Xu Hướng 6/2023 # Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Âm Nhạc Ở Trường Tiểu Học # Top 6 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Âm Nhạc Ở Trường Tiểu Học # Top 6 View

Bạn đang xem bài viết Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Âm Nhạc Ở Trường Tiểu Học được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

1.1. Lí do chọn đề tài. Trong sự nghiệp xây dựng phát triển và đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã coi trọng rất nhiều mặt, trong đó, sự nghiệp giáo dục đã, đang và sẽ mãi mãi được coi là quốc sách hàng đầu. Vì giáo dục là sự nghiệp trồng người tạo ra những thiên tài về tri thức cho đất nước. Những năm qua giáo dục tiểu học đang có những đổi mới đồng bộ và toàn diện, nhằm góp phần đào tạo những con người toàn diện, lao động tự chủ, năng động sáng tạo trên tất cả các mặt: đức, trí, thế, mỹ. Bộ môn Âm nhạc cũng góp phần không nhỏ trong sự nghiệp cải cách giáo dục, môn Âm nhạc là một phần nội dung trong chương trình giáo dục bậc tiểu học và quan trọng hơn nó là “Phương tiện giáo dục” hấp dẫn mang tính đặc thù. Vì vậy mục tiêu giáo dục môn âm nhạc ở Tiểu học là: “Hình thành cho học sinh những cơ bản ban đầu để phát triển đúng đắn và lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất, năng lực, phẩm chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học tiếp các bậc học trên hoặc để đi vào cuộc sống lao động”. Âm nhạc có vai trò tích cực trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục Tiểu học. Trẻ em tham gia ca hát là được tự hoạt động để nhận thức thế giới xung quanh và bản thân mình. Do đó, từ việc nghe hát, tập hát và biết được một số kiến thức về âm nhạc sẽ góp phần giáo dục năng lực cảm thụ âm nhạc, kích thích tiềm năng nghệ thuật, làm cho đời sống tinh thần của trẻ thêm phong phú, lành mạnh, tạo điều kiện để các em bộc lộ và phát triển năng khiếu âm nhạc.[1] Hơn nữa, khi lớn lên các em sẽ càng hiểu biết hơn về những nét đặc sắc trong văn hoá Âm nhạc của dân tộc và của loài người. Từ đó các em biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những di sản văn hoá âm nhạc mà cha ông ta đã để lại, góp phần hỗ trợ cho việc học các môn học khác. Xuất phát từ những lí do trên, để giúp các em học tốt môn âm nhạc, tôi đã chọn đề tài: “ Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường Tiểu học ” tôi mong muốn đề tài này tiếp tục được hoàn thiện và được áp dụng rộng rãi. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Mục đích giáo dục hiện nay của chúng ta là đào tạo những con người phát triển toàn diện, những con người có đủ năng lực cần thiết, đáp ứng sự đòi hỏi của cuộc sống hiện đại. Tôi nhận thấy đại đa số các em rất thích bộ môn này. Qua thực tế giảng dạy từ những năm trước đây, đặc biệt là những năm gần đây các em được học chương trình sách giáo khoa Âm nhạc mới. Tôi nhận thấy rằng trước một bài hát, một bài tập đọc, ghi chép nhạc, hoặc khi nghe các bản nhạc, để các em hiểu, nắm được và thực hiện tốt yêu cầu của bài học cũng như nêu được những cảm nhận ban đầu của mình về giai điệu các bản nhạc, người giáo viên cần có một phương pháp truyền đạt, hướng dẫn thật tốt, đơn giản nhưng lại hiệu quả nhất, chính vì lẽ đó tôi mạnh dạn trình bày Đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường Tiểu học” nhằm giúp các em nắm bắt, tiếp thu nhanh nhất kiến thức bài học của bộ môn âm nhạc. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Vì đề tài nêu ra một số biện pháp giúp các em học tốt môn Âm nhạc trong trường Tiểu học nên đối tượng nghiên cứu của đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường Tiểu học” trước hết là các phương pháp dạy học truyền thống cũng như hiện đại, các hình thức tổ chức dạy học, nội dung chương trình của môn Âm nhạc ở các khối lớp, hệ thống câu hỏi, việc chuẩn bị đồ dùng, cũng như nghiên cứu về cách đánh giá thường xuyên tiết dạy theo TT22. 1.4. Phạm vi nghiên cứu: Để nghiên cứu đề tài trên, tôi chọn phạm vi nghiên cứu là học sinh trường Tiểu học Quảng Ninh.. 1.5. Phương pháp nghiên cứu. [2] – Phương pháp thuyết trình. – Phương pháp vấn đáp. – Phương pháp giảng giải. – Phương pháp nghiên cứu tài liệu, giáo trình. – Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục. 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. [1] Trong nhà trường, những học sinh có năng khiếu âm nhạc chiếm tỉ lệ rất thấp. Tuy nhiên, dạy Âm nhạc ở Tiểu học là việc dạy cho tất cả học sinh, mà đa số là các em không có năng khiếu âm nhạc, vì vậy môn học này không đặt mục tiêu giúp các em trở thành diễn viên, ca sĩ hay nhạc sĩ chuyên nghiệp. Mục tiêu của môn học này giúp các em phát triển toàn diện, tự nhiên và cân bằng trí tuệ, sáng tạo và cảm xúc thẩm mĩ. Dạy Âm nhạc nhằm phát triển nhận thức và các năng lực âm nhạc của học sinh, tạo cho các em có một trình độ văn hóa âm nhạc nhất định, góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh. Xuất phát từ công tác giảng dạy Âm nhạc cho học sinh ở lứa tuổi Tiểu học. Vấn đề học và kết quả học tập của các em là hết sức quan trọng, điều đó không chỉ phụ thuộc vào chương trình giảng dạy phù hợp mà còn phụ thuộc vào phương pháp truyền thụ của người thầy. Hơn nữa còn phụ thuộc vào ý thức học tập của các em, cùng với sự quan tâm chăm sóc, tạo điều kiện của gia đình và toàn thể xã hội. Âm nhạc là môn học mang tính nghệ thuật cao, nó khác rất nhiều so với môn học khác, tuy nó không đòi hỏi sự chính xác một cách tuyệt đối như những con số nhưng đòi hỏi người học phải có sự yêu thích, đam mê và có một chút gọi là “năng khiếu”, điều này không phải học sinh nào cũng có được. Học Âm nhạc mang đến cho học sinh những phút giây thư giãn, thoải mái, học mà chơi, chơi mà học. Thông qua giai điệu, lời ca, cử chỉ, điệu bộ, giúp các em nhận thức những hình tượng âm thanh, kích thích cảm xúc của các em, giúp các em cảm thụ những giai điệu đẹp qua từng bài hát, từng câu nhạc. Nhu cầu nhận thức của học sinh Tiểu học đang phát triển. Hành vi và thói quen đạo đức đang hình thành. Các em giàu cảm xúc, sống bằng tình cảm, thích sinh hoạt tập thể và múa hát. Xét về mặt tình cảm, các em rất dễ xúc động trước những cái hay, cái đẹp biểu hiện trong cuộc sống. Nhưng lên đến lứa tuổi cao hơn- độ tuổi 9-10, các em đã hình thành các phẩm chất cũng như các năng lực ở mức độ cao hơn, các em có những nhạy cảm riêng và đòi hỏi nhu cầu tiếp thu kiến thức một cách hoàn hảo hơn. Chính vì vậy người giáo viên cần phải có năng lực trong giao tiếp, trong sự truyền tải kiến thức cho các em. Muốn các em hiểu bài một cách tốt nhất, người giáo viên phải bỏ thời gian công sức, trí tuệ của mình để nghiên cứu tài liệu cũng như tìm tòi ra những phương pháp, những hình thức dạy học để giúp các em tiếp thu bài một cách trọn vẹn . . . Giáo viên Tiểu học là người hình thành ở các em những cơ sở ban đầu cho sự tiếp thu nghệ thuật âm nhạc và phát hiện những mầm non có năng khiếu âm nhạc để sớm có điều kiện bồi dưỡng các em thành nhân tài của đất nước. Muốn vậy, GV dạy môn Âm nhạc phải có hiểu biết cơ bản về lý thuyết âm nhạc, phải rèn luyện để có kĩ năng thực hành giúp các em hát kết hợp gõ đệm đúng với tất cả sắc thái biểu cảm và hình thành ở các em cảm xúc và thị hiếu lành mạnh. Chính vì vậy, không còn cách nào khác, người giáo viên cần phải tự học hỏi, trau dồi về chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia các chuyên đề đổi mới phương pháp; học hỏi cấp trên, đồng nghiệp, bạn bè, gần gũi, quan tâm đến mọi đối tượng học sinh. Biết nắm bắt tâm sinh lý lứa tuổi để gây cảm hứng cho các em trong học tập. Ngoài ra không ngừng luyện tập về chuyên môn như luyện giọng hát, luyện tập đàn, tập múa, biểu diễn và một vài thủ thuật khác để giúp các em học tốt nhằm nâng cao chất lượng môn Âm nhạc trong nhà trường, giúp các em phát triển một cách toàn diện về: Đức- Trí- Thể- Mĩ. Từ đó các em sẽ góp phần học tốt các môn học khác trong nhà trường. 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Trường Tiểu học Quảng Ninh là một trường nằm ở gần trung tâm của huyện Quảng Xương, điều kiện cơ sở vật chất cũng không còn nhiều khó khăn như trước nữa, phần nào nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá văn nghệ thuật của nhà trường nói riêng và của địa phương nói chung. Mặt khác việc tiếp cận các thông tin âm nhạc và việc được tham gia các hoạt động âm nhạc của các em học sinh đang còn rất hạn chế. Do vậy để các em học tốt và có hứng thú học tập bộ môn này, đòi hỏi người giáo viên phải có một phương pháp truyền đạt, phương pháp thu hút, tạo sự hứng thú cho các em với môn học. Đại bộ phận các em do ít được tiếp xúc với các loại hình nghệ thuật nên còn nhược điểm rất phổ biến là hát theo thói quen, hát tự do theo cảm tính… Vì vậy người giáo viên phải từng bước giúp các em nắm được các kiến thức, các kỹ năng cơ bản của ca hát từ đó giúp các em có được sự tự tin, phát triển tai nghe và khả năng thể hiện các tính chất Âm nhạc. Những năm trước đây, do trang thiết bị cho môn học còn hạn chế, giáo viên còn dạy truyền khẩu nhiều nên việc truyền đạt và giúp các em tiếp thu kiến thức Âm nhạc là hết sức khó khăn, thậm chí những kiến thức đó đến với các em hết sức trừu tượng. Việc truyền thụ các bài hát chỉ qua phương pháp truyền khẩu thuần tuý ít phát triển khả năng tư duy của các em. Do đó không tạo được sự thu hút, ít gây 2.2.1. Những việc đã làm được. Nhìn chung, SGK đã xác lập được một hệ thống tri thức âm nhạc nhẹ nhàng, phong phú. Trong chương trình từng lớp và toàn cấp học các nội dung được sắp xếp đan xen một cách hài hoà hợp lí. Tạo cơ sở để học sinh rèn luyện kĩ năng hát đúng, hát hay, giúp phát triển trí tuệ, bồi dưỡng tình cảm trong sáng, lành mạnh tạo điều kiện để các em bộc lộ và phát triển năng khiếu âm nhạc, hướng tới chân, thiện, mĩ góp phần làm thư giãn đầu óc, làm cân bằng các nội dung học tập khác ở Tiểu học. Mặt khác, sau khi Hội nghị công chức- viên chức đầu năm xong, tôi đã nắm bắt được kế hoạch của nhà