Xu Hướng 6/2023 # Sáng Kiến Kinh Nghiệm Vấn Đề Giáo Dục Đạo Đức Cho Học Sinh Lớp 3 Qua Môn Đạo Đức Ở Tiểu Học # Top 10 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Sáng Kiến Kinh Nghiệm Vấn Đề Giáo Dục Đạo Đức Cho Học Sinh Lớp 3 Qua Môn Đạo Đức Ở Tiểu Học # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Sáng Kiến Kinh Nghiệm Vấn Đề Giáo Dục Đạo Đức Cho Học Sinh Lớp 3 Qua Môn Đạo Đức Ở Tiểu Học được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

TRƯỜNG TIỂU HỌC CÁT LINH Sáng kiến kinh nghiệm Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 qua môn Đạo đức ở Tiểu học. Giáo viên: Vũ Thị Hồng Giáo viên trường tiểu học Cát Linh NĂM HỌC 2009 – 2010 Phần I: Những vấn đề chung Lí do chọn đề tài Giáo dục đạo đức là một bộ phận rất quan trong của quá trình sư phạm, đặc biệt là ở tiểu học. Nó nhằm hình thành những cơ sở ban đầu về mặt đạo đức cho học sinh tiểu học, giúp các em ứng xử đúng đắn qua các mối quan hệ đạo đức hàng ngày. Có thể nói, nhân cách của học sinh tiểu học thể hiện trước hết qua bộ mặt đạo đức. Điều này thể hiện qua thái độ cư xử đối với ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột trong gia đình, với thày cô giáo, bạn bè qua thái độ với học tập, rèn luyện hàng ngày… Đó là cơ sở quan trọng của việc hình thành những nguyên tắc, chuẩn mực đoạ đức cao hơn ở trung học cơ sở. Ở tiểu học, cụ thể là ở lớp 3, quá trình giáo dục đạo đức nhằm giúp học sinh: – Về nhận thức: Học sinh có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 3 trong các mối quan hệ của các em với những người thân trong gia đình; với bạn bè, và công việc của lớp; của trường; với Bác Hồ và những người có công với đất nước, với dân tộc; với hàng xóm láng giềng; với thiếu nhi và khách quốc tế; với cây trồng, vật nuôi và nguồn nước; với lời nói, việc làm của bản thân. – Về thái độ: Học sinh bước đầu hình thành thái độ trách nhiệm đối với lời nói, việc làm của bản thân, tự tin vào khả năng của bản thân, yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị em và bạn bè, biết ơn Bác Hồ và các thương binh liệt sĩ; quan tâm, tôn trọng với mọi người, đoàn kết hữu nghị với thiếu nhi quốc tế; có ý thức bảo vệ nguồn nước và cây trồng, vật nuôi. Để thực hiện 3 mục tiêu trên và nhất là để góp phần giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 qua môn đạo đức 3 ở tiểu học, trong năm đầu thực hiện chương trình và sách giáo khoa mới, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 qua môn Đạo đức ở Tiểu học” Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài nhằm: 1/ Tìm hiểu việc giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 qua môn Đạo đức 3 ở tiểu học. 2/ Đề xuất một số biện pháp sư phạm cần thiết để giáo dục đạo đức cho học sinh. Nhiệm vụ nghiên cứu 1/ Tìm hiểu vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đạo đức ở tiểu học. 2/ Tìm hiểu về các vấn đề lí luận giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3. 3/ Tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 qua môn Đạo đức 3 ở trường tiểu học Cát Linh. 4/ Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng. 5/ Đề xuất một số giải pháp để tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 1/ Khách thể nghiên cứu: Việc rèn luyện đạo đức của học sinh lớp 3 – trường tiểu học Cát Linh. 2/ Đối tượng nghiên cứu: Việc giáo dục đạo đức cho học sinh lớp qua môn đạo đức 3 ở tiểu học. Các phương pháp nghiên cứu Giáo dục học tiểu học 2 (GS – TS Đặng Vũ Hoạt và TS Nguyễn Hữu Hợp) Chuyên đề giáo dục tiểu học. Bộ sách đạo đức 3 – Bộ Giáo dục đào tạo. Phương pháp điều tra: Trao đổi với giáo viên dạy môn đạo đức lớp 3 về những khó khăn, thuận lợi trong qua trình giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 thông qua môn Đạo đức 3. Phương pháp thực nghiệm: Kiểm tra tính khả thi và tác dụng của việc giáo dục đạo đức cho học sinh qua bài học Đạo đức. Phần II: Nội dung và kết quả nghiên cứu Chương I Cơ sở lí luận của đề tài Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đạo đức ở tiểu học Thế nào là đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học? Đổi mới phương pháp dạy học có thể hiểu là tìm con đường ngắn nhất để đạt được chất lượng và hiệu quả dạy học cao. Con đường này không co sẵn, không bằng phẳng, nó khúc khuỷu, gập ghềnh; đan xen giữa cái chung và cai riêng, cái cũ và cái mới. Đổi mới phương pháp bao hàm cả hai mặt: Phải đưa vào các phương pháp dạy học mới đồng thời tích cực phát huy những ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống. Đổi mới phương pháp là sự phối hợp đồng bộ của nhiều khâu: Bồi dưỡng giáo viên, biên soạn sách giáo khoa, thiết bị dạy học, đánh giá học sinh và quản lí chỉ đạo. Tại sao phải đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học? Đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục tiểu học. Phát huy tính năng động, sáng tạo trong phương pháp dạy học. Điều kiện cơ sở vật chất, môi trường học tập không giống nhau. Cập nhật thông tin, góp phần tích cực để đạt được mục tiêu dạy học. Việc đổi mới phương pháp dạy học được tiến hành như thế nào? Quá trình quản lí chỉ đạo chuyên môn cho thấy rằng thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học cần tập trung vào những vấn đề sau: Áp dụng hiệu quả các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học mới: Dạy học đảm bảo sự thống nhất hợp lí hai yêu cầu đồng loạt và cá thể. Dạy học hợp tác nhóm. Dạy học tự phát hiện. Sử dụng phương tiện thiết bị dạy học hiện đại trong đổi mới phương pháp dạy học Thực hiện tốt quy trình dạy học hoà nhập. Xây dựng môi trường học tập thuận lợi cho học sinh. Đầu tư cơ sở vật chất thiết bị theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, số lượng học sinh trên mỗi lớp phải hợp lí (35 em). Xây dựng phòng học và tổ chức không gian lớp học mang tính thẩm mĩ, sư phạm. Môi trường học tập thuận lợi sẽ tác động tích cực đến sự thành công của đổi mới phương pháp dạy học. Sử dụng hợp lí, sáng tạo đồ dùng dạy học đã có và tự làm Đổi mới phương pháp soạn bài. Đổi mới công tác quản lí chỉ đạo. Quan điểm chung về đổi mới phương pháp dạy học môn đạođức ở lớp 3: Dạy học môn đạo đức cần đi từ quyền trẻ em, từ lời ích của trẻ em đến trách nhiệm, bổn phận của học sinh. Cách tiếp cận đó sẽ giúp cho việc dạy học đạo đức trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn, giúp cho học sinh lĩnh hội và thực hiện hành vi tự giác hơn, tránh được tính chật nặng nề, áp đặt trước đây. Dạy học môn đạo đức sẽ chỉ đạt hiệu quả khi học sinh hứng thú và tích cực, chủ động tham gia vào quá trình dạy học. Dạy học môn đạo đức phải là quá trình giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động, phát huy vốn kinh nghiệm và thói quen đạo đức, tự khám phá và chiễm lĩnh tri thức mới, khái niệm mới. Dạy học môn đạo đức phải gắn bó chặt chẽ với cuộc sống thực của học sinh. Các truyện kể, tình huống, tấm gương, tranh ảnh,…sử dụng để dạy học đạo đức phải lấy chất liệu từ cuộc sống thực của học sinh. Điều đó sẽ giúp cho bài học đạo đức thêm phong phú, gần gũi, sống động đối với các em. