Bạn đang xem bài viết Sinh Viên Thất Nghiệp Sau Khi Ra Trường được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
TÓM TẮT:
Những năm trước đây, tỷ lệ lao động qua học nghề, nhất là đào tạo nghề chính quy còn thấp, dẫn đến chất lượng lao động không đảm bảo, không đáp ứng được yêu cầu công việc. Hiện nay, mặc dù tình trạng học vấn của lao động không ngừng được cải thiện, hệ thống văn bằng được nâng cao và mở rộng nhưng tình trạng thất nghiệp vẫn tiếp tục gia tăng. Lượng sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học, cao đẳng chính quy trong cả nước không có việc làm ngày càng nhiều, một bộ phận sau khi tốt nghiệp đại học đảm nhận các công việc không cần bằng cấp; hiện tượng sinh viên sau khi tốt nghiệp làm công nhân, hoặc làm các công việc không cần đến trình độ đại học đang dần không còn xa lạ. Tình trạng sinh viên ra trường không có việc làm hay làm không đúng ngành nghề đang ở mức đáng báo động. Vì vậy, giải quyết tình trạng thất nghiệp cho người lao động nói chung và sinh viên nói riêng là mối quan tâm hàng đầu hiện nay.
Từ khóa: Thất nghiệp, sinh viên, chất lượng lao động, tình trạng học vấn.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, sinh viên ra trường thất nghiệp đang là vấn đề đáng báo động trong xã hội. Câu hỏi đặt ra ở đây là nguyên nhân của tình hình thất nghiệp sinh viên hiện nay là do đâu? Hậu quả để lại là gì? Vấn đề đó đã gây thiệt hại gì cho nền kinh tế nước nhà? Và chúng ta phải làm gì để khắc phục tình trạng trên? Có rất nhiều câu hỏi và giải pháp được đặt ra, song vẫn chưa khắc phục triệt để được tình trạng thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường.
Có rất nhiều ý kiến khác nhau về thất nghiệp. Theo Luật Bảo hiểm thất nghiệp (viết tắt BHTN) Cộng hòa Liên bang Đức định nghĩa: “Thất nghiệp là người lao động tạm thời không có quan hệ lao động hoặc chỉ thực hiện công việc ngắn hạn”.
Tại Trung Quốc định nghĩa về thất nghiệp như sau: “Thất nghiệp là người trong tuổi lao động (dân thành thị) có khả năng lao động, chưa có việc làm, đang đi tìm việc làm, đăng ký tại cơ quan giải quyết việc làm”.
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền lương thịnh hành”.
Vậy, nguyên nhân từ đâu dẫn đến tình trạng sinh viên ra trường thất nghiệp và chúng ta cần phải làm gì để khắc phục tình trạng đó?
2. Thực trạng
Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê, đến quý 1 năm 2023, trong tổng lực lượng lao động cả nước có gần 918 nghìn lao động thiếu việc làm và lao động thất nghiệp là 1,14 triệu người. Thông thường, tình trạng thiếu việc luôn là vấn đề phổ biến ở khu vực nông thôn. Trong quý 1 năm 2023, hiện có gần 85,0% lao động thiếu việc làm sinh sống ở khu vực này. Xét về khác biệt giới, thị phần lao động nam thiếu việc là cao hơn so với lao động nữ (52,2% và 47,8 % tổng số lao động thiếu việc cả nước). Đồng thời, tình trạng thất nghiệp lại được quan tâm hơn ở khu vực thành thị. Mặc dù, tỷ trọng lao động thất nghiệp thành thị hiện thấp hơn, chỉ chiếm khoảng 47,6% tổng số lao động thất nghiệp cả nước. Hơn nữa, dựa trên kết quả điều tra lao động việc làm quý 1 năm 2023 cũng cho thấy lao động thất nghiệp nam là đông hơn so với lao động nữ (chiếm 58,9% và 41,1% trong tổng số lao động thất nghiệp cả nước). Nếu xem xét tình trạng thất nghiệp theo trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT) tức là sinh viên ra trường có trình độ chuyên môn nhất định, trong quý 1 năm 2023, có tới hơn 32,3% số lao động thất nghiệp cả nước là lao động đã qua đào tạo chuyên nghiệp hoặc nghề từ 3 tháng trở lên. Trong đó, nhóm lao động có trình độ từ đại học trở lên chiếm thị phần lớn nhất, khoảng 38,6% tổng số lao động thất nghiệp nhóm này. 6 nhóm ngành/nghề đào tạo hiện có tỷ trọng lao động thất nghiệp có trình độ CMKT từ 3 tháng trở lên theo thứ tự là “Kinh doanh và quản lý – 30,3%”, “Công nghệ kỹ thuật – 13,4%”, “Sức khỏe – 10,7%”, “Dịch vụ vận tải – 9,5%” và “Khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên – 9,0%”. Chỉ khoảng 3,6% nhóm lao động thất nghiệp có trình độ CMKT là có 2 bằng/chứng chỉ đào tạo trở lên.
Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động được tính cho nữ từ 15-54 tuổi và nam từ 15-59 tuổi. Quý 1 năm 2023, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động của cả nước đạt 2,30%. Trong đó, khu vực thành thị (3,24%) cao hơn nông thôn (1,83%). Chênh lệch giới về tỷ lệ thất nghiệp vào khoảng 0,5 điểm phần trăm. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp ở nam hiện là 2,52% và ở nữ là 2,04%.
Tình trạng thất nghiệp của sinh viên mới ra trường gia tăng đáng kể. Thậm chí, có một số trường hợp sinh viên ra trường cả hai, ba năm vẫn không tìm được việc làm, chứ đừng nói đến chuyện tìm được công việc đúng ngành nghề. Vậy nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp của sinh viên hiện nay là do đâu?
2.1. Không có định hướng nghề nghiệp trước khi học
Ở Việt Nam, việc chọn nghề phụ thuộc rất nhiều vào quyết định của các bậc phụ huynh. Với tâm lý luôn muốn che chở, bao bọc con, các bậc cha mẹthường thiên về những ngành “an toàn”, mang lại danh tiếng, như kỹ sư, bác sĩ,… và con cái thì cũng thụ động, cha mẹ chọn ngành gì con học ngành đó. Mặt khác, xu hướng thị trường cũng là một điều đáng nói. Một số bạn trẻ còn có xu hướng chạy theo các nghề “hot” để theo kịp bạn bè, chứ không thực sự vì đam mê và đúng sở trường.
Những thông tin trên như là một hồi chuông cảnh báo cho thực trạng định hướng nghề hiện nay khi mà các học sinh hầu như không có một định hướng nghề cho bản thân, không biết mình thích gì và có thể làm gì sau này, đâu là điểm mạnh và điểm yếu của bản thân? Không biết định hướng và lựa chọn cho mình ngành học phù hợp, sinh viên sẽ dẫn đến tình trạng chán nản, kết quả học tập sút kèm, không có sự yêu thích và tâm huyết,… Vì vậy, việc định hướng nghề nghiệp cho tương lại đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo dựng một sự nghiệp thành công.
2.2. Sinh viên ra trường thiếu kỹ năng làm việc
Nhiều doanh nghiệp lớn cho biết:”Kỹ năng của sinh viên mới ra trường là chưa hình thành nếu không muốn nói là không có”. Sinh viên ra trường hiện nay có kiến thức nhưng thiếu kỹ năng, đặc biệt là các kỹ năng cần thiết để làm việc. Một số bạn trẻ còn cho rằng, các nhà tuyển dụng chỉ cần tuyển người có năng lực chuyên môn, vi tính thành thạo, ngoại ngữ bằng A, B, C… Chính vì thế, các bạn đổ xô rủ nhau đi học bằng này bằng kia, khóa học này khóa học kia, nhưng các bạn không hề biết rằng, các chủ doanh nghiệp và công ty, nhất là các công ty nước ngoài luôn chú trọng đến các kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, ứng xử, kỹ năng làm việc theo nhóm, khả năng lập kế hoạch mục tiêu, xử lý nhanh những khó khăn trong tình huống bất ngờ…
Mặc dù, quá trình tìm việc cũng không phải dễ dàng gì. Trừ một số bạn có mối quan hệ rộng rãi hay được cha mẹ gửi gắm, số còn lại, đa phần các bạn còn quá thụ động trong quá trình tìm việc. Các bạn chưa tự tin vào bản thân, thiếu nghị lực và dũng cảm để đương đầu với những khó khăn, thậm chí có bạn còn chưa rõ mình thích làm gì, thích làm công việc như thế nào. Các bạn không biết rằng, trong môi trường công việc đầy cạnh tranh và năng động, trang bị tốt cho mình các kỹ năng giao tiếp, đàm phán, thuyết trình, quản lý thời gian,… mới thực sự là yếu tố quyết định giúp bạn khác biệt và làm việc hiệu quả.