trường trong việc dạy học môn Âm nhạc. Bản thân đã tự lên kế hoạch cho từng khối lớp. Từ đó đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng bộ môn Âm nhạc của mình phụ trách. Là một người giáo viên có tinh thần trách nhiệm cao, với khả năng của mình, bản thân đã không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Tham gia các buổi chuyên đề của nhà trường và của PGD&ĐT tổ chức. Thực hành nghiên cứu tài liệu, soạn giảng các kế hoạch bài học, tìm tòi các phương pháp đổi mới, các hình thức dạy học để giúp học sinh tiếp thu bài tốt. Kết quả chất lượng môn Âm nhạc ngày một đi lên. Đầu năm các em còn hát sai nhạc, gõ tiết tấu chưa đúng, gõ phách còn lẫn lộn, nhất là các em học sinh lớp Một, mới vào cấp Tiểu học còn nhiều bỡ ngỡ. Nhưng đến bây giờ, chất lượng học tập của các em đã chuyển biến rõ rệt. Các em say mê học hát hơn, yêu thích môn Âm nhạc hơn, hát đúng và còn hát hay nữa. Những động tác phụ hoạ cùng với lời hát có phần điêu luyện hơn, gõ phách và gõ tiết tấu đã chính xác với lời của bài hát. Vì vậy, tính đến thời điểm cuối tháng tư, toàn trường có 388 em đều đạt mức độ hoàn thành và hoàn thành tốt, Đó cũng là một dấu hiệu đáng mừng cho chất lượng dạy học môn Âm nhạc ở trường chúng tôi. 2.2.2. Những mặt còn hạn chế. * Về phía nhà trường. Nhìn chung, nhà trường cũng đã rất quan tâm trong việc chỉ đạo dạy và học môn Âm nhạc, tuy nhiên khi tổ chức các tiết chuyên đề, thường là ở các môn như Toán; Tiếng Việt; TNXH; Khoa học; Địa lý; Đạo đức. Môn Âm nhạc ít được đề cập đến. * Về phía đồng nghiệp. Hầu như giáo viên chủ nhiệm chưa coi trọng môn học âm nhạc và thường đánh giá môn học âm nhạc là môn phụ nên nhiều lúc họ cho rằng học cũng được và không học cũng chẳng sao, cái chính là phải học Toán và Tiếng Việt nên sự tương tác giữa giáo viên dạy môn Âm nhạc và học sinh chưa được coi trọng. * Về phía phụ huynh. Đa phần phụ huynh học sinh thường cho con em mình tập trung học ở các môn nhiều giờ như Toán; Tiếng Việt, TNXH hay Đạo đức. Phụ huynh thường quan niệm rằng, môn Âm nhạc là một môn học phụ, học nhiều cũng được, học ít cũng xong. Họ đâu có biết đấy là một môn bắt buộc trong tám môn học ở trường Tiểu học. Có học tốt môn Âm nhạc, tinh thần của các em mới phấn chấn để tiếp tục học các môn học khác, hoặc chính nhờ thông qua việc học môn Âm nhạc các em đang được học kỹ năng biểu diễn, kỹ năng tự tin trước đám đông, kỹ năng thuyết trình Học tốt môn Âm nhạc sẽ phục vụ cho cuộc sống sau này của các em rất nhiều. * Về phía giáo viên. Bản thân giáo viên phụ trách môn Âm nhạc cũng đã rất nhiệt tình trong công tác giảng dạy, xong với tuổi đời đã có nhưng kinh nghiệm cũng chưa nhiều, nhà trường có 2 giáo viên nhạc, bản thân thường làm giáo viên tổng phụ trách đội, Chưa có nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu, băng hình cũng như các tập san, tạp chí để tìm ra các phương pháp hữu hiệu trong mỗi tiết dạy nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Âm nhạc cho học sinh. Chưa tham gia được nhiều về việc dạy các tiết chuyên đề cũng như tham gia sinh hoạt chuyên môn cụm. Chưa tìm hiểu nhiều được tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh ở từng khối lớp. * Về phía học sinh. Nhất là học sinh lớp 1 bước đầu mới làm quen môn âm nhạc, nhiều em còn chưa biết đọc, hát còn ngọng chưa chính xác, rụt rè nhút nhát trong giờ học. Các em chưa làm quen hát kết hợp gõ đệm theo các cách, chưa phân biệt được từng cách gõ đệm theo tiết tấu, theo phách, theo nhịp khác nhau như thế nào trong một bài hát. Vì thế, các em hát còn tùy tiện lúc nhanh, lúc chậm dẫn đến việc hát sai giai điệu của bài hát. Đối với học sinh các khối lớp 2; 3; 4; 5, tuy các em có lớn hơn chút ít nhưng kĩ năng hát hay, hát đúng nhạc chưa được nhiều. Có chăng các em cũng hát được phần cơ bản. Vì vậy, về kĩ thuật các em chưa thẩm thấu dẫn đến các em hát sai nhạc, gõ phách và tiết tấu sai Cụ thể như sau: – Khả năng thuộc lời bài hát còn kém. – Khả năng nghe nhạc chưa chuẩn. – Tập đọc nhạc còn sai. – Hát chưa đúng giai điệu. – Hát kết hợp gõ đệm, gõ tiết tấu chưa tốt. – Hát kết hợp vận động chưa nhịp nhàng. Sau một tháng giảng dạy ở các lớp, kết quả khảo sát chất lượng môn Âm nhạc của học sinh các khối lớp trong toàn trường đã thu được như sau: Khối Sĩ số Hoàn thành tốt % Hoàn thành % Chưa hoàn thành % 1 93 38 40.8 49 52,7 6 6,5 2 55 19 34.5 33 60 3 5.5 3 94 45 47.9 47 50 2 2,1 4 63 24 38.1 37 58.7 2 3.2 5 83 30 36.1 51 61.5 2 2.4 Tổng số 388 156 40.2 217 55.9 15 3.9 Từ kết quả khảo sát cho thấy, việc tiếp thu các kiến thức âm nhạc và sự yêu thích học tập bộ môn của các em chưa cao lắm. Vì thế bản thân tôi cảm thấy rất trăn trở, tôi tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi, bổ sung một số giải pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc ở trường tiểu học. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 2.3.1. Giải pháp giúp học sinh yêu thích môn Âm nhạc. Như chúng ta đã biết, giáo dục âm nhạc cho HS tiểu học phải bằng mọi hình thức và nhiều biện pháp vì thế tổ chức giờ học dưới nhiều hình thức như tổ chức trò chơi âm nhạc, Tập vận động phụ hoạ – biểu diễn – trình bày bài hát, Lồng ghép hoạt động Giáo dục ngoài giờ lên lớp vào hoạt động dạy học Âm nhạc, Tổ chức trò chơi âm nhạc rất được HS thích thú và là biện pháp mang lại hiệu quả rất cao trong dạy và học Âm nhạc. Các biện pháp này thu hút sự chú ý và say sưa học tập, đồng thời tạo sân chơi, giúp các em HS gắn bó, hòa đồng với nhau, yêu thích và mong chờ được học môn Âm nhạc. GV tổ chức cho HS thực hiện bằng nhiều hình thức: cho HS lên biểu diễn trước lớp, trình bày bài hát bằng hình thức hát xô và hát xướng, kể các bài hát dân ca mà em biết   Giúp HS được học mà chơi, chơi mà học, làm thư giãn tinh thần qua những tiết học văn hóa, làm giờ học âm nhạc phong phú, hấp dẫn. Góp phần giúp HS phát triển trí tuệ.      2.3.2. Giải pháp giúp học sinh học hát, phát triển khả năng nghe nhạc, tập đọc nhạc. Âm nhạc ở Tiểu học gồm các mạch nội dung như: Học hát, phát triển khả năng nghe nhạc, Tập đọc nhạc. Ở lớp 1, 2, 3 Học hát và Phát triển khả năng nghe nhạc. Qua học hát, HS được rèn luyện về tai nghe, trí nhớ âm nhạc, phát triển nhạc cảm và làm quen với việc thể hiện chính xác về độ cao, trường độ. Học kì II lớp 3 HS được tiếp cận bước đầu với một vài kí hiệu ghi chép nhạc. Đến lớp 4, 5 bổ sung thêm nội dung Tập đọc nhạc. Âm nhạc được tách riêng thành một môn học có SGK cho HS và sách hướng dẫn giảng dạy cho giáo viên. – Học hát: Học sinh Tiểu học được học từ 10 đến 12 bài hát trong một năm học. HS cần hát đúng cao độ, trường độ và phát âm rõ lời, chính xác. Tiếng hát phải có sức biểu cảm với những trạng thái khác nhau như: vui vẻ, hồn nhiên, nhí nhảnh … Dạy hát gồm các bước sau: giới thiệu bài, hát mẫu, đọc lời ca, khởi động giọng, dạy hát từng câu, hát cả bài, hát kết hợp gõ đệm bằng nhạc cụ, hát kết hợp vận động phụ hoạ. – Phát triển khả năng nghe nhạc: Học sinh được nghe Quốc ca, dân ca, bài hát thiếu nhi chọn lọc hoặc nhạc không lời. Nghe kể chuyện Âm nhạc. Được nghe, xem giới thiệu hình dáng một vài nhạc cụ trong và ngoài nước. Nghe âm sắc qua băng đĩa các trích đoạn nhạc được diễn tấu bằng các loại hình nhạc cụ này. – Tập đọc nhạc: Ở lớp 4, 5 các em được làm quen với 8 bài TĐN, giọng Đô trưởng, nhịp 2/4, 3/4 gồm 5 âm Đô-Rê-Mi-Son-La hoặc 7 âm: Đô-Rê-Mi-Pha-Son-La-Si với hình nốt đen, nốt trắng, móc đơn, trắng chấm dôi, đen chấm dôi, dấu lặng đen và dấu lặng đơn. Khi dạy TĐN, giáo viên cho các em nhận biết tên nốt, hình nốt và từ nốt thấp đến nốt cao trong bài. Tập lần lượt cao độ, tiết tấu riêng. Sau đó đàn giai điệu vài lần cho các em đọc theo từng câu ngắn. Khi đã đọc đúng giai điệu thì cho HS ghép lời. Trong khi đọc GV nhắc các em gõ phách đều đặn, nhịp nhàng. 2.3. 3. Biện pháp luyện hát đúng giai điệu, hát kết hợp gõ đệm, gõ tiết tấu. Giáo viên phải xây dựng nền nếp học tập ngay từ bài học đầu tiên như: xác định thái độ, ý thức học tập đối với môn Âm nhạc, tư thế ngồi hát, kỹ năng phát âm, nhả tiếng, quan sát, lắng nghe và cảm nhận âm sắc, giai điệu. * Biện pháp: Luyện hát đúng giai điệu. Giới thiệu bài hát một cách sinh động, gây sự chú ý, tò mò cho học sinh. Các em nghe hát mẫu và đọc lời ca. Ví dụ: Trong bài “Lớp chúng ta đoàn kết” (Nhạc và lời của Mộng Lân). Khi đọc lời ca phải hướng dẫn các em đọc theo tiết tấu và ngắt ở cụm từ như sau: Lớp chúng mình/ rất rất vui,/ anh em ta chan hoà tình thân./… Để các em đọc đúng tiết tấu, giáo viên chỉ bảng phụ và hướng dẫn các em đọc câu theo mẫu. Sau khi giúp học sinh đọc đúng lời ca giáo viên phải hướng dẫn các em khởi động giọng. Ví dụ : Mề ê ế ê mà a á a à Khi tập cần sự đồng đều hoà giọng chính xác và diễn cảm với những trạng thái khác nhau. Để các em cảm nhận giai điệu của từng câu hát, giáo viên đàn, hát mẫu. Việc tập hát từng câu và tập hát theo lối móc xích sẽ giúp các em mau nhớ lời ca và hát chuẩn xác giai điệu hơn. Việc củng cố luyện tập từng đoạn của bài hát giúp các em cảm nhận giai điệu và lời ca, tự tin. Đặc biệt là giúp các em loại bỏ sự chán nản khi chưa thực hiện được bài học. * Biện pháp: Hát kết hợp gõ đệm. Việc sử dụng các nhạc cụ gõ đệm theo khi hát làm cho bài hát sinh động, gây hứng thú, giúp các em giữ được nhịp độ của bài mà không bị cuốn nhanh. Thông thường, có 3 cách gõ đệm để luyện tập củng cố bài hát đó là: Hát gõ đệm theo nhịp, phách, tiết tấu lời ca. Tuy nhiên tuỳ theo từng bài hát cụ thể mà vận dụng cho phù hợp. Ví dụ: Bài “ Bầu trời xanh ” Nhạc và lời: Nguyễn Văn Quỳ ( lớp 1) Sử dụng cách gõ đệm theo phách và gõ đệm theo tiết tấu đã được viết sẵn vào bảng phụ trên khuông nhạc chia làm 2 cách gõ đệm khác nhau. Gõ đệm theo phách: Gõ theo tiết tấu: Mỗi nốt trên khuông nhạc giáo viên đã đánh dấu “x” tương ứng với tiếng được gõ theo ô nhịp. Không giải thích vì sao chỉ nhận xét về hai cách gõ. Sau đó hướng dẫn học sinh cách tự xác định tiết tấu, phách ở những câu còn lại trong bài hát. Để phân biệt h