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học môn đạo đức đều có mặt mạnh và hạn chế riêng, phù hợp với từng loại bài riêng, từng khâu riêng của tiết dạy. Vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên cần căn cứ vào nội dung, tính chất từng bài, căn cứ vào trình độ học sinh và năng lực, sở trường của bản thân, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của trường mình, lớp mình mà lựa chọn, sử dụng kết hợp các phương pháp và hình thức dạy học hợp lí, đúng mức để giáo dục đạo đức cho học sinh qua các bài đạo đức. Các vấn đề lí luận về giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 Chương trình môn đạo đức ở lớp 3 bao gồm 14 bài phản ánh các chuẩn mực hành vi đạo đức cần thiết, phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng và môi trường tự nhiên. Ở mỗi bài đạo đức đều phải thực hiện các nhiệm vụ và nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh như: Giáo dục ý thức đạo đức Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức. Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức. Giáo dục ý thức đạo đức Giáo dục ý thức đạo đức nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức đạo đức cơ bản, sơ đẳng về chuẩn mực hành vi, hình thành niềm tin đạo đức cho học sinh. Các chuẩn mực hành vi này được xây dựng từ các phẩm chất đạo đức, chúng phản ánh các mối quan hệ hàng ngày của các em. Đó là: Quan hệ cá nhân với xã hội: Kính yêu Bác Hồ, biết ơn thương binh liệt sĩ, yêu quê hương, làng xóm, phố phường của mình… yêu mến và tự hào về trường, lớp, giữ gìn môi trường sống xung quanh… Quan hệ cá nhân với công việc, lao động: Biết chăm chỉ, kiên trì, vượt khó trong học tập, tích cực tham gia các công việc lao động khác nhau. Quan hệ cá nhân với những người xung quanh: Hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ, quan tâm giúp đỡ anh chị em trong gia đình, tôn trọng, giúp đỡ, đoàn kết với bạn bè, với thiếu nhi quốc tế, tôn trọng và giúp đỡ hàng xóm láng giềng… theo khả năng của mình. Quan hệ cá nhân với tài sản xã hội, tài sản của người khác: Tôn trọng và bảo vệ tài sản của nhà trường, của nhà nước và của người khác… Quan hệ cá nhân với thiên nhiên: Bảo vệ môi trường tự nhiên xung quanh nơi học, nơi chơi, bảo vệ cây trồng, cây xanh có ích, động vật nuôi, động vật có ích, diệt trừ động vật có hại, bảo vệ nguồn nước… Quan hệ cá nhân với bản thân: khiêm … án thành. + Thẻ màu trắng: lưỡng lự. ? Vì sao con tán thành (không tán thành) ý kiến đó? ? Con đã được ông bà, cha mẹ thương yêu,chăm sóc như thế nào? – GV nhận xét, kết luận 2/ Hoạt động 2: Xử lí tình huống và đóng vai. – GV mời một nhóm đóng vai tình huống mở sau: “Ông của Huy có thói quen đọc báo hàng ngày. Nhưng mấy hôm nay ông bị đau mắt nên không đọc báo được.” GV nêu yêu cầu: ? Nếu em là bạn Huy, em sẽ làm gì? vì sao? – Mời các nhóm lên xử lí. – GV hỏi: Ai đặt tên cho tiểu phẩm? ? Theo con nhóm nào thể hiện thương ông nhất? ? Kể tên những việc nhóm 2 làm thể hiện quan tâm ông? – Hỏi HS đóng vai ông: con nghĩ gì khi người cháu của nhóm 2 quan tâm? – GV chốt ý. 3/ Hoạt động 3: Liên hệ bản thân. – Yêu cầu HS tự liên hệ bản thân theo các gợi ý: ? Hàng ngày con thường làm gì để quan tâm, chăm sóc đối với ông bà, cha mẹ, anh chị em? ? kể lại 1 lần khi ông bà, cha mẹ, anh chị em ốm đau (hoặc gặp khó khăn, có chuyện buồn) em đã làm gì để quan tâm giúp đỡ họ? ? Bạn đã quan tâm, chăm sóc đến người thân trong gia đình chưa? – GV tuyên dương những học sinh đã biết quan tâm, chăm sóc những người thân. Khuyên nhủ những học sinh chưa biết quan tâm, chăm sóc những người than trong gia đình. – GV gợi ý để học sinh tự điều khiển chương trình, tự giới thiệu tiết mục. 5/ Củng cố – Dặn dò: – GV củng cố bài, nhận xét giờ học, tuyên dương 1 số học sinh tích cực học tập. – Dặn học sinh: + Thực hiện việc quan tâm, chăm sóc những người thân trong gia đình. + Chuẩn bị bài học sau: “Chia sẻ vui buồn với bạn” – HS hát tập thể – 1-2 HS trả lời – 2 HS: Bài hát nói lên tình cảm yêu thương giữa những người thân trong gia đình. – Một số học sinh lần lượt kể. – HS trao đổi với nhau trong nhóm theo yêu cầu. – 1 số HS trình bày trước lớp. – HS lớp suy nghĩ trả lời. + Các bạn ấy sẽ được nhận làm con nuôi, được xã hội giúp đỡ, quan tâm… HS lắng nghe. 1 HS kể lại hoặc đọc lại. + Chị em Ly đã hái những bông hoa dại ven đường xếp thành một bó và đem tặng mẹ nhân ngày sinh nhật. + Khi nhận hoa, mẹ vui mừng ôm hai chị em Ly vào lòng và nói: “Đây là bó hoa đẹp nhất mà mẹ được tặng đấy” + Vì mẹ Ly thấy 2 con mình đã nhớ đến sinh nhật của mẹ mà chính bản thân mẹ quên mất sinh nhật mình, chị em Ly đã biết quan tâm, chăm sóc đến mẹ khiến mẹ rất vui và hạnh phúc. – Cả lớp trao đổi bổ sung. – 2-3 HS trả lời. + Con cháu có bổn phận phải quan tâm, chăm sóc ông bà,cha mẹ và những người thân trong gia đình. + Sự quan tâm, chăm sóc của các em sẽ mạng lại niềm vui, hạnh phúc cho ông bà, cha mẹ và mọi người trong gia đình. – 1 HS đọc kết luận cuối bài, cả lớp đọc đồng thanh. – HS các nhóm mở vở bài tập. – 1 HS đọc yêu cầu của bài tập 3. – Đại diện các nhóm trình bày (Mỗi nhóm trình bày ý kiến nhận xét về một tình huống). + Việc làm của các bạn thể hiện tình thương yêu chăm sóc và sự quan tâm ông bà, cha mẹ: Hương (tình huống a), Phong (tình huống c), Hồng (tình huống d). + Việc làm của các bạn chưa quan tâm đến bà, em nhỏ: Sâm (tình huống b), Linh (tình huống d). – HS liên hệ để trả lời. – HS kể – 1 số HS trả lời. – HS đọc từng ý kiến sau mỗi lần GV đưa ra. – HS bày tỏ thái độ bằng cách giơ các tấm thẻ màu. – HS giải thích lí do tán thành, không tán thành từng ý kiến. – HS khác nhận xét bổ sung. – HS kể. – 1 nhóm học dinh đóng vai tình huống mở, lớp