2.3. Chất lượng đào tạo chưa thực sự gắn với nhu cầu xã hội
Trong thời gian qua, mặc dù Chính phủ đã đầu tư rất nhiều vào các trường đại học quốc gia nhưng kết quả không có gì khả quan khi số lượng sinh viên ra trường vẫn thất nghiệp. Bên cạnh đó, với tiếp cận xã hội hóa giáo dục cho phép nhiều trường đại học tư được mở ra rộng kích thích cạnh tranh giữa các trường nhà nước và trường tư.
Tuy nhiên, chúng ta cũng chẳng mong đợi gì nhiều ở kết quả này, bởi các đại học tư vì lợi nhuận chỉ cấp bằng, họ không đào tạo “đúng và trúng”. Cả hai cách cải tiến trên đều làm nảy sinh số người tốt nghiệp cao nhưng không có kỹ năng để làm việc trong công nghiệp. Bên cạnh đó, thành tích của các cấp học dưới đẩy lên các cấp học trên đã khiến những người làm giáo dục bất chấp hậu quả mà chính người học và xã hội phải gánh là tạo ra những sản phẩm không đủ chất lượng, dẫn đến hậu quả đầu ra của đội ngũ nhân lực nước ta yếu và nền giáo dục Việt Nam ngày càng tụt hậu.
Một nguyên nhân khác là do các trường đại học, cao đẳng còn xem nhẹ phần thực hành mà quá đặt nặng lý thuyết. Ngoài ra, còn do chương trình đào tạo ở các trường vẫn theo lối tư duy cũ, thiếu thực tế, cơ sở vật chất nghèo nàn…
Chúng ta chuyển dần từ giáo dục truyền thống, giáo dục thời đại công nghiệp sang giáo dục thời đại thông tin. Đây là hệ thống giáo dục mới tập trung phần lớn vào kiến thức kỹ thuật và ứng dụng của công nghệ để giải quyết các vấn đề kinh doanh, sinh viên học chính thức nền tảng không chỉ trong nhà trường, mà còn tiếp tục trong cả đời họ vì không ngại lúc nào cũng thay đổi.
Ngoài ra, chúng ta cải tiến kỹ năng công nghiệp cho mọi người dân, tạo cho người dân có trí thức sẵn có để làm việc, đây là nhân tố chính cho tăng trưởng kinh tế của địa phương. Đặc biệt, chúng ta thay đổi tư duy nên nhìn nhận các trường đại học như là một doanh nghiệp, họ có thể đào tạo sinh viên đúng thực chất bằng việc cộng tác với công nghiệp gắn với nhu cầu thị trường và cập nhật chương trình đào tạo tương ứng.
2.4. Trình độ ngoại ngữ vẫn còn nhiều hạn chế
Một trong các lý do tạo nên làn sóng “cử nhân thất nghiệp” chính là vấn đề tiếng Anh. Chúng ta đều biết tiếng Anh được xem như là tấm vé thông hành trong tất cả mọi ngành nghề trong thời kỳ hiện đại. Thực ra, hầu hết sinh viên ở các trường đại học đều được học tiếng Anh, nhưng chính thái độ học thụ động, không áp dụng thực tế thì khi ra trường, kỹ năng ngoại ngữ chỉ là con số 0. Chỉ có được động lực học, cách học phù hợp, khoa học, áp dụng vào môi trường thực tế mới có thể nâng cao trình độ tiếng Anh, đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng.
2.5. Luôn than trách và đổ lỗi cho số phận
Đó là điều mà sinh viên vẫn thường làm để che đậy sự lười nhác của bản thân. Luôn đổ lỗi cho không có chỉ tiêu rồi đào tạo nhưng không đảm bảo đầu ra. Tốt nghiệp và ngồi chờ nhà tuyển dụng. Luôn than trách không có việc làm, đó là điều càng khiến sinh viên vùi mình sâu hơn vào nguy cơ thất nghiệp. Đỗ lỗi cho không có cơ hội việc làm, đỗ lỗi cho chất lượng đào tạo của giáo dục…
Phải thừa nhận rằng, có quá nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng lớn như hiện nay. Nhưng trước khi mổ xẻ những nguyên nhân sâu xa, chúng ta cần làm rõ nguyên nhân ngay trước mắt. Đó là sự kém cỏi của sinh viên ngay trên giảng đường. Đừng chỉ tốt nghiệp với tấm bằng trên giấy mà hãy bước ra khỏi giảng đường với những kiến thức cần thiết cho tương lai.
3. Giải pháp
Hiện nay, Việt Nam đã và đang tiếp cận và áp dụng các khuyến nghị mới của Tổ chức Lao động Quốc tế về lao động và việc làm. Tuy nhiên, với những nước đang phát triển – nền kinh tế vẫn mang đậm dấu ấn nông nghiệp hoặc việc làm phi chính thức chiếm thị phần đáng kể trong nền kinh tế hay mức sống của người dân chưa cao và an sinh xã hội chưa đầy đủ, vì vậy người lao động thường chấp nhận làm bất cứ loại công việc gì, kể cả những công việc có mức thu nhập thấp, bấp bênh, điều kiện làm việc không đảm bảo nhằm nuôi sống bản thân và gia đình hơn là thất nghiệp dài để chờ đợi công việc tốt hơn. Vì vậy, để giải quyết rõ rệt tình trạng sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường hiện nay, cần:
– Về phía sinh viên:
Thứ nhất, học sinh; sinh viên cần định hướng sơ bộ về nghề nghiệp của mình trong tương lai. Học sinh, sinh viên cần thay đổi nhận thức, hiểu được đầu ra của ngành học. Học sinh, sinh viên cần học những ngành nghề mà trong đó có sự đam mê, yêu thích của bản thân và phù hợp với khả năng của mình. Đồng thời, các giảng viên của nhà trường nên kết hợp cùng với lãnh đạo của các doanh nghiệp trao đổi và định hướng nghề nghiệp phù hợp với từng tân sinh viên, dựa trên việc phân tích tính cách, đặc điểm gia đình, sở thích…của từng cá nhân để đưa ra lời khuyên cho các em nên chọn ngành nào phù hợp với mình, có cơ hội việc là tốt nhất và phát huy được năng lực cao nhất.
Thứ hai, trải nghiệm thực tế tại các doanh nghiệp là điều vô cùng quan trọng. Nâng cao chất lượng đào tạo, kỹ năng làm việc cho sinh viên cần có sự kết hợp giữa sinh viên và nhà trường. Việc học đi đôi với thực hành, học đến đâu có thể thực hành đến đó để việc giảng dạy không còn mang ý nghĩa trừu tượng mà còn mang tính ứng dụng thiết thực. Sinh viên cần thực hiện nghiêm túc trong quá trình đi kiến tập, thực tập. Nếu sinh viên coi hoạt động kiến tập, thực tập cho hết môn thì sẽ không khác gì vẫn chạy theo lý thuyết mà không có thực tế.
Thứ ba, sinh viên cần nghiêm túc học hành ngay khi đang còn ngồi trên ghế nhà trường. Sự nghiêm khắc trong quá trình học tập của bản thân sẽ giúp sinh viên tự rèn luyện tính cách, kỹ năng đồng thời đạt kết quả tốt trong quá trình học tập, sẽ giúp ích rất nhiều cho công việc chuyên môn ngay sau khi ra trường.
– Về phía Nhà nước:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo khung pháp lý phù hợp, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động. Thực hiện đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao động, xuất khẩu lao động, pháp lệnh đình công… Người lao động được quyền hưởng lương đúng với số lượng và chất lượng lao động họ đã bỏ ra, phải được bảo đảm về chỗ ở và những điều kiện môi trường lao động, an sinh khác theo đúng luật pháp.
Thứ hai, Nhà nước cùng các doanh nghiệp cần phải quan tâm đào tạo công nhân trình độ cao, trình độ lành nghề, trình độ văn hóa đối với lao động trẻ, khỏe, nhất là khu vực nông thôn để cung ứng cho các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu du lịch, dịch vụ và xuất khẩu lao động.
Thứ ba, đa dạng hóa các loại hình thị trường, các lớp dạy nghề của Nhà nước, của tư nhân và quốc tế; áp dụng cơ chế thị trường trong dạy nghề, dần dần hình thành thị trường dạy nghề phù hợp với pháp luật. Thực hiện quy hoạch đầu tư tập trung hệ thống dạy nghề, kỹ thuật thực hành qua lao động trực tiếp; đặc biệt là xây dựng các trường dạy nghề trọng điểm quốc gia.
Thứ tư, thực hiện hiệu quả dự án hỗ trợ đào tạo giảng viên; xây dựng cơ chế xác định chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo trung cấp, đào tạo cao đẳng, đại học hàng năm trên cơ sở nhu cầu của thị trường lao động, năng lực đào tạo và tỷ lệ người học tốt nghiệp có việc làm của cơ sở đào tạo; chỉ đạo các cơ sở đào tạo đầu tư nâng cao điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo, hợp tác với đơn vị sử dụng lao động để xây dựng chương trình đào tạo cân đối giữa lý thuyết và thực hành, xây dựng chuẩn đầu ra, hỗ trợ sinh viên thực tập và đánh giá sinh viên tốt nghiệp theo yêu cầu của thị trường lao động.