Một Số Biện Pháp Nâng Cao Việc Dạy Học Âm Nhạc Lớp 1 Ở Trường Tiểu Học Ở Trường Tiểu Học

Một số biện pháp nâng cao việc dạy học âm nhạc lớp 1 ở trường tiểu học ở trường tiểu học

Bậc tiểu học là ” Bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân”. Những gì trẻ học được, hình thành được ở bậc tiểu học được tích tụ lại, trở thành phẩm chất và những phương tiện làm hành trang theo suốt cuộc đời của mỗi con người.

Nội dung giáo dục ở bậc tiểu học là một nội dung giáo dục toàn diện, phần lớn là những nội dung có phần ổn định bền vững (như Tiếng Việt, Toán, đạo đức, Khoa học, âm nhạc.v.v. và một bộ phận thuộc nội dung giáo dục có tính thời đại). Trong đó môn học âm nhạc được coi là một môn học quan trọng, môn học mang tính nghệ thuật, làm giàu nhân cách bằng trình độ thẩm mỹ, nhận thức bằng việc cảm thụ âm nhạc. Phát triển đặc trưng tâm lý và nhân cách học sinh như tai nghe, nhạy cảm với nghệ thuật, trí nhớ âm nhạc, tưởng tượng sáng tạo, tư duy độc đáo. Bên cạnh đó âm nhạc còn giáo dục cho học sinh phẩm chất đạo đức, phát triển trí tuệ, và giáo dục thể chất. Nhưng việc giáo dục những mục tiêu trên thông qua môn học âm nhạc như thế nào? thực trạng dạy học môn âm nhạc hiện nay ở trường tiểu học ra sao? Cần xây dựng những biện pháp nào để giáo dục học sinh hữu hiệu nhất trong môn âm nhạc là một vấn đề cần phải nhìn nhận một cách nghiêm túc. Từ thực tế đó tôi đã chọn nội dung đề tài : “Một số biện pháp nâng cao việc dạy học âm nhạc lớp 1 ở trường tiểu học ở trường tiểu học …….” để làm căn cứ cho quá trình nghiên cứu.

Âm nhạc đến với học sinh lớp 1 với 2 phân môn : học hát và phát triển khả năng âm nhạc. Hai phân môn này có hai nội dung khác nhau nhưng cùng mục tiêu là giáo dục cho học sinh phẩm chất đạo đức, phát triển trí tuệ, và giáo dục thể chất. Chính vì vậy nội dung chủ yếu của đề tài là nghiên cứu về những mục đích sau :

Nghiên cứu về mục tiêu dạy học môn âm nhạc trong trường tiểu học.

Đặc điểm và khả năng âm nhạc của học sinh lớp 1.

Nghiên cứu về phương pháp dạy học môn âm nhạc lớp 1.

Khảo sát thực tế tại trường tiểu học ……., huyện …., ……. về chất lượng dạy học môn âm nhạc

Đề xuất những ý kiến về các phương pháp dạy học môn âm nhạc trường tiểu học.

Chúng tôi tiến hành nghiên cứu các em học sinh lớp 1B trường tiểu học ……. – huyện …….- Tỉnh ……. để làm cơ sở cho việc nghiên cứu.

Với thời gian nghiên cứu có hạn cũng như những kiến thức của tôi còn hạn chế nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ nghiên cứu trong trường tiểu học ……. – huyện …….- Tỉnh ……..

Tôi tiến hành khảo sát thực tế việc dạy học môn âm nhạc trong trường tiểu học ……. – huyện …….- Tỉnh ……..

Đây là phương pháp tôi sử dụng để tìm thêm những phương pháp cũng như hình thức tổ chức dạy học âm nhạc trong trường tiểu học để lý giải vấn đề nghiên cứu của đề tài.

Phương pháp này tôi sử dụng để phỏng vấn một số giáo viên dạy âm nhạc lớp 1 để lấy dẫn chứng, lý luận trong việc nghiên cứu nội dung của đề tài.

Sau khi nghiên cứu nội dung từ thực tế, tham khảo sách và tài liệu. Tôi tiến hành tổng kết đánh giá môn học này. Từ đó có cơ sở để đề xuất ý kiến về chất lượng giảng dạy bộ môn âm nhạc cho học sinh lớp 1.

Ngoài ra tôi còn sử dụng thêm một số phương pháp khác để bổ sung cho quá trình nghiên cứu của đề tài.

Môn âm nhạc ở tiểu học có 4 mục tiêu giáo dục học sinh :

– Giáo dục phẩm chất đạo đức cho học sinh: đối với trẻ tiểu học việc nhân cách hình thành mới ở mức độ sơ đẳng nên “học hát” là phân môn hình thành nhân cách đạo đức cho các em một cách nhanh nhất thông qua nội dung của bài hát mà các em đã được học về tình yêu quê hương đất nước, lòng kính yêu ông bà, cha mẹ, Đảng, Bác Hồ.v.v.

– Giáo dục thẩm mỹ cho học sinh : thông qua âm nhạc, tính thẩm mỹ của học sinh được hình thành và phát triển khi các em được nghe những giai điệu của bài hát, dụng cụ chơi nhạc hay một tiết tấu nào đó làm phong phú thêm kinh nghiệm sống mang lại những cảm giác, xúc động, thẩm mỹ mạnh mẽ. Trong quá trình dạy học đã diễn ra ở học sinh năng lực cảm thụ, hiểu đánh giá, yêu thích thưởng thức nghệ thuật, nhu cầu hoạt động sáng tạo, tạo ra những giá trị thẩm mỹ.