theo dõi. – các nhóm lên đóng vai. Ví dụ: + Nhóm 1: Đi chơi, mặc kệ ông và không quan tâm đến ông. + Nhóm 2: Lấy thuốc cho ông uống, đọc báo cho ông nghe. – HS: Ông và cháu, cháu thương ông nhất… – Nhóm 2 – Giúp ông uống thuốc, đọc báo cho ông nghe. – HS: con thấy rất vui. – Mỗi tổ cử 2-3 đại diện lên liên hệ, HS lớp lắng nghe. – HS nhận xét. – HS tự giới thiệu và biểu diễn các tiết mục đan xen. Như vậy những nhiệm vụ và nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua bài học này đựơc giải quyết như sau: 1/ Giáo dục ý thức đạo đức: Yêu cầu của chuẩn mực: Giúp học sinh hiểu: Con cháu trong gia đình cần phải quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em. Quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em làm cho gia đình ấm hơn hạnh phúc hơn. Ý nghĩa , tác dụng, tác hại. Cần quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em vì: + Ông bà sinh ra cha mẹ, cha mẹ sinh ra ta, là những người có công sinh thành, nuôi dưỡng ta khôn lớn, dành cho ta những gì đẹp nhất. + Làm cho ông bà, cha mẹ, anh chị em: Phấn khởi, mau khỏi bệnh, chia sẻ bớt công việc với mọi người trong gia đình, giúp gia đình đầm ấm, bản thân học sinh được ông bà, cha mẹ, anh chị em yêu thương, quý mến, khen ngợi. Tác hại: nếu không quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em làm cho ông bà, cha mẹ, anh chị em buồn phiền, sức khoẻ giảm sút, lâu lành bệnh, không khí gia đình nặng nề, bản thân học sinh bị mọi người xung quanh chê cười. Để quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em em cần làm gì? làm như thế nào? Khi ông bà, cha mẹ già yếu: Bưng cơm, mời nước, đọc sách báo. Khi ông bà, cha mẹ, anh chị em ốm đau: mua thuốc, nấu cơm, cháo. mua đồ ăn, mời bác sĩ khám bệnh… Khi ông bà cha mẹ mệt nhọc: Xách đồ hộ, lấy nước uống… Khi có miếng ngon, vật quý: mời ông bà, cha mẹ, anh chị em ăn trứơc. Khi anh chị em bận việc: Không nghịch đồ, làm ồn… Hình thành ở học sinh những thái độ tình cảm: Đối với ông bà, cha mẹ: Kính yêu, biết ơn; anh chị em: kính yêu, nhường nhịn. Thực hiện việc quan tâm, chăm sóc một cách tự nguyện, tận tình, chu đáo. 3/ Giáo dục hành vi thói quen quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em: Hình thành ở học sinh những hành vi thể hiện sự quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em, trong cuộc sống hang ngày khi ông bà, cha mẹ, anh chị em ốm đau, mệt nhọc… Để học sinh thể hiện sự quan tâm chăm sóc ông bà, cha mẹ. anh chị em, tôi tiến hành điều tra bằng cách phát phiếu điều tra và yêu cầu học sinh điền vào rồi báo cáo kết quả sau (sau 1tháng). Thời gian Công việc em quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em Kết quả Thứ……………. Ngày………….. Nhận xét của giáo viên Nhận xét của ông bà, cha mẹ, anh chị em Kết quả đạt được như sau: Tổng số học sinh HS biết quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em HS chưa biết quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em. Tổng số % Tổng số % 93 85 91,4 8 8,6 B/ Nguyên nhân của thực trạng trên: Qua thực tế giảng dạy tôi còn thấy một số hạn chế, tồn tại trong việc giải quyết các nhiệm vụ, nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua bài học là do: Đây là năm đầu tiên thực hiện chương trình và sách giáo khoa mới nên việc chuyển tải toàn bộ nộ dung và nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh qua bài học cần phải dần dần. Học sinh lớpp 3 còn nhỏ(9 tuổi) nên trong gia đình các em được quan tâm, chăm sóc nhiều hơn, do đó các em còn lúng túng trong khi thực hiện quyền và bổn phận của mình đối với người thân trong gia đình; còn một số học sinh chưa biết quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em của mình. Chương III Một số đề xuất kiến nghị Xuất phát từ những nguyên nhân trên tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nhằm phát huy những kết quả tích cực đạt được, khắc phục những tồn tại góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh qua các tiết hoc. 1/ Đối với giáo viên: Cần tìm hiểu đặc điểm riêng của mỗi học sinh để có biện pháp giáo dục đạo đức phù hợp. Luôn lấy những câu chuyện, tấm gương gần gũi với học sinh hoặc của chính gia đình học sinh, giúp bài hoc đạo đức thêm phong phú gần gũi, sống động đối với các em và các em cũng tiếp nhận bài học nhẹ nhàng sinh động và hiệu quả. Người giáo viên cần phối hợp với các lực lượng đạo đức trong nhà trường và trong gia đình học sinh để cùng có biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh, giúp cho việc giáo dục đạo đức được gắn liền với thực tiễn. 2/ Về phía nhà trường: Cần tổ chức cho các em tham gia vào hoạt động tập thể, giúp các emmạnh dạn, có cơ hội bộc lộ những phẩm chất đạo đức từ đó giúp giáoviên có biện pháp giáo dục đạo đức cho các em hợp lí. 3/ Về phía gia đình học sinh: Cần phối hợp với các lực lượng giáo dục trong nhà trường để có biện pháp giáo dục đạo đức cho con em mình, không quá nuông chiều các em, không làm thay, làm hộ các em những việc vừa sức với lứa tuổi. Tạo điều kiện để các em phát triển toàn diện nhân cách. Phần III: Kết luận Qua thời gian tìm hiểu và nghiên cưu đề tài này tôi thấy vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các môn học, đặc biệt là môn Đạo đức ở tiểu học là rât cần thiết; đó cũng là nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục ở tiểu học. Qua đề tài này tôi đã thu được những kết quả sau: Tìm hiểu những vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đạo đức ở tiểu học, từ đó thấy được sự cần thiết phaie đổi mới phương pháp và nắm được một số giải pháp triển khai để đổi mới phương pháp dạy học đạo đức ở tiểu học. Nắm được các vấn đề lí luận về giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 để vận dụng chúng vào những bài học cụ thể. Thấy rõ thực trạng của vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 3 qua môn đạo đức 3 ở trường tiểu học. Từ đó có kết hoạch, biện pháp giáo dục hợp lí, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường cùng giáo dục đạo đức cho học sinh; góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh, giúp các em không chỉ là trò giỏi mà còn là những người con hiếu thảo, ngoan ngoãn. Tài liệu tham khảo Giáo trình giáo dục tiểu học 2 (GS – TS Đặng Vũ Hoạt; TS. Nguyễn Hữu Hợp)- NXB Đại học Sư phạm. Bộ sách đạo đức 3. Chuyên đề giáo dục tiểu học- Vụ GD tiểu học – 2004. Phương pháp nghiên cứu KHGD-NXBBGD.

