tin Học Ở Trường Tiểu Học Nga Lĩnh trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!