– Giáo dục và phát triển trí tuệ : Khi học âm nhạc, gắn chặt với sự phát triển trí tuệ, đòi hỏi học sinh phải chú ý quan sát nhạy bén. Học sinh nghe nhạc và tiến hành so sánh các âm thanh, xác định ý nghĩa biểu cảm của giai điệu, tiết tấu, ghi nhớ hình tượng âm nhạc. Thông qua tác phẩm âm nhạc phản ánh nhận thức khách quan tự nhiên, các mối quan hệ con người với con người, con người với tự nhiên.

– Âm nhạc góp phần giáo dục thể chất: học âm nhạc cũng có ảnh hưởng đến quá trình phát triển cơ thể con người. Trước hết là phát triển tai nghe, khi nghe nhạc học sinh cần phân biệt chi tiết âm, từ đó tai nghe cứ phát triển dần lên. Hoạt động hát gắn liền với tâm lý, thể chất của học sinh thúc đẩy chức năng hoạt động các cơ quan phát thanh, hô hấp làm cho giọng hát của học sinh dần ổn định, chính xác, mở rộng âm vực, âm lượng. Ca hát tạo cho học sinh có dáng dấp uyển chuyển, phong thái thực nhiên tao nhã.

Đối với lớp 1, nội dung học môn âm nhạc chủ yếu phân môn học hát chiếm vị trí khá nhiều. Chính vì thế ca hát là con đường đưa các em vào thế giới của những cảm xúc tràn đầy, mở ra cho các em khả năng hiểu biết âm nhạc, có thẩm mỹ trong cuộc sống. Đối với học sinh lóp 1 là giai đoạn đầu phát triển nhân cách đặc biệt. Lớp 1 trẻ còn giữ nhiều nét thể chất tâm lý của mẫu giáo trong vận động, giao tiếp,thích ứng xã hội trong phát triển trí tuệ. Đặc biệt trẻ rất giàu trí tưởng tượng, ham thích sáng tạo, rất hồn nhiên trong tiếp xúc âm nhạc. Học sinh lớp 1 chưa đọc, viết tốt, tập ghép vần, nhưng lại có khả năng phân biệt và ghi nhớ các ký hiệu, dấu hiệu. Vì vậy để học sinh lớp 1 làm quen với bài hát bằng ngôn ngữ âm nhạc cần có phương pháp riêng cho phù hợp.

b) Khả năng âm nhạc và đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lớp 1 :

Học sinh lớp 1 có thể chất đang bước vào phát triển nên rất hiếu động, ưa hoạt động. Khi dạy giáo viên phải biết kết hợp với vận động. Trình độ nhận thức và vốn hiểu biết còn ở giai đoạn đầu nên khi cần cung cấp thêm một số khái niệm về âm nhạc cho trẻ. Cần chú ý đến tâm sinh lý lứa tuôûi lớp 1 để có cách giảng dạy âm nhạc với nhiều hình thức sáng tạo trong tiết giảng sao cho việc tiếp thu âm nhạc của các em ngày một tốt hơn, tạo những hưng phấn trong khi học nhạc.

Phương pháp dạy học là cách thức, con đường hoạt động của hệ thần kinh nhằm làm cho học sinh nắm vững kiến thức, kỹ năng kỹ xảo phát triển năng lực nhận thức, hình thành thế giới quan khoa học và nhân cách phát triển toàn diện hài hoà.

Phương pháp dạy học âm nhạc lớp 1 không phải là cố định, không thay đổi và tách rời với nội dung dạy học và giáo dục mà phải linh hoạt, mềm dẻo với nội dung dạy học, giáo dục và mục đích giáo dục.

Những phương pháp chủ chốt trong dạy học âm nhạc lớp 1 :

Phương pháp trực quan : học sinh quan sát bảng biểu, sơ đồ âm thanh, giai điệu tiết tấu mà không làm thay đổi mẫu vật, biểu tượng đó. Các phương tiện đồ dùng gọi là phương tiện trực quan. Khi giáo viên hát thì giọng hát là phương tiện, phương pháp hát bài hát là phương pháp hát trực quan.

Phương pháp thực hành : Khi lắng nghe giai điệu, tiết tấu; khi các em làm thay đổi đối tượng tạo ra mẫu mới

Ví dụ : Giáo viên hát, học sinh nghe. Học sinh hát lại.

Nhóm phương pháp dùng lời : có sự trình bày đàm thoại dùng sách, có đặt câu hỏi – trả lời.

Nhóm phương pháp minh hoạ : khi giảng dạy sử dụng các đồ dùng, phương tiện minh hoạ.

Chương trình âm nhạc trong trường tiểu học được phân chia thành hai khối lớp. Ở các lớp 1, 2, 3 chỉ có hai phân môn là học hát và phát triển khả năng âm nhạc. Lên lớp 4 và 5 gồm có 3 phân môn đó là học hát, tập đọc nhạc và phát triển khả năng âm nhạc. Ngoài các phân môn như tập đọc nhạc, phát triển khả năng âm nhạc thì phân môn học hát được quy định số bài hát như sau :

Nội dung chương trình sách giáo khoa mới của môn âm nhạc đã có nhiều thay đổi, các kiến thức đã học tinh giản nhiều phù hợp với nhận thức của học sinh tiểu học. Năng lực thực hành được tăng cường nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh.

Dạy âm nhạc cho học sinh ở trường tiểu học ……. – …….đã được nhà trường đầu tư đúng mức. Đội ngũ giáo giáo viên trẻ, nhiệt tình, có lòng yêu nghề mến trẻ có đời sống ổn định, trình độ chuyên môn vững vàng. Giáo viên luôn thường xuyên rèn luyện phụ đạo cho học sinh để giúp các em học tốt môn âm nhạc cùng với các môn học khác.

Vấn đề dạy âm nhạc cho học sinh lớp 1 của những năm sau này có phần đạt kết quả cao hơn dẫn đến chất lượng học lực chuyển biến rõ rệt. Nhìn chung học sinh có nhiều điểm khác nhau mỗi lớp mỗi khối có những khó khăn thuận lợi khác nhau và qua việc khảo sát chúng tôi thấy được học sinh lớp 1 mỗi ngày tiến bộ hơn trong học tập môn học âm nhạc nói chung và học hát nói riêng, vấn đề này do đâu mà có? Do sự phát triển của xã hội sự quan tâm của các ngành, các cấp. Giáo viên ngày càng có kinh nghiệm giảng dạy âm nhạc cho học sinh tiểu học ngày một tốt hơn, có giáo viên chuyên nghiệp về bộ môn âm nhạc riêng. Đặc biệt có sự quan tâm của hội cha mẹ học sinh ngày càng nhiều hơn trong việc học của con em mình.

Chúng tôi đã tiến hành dự tiết dạy âm nhạc của cô giáo : Ngô thị Lương (lớp 1B trường tiểu học …….)

Sau khi dự giờ tiết dạy trên chúng tôi đã thu thập kết quả và tổng hợp những chi tiết của bài học từ đó rút ra nhận xét sau :

– Ưu điểm : Qua tiết dạy chúng tôi nhận thấy rằng đây là một tiết dạy tương đối khó, các tiết tấu trong bài có dấu nhắc lại nhiều lần, yêu cầu cao so với lứa tuổi lớp 1. Nhưng giáo viên đã có sự chuẩn bị tốt cho bài dạy, nghiên cứu kỹ nội dung nên tiến trình bài dạy rất suôn sẻ, giáo viên thực hiện các bước lên lớp nhanh nhẹn, hợp lý. Về tiếp thu kiến thức của học sinh thì nhìn chung các em rất hăng say tham gia hát, dựa vào các bước dạy tập từng câu hát nên các em thuộc lời, một số em đã biết vận dụng tốt phong cách biểu diễn hóm hỉnh, hát thuộc bài hát.

Về kỹ năng phát triển có nhiều em thể hiện tốt chất giọng, đặc biệt là thay đổi giọng điệu theo từng nhịp phách trong bài (đây cũng là điểm mấu chốt của nội dung âm nhạc mà giáo viên đã biết khai thác và phát huy). Khi tiết hành tổ chức cho các em lên trước lớp thể biểu diễn toàn bài, các em đã thể hiện tốt thậm chí có một số em đã biết thể hiện với giọng hay, truyền cảm theo yêu cầu của bài hát.

– Khuyết điểm : Khi học sinh Hát có một số trường hợp giáo viên chưa động viên kịp thời khi các em gặp lúng túng. Giáo viên ngắt lời đột ngột khi các em hát sai nội dung.

Nhìn chung qua khảo sát thực tế tại đơn vị trường vừa trò chuyện với giáo viên dạy lớp 1, vừa tham gia dự giờ trực tiếp để đánh giá kết quả quá trình dạy âm nhạc nhằm phát triển kỹ năng âm nhạc cho học sinh lớp 1 tại trường tiểu học ……. – huyện …….chúng tôi nhận thấy rằng :

Xét về góc độ toàn diện giáo viên lớp 1 đã biết vận dụng tốt các phương pháp dạy học cũng như hình thức tổ chức dạy học đạt yêu cầu, có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt để hiệu quả tiết dạy đạt tỷ lệ cao, phát huy tương đối những kỹ năng biểu diễn bài hát ở các em như xây dựng cho các em ý thức độc lập tự chủ, tạo niềm tin khi thể hiện bài hát trước đám đông, biết nhận xét cách trình bày của bạn một cách chân thành, chính xác, các em đã biết thể hiện chất giọng, điệu bộ, tính cách của bài hát thông qua lời hát của mình. Nhìn nét mặt rạng rỡ, phấn khởi của các em khi học xong tiết âm nhạc đã cho chúng tôi thấy rằng hiệu quả của tiết dạy đã đạt một mức độ nhất định.

Tuy nhiên với nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan nên không thể tránh khỏi những thiếu sót khi dạy âm hạc của một số giáo viên làm hạn chế một số kỹ năng của các em không đạt như mong muốn. Ví dụ việc thiếu sót trong bao quát học sinh sẽ làm ảnh hưởng đến tâm lý những em không được gọi hát, các em sẽ tự ti trước bạn bè và lần sau sẽ ngại biểu diễn hoặc hát một cách miễn cưỡng không tự giác. Hay khi học sinh đang hát mà giáo viên ngắt lời đột xuất sẽ gây ra sự mất bình tĩnh của các em, hứng thú học tập sẽ bị giãn đoạn v.v.

Việc dạy âm nhạc cho học sinh lớp 1 tại trường tiểu học ……. hiện nay chưa thật đạt một trình độ chuẩn của yêu cầu giáo dục hiện nay, còn gặp một số thiếu sót (Tuy không ảnh hưởng nhiều đến tiếp thu kiến thức của học sinh, chỉ ảnh hưởng đến việc phát triển kỹ năng âm nhạc cho các em chưa thật đạt hiệu quả cao). Điều đó có nhiều nguyên nhân:

Về khách quan : đội ngũ giáo viên dạy môn âm nhạc không phải là giáo viên chuyên ngành âm nhạc; việc tổ chức tập huấn về phương pháp dạy học mới cho đội ngũ giáo còn quá ít, giáo viên chỉ được tập huấn chủ yếu là trên băng hình. Mà nội dung ở băng hình có đối tượng học sinh là thành phố lớn nên không thể áp dụng theo kiểu đó vào vùng sâu, vùng xa. Nên việc sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học đặc biệt là sự kết hợp giữa các phương pháp truyền thống với phương pháp mới của giáo viên còn gặp nhiều khó khăn. Đối tượng học sinh còn quá nhỏ, lại ở vùng sâu, vùng xa thường quen với những cách học cũ (thầy giảng trò nghe và ghi nhớ) nên khi tiếp cận với cách học mới, tự mình làm chủ kiến thức, tự mình tìm hiểu âm nhạc, biểu diễn bài hát thể hiện trước đám đông là điều hết sức bỡ ngỡ. Đặc biệt là phần thể hiện bài hát còn mới mẻ so với nhận thức các em, các em thường e ngại khi phải hát trước đám đông, trên lớp theo những yêu cầu mới và khó làm ảnh hưởng đến hiệu quả của tiết dạy cũng như những phát triển về năng khiếu cho các em.

Về chủ quan : Đối với phân môn âm nhạc là môn nghệ thuật thuộc lĩnh vực năng khiếu về hình thức tổ chức cũng như sử dụng các phương pháp dạy học, muốn thực hiện thành công những phương pháp này phải có sự chuẩn bị chu đáo về nội dung nên giáo viên thường e ngại, không mạnh dạn tìm tòi (chỉ mang tính đối phó). Bên cạnh đó khi dạy âm nhạc cho học sinh lớp 1 giáo viên thường coi nhẹ trong khâu đánh giá về thành quả mà học sinh thu được (có những hình thức khen ngợi, động viên kịp thời đúng mức) đó cũng là một thiếu sót dẫn đến việc phát triển kỹ năng cho học sinh khi dạy âm nhạc lớp 1 còn bị hạn chế.

a) Hướng dẫn nghe hát – giới thiệu bài hát :

Để các em hát hay có khả năng truyền cảm, các em phải nghe, phải hiểu bài hát mà các em đã học và hát. Vì vậy việc đầu tiên là phải tạo ra được trong ý thức các em hình tượng trọn vẹn, đầy đủ về bài hát mà các em sẽ hát.

Hướng dẫn nghe hát với yêu cầu để các em làm quen với bài hát mà các em sẽ hát nhằm làm cho các em chú ý đảm bảo cảm thụ đầy đủ hình tượng âm nhạc, nắm được tính chất và phương thức diễn tả, nắm được yêu cầu tập luyện của mình.

– Trình diễn giới thiệu bài hát : giáo viên hát nhiệt tình, giàu tính biểu hiện, giao lưu tình cảm và thu hút sự chú ý của học sinh. trình diễn giới thiệu bài hát tốt là đưa đến cho các em những cảm xúc tốt đẹp, kích thích trí tưởng tượng làm cho các em ham muốn thực hiện.

– Nói chuyện giới thiệu bài hát : Giáo viên giới thiệu sơ lược thân thế, sự nghiệp của tác giả, xuất xứ bài hát (nếu cần thiết). Khi giới thiệu cần dùng lời nói ngắn gọn, sát thực tế, có thể dùng các phương tiện trực quan như bản đồ, tranh ảnh.

– Nghe hát mẫu lại : Để khắc sâu hình tượng bài hát, giáo viên có thể sử dụng băng đĩa nhạc cho học sinh nghe để đảm bảo nghệ thuật và sự chuẩn mực.

– Trước khi hướng dẫn tập hát giáo viên cho học sinh đọc lời ca đồng thanh (có thể đọc theo tiết tấu) giúp cho các em cảm nhận nội dung và phát âm đúng. Giáo viên giải thích từ khó hiểu.

– Khởi động giọng (luyện giọng, luyện thanh)

– Tiến hành dạy hát từng câu :

+ Giáo viên chia bài hát thành từng câu và dạy truyền khẩu theo lối móc xích câu trước tiếp câu sau cho đến hết bài.

+ Khi tập hát cần kết hợp nhạc cụ, cho học sinh nghe đàn và giáo viên đệm đàn (giáo viên cho học sinh nghe một đến hai lần trước khi các em hát theo)

+ Giáo viên hát mẫu câu hát mà các em sẽ hát đảm bảo kỹ thuật hát và nghệ thuật hát. Hát mẫu phải thật chuẩn xác về âm nhạc, rõ ràng về lời ca, sắc thái to, nhỏ, mạnh, nhẹ biến đổi chính xác.

+ Hát mẫu gắn liền với lấy giọng. Lấy giọng hát phù hợp với tầm giọng chung của lớp sẽ giúp các em dễ dàng sử dụng giọng hát của mình để hát đúng bài hát đồng thời tập cho các em bắt vào bài hát chuẩn xác đồng đều. Nếu lấy giọng cao hay thấp quá sẽ khó khăn cho các em.

+ Hướng dẫn bắt vào mẫu câu hát hoặc toàn bài cần tiến hành bằng các hiệu lệnh : đếm (1,2; 2,1; 2,3), hiệu lệnh gõ, hiệu lệnh tay.v.v.

+ Khi học sinh bắt đầu hát giáo viên chú ý lắng nghe (có thể dùng đàn đánh giai điệu)

+ Trong khi tập hát cho học sinh tập gõ đệm theo bài, có thể chia thành nhóm nhỏ để các em thay nhau hát, nghe.

+ Hướng dẫn kết thúc bài hát giáo viên cần tập cho học sinh hát đầy đủ câu cuối cùng, chú trọng đến câu hát kết thúc, âm kết thúc. Biết sử dụng các phương tiện diễn tả âm nhạc để câu kết thúc được khắc hoạ rõ ràng, đậm nét, có tác dụng mạnh đến tình cảm nhận thức con người.

+ Trong khi dạy và học hát, có nhiều học sinh hát sai do nhiều nguyên nhân khác nhau : thiếu sự chú ý, âm vực giọng chưa phát triển, chưa biết kết hợp tai nghe và giọng hát, nhút nhát thiếu tích cực, hưng phấn thái quá.v.v

+ Tuỳ từng nguyên nhân mà có biện pháp sửa chữa hợp lý, không nên nóng vội. Vì vậy giáo viên cần : dự kiến trước được chỗ khó, tạo cho học sinh thói quen khi nào im lặng nghe, khi nào hát. Tập hát đúng ngay từ đầu, cần động viên khích lệ khi học sinh hát.

+ Khi học sinh đã nhớ thuộc bài hát thì giáo viên nâng cao trình độ và rèn luyện kỹ năng hát. Tuỳ theo mức độ nắm bài hát của học sinh để nêu yêu cầu của nội dung.

Thể hiện đúng sắc thái tình cảm bài hát, khai thác các phương tiện diễn tả bài hát/

Với một thời gian nghiên cứu về nội dung cũng như khảo sát từ thực tế ở trường tiểu học ……. – huyện Krông Bông, kết hợp với trao đổi cùng một số giáo viên đang dạy khối 1 là rất ngắn, nhưng tôi đã có kết luận về việc dạy âm nhạc ở trường như sau :

Nhìn chung giáo viên ở đây tiến hành khá thành thạo hình thức dạy âm nhạc khi tiến hành bài dạy, nội dung được giáo viên chuyển tải tới học sinh khá nhẹ nhàng, giúp cho học sinh nắm kiến thức rất tốt.

Học sinh trường tiểu học ……. – huyện ……. đã có những kỹ năng âm nhạc khá tốt, nhưng một bộ phận không nhỏ các em còn mắc một số lỗi trong khi hát. Kỹ năng phát triển về tư duy, trí tưởng tượng, bản lĩnh tự tin của các em lớp 1 tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên việc phát triển kỹ năng âm nhạc của học sinh lớp 1 còn là việc cần phải suy nghĩ nghiêm túc. Chất lượng này phụ thuộc vào nhiều yếu tố có và nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chủ yếu là do việc tổ chức rèn luyện cách kể, thể hiện nội dung câu chuyện theo hướng phát huy tính tích cực cho học sinh chưa được đặt ra một cách nghiêm túc, đúng yêu cầu, đúng đối tượng và do học sinh chưa cảm thụ được cái hay, cái đẹp, chưa thật sự tâm huyết với môn âm nhạc. Khi ở nhà việc hướng dẫn quan tâm đến những kỹ năng rèn luyện hát của học sinh đối với cha mẹ còn hờ hững, thiếu sự đầu tư đó cũng là điều gây không ít ảnh hưởng đến việc phát triển kỹ năng âm nhạc cho các em.

Những hạn chế của học sinh học sinh trong âm nhạc đối với lớp 1 hoàn toàn có thể khắc phục được bằng việc giáo viên thực sự đầu tư một cách đúng mức và kiên trì giúp các em rèn luyện từ từ, bằng cách người giáo viên phải luôn tự trang bị cho mình một số kiến thức hết sức thiết thực và cơ bản về nội dung bài dạy cũng như các phương pháp dạy học. Tuy nhiên việc tổ chức dạy học bằng phương pháp nào, hình thức tổ chức cho đạt hiệu quả cao không phải là chuyện đơn giản chỉ nói qua lý thuyết mà cần phải có thời gian cũng như kinh nghiệm giảng dạy cộng với sự tìm tòi học hỏi, không ngừng của người giáo viên thì hiệu quả của tiết dạy mới được nâng cao, giáo dục mới thật sự đổi mới. Không có người giáo viên nào là hoàn hảo, không có phương pháp nào là vạn năng. Khi đất nước đổi mới thì nhận thức con người cũng thay đổi hằng ngày. Điều quan trọng nhất là người giáo viên phải biết tìm tòi học hỏi không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu giảng dạy đáp ứng được nhịp độ phát triển của thời đại.