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Giáo Dục Đạo Đức Học Sinh Thcs

dự lòng tự trọng của cá nhân học sinh để răn đe những hành vi thiếu đạo đức và ngăn ngừa sự tái phạm của học sinh đó và những học sinh khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực, không được lạm dụng phương pháp này. Khi xử phạt cần phải làm cho học sinh thấy rõ sai lầm, khuyết điểm, thấy hối hận và đặc biệt sau đó phải theo dõi, giúp đỡ, động viên học sinh sửa chữa khuyết điểm, cần phải tỏ rõ thái độ nghiêm khắc nhưng không có lời nói, cử chỉ thô bạo đánh đập, xỉ nhục hoặc các nhục hình xúc phạm đến thân thể học sinh. 2.2 Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09 năm 2011 đến tháng 12 năm 2012 B. NỘI DUNG I. MỤC TIÊU: 1. Những nhiệm vụ của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh: Để hình thành phẩm chất đạo đức cho học sinh, công tác giáo dục đạo đức nói chung và giảng dạy các môn giáo dục nói riêng trong nhà trường phải thực hiện các nhiệm vụ sau: Hình thành cho học sinh có ý thức tự giác về các hành vi ứng xử của bản thân phải phù hợp với lợi ích xã hội; giúp học sinh lĩnh hội được một cách đúng mức các chuẩn mực đạo đức được quy định. Biến kiến thức đạo đức thành niềm tin, nhu cầu của mỗi cá nhân để đảm bảo các hành vi cá nhân được thực hiện. Bồi dưỡng tình cảm đạo đức, tính tích cực và bền vững, và các phẩm chất ý chí để đảm bảo cho hành vi luôn theo đúng các yêu cầu đạo đức. Rèn luyện thói quen hành vi đạo đức để trở thành bản tính tự nhiên của mỗi cá nhân và duy trì lâu bền thói quen này. Giáo dục văn hóa ứng xử đúng mực thể hiện sự tôn trọng và quý trọng lẫn nhau của con người. Giáo dục HS thành một công dân hoàn thiện cả tài và đức. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI: Xuất phát từ những thực trạng của công tác giáo dục cho học sinh của trường THCS An Tân và tổng hợp kinh nghiệm thực tiễn đơn vị đã đề ra các biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh của trường trong giai đoạn hiện nay như sau: 1. xây dựng trong nhà trường một môi trường thật tốt để giáo dục đạo đức cho học sinh: 1.1 Ý nghĩa: Một trong các yếu tố góp phần hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh là: Cảnh quan sư phạm, làm sao để nhà trường thật sự là "nhà trường", là môi trường mang yếu tố giáo dục. Giáo dục nhà trường giữ vai trò chủ đạo vì nó định hướng cho toàn bộ quá trình giáo dục hình thành nhân cách của học sinh, khai thác có chọn lọc những tác động tích cực và ngăn chặn những tác động tiêu cực từ gia đình và xã hội. 1.2 Nội dung: - Tổ chức, sắp xếp, tu sửa, cải tạo bộ mặt vật chất, khung cảnh của nhà trường làm sao cho toàn trường đều toát lên ý nghĩa giáo dục thân thiện đối với học sinh: Vừa qua được sự đầu tư của các cấp lãnh đạo môi trường cảnh quan của trường ngăn nếp, sạch đẹp đã góp phần thu hút học sinh ham thích đến trường và ham thích hoạt động. - Tạo nên bầu không khí giáo dục trong toàn trường và ở mỗi lớp học, hình thành nên một nề nếp sinh hoạt của nhà trường, biểu hiện như sau: Nề nếp tốt: Phát huy tinh thần tự quản của học sinh, trật tự, vệ sinh, ngăn nắp, nghiêm túc có nội quy từng lớp và toàn trường. Có quan hệ tốt giữa các thành viên trong trường: giữa thầy với thầy, giữa thầy với trò, giữa học sinh với nhau. Trong các mối quan hệ phải thực sự đúng mực, hài hòa; giáo viên thương yêu tôn trọng học sinh. Học sinh không vô lễ, không khúm núm sợ sệt, yêu mến và tin tưởng thầy cô. Học sinh đối với nhau thì đoàn kết, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, không thù hằn, bè cánh đánh nhau, không nói tục chửi bậy, không tham gia vào tệ nạn xã hội. 1.3 Cách làm: Về Ban giám hiệu: - Xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh ngay từ đầu năm học trên cơ sở dựa vào tình hình thực trạng đạo đức của học sinh, tình hình thực tế của địa phương để định ra, nội dung, biện pháp, thời gian, chỉ tiêu cho phù hợp. - Thường xuyên nắm tình hình tư tưởng đạo đức của học sinh một cách cụ thể thường xuyên, lâu dài, phổ biến và những tình hình có tính chất thời sự, cá biệt có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đối với học sinh từ đó có biện pháp khắc phục. - Quản lý sâu sát lực lượng GVCN đây là lực lượng quan trọng và quyết định sự hình thành nhân cách của HS. - Thành lập tổ giám thị cung cấp thông tin về GV và HS để kịp thời uốn nắng và giáo dục những hành vi sai chuẩn mực. - Thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục, đầu tư ngân sách để cải tạo cảnh quang sư phạm: trồng cây xanh, hoa kiểng, trang trí các khẩu hiệu, nội quy của từng phòng học và trong khu vực trường, xây dựng cổng rào an toàn cho học sinh. - Thường xuyên tổ chức lao động vệ sinh trường lớp, trồng cây xanh thông qua buổi lao động thường xuyên cần giáo dục đầy đủ mục đích, ý nghĩa công việc cho học sinh, phải có phân công nhiệm vụ cụ thể cho lớp, quy định rõ thời gian và kết quả phải đạt được, phải có kỷ luật, biểu dương kịp thời những học sinh tốt, tập thể lớp tốt. Cũng năm 2011 - 2012 nhà trường cũng có kế hoạch phân công khu vực lao động thường xuyên ở khu vực sân trường và khu WC trong quá trình theo dõi thấy có hiệu quả. Tổ chức họp tham khảo ý kiến hội đồng giáo viên để đưa ra những quy định cụ thể về nội quy nhà trường, nhiệm vụ của học sinh, dựa trên cơ sở điều lệ trường trung học cơ sở của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Kết hợp với chính quyền địa phương giải tỏa các hàng quán trước cổng trường, xử lý những HS vi phạm có tính chất nghiêm trọng và các điểm vui chơi giải trí và truy cập internet xung quanh trường theo đúng quy định của ngành chức năng. Tổ chức các phong trào thi đua thường xuyên, liên tục, bảo đảm tính công bằng, trung thực, phù hợp với năng lực và nhu cầu của các em. Quán triệt chung giáo dục đạo đức HS là trách nhiệm của HĐSP nhà trường mà nòng cốt là GVCN. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm xây dựng lớp thành những tập thể vững mạnh, có lực lượng cốt cán làm nòng cốt, làm hạt nhân cơ bản của lớp, là trợ thủ đắc lực cho giáo viên chủ nhiệm. Đối với giáo viên Phải gương mẫu về mọi mặt, đoàn kết, nhất trí thành một khối thống nhất có tác dụng giáo dục mạnh mẽ đối với học sinh. Phải không ngừng tự hoàn thiện nhân cách của mình, phải thương yêu, tôn trọng, tin tưởng học sinh, có ý thức trách nhiệm về mọi hành vi ngôn ngữ, cử chỉ của mình đối với học sinh, đồng nghiệp, bản thân phải là tấm gương cho học sinh noi theo. Cung cấp thông tin của HS cho GVCN nắm bắt và kịp thời giáo dục. Đối với Đoàn đội: Chủ động phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn tổ chức tốt phong trào thi đua học tập, rèn luyện đội viên theo năm điều Bác Hồ dạy. Tổ chức chào cờ đầu tuần nhận xét hoạt động tuần qua đó phê bình những cá nhân hoặc tập thể chưa tốt, sinh hoạt đội hàng tuần để tuyên truyền giáo dục và rèn luyện HS có ý thức tốt. Tổ chức các hoạt động thi đua và các hoạt động ngoại khóa tạo sân chơi lành mạnh cho các em. Thành lập BTĐ của Liên Đội mục đích theo dõi các hoạt động của HS qua đó thông báo cho GVCN các HS có những biểu hiện xấu để kịp thời phát hiện giáo dục. Giáo dục tinh thần yêu nước cho các em thông qua việc sưu tầm địa chỉ đỏ, thăm viếng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở địa phương, chăm sóc đền thờ liệt sĩ, viếng thư thăm hỏi các chú bộ đội ở đảo Trường xa . 2. nâng cao vai trò, vị trí và chất lượng giảng dạy bộ môn GDCD 2.1 Ý nghĩa: Môn GDCD có vai trò, vị trí rất quan trọng trong giáo dục nhân cách học sinh, đặc biệt trong việc xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân cho học sinh THCS, vì thông qua các bài học người giáo viên sẽ trang bị, hình thành cho học sinh những phẩm chất, những chuẩn mực, hành vi đạo đức cần thiết trong cuộc sống một cách có hệ thống, đúng phương pháp, đúng quy trình. 2.2 Nội dung: Làm cho Cha mẹ học sinh, cán bộ giáo viên biết tầm quan trọng của môn GDCD đối với công tác giáo dục đạo đức cho học sinh , để từ đó họ có sự thay đổi nhận thức và có những hành động tích cực hơn. Giáo viên là lực lượng quyết định việc nâng cao chất lượng giáo dục, do đó giáo viên nhất là giáo viên dạy GDCD phải được đào tạo chính quy đúng chuyên ngành giảng dạy, phải thường xuyên được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, phải xác định được vai trò, vị trí của môn GDCD, trách nhiệm của bản thân, Giáo viên dạy môn GDCD cần quán triệt mục tiêu môn học trong quá trình dạy học. Phải nắm rõ cái đích cuối cùng cần đạt được trong dạy học GDCD là hành động phù hợp với các các chuẩn mực đạo đức, pháp luật. Nếu học sinh không có chuyển biến trong hành động thì việc dạy học không đạt hiệu quả. Chương trình môn GDCD là sự nối tiếp việc dạy và học môn đạo đức ở tiểu học, đồng thời chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên trên hoặc đi vào cuộc sống lao động Đổi mới kiểm tra, đánh giá môn GDCD là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh 2. 3 Cách làm cụ thể đối với môn GDCD: Đối với Ban giám hiệu nhà trường Tham mưu với UBND xã tổ chức chuyên đề về giáo dục đạo đức học sinh cho cán bộ, đảng viên và giáo viên trong toàn xã, thông qua đó quán triệt nhận thức nâng cao vai trò vị trí của bộ môn GDCD trong nhà trường. Triển khai các văn bản hướng dẫn thực hiện chương trình môn GDCD, quy chế 40 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc đánh giá xếp loại học sinh THCS. Kiểm tra việc thực hiện chương trình, hồ sơ sổ sách, giáo án, dự giờ các tiết lên lớp của giáo viên dạy môn GDCD. Đầu tư mua sắm sách, báo, tài liệu, trang bị tủ sách pháp luật, tạo điều kiện tốt cho giáo viên tham khảo và cập nhật kiến thức phục vụ giảng dạy bộ môn GDCD. Đối với giáo viên dạy môn GDCD Phải tự rèn luyện bản thân để có những phẩm chất và năng lực của người giáo viên, có trình độ chuyên môn và năng lực giảng dạy tốt. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực và tương tác của học sinh. Nghiên cứu nắm vững các văn bản quy định về chương trình giảng dạy môn GDCD, chế độ cho điểm đánh giá chất lượng bộ môn. Tích cực sưu tầm, sáng tạo đồ dùng dạy học tự làm, cải tiến đồ dùng dạy học hiện có để gây hứng thú cho học sinh khi học trên lớp. Khi dạy trên lớp thường xuyên quan sát hành động và thái độ học tập, hành vi đạo đức của học sinh để đưa ra những kết luận đúng đắn về tình hình lớp giúp ban giám hiệu và giáo viên chủ nhiệm nắm để có biện pháp kịp thời uốn nắn các em. Trong kiểm tra ngoài việc cho đề kiểm tra giống như các môn khác cần thiết kế thêm các bài tập tình huống, lập kế hoạch, viết báo cáo 3. Đổi mới công tác chủ nhiệm lớp là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạoo đức cho học sinh: 3.1 Ý nghĩa: GVCN có vai trò rất to lớn trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, vì GVCN là người quản lý toàn diện học sinh của lớp được phụ trách, là cầu nối giữa Ban giám hiệu với các tổ chức trong nhà trường, các giáo viên bộ môn với tập thể lớp, là người cố vấn tổ chức các hoạt động tự quản của lớp, đồng thời là người đứng ra phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục của trường. Xuất phát từ thực trạng công tác chủ nhiệm của trường, việc đưa ra các biện pháp giúp GVCN định hướng đổi mới công tác chủ nhiệm cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương đối với công tác giáo dục đạo đức học sinh trong giai đoạn hiện nay. 3.2 Nội dung: - GVCN phải Tìm hiểu đặc điểm tình hình lớp, tình hình học sinh: Đầu năm học GVCN phải thu thập thông tin về gia đình học sinh như: nơi ở, hoàn cảnh sống, lối sống, hoàn cảnh kinh tế gia đình, cách giáo dục của gia đình, sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái, quan hệ của gia đình láng giềng. Việc tìm hiểu này sẽ giúp GVCN kết hợp tốt với gia đình trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. GVCN Phải nắm được đặc điểm học sinh về: sức khỏe, đạo đức, năng lực học tập, động cơ học tập, quan hệ của học sinh với cha mẹ, Ông bà, anh chị em trong gia đình, ở trường với thầy cô, bạn bè và ngoài xã hội, cộng đồng. Việc tìm hiểu học sinh về mọi mặt là rất cần thiết từ đó thấy được nguyên nhân dẫn đến thực trạng về đạo đức học sinh. GVCN cần nắm bắt số điện thoại của phụ huynh HS để kịp thời liên lạc với phụ huynh khi có tình huấn xấu xảy ra hoặc HS cá biệt cố tình không cung cấp thông tin của GVCN về cho phụ huynh nắm. Ngoài ra GVCN phải tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của HS, hoạt động, mối quan hệ giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên, sự đoàn kết của lớp mình chủ nhiệm. Xây dựng những truyền thống tốt đẹp của lớp Các hoạt động của lớp sẽ trở thành truyền thống nếu tạo cho nó được lặp đi lặp lại và trở thành thói quen. Phải trân trọng truyền thống sẳn có của lớp, tiếp tục xây dựng truyền thống mới cho lớp trong điền kiện cụ thể. Rèn luyện khung cán sự lớp có khả năng quản lý và tự quản tốt. Tích cực tham gia vào công tác đánh giá xếp loại hạnh kiểm, xét thi đua, khen thưởng và kỷ luật học sinh công bằng khách quan với tư cách là người bảo vệ quyền lợi chính đáng cho học sinh. GVCN nắm vững đường lối quan điểm của Đảng về công tác giáo dục, mục tiêu giáo dục, mục tiêu cấp học, lớp học kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục, dạy học của học kỳ, năm học: Để vận dụng tốt vào công tác chủ nhiệm của mình, GVCN phải nắm vững mục tiêu giáo dục, mục tiêu cấp học, lớp học, kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục, dạy học của học kỳ, năm học. Để cho học sinh thực hiện chủ động, sáng tạo nhiệm vụ của lớp trong phong trào chung, GVCN phải nắm vững kế hoạch, nội dung và cách thực hiện của trường, của các đoàn thể trong tuần, tháng học kỳ và cả năm học. Phải nắm vững tri thức lý luận giáo dục, có nghệ thuật sư phạm, xây dựng và phối hợp tốt các mối quan hệ trong nhà trường và địa phương. Tìm hiểu tiềm năng của cộng đồng, địa phương, xã hội, theo dõi thời sự trong nước và quốc tế để vận dụng những hiểu biết đó vào công tác chủ nhiệm Để theo dõi nắm bắt toàn diện thực trang của HS GVCN cần phải có mối quan hệ với GVBM và các đoàn thể trong và ngoài nhà trường đây là việc làm rất quan trọng của GVCN có như vây GVCN mới kịp thời nắm bắt thông tin và có biện pháp GD HS theo đúng chuẩn mực. 3.3 Cách làm: *. Đối với Ban giám hiệu nhà trường Cần thực hiện tốt việc lựa chọn và phân công giáo viên làm công tác chủ nhiệm, những người có phẩm chất và năng lực trong công tác chủ nhiệm . Tạo mọi điền kiện, đôn đốc, giúp đỡ GVCN làm tốt những nhiệm vụ, quyền lợi của GVCN quy định tại điều 31- 32 điều lệ trường trung học. Có kế hoạch cụ thể về công tác chủ nhiệm, có chỉ tiêu rèn luyện phấn đấu phù hợp với thực trạng của trường. Thường xuyên thu nhận thông tin về tình hình diễn biến đạo đức của học sinh do GVCN cung cấp, có biện pháp kịp thời nhằm ngăn chặn những tình huống xấu xảy ra. Thường xuyên kiểm tra số sách của giáo viên chủ nhiệm, dự các tiết sinh hoạt lớp của GVCN. Đưa công tác chủ nhiệm vào tiêu chí thi đua khen thưởng, xếp loại cuối năm bên cạnh đó có biện pháp xử lý kịp thời đúng người, đúng trường hợp. *. Đối với GVCN: Nghiên cứu lý lịch, hồ sơ học sinh: (học bạ, hoàn cảnh gia đình.) có nghệ thuật phân loại học sinh để có biên pháp giáo dục đún đắn. Trao đổi với học sinh để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng xu hướng sở thích của học sinh. Trao đổi với giáo viên bộ môn, về tình hình của lớp. Trao đổi với ban giám hiệu, tổng phụ trách đội, Cha mẹ học sinh để có thêm những thông tin về đối tượng mà GVCN cần tìm hiểu. Thực hiện đầy đủ các loại sổ sách theo quy định, báo cáo trung thực, kịp thời cho ban giám hiệu về tình hình đạo đức của học sinh. Một năm học GVCN đến nhà học sinh ít nhất một lần để nắm thông tin, thuyết phục cha mẹ học sinh tham gia họp đầy đủ. Hàng tháng chuyển sổ liên lạc đến gia đình học sinh đúng thời gian quy định, xử lý thông tin phản hồi kịp thời, nếu thông tin không pản hồi kịp thời thông tin qua điện thoại hoặc đến nhà. Khi có tình huống đột xuất xảy ra, phải xử lý khéo léo, liên hệ với Cha mẹ học sinh để giải quyết mau lẹ, có hiệu quả. GVCN phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ, trao dồi đạo đức nhà giáo để xứng đáng là tấm gương tốt cho học sinh noi theo. Có kế hoạch thăm nhà học sinh cá biệt theo tuần - tháng. *. Đối với GVBM, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường: Tích cực hỗ trợ GVCN trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, phản