4. Kết luận
Việt Nam là nước có cơ cấu dân số tương đối trẻ, đây là một thế mạnh rất lớn để thực hiện mục tiêu “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” dựa trên lợi thế và tiềm năng của nguồn nhân lực. Có thể thấy việc tạo công ăn việc làm cho người lao động nói chung và sinh viên sau tốt nghiệp nói riêng không phải là vấn đề của riêng ai. Tuy nhiên, điều đó không thể giải quyết được trong một sớm một chiều, mà đây là vấn đề xuyên suốt của xã hội từ thời kì này qua thời kì khác cần được Nhà nước quan tâm và giải quyết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tổng cục Thống kê năm 2023 – 2023
2. ThS. Nguyễn Thúy Hà, Chính sách việc làm: Thực trạng và giải pháp, Trung tâm Nghiên cứu khoa học – Viện Nghiên cứu Lập pháp
UNEMPLOYED STUDENTS AFTER GRADUATION CAUSES AND SOLUTIONS
MA. NGUYEN THI THU TRANG
Faculty of Environmental and Natural Resources Economics
Hanoi University of Natural Resources and Environment
ABSTRACT:
In previous years, the rate of trained workers, especially formal vocational training, was still low, leading to unsafe work quality and unsatisfactory job requirements. Currently, although the educational status of labor is constantly improving, the degree system is enhanced and expanded but unemployment rate continues to increase. The number of unemployed graduate students from regular universities and colleges in the country is increasing, and some graduates work in sectors that dont require degrees. The phenomenon of students after graduation becoming workers, or doing jobs that do not need to college degrees are no strange things. The status is alarmingly dangerous. Therefore, addressing unemployment for workers in general and students in particular is a top concern today.
Keywords: Unemployment, students, labor quality, education status.
15 Giải Pháp Khắc Phục Tình Trạng Sinh Viên Ra Trường Thất Nghiệp
Tỷ lệ sinh viên ra trường “thất nghiệp” tăng 103%
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, trong những năm gần đây, quy mô đào tạo trình độ ĐH, CĐ gần như ổn định, có phần giảm nhẹ. Cụ thể, năm học 2012-2013 tổng số SV cao đẳng, đại học chính quy là 2.177.299 (1.453.067 ĐH, 724.232 CĐ); năm học 2013-2014 số SV cao đẳng, đại học chính quy là 2.061.641 (1.461.839 ĐH, 599.802CĐ).
Tổng số người tốt nghiệp có trình độ cao đẳng, đại học tốt nghiệp năm 2012 là 402.300 người; năm 2013 là 425.200 người.
Trong giai đoạn 2011-2014, số lao động trình độ ĐH, CĐ có việc làm tăng lên qua các năm, so sánh năm 2014 với năm 2010, tỷ lệ lao động trình độ ĐH, CĐ có việc làm tăng 38%.
Tuy nhiên, Bộ Giáo dục cho biết, số lao động trình độ ĐH, CĐ trong độ tuổi lao động thất nghiệp trong thời gian qua tăng cao hơn so với số tốt nghiệp và số có việc làm; số lao động trình độ ĐH, CĐ thất nghiệp năm 2014 so với 2010 tăng 103%.
Đưa ra lý do nguyên nhân hạn chế chưa giải quyết tốt việc làm cho sinh viên tốt nghiệp, Bộ Giáo dục thừa nhận: Điều kiện đảm bảo chất lượng của một số cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo; một số trường đại học (chủ yếu là trường đại học địa phương và tư thục) có đội ngũ giảng viên thiếu về số lượng, chưa đảm bảo về chất lượng, không tương xứng với quy mô đào tạo; điều kiện cơ sở vật chất nghèo nàn, trang thiết bị lạc hậu, uy tín và chất lượng đào tạo thấp, khả năng cạnh tranh thấp nên SV khó tìm kiếm việc làm
Nội dung đào tạo nặng về truyền thụ lý thuyết một chiều, nhẹ về thực hành, chưa chú trọng rèn luyện các kỹ năng mềm (làm việc nhóm, ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao trình độ ngoại ngữ và hoạt động xã hội) cho người học.
Tuy nhiên, theo Bộ GD-ĐT một phần là thiếu cơ chế, chính sách chưa đủ mạnh, hiệu quả để thu hút nguồn lực của toàn xã hội đầu tư cho phát triển GDĐH trong khi nguồn lực từ ngân sách nhà nước vừa thiếu vừa dàn trải, mang tính bình quân, không gắn kết với chất lượng đào tạo của nhà trường, không tạo động lực để nhà trường nâng cao chất lượng và đáp ứng nhu cầu thị trường lao động… Học phí thấp dẫn đến suất đầu tư/sinh viên thấp khiến cho các trường không có đủ nguồn lực tập trung nâng cao chất lượng đào tạọ.
Một nguyên nhân quan trọng nữa dẫn đến tình trạng sinh viên thất nghiệp mà Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận thẳng thắn nhận định đó là thị trường lao động của Việt Nam đã được hình thành nhưng còn sơ khai, chưa có đủ thể chế để hoạt động hiệu quả. Việc quy hoạch phát triển nhân lực của các địa phương, bộ/ngành còn mang tính hình thức, chưa sát thực tế; các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức sử dụng lao động chưa chú trọng công tác định hướng và dự báo nhu cầu nhân lực cần sử dụng của mình… dẫn đến công tác quản lý lao động và việc làm gặp khó khăn và một phần do ảnh hưởng suy thoái kinh tế thời gian qua.
Bên cạnh đó, trong xã hội vẫn tồn tại tâm lý “chuộng bằng cấp”; còn phổ biến thói quen “đi xin việc”, “tìm việc” sau khi tốt nghiệp ra trường vào các cơ quan nhà nước, ở tại các thành phố lớn mà chưa có ý trí, hoài bão “tự thân lập nghiệp”, tự mình tạo ra việc làm cho bản thân và xã hội.
15 giải pháp
Tại phiên báo cáo giải trình với Chính phủBộ trưởng Bộ Giáo dục Phạm Vũ Luận đã đưa ra 15 giải pháp khắc phục và kiến nghị giải quyết tình trạng sinh viên ra trường thất nghiệp. Cụ thể:
Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người học và xã hội về cách lựa chọn ngành nghề, trình độ đào tạo phù hợp với khả năng và nhu cầu của TTLĐ; nâng cao nhận thức đối với nhà trường và người học về đào tạo và tự tích luỹ toàn diện về trình độ chuyên môn (lý thuyết nền tảng, kiến thức thực tế và kỹ năng làm việc), ngoại ngữ, kỹ năng mềm để nâng cao khả năng tìm việc làm cho SV… Đồng thời, nâng cao nhận thức của học sinh, SV để nuôi dưỡng ý trí và hoài bão “tự thân lập nghiệp”; nâng cao nhận thức của khối doanh nghiệp về sự cần thiết phải hợp tác và hỗ trợ cơ sở đào tạo.
Đẩy mạnh công tác phân luồng, định hướng giáo dục tiếp cận nghề nghiệp cho học sinh ngay từ cấp Trung học cơ sở, Trung học phổ thông để góp phần hình thành đội ngũ nhân lực theo quy mô, cơ cấu nghề nghiệp, trình độ đào tạo đáp ứng nhu cầu cơ cấu nhân lực cần sử dụng của TTLĐ.
Tăng cường điều tra, khảo sát, dự báo và đẩy mạng công tác kế hoạch… để thực hiện quy hoạch nguồn nhân lực sát thực tế, theo từng giai đoạn, ngành nghề, trình độ đào tạo
Thực hiện hiệu quả dự án hỗ trợ đào tạo giảng viên; xây dựng cơ chế xác định chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo trung cấp, đào tạo cao đẳng, đại học hàng năm trên cơ sở nhu cầu của TTLĐ, năng lực đào tạo và tỷ lệ người học tốt nghiệp có việc làm của cơ sở đào tạo; chỉ đạo các cơ sở đào tạo đầu tư nâng cao điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo, hợp tác với đơn vị sử dụng lao động để xây dựng chương trình đào tạo cân đối giữa lý thuyết và thực hành, xây dựng chuẩn đầu ra, hỗ trợ SV thực tập và đánh giá SV tốt nghiệp theo yêu cầu của TTLĐ.
Thiết lập cơ chế phối hợp giữa nhà nước, doanh nghiệp, cơ sở đào và người học trong việc nắm bắt nhu cầu sử dụng, đặt hàng đào tạo cung ứng cho người sử dụng lao động, trước mắt áp dụng thí điểm cơ chế này tại các khu công nghiệp, khu kinh tế lớn, sau đó sẽ áp dụng đồng bộ tại các ngành, địa phương trong phạm vi cả nước…
Chỉ đạo thống nhất việc quản lý nhà nước đối với GDĐH và giáo dục nghề nghiệp từ trung ương đến địa phương để làm cơ sở cho việc quy hoạch lại mạng lưới GDĐH gắn với mạng lưới giáo dục nghề nghiệp, với nhu cầu đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế xã hội của từng vùng, từng địa phương và quốc gia.