Đối với việc tổ chức dạy học âm nhạc là một phương thức đổi mới của giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Đây là một nội dung quan trọng và thiết thực. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải thật kiên trì nhẫn nại chứ không nóng vội, rèn từng bước, hướng dẫn từng ngày cho học sinh trên một quá trình lâu dài, bởi việc dạy học không phải là một ngày, hai ngày mà tốt được. Môn âm nhạc là một môn mang tính chất phát triển năng khiếu phải có thời gian rèn luyện kỹ năng. .

Thông qua việc nghiên cứu về nội dung cũng như khảo sát từ thực tế, tôi xin nêu một số ý kiến đề cập về những phương pháp hướng dẫn có tính khả thi để nêu lên trong đề tài. Đây là những ý kiến đóng góp qua học tập nghiên cứu kết hợp với kinh nghiệm giảng dạy của bản thân chứ chưa phải là một triết lý của giáo dục.

Khi tiến hành bài dạy âm nhạc giáo viên cần thực hiện đúng và thứ tự các bước hướng dẫn của sách giáo khoa :

Hướng dẫn hát ( cần chuẩn bị tốt về đồ dùng trực quan)

Khi gợi ý cho HS tập hát kỹ lưỡng (nhất là một số em có giọng hát yếu).

Cần tổ chức sinh hoạt nhóm một cách bài bản, đúng quy trình, phân công nhiệm vụ, thời gian và yêu cầu cho nhóm cụ thể.

Gợi ý cho các em khi thể hiện điệu bộ bài hát phù hợp nới nội dung bài hát.

Động viên khuyến khích kịp thời những em, nhóm đã thể hiện tốt trong biểu diễn.

Phần củng cố nên hệ thống nội dung sâu sắc để học sinh tự rút ra bài học cho mình.

Khi tiến hành bài dạy cần chú ý một số điểm sau :

Giáo viên hát mẫu và hướng dẫn học sinh hát lại theo đúng yêu cầu trong SGK (nếu gợi HS có năng khiếu cần tìm hiểu và đầu tư ngoài giờ lên lớp).

Giáo viên cần tế nhị khi hướng dẫn học sinh thể hiện bài hát trước lớp :

+ Nên động viên, khuyến khích các em hát tự nhiên như đang hát cho anh, chị, em hay bạn bè ở nhà.

+ Nếu có em hát giữa chừng bỗng lúng túng và quên tình tiết, chi tiết giai điệu, giáo viên có thể nhắc một cách nhẹ nhàng để em đó nhớ lại và hát tiếp. Nếu có em hát thiếu chính xác cũng không nên ngắt lời, chỉ nhận xét khi các em hát xong.

+ Chú trọng nhận xét lời hát của học sinh theo hướng khích lệ để các em luôn cố gắng.

+ Nếu có HS do có năng khiếu âm nhạc, thể hiện sinh động, biểu cảm (không phải hát theo nguyên văn qua chất giọng mà hát bằng lời lẽ sắc thái tự nhiên, thậm chí các em tự thêm vào vài hành động cho phù hợp với bài hát đang thể hiện) thì biểu dương ngay trước lớp khi các em hát xong và khuyến khích các em khác học tập.

PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………………………. Trang 1

1) Lý do chọn đề tài ………………………………………………………………….. Trang 1

2) Mục đích nghiên cứu …………………………………………………………….. Trang 2

3) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ……………………………………………. Trang 2

4) Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………… Trang 3

PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………………………. Trang 4

1) Tìm hiểu mục tiêu dạy học môn âm nhạc ở tiểu học…………………….. Trang 4

2) Đặc điểm và khả năng âm nhạc của học sinh lớp 1………………………. Trang 5

3) Các phương pháp dạy học âm nhạc lớp 1…………………………………… Trang 6

4) Nội dung, chương trình giáo dục âm nhạc trong trường tiểu học ……. Trang 7

5) Khảo sát tình hình thực tế ………………………………………………………. Trang 7

6) Nhận xét chung …………………………………………………………………….. Trang 9

7) Nguyên nhân ……………………………………………………………………… Trang 10

8) Một số biện pháp dạy học âm nhạc lớp 1 ………………………………… Trang 11

KẾT LUẬN……………………………………………………………………….. Trang 15

1) Kết luận của đề tài ……………………………………………………………….. Trang 15

2) Những đề xuất về giải pháp …………………………………………………… Trang 17

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN ……………………………………………….. Trang 20

MỤC LỤC……………………………………………………………………………… Trang 21

Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Toán Lớp 2

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

PHẦN 1 – ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chọn đề tài Chương trình toán của tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về số học, các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản, giải toán có lời văn ứng dụng thiết thực trong đời sống và một số yếu tố hình học đơn giản. Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá, khái quán hoá, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng bằng lời, suy luận đơn giản, góp phần rèn luyện phương pháp học tập và làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo. Mục tiêu nói trên được thông qua việc dạy học các môn học, đặc biệt là môn toán. Môn này có tầm quan trọng vì toán học với tư cách là một bộ phận khoa học nghiên cứu hệ thống kiến thức cơ bản và sự nhận thức cần thiết trong đời sống sinh hoạt và lao động của con người. Môn toán là ”chìa khoá” mở của cho tất cả các ngành khoa học khác, nó là công cụ cần thiết của người lao động trong thời đại mới. Vì vậy, môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường, đây là những tri thức, kỹ năng vừa đáp ứng cho phát triển trí tuệ, óc thông minh, sáng tạo, vừa đáp ứng cho việc ứng dụng thiết thực trong cuộc sống hàng ngày, để các em trở thành những người có ích cho xã hội. Trong dạy – học toán ở lớp 2, việc cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100 chiếm một vị trí quan trọng. Có thể coi việc dạy – học và cộng trừ là ” hòn đá thử vàng”. Xuất phát từ thực tiễn triển khai thực hiện chương trình và các bộ môn học lớp 2 theo chương trình do bộ trưởng bộ Giáo dục và đào tạo ban hành mà ngành giáo dục và đào tạo hiện nay đang được toàn xã hội quan tâm ở mức cao nhất về nội dung chương trình, chất lượng dạy học. 1

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

Chất lượng giáo dục đào tạo trong các nhà trường đã được nâng cao lên song vẫn còn hạn chế : học sinh chưa khai thác hết khả năng tiềm ẩn trong nội dung bài học để từ đó tìm ra chìa khoá giải quyết vấn đề . Đối với giáo viên thời gian gần đây đã được tham gia các lớp học bồi dưỡng thay sách. Nhiều thầy cô đã được công nhận là giáo viên dạy giỏi các cấp , tuy nhiên còn không ít thầy cô chưa khuyến khích học sinh học tập một cách chủ động, sáng tạo đặc biệt là vận dụng kiến thức đã học trong đòi sống. Về nhận thức mỗi giáo viên phải thấy đổi mới phương pháp dạy học là góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Đáp ứng việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học năm học 20… – 20… tôi đã thực hiện đề tài này cho thấy kết quả dạy học đã được nâng lên , bước đầu khuyến khích học sinh học tốt hơn. Qua một năm thử nghiệm bổ sung nhiều thiếu sót, đúc rút kinh nghiệm , năm học 20… – 20… tôi tiếp tục vận dụng đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 2” trong giảng dạy môn toán 2 phần cộng , trừ có nhớ trong phạm vi 100, nhằm trang bị cho học sinh một tư duy mới, một phương pháp mới khoa học và ưu việt. II. Mục đích nghiên cứu – Từ đầu năm học tôi đã chú trọng đến việc rèn kĩ năng thực hiện phép tính cộng, trừ để học sinh tiếp thu tri thức có hệ thống, đó là việc rất quan trọng và cần thiết của người giáo viên hiện nay nhằm giúp cho học sinh bắt kịp trình độ khoa học kĩ thuật tiên tiến và sự đổi mới đất nước, sự cần thiết phải đổi mới con người chính vì vậy tôi mới đặt vấn đề nghiên cứu. III. Kết quả cần đạt … IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu – Đề tài này áp dụng cho tập thể giáo viên lớp 2 trường Tiểu học THTH. 2

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

– Rèn cho học sinh lớp 2 kĩ năng tính toán. V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu: – Học sinh có hứng thú học môn toán hơn vì trước đây bài làm của các em thường bị điểm thấp. – Làm thay đổi suy nghĩ trước đây của đồng nghiệp, xuất phát từ những quan điểm trên, bản thân lựa chọn phương pháp dạy toán phù hợp với trình độ phát triển của học sinh. Rèn kỹ năng toán để góp phần nâng cao chất lượng dạy – học môn Toán .