ánh kịp thời với GVCN về tình hình học sinh của lớp. Tham gia đóng góp ý kiến trong việc đánh giá xếp loại Hạnh kiểm, xét kỷ luật học sinh. 4. Khả năng áp dụng: Kể từ khi áp dụng các giải pháp giáo dục trên vấn đề đạo đức của học sinh trong nhà trường nói chung, từng lớp nói riêng đã dần dần cải thiện. Những HS thường xuyên vi phạm cũng đã phần nào sửa đổi, Một số học sinh có biểu hiện chán nản, không thích học, thường xuyên gây mất trật tự trong lớp đã biết nghe lời thầy cô, các em đã biết kiềm chế trong lời ăn tiếng nói, tác phong của mình, khi mắc lỗi các em đã biết nhìn nhận khuyết điểm của mình để sửa lỗi. Nhìn chung thực trạng đạo đức của HS có sự tiến bộ đây là điều đáng mừng đối với tôi và tôi hy vọng tình hình đạo đức HS sẽ tiến bộ hơn nữa trong những năm tới và có thể sử dụng chung cho tất cả các trường THCS trong huyện nói chung 5. Lợi ích kinh tế xã hội Qua thời gian nghiên cứu và áp dụng thực hiện tôi thấy đạo đức HS của trường THCS An Tân bước đầu có sự tiến triển khá tốt điển hình: Vào cuối năm học tôi nhận thấy những trường hợp kỷ luật của HS đầu năm có sự tiến bộ đảng kể như: Em Nguyễn Thị Thu Thảo lớp 8A1 từ một HS vi phạm kỷ luật nay em đã tiến bộ vượt bật và hiện đang là thành viên của đội sao đỏ của trường; Lỡ Thị Thảo Trinh cũng từ HS vi phạm nay em đã trở thành HS ngoan hiền của lớp không còn những biểu hiện xấu như năm trước.Nhìn chung tình hình đạo đức của HS có sự tiến bộ đây là điều đáng mừng đối với tôi và tôi hy vọng tình hình đạo đức HS sẽ tiến bộ hơn nữa trong những năm tới và có thể sử dụng chung cho cả các trường THCS nói chung. * Thống kê xếp loại Hạnh kiểm của học sinh cuối năm học: 2011 - 2012 + Loại tốt : 154 đội viên chiếm tỉ lệ: 52,5% + Loại khá : 83 đội viên chiếm tỉ lệ: 28,4% + Loại TB : 56 đội viênchiếm tỉ lệ: 19,1% (Không có HS yếu kém) C. PHẦN KẾT LUẬN Trước sự phát triển của xã hội hiện nay thực trạng đạo đức học sinh của các trường THCS có chiều hướng giảm sút nghiêm trọng, việc giáo dục đạo đức cho học sinh là đòi hỏi cấp bách của xã hội để xây dựng hoàn thiện những giá trị cơ bản của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế tri thức. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài về giáo dục đạo đức cho học sinh đã giúp cho đội ngũ giáo viên và CBQL xác định đúng tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức học sinh ở nhà trường để có kế hoạch hoàn chỉnh, có sự quan tâm đúng mực trong việc giáo dục học sinh, từ đó giúp cho tập thể sư phạm của trường thấy được nhiệm vụ quan trọng này để ngoài việc dạy chữ cho tốt còn phải lưu tâm, hết lòng giáo dục các em phát triển toàn diện cả tài lẫn đức. Những vấn đề cơ bản về giáo dục đạo đức cho học sinh cũng đã được thể hiện qua hai con đường cơ bản: * Con đường dạy học các môn học trong và ngoài nhà trường, cụ thể là môn giáo dục công dân. * Con đường hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường. Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu ngắn, phạm vi nghiên cứu chỉ một trường THCS An Tân nên có nhiều vấn đề chưa được phân tích một cách đầy đủ, nhưng ít nhiều nó cũng giúp cho chúng ta thấy được thực trạng của đạo đức học sinh hiện nay, giúp cho chúng ta định hướng lại một số việc cần phải làm trong thời gian sắp tới để góp phần thành công vào công tác giáo dục đạo đức cho học sinh./. KIẾN NGHỊ: Các cấp lãnh đạo, các đoàn thể cần quan tâm hơn nữa về cơ sở vật chất cảnh quan môi trường xanh, đẹp, thân thiện. BGH nhà trường cần tăng cường tham mưu với lãnh đạo xã, công an để tiện nắm bắt thông giữa nhà trường - gia đình - xã hội tin kịp thời nhăn chặn và xử lý một số HS cá biệt vi phạm. An Tân, ngày 01 tháng 02 năm 2013 Đánh giá của Hội đồng Khoa học Người viết Trường THCS An Tân Nguyễn Hữu Giàu

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Giải Pháp Giáo Dục Đạo Đức Học Sinh Lớp Chủ Nhiệm

Lúc Sinh thời, Bác Hồ dạy chúng ta:

“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn

Phần nhiều do giáo dục mà nên”

Giáo dục một con người toàn diện là phải giáo dục cả đức lẫn tài. Bác chỉ rõ “Người có tài mà không có đức thì chẳng làm được gì cả”. Điều đó chứng tỏ việc giáo dục đạo đức cho một con người từ lúc nhỏ là rất quan trọng và cần thiết; thế nhưng việc giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn do sự phát triển của xã hội làm học sinh bị ảnh hưởng từ nhiều tác động khác nhau như phim ảnh, âm nhạc, game online, truy cập Internet, các tệ nạn xã hội, . . . Trong khi đó thì phần lớn các bậc phụ huynh phải lo làm ăn vất vã suốt ngày, ít có thời gian lo lắng dạy dỗ và giáo dục con em mình nên họ thường “bù đắp” lại bằng cách tỏ ra chìu chuộng đòi hỏi gì là đáp ứng điều đó và phó mặc việc giáo dục con em mình cho nhà trường, cho thầy cô. Vì lẽ đó nên học sinh hiện nay có biểu hiện sa sút về mặc đạo đức ngày càng nhiều . . Trước tình hình đó trách nhiệm giáo dục đạo đức cho học sinh của nhà trường mà trước tiên là của giáo viên chủ nhiệm đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn. Với thời gian tối đa từ 4 đến 5 giờ được gặp học sinh mỗi ngày ở trường, ngoài việc truyền thụ các kiến thức thì giáo viên còn rất ít thời gian tiếp xúc để giáo dục đạo đức cho học sinh mà việc giáo dục chủ yếu được thực hiện vào giờ sinh hoạt cờ đầu tuần, giờ hoạt động ngoài giờ, giờ sinh hoạt chủ nhiệm. Như vậy với những điều kiện cho phép, làm thế nào để công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường mang lại hiệu quả cao nhất?