Tiếp tục xây dựng Đề án giải quyết việc làm cho SV tốt nghiệp ở trong và ngoài nước trên cơ sở điều chỉnh lại cơ quan chủ trì, phối hợp theo chức năng quản lý nhà nước của từng cơ quan…
Xây dựng hệ thống và tăng cường cung cấp thông tin về TTLĐ theo địa phương, vùng, ngành và kết nối thành thông tin TTLĐ quốc gia; thực hiện các giải pháp hữu hiệu để thu hút lao động đã qua đào tạo từ nơi dư thừa (các thành phố lớn, vùng đã phát triển) đến làm việc ở nơi có nhu cầu.
Xây dựng cơ chế, chính sách cho vay vốn ưu đãi đối với người tốt nghiệp trình độ ĐH, CĐ có nhu cầu vay vốn khởi nghiệp nhằm tạo cơ hội và khuyến khích SV chủ động tự tạo việc làm cho bản thân và những người lao động khác qua các dự án, ý tưởng sản xuất, kinh doanh, giúp người mới tốt nghiệp tiếp cận, thụ hưởng nguồn vốn cho vay ưu đãi để tạo việc làm.
Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết 77 /NQ-CP ngày 24/10/2014 về Đổi mới cơ chế hoạt động đối với cơ sở giáo dục đại học công lập; thực hiện việc phân tầng, xếp hạng, ban hành và công nhận đạt chuẩn quốc gia đối với cơ sở GDĐH…
Triển khai có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề, nhất là đào tạo nghề cho lao động nông thôn, cho vay vốn từ Quỹ quốc gia và việc làm và đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; thực hiện chính sách hỗ trợ việc làm, bảo hiểm thất nghiệp, đào tạo lại cho người lao động thất nghiệp, chuyển nghề.
Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục theo hướng: Xây dựng cơ chế đầu tư, ưu đãi về đất đai, vốn để hỗ trợ các cơ sở ngoài công lập; Xây dựng cơ chế cho thuê cơ sở vật chất ở các cơ sở công lập sau khi quy hoạch, sắp xếp lại mạng lưới trường học; Xây dựng chính sách đảm bảo sự công bằng về hỗ trợ cho nhà giáo và SV trong các cơ sở đào tạo, không phân biệt trường công lập và trường ngoài công lập để nâng cao chất lượng đào tạo ở cả hai khu vực.
Tạo môi trường đầu tư thuận lợi, phát triển kinh tế để tăng chỗ làm việc; hoàn thiện các thể chế, các yếu tố của TTLĐ; Triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW để góp phần giải quyết việc làm cho SV tốt nghiệp;
Tiếp tục chỉ đạo các nhà trường cập nhật chương trình đào tạo, xây dựng chuẩn đầu ra tương thích với khung trình độ tham chiếu ASEAN, tăng cường năng lực ngoại ngữ cho sinh viên để chủ động tham gia thị trường lao động ở các nước trong khu vực khi cộng đồng kinh tế ASEAN hình thành cuối năm 2023.
Giải pháp cuối cùng, Bộ Giáo dục kiến nghị là: Các cơ quan có thẩm quyền ưu tiên, cấp đủ ngân sách và sử dụng hiệu quả ngân sách để thực hiện các giải pháp trên.
Hồng Hạnh
Sinh Viên Ngành Phục Hồi Chức Năng Làm Gì Sau Khi Ra Trường?
Phục hồi chức năng là một trong những ngày cực hot hiện nay và nhận được sự quan tâm của đông đảo bạn trẻ. Những kiến thức cơ bản về ngành này như ngành phục hồi chức năng làm gì, kỹ năng và kiến thức cần có của một sinh viên phục hồi chức năng cũng như lựa chọn nơi nào để theo đuổi ước mơ vào ngành là điều mà rất nhiều bạn tân sinh viên tương lai cần phải tìm hiểu.
1. Ngành phục hồi chức năng làm gì?Học ngành phục hồi chức năng ra làm gì? Đó là câu hỏi mà bất cứ bạn trẻ nào cũng quan tâm khi tìm hiểu về ngành. Sau khi ra trường, bạn có thể làm việc tại khoa phục hồi chức năng của các bệnh viện, trung tâm y tế, các trường đại học, cao đẳng y tế – phục hồi chức năng, trung tâm phục hồi chức năng, các bệnh viện y học cổ truyền, các trường chuyên biệt dành cho trẻ em khuyết tật hay tổ chức của chính phủ và phi chính phủ về hỗ trợ trẻ em khuyết tật.
Công việc của kỹ thuật viên phục hồi chức năng cụ thể như sau:
Hướng dẫn người bệnh điều trị bằng các kỹ thuật, đảm bảo an toàn khi thực hiện các quy trình. Các kỹ thuật chính được thực hiện trong ngành phục hồi chức năng là nhiệt trị liệu, điện trị liệu, laser trị liệu, xoa bóp…
Thực hiện các kỹ thuật, lượng giá vật lý trị liệu phục hồi chức năng và các kỹ thuật thông thường, chuyên sâu cho người bệnh.
Thực hiện lập kế hoạch điều trị và tiên lượng thời gian phục hồi cho người bệnh.
Theo dõi tình hình tiến triển bệnh của bệnh nhân theo thời gian cụ thể đồng thời có những tác động vào tinh thần người bệnh như an ủi, động viên, hướng dẫn các điều trị bệnh.
Phối hợp với các kỹ thuật viên phục hồi chức năng khác để thực hiện các kỹ thuật điều trị.
Kiểm tra các trang thiết bị y tế trước khi đưa vào điều trị đồng thời quản lý máy móc và báo cáo cho cán bộ quản lý nếu máy móc có vấn đề trong quá trình sử dụng.
2. Những kiến thức kỹ năng nào sinh viên cần có khi học ngành phục hồi chức năng?Sinh viên học ngành phục hồi chức năng sẽ được đào tạo các kiến thức cơ sở và chuyên ngành thông qua các giờ học và thực hành. Các kiến thức cần có:
Sinh viên học ngành phục hồi chức năng cần phải nắm được các kiến thức khoa học cơ bản, y học cơ sở, nguyên lý kỹ thuật công nghệ cùng với các kiến thức chuyên môn để vận dụng vào thực tế trong quá trình thực hiện các kỹ thuật điều trị cho bệnh nhân.
Sinh viên phải hiểu biết rõ về các quy tắc, quy trình vận hành, bảo quản, bảo dưỡng các trang thiết bị, đảm bảo thực hiện quy trình và vận hành máy móc an toàn đồng thời báo cáo cho cán bộ quản lý nếu máy móc có vấn đề, hỏng hóc.
Sinh viên phải có kiến thức về phương pháp luận khoa học trong thực hành kỹ thuật, học tập, nghiên cứu khoa học.
Sinh viên cần phải tìm hiểu về pháp luật và các chính sách về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân để có thể tham gia các hoạt động y tế cộng đồng, từ thiện.
Sinh viên ngành phục hồi chức năng cần phải biết ngoại ngữ (tiếng Nhật, tiếng Anh, …) để không chỉ làm việc tại Việt Nam mà còn nâng cao cơ hội làm việc tại nước ngoài sau khi ra trường.
Thiết lập các kỹ thuật khám – lượng giá vật lý trị liệu phục hồi chức năng và thực hiện các quy trình một cách thành thạo, đảm bảo an toàn cho người bệnh.
Vận hành máy móc một cách thành thạo, cẩn thận, bảo quản trang thiết bị dựa trên nền tảng công nghệ thông tin.
Sinh viên học ngành phục hồi chức năng cần phải có khả năng làm việc nhóm, khả năng phối hợp và chia sẻ công việc với đồng nghiệp để thực hiện các kế hoạch hồi phục cho bệnh nhân. Đây là kỹ năng mà rất nhiều sinh viên ngành phục hồi chức năng còn thiếu.
3. Trường Đại học Y khoa Tokyo – nơi chắp cánh cho ước mơTrường Đại học Y khoa Tokyo Việt Nam được coi là nơi mà các bạn sinh viên có thể du học Nhật Bản ngay tại đất nước mình. Đây là ngôi trường Y khoa đầu tiên được xây dựng trên nền tảng liên kết, hỗ trợ của hai Chính phủ Việt Nam và Nhật Bản.
Tại ngôi trường danh giá này, các bạn sinh viên sẽ được học tập và đào tạo bởi các giảng viên hàng đầu ngành y của Nhật Bản và Việt Nam, những người sẽ cung cấp cho các bạn kiến thức chính xác về ngành học cùng những kinh nghiệm, kỹ năng khi vào nghề.
Trường luôn chú trọng về cơ sở vật chất để các sinh viên có thể học tập trong một môi trường đầy đủ và hiện đại nhất. Hơn 80 bàn máy tính được mở trong cả giờ học và giờ tự học, phòng thực hành dụng cụ chỉnh hình, thực hành phục hồi chức năng vật lý trị liệu có đầy đủ thiết như tay, chân giả, xe đạp thể dục, thang song song đi bộ, các loại máy vận động, … giúp sinh viên được thực hành một cách thực tế nhất. Phòng thực hành điều dưỡng và thực hành y học cơ sở cũng có đầy đủ các mô hình để sinh viên được thực hành ngay sau giờ học.