3

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

PHẦN 2 – NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận nghiên cứu Các khái niệm và các quy tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung đều được giảng dạy thông qua việc hai phép tính cộng, trừ. Giúp học sinh củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua việc thực hiện phép tính cộng, trừ của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm hoặc thiếu sót của các em về kiến thức, kỹ năng và tư duy để giúp các em phát huy những ưu điểm khắc phục thiếu sót. Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện thông qua việc cho học sinh tính toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng thực hành cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống. Việc tính toán góp phần quan trọng trong việc xây dựng cho học sinh những cơ sở ban đầu của lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, thế giới quan duy vật biện chứng. Việc tính toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực. Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo v.v… II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu Giáo viên thực hiện đầy đủ các yêu cầu của tiết dạy, tăng cường luyện tập thực hành , hình thành kĩ năng toán học cho học sinh , song việc khuyến khích học sinh tính bằng nhiều cách, lựa chọn cách tính còn hạn chế. Học sinh thuộc bảng 4

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

cộng trừ , nắm được thuật tính, chưa thấy được sự đa dạng phong phú của các bài tập , khả năng vận dụng cộng trừ nhẩm trong đòi sống chậm . III. Mô tả nội dung Đơn vị cơ bản của quá trình dạy học là các tiết dạy vì vậy trong uqá trình dạy học giáo viên phải nghĩ đến từng tiết học .Bất cứ tiết học nào cũng có một số bài tập để củng cố , thực hành trực tiếp các kiến thức mới, giáo viên vừa giúp học sinh nắm chắc kiến thức kĩ năng cơ bản nhất vừa hình thành được phương pháp học tập cho các em . Cùng với việc đổi mới về cấu trúc, nội dung sách giáo khoa, trong mỗi tiết học giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh hoạt động học tập giúp các em nắm được kién thức cơ bản về phép cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100, khuyến khích học sinh tìm ra kết quả bằng nhiều cách .Đồng thời hình thành và rèn cho học sinh các kĩ năng thực hành về cộng trừ, đặc biệt là kĩ năng tính và giải quyết vấn đề thông qua cách cộng trừ nhẩm. Với cách cộng trừ nhẩm giúp học sinh khắc sâu kiến thức thấy được sự đa dạng và phong phú của các bài tập , từ đó tập cho học sinh thói quen khai thác nội dung tiềm ẩn trong từng bài tập, lựa chọn cách giải tốt nhất cho bài làm của mình , vận dụng ngay cách cộng trừ nhẩm của tiết học trước trong các tiết dạy tiếp liền, vận dụng trong đời sống một cách chủ động, linh hoạt và sáng tạo. Khi dạy toán cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100 cho học sinh lớp 2 tôi luôn yêu cầu học sinh tính bằng nhiều cách trong đó có vận dụng tính nhẩm để tìm nhanh kết quả . Các bước được tiến hành như sau: A- phép cộng : Các bài dạng 9 +5; 29+5;49+25 * Bài 9 cộng với một số : 9+5 – Học sinh thực hiện tính 9+5 bằng các thao tác trên que tính, có thể trả lời theo nhiều cách để tìm ra kết quả 9+5 = 14 5

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

– Đặt tính rồi tính 9 +5 14 – Học sinh nắm được thuật tính – Dựa vào hình vẽ sgk (trang 15) khuyến khích học sinh tìm ra cách làm nhanh nhất : “tách 1 ở số sau để có 9 cộng với 1 bằng10 , lấy 10 cộng với số còn lại của số sau”. Cách thực hiện này yêu cầu học sinh phải huy động các kiến thức đã học ở lớp 1 (9+1=10, 5 gồm 1 và 4) để tự phát hiện nội dung mới và chuẩn bị cơ sở cho việc lạp bảng cộng có nhớ. – Lập bảng cộng dạng 9 cộng với một số và học thuộc chẳng hạn 9+2= 9+3= 9+4= … 9+9= + Cách 1″ Học sinh tự tìm ra kết quả bằng các thao tác trên que tính . + Cách 2: Cho học sinh nhận xét về các phép tính ? ( số hạng thứ nhất của các phép tính đều là 9) khi cộng 9 với một số tách 1 ở số sau để có 9 +1 = 10 cộng với số còn lại của số sau rồi tính nhẩm . Với cách này học sinh khắc sâu kiến thức, tránh lạm dụng đồ dùng trực quan. Học thuộc công thức cũng chỉ là bước đầu chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên giúp học sinh nhận ra: học không phải chỉ để biết mà học còn để làm, để vận dụng. Thông qua hệ thống bài tập học sinh biết cách vận dụng những kiến thức cơ bản đã học để làm bài, giáo viên khuyến khích học sinh tìm kết quả bằng nhiều cách , nhận xét đưa ra cách giải nhanh nhất. 6

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

+ Chẳng hạn: Bài tập 1: Tính nhẩm trang 15 9+3= 9+6= 9+8 =

9+7=

9+4=

3+9= 6+9= 8+9= 7+9= 4+9=

+ Cách 1: Trên cơ sở học thuộc bảng cộng học sinh tự tìm ra kết quả ở mỗi phép tính. + Cách 2: Dựa vào cách tính nhẩm học sinh tự nêu kết quả rồi đọc (chẳng hạn : 9+1 =10, 10 +2 =12) – Diền ngay 9+3=12 (vì khi đổi chỗ các số hạng trong một tổng thì tổng không thay đổi) – Bài tập 3 Tính (trang 15) 9+6+3= 9+9+1= 9+4+2=

9+5+3=

– Giáo viên yêu cầu học sinh chọn phương pháp giải, chẳng hạn : 9+9 +1 =18 +1 =19 – Hay 9+9+1=9+10=19 – Bài 29 +5 + Cách 1 (SGK) 29 +5 =? 29

*9 cộng 5 bằng 14, viết 4 nhớ 1

+ 5

*2 thêm 1 bằng 3, viết 3.

34 + Cách 2 Vận dụng cách tính nhẩm của bài 9+5 các em có thể tính như sau: 29 +5 = 29 +1+4=30+4=34 – Bài 49 +25 + Cách 1 (SGK) 49 +25 = 49 +25

* 9 cộng 5 bằng 14, viết 4 nhớ 1. *4 cộng 2 bằng 6, thêm 1 bằng 7, viết 7.

74 + Cách 2 Tính nhẩm: 49+25=49+1+24=50+24=74 7

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

*Các bài dạng 8+5;7+5;6+5; 28+5;47+5;26+5; 38+25;47+25;36+15 + Thực hiện tương tự dạng như trên : Học sinh ghi nhớ: muốn cộng nhẩm hai số ta làm tròn chục một số. Khi thêm vào số có hàng đơn vị lớn hơn bao nhiêu đơn vị để số đó tròn chục thì phải bớt đi ở số hạng kia bấy nhiêu đơn vị. B. Phép trừ – Các bài dạng 11-5 ; 31- 5 ;51-15 + Bài 11trừ đi một số 11-5 – Học sinh thực hiện tính 11-5 bằng các thao tác trên que tính, có thể trả lời bằng nhiều cách để tìm ra kết quả 11-5 đặt tính rồi tính 11

(Học sinh nắm được thuật tính)

-5 6 – Dựa vào hình vẽ SGK trang 48 học sinh tìm ra cách tính nhẩm: 11-5 =11-14=10-4=6 – Hướng dãn thực hiện các thao tác 11-5 =(11+5)-(5+5) = 16

– 10

= 6

– Phát hiện cách trừ nhẩm : muốn trừ nhẩm ta làm tròn chục số trừ: khi thêm vào số trừ bao nhiêu đơn vị để số đó tròn chục thì phải thêm vào số bị trừ bấy nhiêu đơn vị. + Bài tập 1: Tính nhẩm trang 48 9+2=

8+3=

7+4= 6+5= 2+9= 3+8= 4+7= 5+6=

11-9= 11-2= 11-8= 11-3= 11-7= 11-4= 11-5= 11-6= – Cách 1 : trên cơ sở thuộc bảng cộng trừ học sinh tự tìm ra kết quả mỗi phép tính 8

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

– Cách 2: Dựa vào kiến thức đã học học sinh có thể điền ngay 9 +2 = 11 ; 2 +9 =11 Còn 11-9 ; 11-2, cần được đặt trong mối quan hệ với phép cộng 9 +2=11; 2+9 =11 và cách tìm một số hạng khi biết số hạng kia và tổng. Các cột còn lại thực hiện tương tự. Dựa vào cách tính nhẩm bài 11-5, học sinh vận dụng tính nhẩm trong các bài tiếp theo. + Bài 31-5 – Cách 1 Đặt tính 31-5 =? 31

*1 không trừ được 5 lấy 11 trừ 5 bằng 6 viết 6 nhớ 1

*3 trừ 1 bằng 2 viết 2

– Cách 2 tính nhẩm 31-5 =(31+5) -(5+5)= 36 –

10 = 26

+ Bài 51-15 – Cách 1 (SGK) 51 -15=? 52

*1 không trừ được 5 lấy 11-5 bằng 6 viết 6 nhớ 1.

-15

*1 thêm 1 bằng 2, 5 trừ 2 bằng 3, viết 3

20

= 36

* Các bài dạng 12-8;32-8; 52-28;13-5;33-5;53-15;14-8;34-8;54-18 Thực hiện tương tự như trên. IV. Kết quả nghiên cứu 9

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

Với cách dạy cộng trừ nhẩm lồng vào từng bài học phần cộng trừ có nhớ , học sinh hứng thú học tập, tích cực chủ động học tập theo năng lực cá nhân, học sinh biết vận dụng các kiến thức đã học để giải quyết vấn đề một cách linh hoạt sáng tạo. Học sinh có thói quen lựa chọn cách giải tốt nhất cho bài làm của mình, tạo điều kiện phát triển tư duy, năng lực tự học, góp phần nâng cao chất lượng Ở cuối học kì một chất lượng cả khối đạt như sau:

Thời gian

Tổng số

kiểm tra

học sinh

Kết quả Giỏi

Khá

TB

Đầu năm

199

Giữa kỳ I

199

81

44,1

85

52,7

33

Cuối kỳ I

199

53,5

64

32,3

29

14,2

Yếu

3,2

0

106 Qua thực nghiệm dạy tính nhẩm ta thấy hiệu quả rất khả quan, số học sinh giỏi được tăng lên đáng kể, số học sinh yếu không còn. V. Bài học kinh nghiệm: Hướng dẫn và giúp học sinh cộng, trừ nhanh nhằm giúp các em phát triển tư duy trí tuệ, tư duy phân tích và tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, rèn luyện tốt phương pháp suy luận lôgric. Do vậy, việc giảng dạy tính toán một cách hiệu quả giúp các em trở thành những con người linh hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi lĩnh vực và trong cuộc sống thực tế hàng ngày.

10

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

11

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2 PHẦN II. NỘI DUNG ………………………………………………………………………….