Để giúp các sinh viên có thể gắn kết với nhau trong suốt quá trình học tập, nâng cao tinh thần làm việc nhóm – điều mà rất nhiều sinh viên hiện nay còn thiếu, trường Đại học Y khoa Tokyo Việt Nam còn trang bị nhà ăn với không gian thân thiện, trung tâm đào tạo y tế Nhật Việt với không gian rộng lớn là nơi tổ chức các sự kiện, giao lưu trong các buổi lễ.
Hy vọng những chia sẻ hữu ích của chúng tôi sẽ giúp bạn có thêm cơ sở đưa ra quyết định học ngành phục hồi chức năng và biết được ngành phục hồi chức năng làm gì. Đại học Y khoa Tokyo Việt Nam sẽ là nơi chắp cánh cho ước mơ của bạn.
Giải Quyết Việc Làm Cho Sinh Viên Sau Khi Tốt Nghiệp, Đâu Là Giải Pháp (
Chúng tôi tìm đến quán cà phê nằm trong con hẻm nhỏ tại Tp. Phan Rang-Tháp Chàm, nơi Phạm Thị Mỹ Ly đang làm việc. Tạm gác việc chạy bàn, Ly tâm sự: Nhà em ở huyện Thuận Bắc, đã tốt nghiệp khoa Văn hóa, Trường Đại học Đà Lạt đến nay đã được 3 năm. Khi mới ra trường cũng háo hức xin việc làm để trả khoản nợ gần 40 triệu đồng mà gia đình đã vay của Ngân hàng Chính sách xã hội để em có điều kiện học tập. Dù đã nộp hồ sơ ở rất nhiều nơi trong tỉnh nhưng đến nay vẫn chưa có đơn vị nào tiếp nhận. Hiện tại, để phụ giúp gia đình, em phải thuê nhà trọ tại Tp. Phan Rang-Tháp Chàm để chạy bàn trong quán cà phê, với công việc bấp bênh và thu nhập không ổn định.
Phạm Thị Anh Hòa, xã Bắc Phong, Thuận Bắc cũng rơi vào tình cảnh tương tự. Tốt nghiệp khoa Lịch sử, Trường Đại học Quy Nhơn (Bình Định) gần 4 năm nay, trò chuyện với chúng tôi, Hòa cho biết: “Gia đình em thuộc diện khó khăn, lúc biết tin em đậu đại học, cả nhà ai cũng vui mừng, cố gắng vay tiền Ngân hàng Chính sách xã hội hơn 40 triệu đồng cho em đi học. Nhưng đến giờ tiền vay vẫn chưa trả hết, việc làm đúng chuyên môn cũng chưa có, mặc dù em đã nộp hồ sơ xin việc ở rất nhiều nơi…”. Để phụ giúp gia đình trả nợ và kiếm việc làm tạm thời, Hòa đã lên Lâm Đồng làm việc trong một quán cà phê.
Nhiều sinh viên nộp hồ sơ tìm việc làm tại Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh.
Những trường hợp như Ly, Hòa cũng là cảnh ngộ chung của rất nhiều sinh viên đã tốt nghiệp đại học ra trường. Ông Lê Văn Minh, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh, cho hay: Từ đầu năm đến nay, có khoảng 700 hồ sơ của thanh niên có bằng cao đẳng, đại học đến trung tâm để tìm việc làm. Thực tế trong số đó tìm được việc làm đúng chuyên môn rất ít, nhiều lao động có trình độ cao đẳng, đại học đã phải chấp nhận làm một số việc trái ngành, trái nghề, thậm chí chấp nhận cả công việc chỉ đòi hỏi trình độ lao động phổ thông. Có những lĩnh vực doanh nghiệp rất cần tuyển dụng nhưng lại thiếu, ngược lại lĩnh vực không cần thì lại rất thừa. Điều này cho thấy sự lựa chọn ngành nghề học tập chưa phù hợp, đào tạo chưa gắn với nhu cầu thực tế xã hội.
Giải pháp nào để giải quyết việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp?
Trong rất nhiều buổi tiếp xúc cử tri của Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND tỉnh, nhiều cử tri đã phản ánh tình trạng con em tốt nghiệp đại học, cao đẳng không xin được việc làm. Trên thực tế, không riêng gì tỉnh ta, tình trạng sinh viên tốt nghiệp không có việc làm đang là thực trạng chung trên cả nước. Trao đổi với chúng tôi xung quanh vấn đề này, đồng chí Châu Thị Thanh Hà, Giám đốc Sở Nội vụ, cho biết: Riêng ở khối các cơ quan nhà nước, hiện nay, việc tuyển dụng mới gần như “khép lại” vì thực hiện tinh giản biên chế hàng năm theo Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị. Do vậy, đối với các sinh viên sau khi tốt nghiệp, “kênh” tìm việc làm khả thi nhất vẫn là tại các doanh nghiệp, tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, tình trạng “cung đã vượt cầu” nên cũng rất khó khăn. Vì vậy, đối với các sinh viên của tỉnh hiện nay và trong tương lai cần phải nỗ lực trong việc học tập, trau dồi thêm kiến thức về ngoại ngữ, tin học, có như vậy cơ hội tìm việc làm sẽ thuận lợi hơn.
Còn theo đồng chí Nguyễn Bá Ninh, Giám đốc Sở GD&ĐT, để hạn chế tình trạng sinh viên tốt nghiệp khi ra trường không tìm được việc làm thì quan trọng nhất là ngay từ khi học THPT, các em phải xác định được ngành nghề mà mình chọn, nhiều em do không nắm vững được vấn đề này nên chưa có định hướng nghề nghiệp tốt. Việc tổ chức tư vấn, hướng nghiệp cho học sinh trước mỗi kỳ tuyển sinh sẽ giúp các em chọn được ngành nghề phù hợp trong tương lai, giảm tình trạng học xong cao đẳng, đại học không xin được việc làm. Ngoài ra, các em cần chọn chuyên ngành đào tạo phù hợp với nhu cầu nhân lực của địa phương, phù hợp với năng lực, trình độ của bản thân các em. Từ nay đến năm 2023, ngành sẽ đẩy mạnh việc phân luồng, phấn đấu có 30% học sinh sau THCS vào giáo dục nghề nghiệp, 70% vào THPT. Việc phân luồng học sinh sau THCS được xem là giải pháp để nâng cao chất lượng bậc học THPT và định hướng nghề nghiệp cho các em trong tương lai.
Để không rơi vào tình cảnh thất nghiệp trong tương lai, ngay từ bây giờ, học sinh THPT cần xác định được hướng đi đúng đắn trong việc chọn trường, chọn nghề, đặc biệt phải lựa chọn những ngành nghề học phù hợp với bản thân và nhu cầu việc làm của xã hội, có như thế vừa tránh được sự lãng phí về thời gian, tiền bạc, vừa tạo nguồn nhân lực có chất lượng, góp phần vào phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.
Thế Quang
Thực Trạng Và Giải Pháp Việc Làm Cho Học Sinh, Sinh Viên Cà Mau Sau Khi Tốt Nghiệp.
So với cả nước, tỷ lệ học sinh, sinh viên (HS, SV) Cà Mau ra trường không có việc làm trong những năm qua vẫn đang là con số khá khiêm tốn, nhưng trong thời điểm đất nước ta bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng, thì không có việc làm ở thanh niên thực sự là một vấn nạn xã hội, là một thách thức của phát triển, làm mất đi các cơ hội được làm việc, cống hiến và quyền được phát triển của thanh niên, làm tổn thương tinh thần và trói buộc năng lực của những người đang nuôi nhiều khát vọng tốt đẹp cống hiến cho địa phương, đất nước và cho tương lai tươi sáng của bản thân. Tuy nhiên, HS, SV Cà Mau sau khi tốt nghiệp không tìm được việc làm hoặc làm việc trái ngành đào tạo không chỉ gây thiệt hại cho bản thân HS, SV, gia đình và xã hội về kinh tế mà còn gây lãng phí nguồn lực đào tạo. 1.Mở đầu
Việc làm nói chung, việc làm cho HS, SV sau khi tốt nghiệp ra trường nói riêng là một trong những nhu cầu cơ bản của con người để đảm bảo cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Hiện nay HS, SV sau khi tốt nghiệp không tìm được việc làm là một thực trạng đáng báo động, trở thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Vì vậy, để tìm được việc làm đã khó mà có được việc làm đúng với ngành nghề đào tạo lại càng khó khăn hơn. Thất nghiệp không chỉ gây thiệt hại cho HS, SV, gia đình và xã hội về kinh tế mà còn gây lãng phí nguồn lực tri thức của đất nước.