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Toán 2, NxbGD 2. Sách hướng dẫn giảng dạy Toán 2 (Sách Giáo Viên), NxbGD 3. Sách chuẩn kiến thức kĩ năng (Lớp 2) , NxbGD 4. Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học 5. Giáo trình tâm lý học Tiểu học 6. Giáo trình giáo dục học ở Tiểu học 7. Chuyên đề giáo dục Tiểu hoc 8. Thế giới trong ta 101 câu hỏi – đáp về dạy môn Toán lớp một mới. 9. Báo Toán học tuổi trẻ. 10. Bộ GD&ĐT, Các đề thi có ma trận mẫu, www.thi.moet.gov.vn 11. Bộ GD&ĐT, Hướng dẫn nhiệm vụ năm học. 14

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

12. Nguyễn Cảnh Toàn, Luận bàn và kinh nghiệm về tự học, Tủ sách tự học, 1995 13. Nguyễn Cảnh Toàn, Tự giáo dục, tự nghiên cứu, tự đào tạo, NXB ĐHSP, 2001 14. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên môn toán chu kỳ 2004-2007 15. Trần Phương và Nguyễn Đức Tấn, Sai lầm thường gặp và các sáng tạo khi giải toán, NXB Hà Nội – 2004 16. Số học bà chúa của toán học – Hoàng Chúng. 17. Một số tài liệu khác và tranh ảnh sưu tầm trên internet.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

BẢN CAM KẾT I. THÔNG TIN TÁC GIẢ Họ và tên: ……………………… Ngày, tháng, năm sinh: ………… Đơn vị: Trường tiểu học ……….. Địên thoại: 0912345678 E-mail: 0912345678@gmail.com II. TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 15

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

Tên SKKN: III. NỘI DUNG CAM KẾT Tôi xin cam kết sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã áp dụng thành công trong giảng dạy tại trường ………………………………… . Trong trường hợp có xảy ra tranh chấp về quyền sở hữu đối với một phần hay toàn bộ sản phẩm sáng kiến kinh nghiệm này mà tôi là người vi phạm, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo sở GD&ĐT. Sáng kiến kinh nghiệm này tôi cũng đã phổ biến cho đồng nghiệp nên nếu có bạn đọc học tập, nghiên cứu, sử dụng, áp dụng sáng kiến này tôi cũng không khiếu nại hay đòi hỏi quyền sở hữu. …………, ngày … tháng … năm 20…. Người cam kết (Ký, ghi rõ họ tên)

1. HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SƯ PHẠM ỨNG DỤNG A.

Bảng so sánh sự giống và khác nhau giữa SKKN và NCKHSPƯD

Nội dung Mục đích

Sáng kiến kinh nghiệm Cải tiến/tạo ra cái mới nhằm thay đổi hiện trạng, mang lại hiệu quả cao Căn cứ Xuất phát từ thực tiễn, được lý giải bằng lý lẽ mang tính chủ quan cá nhân Quy trình Tuỳ thuộc vào kinh nghiệm của mỗi cá nhân Kết quả

Mang tính định tính chủ quan

NCKHSPƯD Cải tiến/tạo ra cái mới nhằm thay đổi hiện trạng, mang lại hiệu quả cao Xuất phát từ thực tiễn, được lý giải dựa trên các căn cứ mang tính khoa học Quy trình đơn giản mang tính khoa học, tính phổ biến quốc tế, áp dụng cho mọi GV/CBQL. Mang tính định tính/ định lượng 16

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

khách quan. B. HƯỚNG DẪN CỤ THỂ B1. Xác định đề tài nghiên cứu Khi xác định đề tài nghiên cứu, cần tiến hành theo các bước sau: 1. Tìm hiểu hiện trạng Căn cứ vào các vấn đề đang nổi cộm trong thực tế giáo dục ở địa phương như những khó khăn, hạn chế trong D&H, QLGD làm ảnh hưởng đến kết quả dạy và học/giáo dục của lớp mình, trường mình, địa phương của mình: Ví dụ: Hạn chế trong thực hiện đổi mới PPDH, đổi mới kiểm tra đánh giá; Hạn chế, yếu kém trong sử dụng thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học; Chất lượng, kết quả học tập của học sinh ở một số môn học còn thấp (ví dụ: môn Toán ; Tiếng Việt …); Học sinh chán học, bỏ học; Học sinh yếu kém, HS cá biệt trong lớp/ trường; Sự bất cập của nội dung chương trình và SGK đối với địa phương … Trong rất nhiều vấn đề nổi cộm của thực tế giáo dục ở địa phương, chúng ta chọn một vấn đề để tiến hành NCKHSPƯD nhằm cải thiện/ thay đổi hiện trạng, nâng cao chất lượng. Ví dụ: Làm thế nào để giảm số học sinh bỏ học…?; Làm thế nào để tăng tỉ lệ đi học đúng giờ đối với số học sinh hay đi học muộn?; Làm thế nào để nâng cao kết quả học tập của học sinh học kém môn Toán ? Làm thế nào để giúp học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số học tốt hơn môn Tiếng Việt?. …

17

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

SKKN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TOÁN LỚP 2

định dạng FLASH và VIDEO CLIP trong dạy học”. Nhóm NC chọn 2 lớp: lớp 4A1 làm nhóm thực nghiệm và lớp 4A2 làm nhóm đối chứng. Hai nhóm có sự tương đương nhau về khả năng học tập và tỉ lệ giới tính, dân tộc… – Thiết kế 3: Thiết kế kiểm tra trước tác động và sau tác động đối với các nhóm được phân chia ngẫu nhiên. Yêu cầu bắt buộc là các nhóm ngẫu nhiên phải đảm bảo sự tương đương. Có thể tạo lập 2 nhóm ngẫu nhiên ở các lớp khác nhau hoặc có thể phân lớp thành 2 nhóm ngẫu nhiên nhng vÉn ph¶i ®¶m b¶o sù t¬ng ®¬ng. Đây là một thiết kế hiệu quả nhưng rất khó thực hiện, vì nó ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của lớp học. VÝ dô ®ề tài: “Nâng cao khả năng đánh giá và khả năng giải toán cho học sinh lớp 8 thông qua việc tổ chức cho học sinh đánh giá chéo bài kiểm tra môn Toán”. Nhóm nghiên cứu: chia lớp (trong lớp có 30 em HS) thành 2 nhóm, mỗi nhóm 15 HS. Trình độ của học sinh trong 2 nhóm được xem là tương đương trên cơ sở lựa chọn từ kết quả học tập do giáo viên bộ môn đánh giá. Nhóm nghiên cứu tổ chức kiểm tra trước tác động và sau tác động cho cả nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm. – Thiết kế 4: Thiết kế chỉ kiểm tra sau tác động đối với các nhóm được phân chia ngẫu nhiên. Không cần khảo sát/kiểm tra trước tác động vì các nhóm đã đảm bảo sự tương đương (c¨n cø vµo kÕt qu¶ häc tËp cña häc sinh tríc khi t¸c ®éng ). Người NC chỉ kiểm tra sau tác động và so sánh kết quả. VÝ dô ®ề tài: “Tăng kết quả giải bài tập toán cho học sinh lớp 5 thông qua việc tổ chức cho học sinh học theo nhóm ở nhà”. Nhóm nghiên cứu đã: phân chia lớp (lớp có 30 học sinh) thành 2 nhóm ngẫu nhiên (đảm bảo sự tương đương), mỗi nhóm 15 học sinh và chỉ kiểm tra sau tác động để so sánh kÕt qu¶ cña 2 nhãm. – Thiết kế cơ sở AB/thiết kế đa cơ sở AB Trong lớp học/trường học nào cũng có một số học sinh được gọi là ” HS cá biệt”. Những HS này thường có các biểu hiện khác thường như không thích tham gia vào các hoạt động tập thể; không thích học; thường xuyên đi học muộn; bỏ học hoặc hay gây gổ đánh nhau; kết quả học tập yếu kém…Vậy làm thế nào để có thể thay đổi thái độ, hành vi, thói quen không tốt của học sinh? Đây là một 20

Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Yếu Kém Học Tốt Môn Toán 7

Trang 1

Trang 2

Trang 3

0,8 

Bài tập2:

Tính :

1,25 

0,8 và 1,25.

Trang 4

Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán ----------------------- (HS: Phải qui đồng mẫu các phân số)

(HS: Tử cộng tử, giữ nguyên mẫu) Hỏi: Nhắc lại cách cộng hai số nguyên?

Bài tập 3: Tìm x, biết:

x

.

Hỏi: Muốn tìm được x trước hết ta phải làm gì? (HS: Lúng túng không trả lời được) GV: Hãy nhắc lại qui tắc chuyển vế trong Z (HS: Nhắc lại qui tắc chuyển vế trong Z) GV: Tương tự trong Q ta cũng có qui tắc chuyển vế (HS: Vận dụng qui tắc chuyển vế và thực hiện bài toán) x

x

(Theo qui tắc chuyển vế) .

Như vậy trong buổi phụ đạo học sinh đã nắm được những kiến thức tiền đề của bài mới. Hiệu quả giờ học chính khóa được nâng lên rõ rệt. Cụ thể: Trong bài học mới khi đưa ra yêu cầu thực hiện phép tính: – 0,6 + 2,25. Chỉ với gợi ý nhỏ: Mọi số hữu tỉ đều có thể viết được dưới dạng phân số

với

Trang 5

Trang 6

Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán ----------------------- thể loại đối với các em yếu kém cần nhiều hơn bình thường. Cụ thể: Khi dạy bài: “Cộng, trừ số hữu tỉ”. Phần bài tập về nhà cho đối tượng học sinh yếu, kém tôi ra các dạng như sau: Bài 1: Tính: a)

;

b)

;

c)

c)

;

d)

Bài 2: Tính: a)

Bài 3: Tìm x, biết: a)

x

b

1

b) x  4

2

5

c) x  5  7 ; d)

2

7

1

Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán ----------------------- IV. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM Quá trình thực hiện nêu trên đối với học sinh khối lớp 7 ở trường mà tôi đang giảng dạy đã đạt kết quả đáng lưu tâm. Những năm trước đây khi chưa sử dụng phương pháp mới mỗi lớp có tới 5%

Trang 8

Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán ----------------------- – Tăng cường phối hợp giữa gia đình với nhà trường, giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm để tạo ra một sức mạnh tổng hợp. – Phát động các đợt thi đua học tập trong công tác Đội. Tổ chức các câu lạc bộ giúp nhau học tập…. Với vốn kiến thức của mình còn hạn hẹp, bề dày kinh nghiệm còn khiêm tốn, nên không tránh khỏi những hạn chế khiếm khuyết. Vậy rất mong hội đồng xét duyệt góp ý, bổ sung để kinh nghiệm giảng dạy của tôi ngày càng phong phú và hiệu quả tốt hơn. Tôi xin chân thành cám ơn !

Bình Minh, ngày 15 tháng 02 năm 2012

Trang 9

Cập nhật thông tin chi tiết về Skkn Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Âm Nhạc Ở Trường Tiểu Học trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!