Việc khảo sát, thống kê HS, SV có việc làm đúng ngành nghề, trái ngành nghề để nhằm định hướng khắc phục trong chỉ tiêu đào tạo, góp phần định hướng nghề nghiệp cho học sinh chọn ngành nghề phù hợp nhu cầu xã hội. Đồng thời, qua khảo sát nhu cầu thực tế để dự báo nhu cầu tương lai nhằm hoạch định được chiến lược đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh Cà Mau và có những giải pháp việc làm cho HS, SV tỉnh Cà Mau sau khi tốt nghiệp.
2. Thực trạng khảo sát việc làm của HS, SV Cà Mau sau khi tốt nghiệp
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 1200 người gồm 3 nhóm đối tượng: HS, SV Cà Mau đã tốt nghiệp giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2023 (1.000 người); Đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục ở các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp và các nhà quản lý đơn vị, doanh nghiệp (200 người); Đây là 3 nhóm đối tượng có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến tỷ lệ HS, SV có việc làm sau khi ra trường cũng như chất lượng công việc, mức độ đáp ứng nhu cầu công việc của họ sau khi tốt nghiệp ra trường.
2.1. Đối với học sinh, sinh viên:
Trong số 1000 người tham gia khảo sát, nam giới là 401 người chiếm 40,1%, nữ giới là 599 người, chiếm tỷ lệ 59,9%. Độ tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là trên 25 đến 30 tuổi, với số lượng tham gia là 382 người (38,2%), họ là những người đã tốt nghiệp và đi làm trong các đơn vị. Nhóm có số lượng lớn thứ hai là từ 20 đến 25 tuổi, với 305 người, chiếm tỷ lệ 30,5%, phần lớn họ đã tốt nghiệp cao đẳng. Cuối cùng là những người dưới 20 tuổi với 132 người (13,2%), phần lớn họ tốt nghiệp các trường trung cấp nghề.
Thấy rằng tỷ lệ người có việc làm như sau: 874 người (87,4%). Có việc làm đúng ngành nghề được đào tạo 52,3%, còn tỷ lệ lớn số người làm trái nghề đào tạo. Không có việc làm: 126 người (12,6%). Kết quả này cũng hoàn toàn phù hợp với những sai lệch trong đào tạo giữa nhu cầu xã hội cần với định hướng trong đào tạo của các cơ sở đào tạo, dẫn đến lãng phí lớn về nguồn lực. Số lượng việc làm tại các doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ lệ cao nhất với 564 người (56,4%), thứ hai là làm việc trong các đơn vị HCSN với số lượng 155 người (15,5%), đứng thứ ba là Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ 13%, làm nghề tự do chiếm 9% còn lại là làm việc tại hộ gia đình chiếm 6,1,%.
Qua khảo sát cũng thấy nguyên nhân HS, SV ra trường thất nghiệp trong đó có yếu tố tự thân của mỗi sinh viên. Mỗi sinh viên cần có sự chăm chỉ, cần cù, chịu khó để có thể đạt được ước mơ của mình. Bên cạnh đó, nếu sinh viên được định hướng nghề nghiệp trước khi học và nắm vững kiến thức chuyên môn khi tốt nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp sẽ được khắc phục. Ngoài ra, kỹ năng mềm cũng là yếu tố cần thiết mà mỗi sinh viên nên trang bị để có nhiều cơ hội hơn khi xin việc làm.
Mong muốn của học sinh, sinh viên đối với cơ sở đào tạo
HS, SV rất muốn các cơ sở đào tạo quan tâm đến các yếu tố như: Chương trình đào tạo được xây dựng dựa trên nhu cầu công việc của xã hội; Tạo được động lực cho HS, SV trong học tập hướng về khởi nghiệp; Chương trình đào tạo tập trung vào các kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm công việc của người học.
Cũng như đánh giá về thực trạng chất lượng giáo dục, thực trạng chính sách hỗ trợ HS, SV khởi việc khá thấp. Điều đó cho thấy các cơ sở đào tạo chưa đầu tư đúng mức cho vấn đề này. Trong các yếu tố trên, giá trị cao nhất thuộc về yếu tố “Hỗ trợ các cơ sở đào tạo về nguồn lực trong đào tạo HS, SV nhằm đáp ứng nhu cầu tuyển dụng và tạo cho họ động lực khởi nghiệp”. Thứ hai là “Thiết lập cơ chế tuyển dụng lao động tại địa phương đối với các nhà đầu tư”, thứ ba là yếu tố “Thiết lập được hệ thống thông tin kết nối và dễ dàng truy cập giữa cơ sở đào tạo, nhà tuyển dụng và HS, SV”… Trong số các yếu tố, giá trị cao nhất thuộc về “Nhiều hoạt động về việc làm được tổ chức thường xuyên”. Giá trị cao thứ hai là yếu tố “Hoạt động truyền thông, phổ biến kiến thức về khởi nghiệp được thực hiện thường xuyên thông qua các tổ chức và các phương tiện truyền thông”. Cả hai yếu tố trên là những tín hiệu tích cực và các tổ chức đào tạo cần phát huy hơn nữa. Yếu tố có giá trị thấp nhất là “Các nhà đầu tư đến địa phương gia tăng tạo ra nhu cầu về việc làm”.
Về nguyên nhân học sinh, sinh viên ra trường thất nghiệp:
Kỹ năng nghề nghiệp và các kỹ năng khác:
Chỉ có 48,1% trả lời công việc phù hợp tại đơn vị so với các chuyên ngành mà sinh viên được đào tạo, 10,1% trả lời là chuyên ngành gần với nhu cầu công việc và 41,8% cho rằng chuyên ngành đào tạo mà sinh viên được đào tạo không phù hợp với nhu cầu công việc và phải đào tạo lại. Đây là vấn đề tạo ra lãng phí lớn cho người học và người sử dụng lao động và các cơ sở đào tạo cần có giải pháp xử lý vấn đề này.
Về kiến thức:
Mức độ hài lòng rất thấp của các nhà tuyển dụng đối với kiến thức của HS, SV sau khi tốt nghiệp. Yếu tố hài lòng cao nhất thuộc về “Kiến thức về luật pháp và quy định của nhà nước”. Giá trị thấp nhất thuộc về yếu tố “Kiến thức chuyên môn nghiệp vụ” hài lòng thấp. Thấp thứ hai là “Kiến thức văn hóa – xã hội”. Đây là những điểm yếu mà các cơ sở đào tạo và HS, SV cần khắc phục để đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng và gia tăng cơ hội việc làm cho HS, SV sau khi tốt nghiệp.
HS, SV chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của các nhà tuyển dụng: Khả năng tự học, tự rèn luyện; khả năng thích nghi, hội nhập và phát triển; kỹ năng làm việc nhóm; kỹ năng sử dụng ngoại ngữ, kỹ năng làm việc độc lập. Cả ba yếu tố này đều đạt mức không hài lòng và cần có các biện pháp xử lý kịp thời nhằm nâng cao năng lực làm việc cho học sinh sinh viên.
3. Các giải pháp 3.1. Phân luồng giáo dục, hướng nghiệp đào tạo nghề
Đánh giá về thái độ của học sinh, sinh viên:
Các nhà tuyển dụng chưa đánh giá cao thái độ của HS, SV khi nhận việc tại các đơn vị. Không hài lòng “Có khả năng chịu áp lực công việc cao”. Đây là điểm yếu nhất trong thái độ của HS, SV và cần đưa vào giải pháp trong đào tạo.
Về khả năng đáp ứng trong năng lực chuyên môn của HS, SV: Trong số 100 người tham gia khảo sát điều tra, tỷ lệ trả lời như sau: Đáp ứng nhu cầu công việc có thể sử dụng ngay (32%); cơ bản đáp ứng nhưng phải đào tạo thêm (57%); phải được đào tạo lại hoặc đào tạo bổ sung ít nhất 06 tháng (7,2%); không đáp ứng được sau khi được đào tạo lại (3,8%). Kết quả trên cho thấy về cơ bản năng lực chuyên môn của HS, SV còn yếu và khi tiếp nhận họ các tổ chức phải đào tạo lại mới đáp ứng được nhu cầu công việc.
Việc phân luồng hướng nghiệp cho HS đóng vai trò rất quan trọng đối với việc chọn nghề, không chỉ giúp các em chọn đúng ngành nghề mà mình yêu thích, mà trong tương lai mỗi em còn chính là nguồn lao động đóng góp cho xã hội.
Để làm tốt được điều này công tác tư vấn tuyển sinh, hướng nghiệp cần có sự quan tâm sẻ chia từ chính những người hiểu rõ ngành nghề đào tạo, có tầm nhìn, kiến thức về chính nhóm lĩnh vực mà mình tư vấn, ý thức trách nhiệm cũng như tính trung thực và khách quan. Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp, phân luồng HS từ bậc trung học cơ sở, bảo đảm cho HS có định hướng đúng về ngành nghề đào tạo, có hoài bão, động cơ, thái độ học tập nghiêm túc. Nếu phân luồng tốt thì sẽ khắc phục cơ bản được tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”.
Mỗi HS phải xác định niềm đam mê, khả năng của mình phù hợp với chuyên ngành gì và tình hình sử dụng lao động ngành đó ở địa phương mình dự định làm việc. Phải tự nhận thức được khả năng của mình về nhiều mặt để từ đó có được quyết định chính xác nhất trong khâu chọn lựa nghề nghiệp. Để được hướng nghiệp, chọn nghề, chọn trường đúng, HS cần phải đặc biệt quan tâm và chú ý đến nhiều yếu tố quan trọng như là:
– Cần chọn nghề theo năng lực của bản thân: Yếu tố đầu tiên để chọn lựa nghề nghiệp chọn trường đó chính là căn cứ vào năng lực bản thân, kết quả học tập và nhất là việc dựa vào những môn xét tuyển, thi tuyển sinh đầu vào theo ngành mà HS định học.
3.2. Nâng cao chất lượng đào tạo và khuyến khích khởi nghiệp.
– Chọn nghề theo sở thích bản thân: Thông qua những sở thích của bản thân và được các cơ sở đào tạo tư vấn tuyển sinh hỗ trợ giải đáp những thắc mắc sẽ giúp HS hiểu được bản thân mình phù hợp với ngành nghề nào, trường nào để chọn cho phù hợp.
– Chọn nghề theo nhu cầu thị trường lao động: HS có thể tìm hiểu về xu hướng chọn nghề nghiệp trong từng giai đoạn để có sự phân tích chính xác hơn về nhu cầu thị trường lao động xác định được ngành nghề đào tạo phù hợp với nhu cầu xã hội, đi học vì yêu thích nghề đã chọn.
Mỗi cá nhân HS sẽ có con đường cho riêng mình nhưng có những điểm chung mà mỗi người cần là: ngoại ngữ, kỹ năng, tay nghề và khả năng nhanh nhạy về nguồn thông tin, niềm đam mê công việc.
Trong hệ thống các cơ sở đào tạo của Cà Mau hiện nay, đội ngũ giáo viên đóng vai trò quyết định trực tiếp đến chất lượng đào tạo, coi phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề là một trong những giải pháp trọng tâm quyết định đến sự phát triển và nâng cao chất lượng dạy nghề. Chính vì vậy, muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trước hết phải nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, trong đó có đội ngũ giáo viên dạy nghề. Do đó, việc đầu tiên và cấp bách là phải chuẩn hóa và phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý của các cơ sở đào tạo nghề để hình thành đội ngũ giáo viên có đủ năng lực để đào tạo chương trình chuyển giao từ nước ngoài. Ngoài ra, tăng cường các hình thức liên kết, trao đổi giảng viên giữa các trường nghề danh tiếng nhằm nâng cao trình độ cho giảng viên và trình độ đào tạo tay nghề cho các HS, SV.
Các chương trình đào tạo hiện nay, cần được thường xuyên cập nhật, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động. Chất lượng, hiệu quả đào tạo của các cơ sở đào tạo gắn với nhu cầu nhân lực của địa phương.
Cần hướng đến xây dựng theo mô hình đào tạo nghề hiện đại trên thế giới với hệ thống tổ chức quản lý hiệu quả cao của một số nước tiên tiến trong khu vực và quốc tế, cụ thể mô hình đào tạo:
– Mô hình đào tạo của Kosen (Nhật Bản): Kosen là mô hình đào tạo kỹ sư thực hành chất lượng cao được Nhật Bản áp dụng từ những năm 60 của thế kỷ trước, qua đó đáp ứng được các yêu cầu nhân lực ngày càng cao của các doanh nghiệp, đảm bảo 100% SV tốt nghiệp có việc làm.
– Mô hình đào tạo nghề “Kép” (Đức) là hình thức học lý thuyết và kỹ năng ở trung tâm đào tạo và thực hành ở doanh nghiệp trong suốt thời gian học nghề từ 3 – 3,5 năm. Học lý thuyết được tiến hành trên các module thật hoặc bài giảng 3D trên màn hình. Khi xuống doanh nghiệp, học viên hoàn toàn thực hành các kiến thức, kỹ năng đã được học tại trường trên máy móc.
3.3. Liên kết giữa cơ sở đào tạo với đơn vị sử dụng lao động.
Từ năm 2023 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (Đề án 844). Đề án gọi được vốn đầu tư từ các nhà đầu tư mạo hiểm, thực hiện mua bán và sáp nhập, với tổng giá trị ước tính khoảng 2.000 tỷ đồng. Năm 2023, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án 939 “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2023 – 2025” và Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau cũng đã xây dựng Kế hoạch 26 triển khai Đề án Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2023 – 2025. Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được Quốc hội thông qua năm 2023 và Thủ tướng cũng ban hành Quyết định 1665/QĐ-TTg hỗ trợ HS, SV khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong các trường đại học, trường dạy nghề… Cùng lúc, Trung ương Đoàn, Trung ương Hội SV, Hội liên hiệp thanh niên, Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội doanh nghiệp trẻ, các trường đại học… đã có những đề án hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo sẽ được triển khai trong năm 2023.
Vì vậy các cơ sở đào tạo ần xây dựng những mô hình “ươm tạo khởi nghiệp” cho HS, SV và kết nối với doanh nghiệp như một yêu cầu tất yếu để phát triển chương trình, tổ chức đào tạo, đánh giá SV đạt chuẩn đầu ra trước khi họ tham gia vào thị trường lao động.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, những chủ trương chính sách nêu trên sẽ tạo thuận lợi cho những dự án khởi nghiệp tốt và tạo việc làm cho người lao động qua đào tạo. Vì vậy trong quá trình đào tạo, HS, SV cần được rèn luyện kỹ năng tham gia thị trường lao động hiện đại, đặc biệt là kỹ năng khởi nghiệp, tự tạo viêc làm cho mình và cho người khác; kỹ năng thích ứng và sự linh hoạt để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của từng doanh nghiệp, ngành sản xuất, cả ở trong nước và khu vực; phải có trình độ ngoại ngữ, tin học để có cơ hội tìm kiếm việc làm, khởi nghiệp kinh doanh trong thời kỳ hội nhập.
Cần tạo động lực để thu hút nhân tài theo hướng quan tâm đúng mức tới lợi ích kinh tế và danh dự cá nhân gắn với tinh thần dân tộc; thay đổi tiêu chí, chế độ tuyển dụng, đãi ngộ; thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ nhân lực chất lượng cao, công bằng trong việc chọn lựa người tài.
3.4. Cơ chế chính sách của địa phương trong việc hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm giải quyết việc làm cho HS, SV.
Tạo điều kiện cho người lao động tham gia bồi dưỡng và tự học để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp qua đó nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực tại doanh nghiệp; có chính sách thích hợp nhằm tạo môi trường thực tập cho HS, SV khi còn học ở nhà trường.
Nếu như trước đây HS, SV chỉ có cơ hội tìm việc làm ở các đơn vị hành chính sự nghiệp nhà nước, thì hiện nay có hơn 4.540 doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh Cà Mau; sự đóng góp của các doanh nghiệp đã góp phần tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho HS, SV mới tốt nghiệp. Đây cũng được xem là hệ thống đào tạo nghề cho học HS, SV… Do đó, doanh nghiệp tạo điều kiện cho nhà trường kết nối, hợp tác nhằm giúp SV tiếp cận với các môi trường thực tế. Trong đào tạo, nếu có sự kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, sẽ góp phần giảm tải được áp lực về nguồn nhân lực, cũng là động lực để nhà trường nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn lao động, góp phần đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của doanh nghiệp. Việc hợp tác với các cơ sở đào tạo là cách hữu hiệu để tuyển dụng lao động đáp ứng yêu cầu sử dụng và cũng là thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Vì vậy phải tạo được cầu nối giữa cơ sở đào tạo và các nhà tuyển dụng thông qua các hợp đồng ký kết; Thiết lập được các cơ sở thực hành kỹ năng nghề nghiệp tại các doanh nghiệp; Xây dựng chương trình, tổ chức đào tạo, đánh giá SV đạt chuẩn đầu ra trước khi họ tham gia thị trường LĐ phải có sự tham gia của doanh nghiệp.
Đối với tỉnh Cà Mau đã chuyển từ mô hình tổ chức Hội chợ việc làm sang mô hình các Phiên giao dịch và Sàn giao dịch việc làm, đến nay một số mô hình Sàn giao dịch việc làm đã phát huy hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, góp phần tích cực trong công tác giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Cà Mau, hình thành thị trường lao động ổn định, bền vững, tin cậy và hiệu quả. Vì vậy cần tăng cường các phiên giao dịch để thu hút đông đảo số người trong độ tuổi lao động tham gia, người lao động và người sử dụng lao động có cơ hội gặp nhau.
Qui hoạch ổn định các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh Cà Mau giai đoạn (2023 – 2025), tầm nhìn 2030; phù hợp yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực. Hình thành hệ thống đào tạo nghề theo 3 cấp bậc trình độ đào tạo (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng); Chú trọng sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước với các cơ sở đào tạo và các cơ quan, doanh nghiệp nơi sử dụng nguồn nhân lực. Cung cấp thông tin về thị trường lao động; Xây dựng dự báo nhu cầu nhân lực và nhu cầu đào tạo theo cơ cấu ngành, nghề và trình độ đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương theo từng giai đoạn…
Ngoài ra địa phương cần quan tâm:
– Hỗ trợ ngành giáo dục đào tạo để có chính sách hiệu quả trong công tác phân luồng HS sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông vào học tại các trường trung cấp, trường cao đẳng.
– Đầu tư đồng bộ cho đào tạo nhân lực thuộc các ngành, nghề trọng điểm của tỉnh Cà Mau, được tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực, để có thể kết nối cung – cầu lao động phù hợp với tình hình thực tế của thị trường lao động hiện nay.
– Các ngành cần có chính sách, hỗ trợ các bên hợp tác với nhau như: quy định trong chính sách thuế, ưu đãi đầu tư, xếp hạng doanh nghiệp… đối với các doanh nghiệp tham gia vào công tác đào tạo nhân lực.
Qua nghiên cứu thực trạng việc làm của HS, SV Cà Mau sau khi tốt nghiệp ra trường (giai đoạn 2013-2023) có thể coi là một trong những vấn đề nan giải cần quan tâm của các ngành, các cấp đó là có sự “lệch pha” trong đào tạo và nhu cầu việc làm của địa phương. Những ngành hiện nay đã bão hoà không cần nhiều lực lượng lao động nhưng chiếm tỷ trọng cao trong đào tạo như Kế toán, Quản trị kinh doanh, Ngôn ngữ Anh, Tài chính ngân hàng…. Những ngành có thế mạnh của tỉnh Cà Mau, ngành kinh tế mũi nhọn và những ngành cần nhiều lao động có kỹ thuật cao như Nuôi trồng thuỷ hải sản; Chế biến thủy sản; Công nghiệp Khí – điện – đạm, và Du lịch, Nông – Lâm nghiệp phục vụ 5 ngành hàng nông nghiệp chủ lực của tỉnh. Chính vì vậy, HS, SV Cà Mau tốt nghiệp ra trường làm việc trái với ngành nghề được đào tạo chiếm tỉ lệ khá cao; điều đó không những gây lãng phí trong đào tạo mà còn đem lại cho xã hội năng xuất lao động không cao.
Ks. Nguyễn Văn Thước – ThS. Nguyên Quang Thuần
Các cơ sở đào tạo cần quan tâm hơn nữa đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho các cơ sở đào tạo nghề, cần rà soát cập nhật xây dựng lại nội dung chương trình đào tạo cho sát với thực tiễn nhu cầu xã hội, giảm lý thuyết, tăng thực hành nghề nghiệp. Gắn đào tạo với nhu cầu của thị trường lao động. Tạo điều kiện cho HS, SV có nhiều cơ hội để giao lưu, làm việc với các công ty, doanh nghiệp để họ có dịp tiếp xúc với các nhà tuyển dụng học hỏi kinh nghiệm, kiến thức nghề nghiệp, xác định mục tiêu phấn đấu rõ ràng hơn.
Trong quá trình học tập HS, SV cần tích cực học tập rèn luyện tiếp thu kiến thức chuyên môn nghiệp vụ của mình, tham gia các lớp đào tạo kỹ năng, các hoạt động xã hội, để nâng cao các kỹ năng cơ bản như: giao tiếp tự tin, làm việc theo nhóm, kỹ năng tìm việc, bồi dưỡng nâng cao các kỹ năng về vi tính, ngoại ngữ. Tăng cường công tác thực hành, thực tập chuyên môn để tạo cho mình thế mạnh khi tìm kiếm việc làm.
HS, SV tỉnh Cà Mau tốt nghiệp ra trường không có việc làm hoặc làm việc không đúng ngành nghề được đào tạo là một thách thức lớn trong sự phát triển của địa phương, nó tác động đồng thời đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, giải quyết việc làm cho HS, SV tốt nghiệp ra trường không phải là việc làm “một sớm, một chiều”, và không chỉ bằng một chính sách hay một biện pháp, mà phải được thực hiện đồng bộ cả hệ thống các giải pháp phát triển trong tiến trình thực thi chiến lược phát triển tổng thể của địa phương. HS, SV Cà Mau tốt nghiệp ra trường không có việc làm, làm việc trái ngành nghề phải được coi là một vấn đề cấp thiết, đòi hỏi những quyết sách đúng đắn của các ngành, các cấp địa phương về giáo dục – đào tạo và cả lao động – việc làm ./.
Giải Quyết Việc Làm Cho Sinh Viên Sau Tốt Nghiệp
(HNM) – Giải quyết việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp đang là mối quan tâm hàng đầu của TP Hồ Chí Minh nhằm phát huy nguồn nhân lực có trình độ đại học. Để mọi sinh viên ra trường có việc làm phù hợp với ngành nghề đào tạo, thành phố cam kết hỗ trợ các điều kiện cần thiết để tăng cường sự kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp.
Là sinh viên năm thứ 4 Trường Đại học Sài Gòn, Lê Bảo Trân cho biết mới đây nhà trường đã tổ chức ngày hội việc làm. Sau khi được tư vấn, Trân đã điền đầy đủ vào mẫu đơn đăng ký… Lê Bảo Trân rất vui vì ra trường sẽ có nhiều cơ hội được đi làm ngay. Còn Nguyễn Văn Nhân, sinh viên năm thứ 3, Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh rất mừng khi tìm được vị trí trợ giảng. “Vì chưa tốt nghiệp nên em tìm những trường có nhu cầu tuyển trợ giảng để nộp đơn đăng ký. Em muốn đi làm để có kinh nghiệm và không sợ phải thất nghiệp sau khi ra trường”, Nguyễn Văn Nhân cho hay.
Thực tế, số sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng tại TP Hồ Chí Minh hiện nay đạt 72,3%. Phần lớn sinh viên ra trường còn gặp nhiều khó khăn trong tìm việc làm ổn định do chưa định hướng đúng về nghề nghiệp – việc làm. Ông Trần Anh Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo nguồn nhân lực và thị trường lao động TP Hồ Chí Minh cho biết, hiện có không ít sinh viên chọn ngành học chưa phù hợp với năng lực, sở trường và xu hướng phát triển thị trường lao động. Còn các doanh nghiệp lại rất quan tâm tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp có kiến thức ngoại ngữ, khả năng hợp tác, kỹ năng làm việc, giao tiếp, những hiểu biết về văn hóa doanh nghiệp và tác phong công nghiệp.
Theo ông Trần Anh Tuấn, các trường đại học tại TP Hồ Chí Minh hằng năm cung cấp hơn 70.000 lao động có trình độ đại học, trong khi nhu cầu nhân lực ở trình độ này chỉ khoảng 40.000 chỗ làm việc/năm. Thị trường lao động đang thiếu trầm trọng lao động có kỹ năng thực hành, nhân lực chất lượng cao.
Nhằm phát huy nguồn lực giáo dục đại học, Tiến sĩ Đinh Công Khải, Trưởng khoa Quản lý nhà nước, Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh cho rằng, các trường cần chủ động trong công tác đào tạo và liên kết với các doanh nghiệp. Chính quyền thành phố nên tạo cơ chế động viên khuyến khích và đóng vai trò chủ chốt trong việc kết nối các cơ quan hữu quan để dự báo nhu cầu nhân lực, tránh tình trạng lãng phí trong đào tạo.
Còn Phó Giáo sư, Tiến sĩ Cao Hào Thi, Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn cho hay: “Thành phố có rất nhiều doanh nhân đang làm quản lý ở các doanh nghiệp, họ không chỉ có kinh nghiệm thực tiễn mà còn có trình độ chuyên môn… Họ có nguyện vọng tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học, báo cáo chuyên đề hoặc hướng dẫn luận văn cho sinh viên. Đây có thể xem là đội ngũ “giảng viên thực tiễn” rất có giá trị với nhà trường. Vì vậy, đề nghị các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục có chính sách công nhận đội ngũ này là giảng viên của trường đại học”.
Để giải quyết việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp, mới đây, UBND TP Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo “Liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong giải quyết việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp”. Tại hội thảo, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong cho biết, công tác giải quyết việc làm cho người lao động đã trở thành một chỉ tiêu trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hằng năm của thành phố. Bình quân mỗi năm, thành phố giải quyết trên 300.000 việc làm, tạo thêm 135.000 việc làm mới và giảm tỷ lệ thất nghiệp đô thị dưới 3,8%. Chủ tịch UBND thành phố khẳng định, giải quyết việc làm cho sinh viên là trách nhiệm của thành phố, đồng thời cam kết sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi để sớm hoàn chỉnh hệ sinh thái thị trường lao động, cũng như hỗ trợ các điều kiện cần thiết để tăng cường sự kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp, giảm khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu doanh nghiệp.
Cập nhật thông tin chi tiết về Sinh Viên Thất Nghiệp Sau Khi Ra Trường trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!