Sau nhiều năm được giao nhiệm vụ làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi mạnh dạn trình bày ra đây những kinh nghiệm mà bản thân đúc kết được trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh lớp mình làm chủ nhiệm. Đó là “Giải pháp giáo dục đạo đức học sinh lớp chủ nhiệm”

ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH TRƯỜNG THCS BÌNH THẠNH *** @&? *** GV: TRẦN HIẾU HẠNH Tổ: Sử-Địa-Ngoại Ngữ Năm học:2011-2012 @&? A. MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Lúc Sinh thời, Bác Hồ dạy chúng ta: "Hiền dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên" Giáo dục một con người toàn diện là phải giáo dục cả đức lẫn tài. Bác chỉ rõ "Người có tài mà không có đức thì chẳng làm được gì cả". Điều đó chứng tỏ việc giáo dục đạo đức cho một con người từ lúc nhỏ là rất quan trọng và cần thiết; thế nhưng việc giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn do sự phát triển của xã hội làm học sinh bị ảnh hưởng từ nhiều tác động khác nhau như phim ảnh, âm nhạc, game online, truy cập Internet, các tệ nạn xã hội, . . . Trong khi đó thì phần lớn các bậc phụ huynh phải lo làm ăn vất vã suốt ngày, ít có thời gian lo lắng dạy dỗ và giáo dục con em mình nên họ thường "bù đắp" lại bằng cách tỏ ra chìu chuộng đòi hỏi gì là đáp ứng điều đó và phó mặc việc giáo dục con em mình cho nhà trường, cho thầy cô. Vì lẽ đó nên học sinh hiện nay có biểu hiện sa sút về mặc đạo đức ngày càng nhiều . . Trước tình hình đó trách nhiệm giáo dục đạo đức cho học sinh của nhà trường mà trước tiên là của giáo viên chủ nhiệm đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn. Với thời gian tối đa từ 4 đến 5 giờ được gặp học sinh mỗi ngày ở trường, ngoài việc truyền thụ các kiến thức thì giáo viên còn rất ít thời gian tiếp xúc để giáo dục đạo đức cho học sinh mà việc giáo dục chủ yếu được thực hiện vào giờ sinh hoạt cờ đầu tuần, giờ hoạt động ngoài giờ, giờ sinh hoạt chủ nhiệm. Như vậy với những điều kiện cho phép, làm thế nào để công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường mang lại hiệu quả cao nhất? Sau nhiều năm được giao nhiệm vụ làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi mạnh dạn trình bày ra đây những kinh nghiệm mà bản thân đúc kết được trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh lớp mình làm chủ nhiệm. Đó là "Giải pháp giáo dục đạo đức học sinh lớp chủ nhiệm" Với giải pháp này, tôi mong muốn rằng tất cả những học sinh mà mình chủ nhiệm đạt được những chuẩn mực đạo đức cần thiết theo quy định của Điều lệ trường trung học, thể hiện qua việc không có em nào bị xếp loại hạnh kiểm cuối học kì và cuối năm từ mức trung bình trở xuống nhằm thực hiện tốt cuộc vận động "Hai không" và chủ trương "Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực". II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU - Các con đường, các cách giúp tôi tìm hiểu nguyên nhân làm học sinh có những biểu hiện chưa tốt về mặc đạo đức. - Các biện pháp tác động tích cực đến học sinh nhằm điều chỉnh đúng hướng các biểu hiện sai lệch của học sinh về đạo đức. - Học sinh lớp 7A1 năm học 2011-2012. III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Học sinh lớp 7A1 năm học 2011-2012 của trường THCS Bình Thạnh Huyện Cao Lãnh-Đồng Tháp. - Tập thể giáo viên chủ nhiệm của của trường THCS Bình Thạnh Huyện Cao Lãnh-Đồng Tháp trong năm học 2011-2012. IV. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: * Mục đích: Nghiên cứu và tìm hiểu việc giáo dục đạo đức học sinh Trường THCS Bình Thạnh Huyện Cao Lãnh-Đồng Tháp * Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành đề tài này, tôi đã sử dụng chủ yếu các phương pháp sau: Ø Phương pháp quan sát Ø Phương pháp thực nghiệm giáo dục Ø Phương pháp trò chuyện, trưng cầu ý kiến Ø Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục B. NỘI DUNG. I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: - Xã hội nào cũng cần phải có những người đủ tư cách, năng lực và phẩm chất đạo đức để quản lí và lãnh đạo, xây dựng và bảo vệ. Vì vậy nếu như công tác giáo dục đạo đức học sinh ở nhà trường được chú trọng và quan tâm đúng mức thì sản phẩm mà ngành giáo dục tạo ra hoàn toàn có khả năng đáp ứng những nhu cầu đó. Ngược lại, nếu như công tác này bị bỏ lơ hoặc ít quan tâm thì bộ phận lớn học sinh sẽ ngày càng xuống cấp và sa sút hơn về mặc đạo đức để rồi đến một lúc nào đó các em không tự ý thức được tầm quan trọng của việc học tập và rèn luyện ở trường, các em tự ý bỏ trường bỏ lớp hoặc bị buột rời khỏi trường do mắc phải một số lỗi nào đó vượt quá quyền hạn xử lí của nhà trường. . . Tiếp sau đó các em trở thành một phần gánh nặng cho xã hội. - Xây dựng trường học thân thiện-học sinh tích cực là chủ trương rất đúng đắn của ngành giáo dục và đào tạo rất phù hợp với yêu cầu của một xã hội hiện đại. Trường học thân thiện thu hút sự thích thú và niềm đam mê học tập của học sinh; ở đó học sinh được tạo điều kiện tốt nhất để học tập, lao động và rèn luyện tích cực, độc lập và sáng tạo nhằm mục đích cuối cùng là đào tạo ra một thế hệ trẻ có đầy đủ năng lực và phẩm chất để xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiến đến đưa đất nước Việt Nam ta sánh vai cùng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. CƠ SỞ THỰC TIỄN Đạo đức của một bộ phận lớn học sinh nói chung và học sinh THCS nói riêng đang trên đà giảm sút có tính nghiêm trọng bởi do: - Hiện nay đa phần các gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con nên phần lớn các bậc phụ huynh rất thương yêu và và lo lắng cho con mình, các em được cưng chìu hơn bị rầy la trách mắng. Hơn nữa do bận việc làm ăn suốt cả ngày nên có rất ít phụ huynh dành thời gian thỏa đáng cho việc quản lí, theo dõi và giáo dục con em mình. - Xã hội ngày càng phát triển mạnh, mức sống của người dân ngày được nâng cao nên việc học sinh được phụ huynh chu cấp tiền cũng khá nhiều nhưng rất ít các em dùng nó vào những việc hữu ích như ăn uống bồi bổ cơ thể hoặc mua các đồ dùng, dụng cụ học tập mà chủ yếu là các em mua các thứ đồ chơi hoặc dùng để trả tiền giờ cho các tiệm internet, . . . - Học sinh, chủ yếu là nam ở lứa tuổi THCS do rất háo thắng nên rất dễ bị xúi giục, lôi kéo vào các tệ nạn xã hội hoặc các em kéo bè phái, lập băng nhóm gây gỗ đánh nhau, . . .. Phần lớn các em trong nhà trường ít khi cúi đầu chào một cách lịch sự và lễ phép (không chỉ với những người từ ngoài vào trường mà ngay cả đối với giáo viên), có thể nói hình ảnh một học trò ngoan hiền, kêu dạ bảo vâng ngày xưa đã bị phai nhạt đến nỗi rất khó nhìn thấy và nhận ra. - Giáo viên thực hiện nghiêm túc cuộc vận động "Hai không" của ngành là không vi phạm đạo đức nhà giáo (không la mắng, phạt đòn học sinh,...). Bên cạnh đó vẫn còn phụ huynh đến trường gây khó dễ cho giáo viên khi con mình bị phạt một hình thức mà nào đó mà họ chưa hài lòng cho nên giáo viên bộ môn nói chung và giáo viên chủ nhiệm nói riêng không còn cách nào khác để xử lí và giáo dục học sinh ngoài biện pháp giáo dục thuyết phục. Nhưng đôi lúc các giáo viên này cũng phải "xuôi tay, bỏ mặc" với một vài học sinh nào đó khi giáo dục thuyết phục các em không thành công. Theo tôi, có thể nói tất cả những cơ sở được xác định ở đây là những nguyên nhân chính góp phần làm suy giảm phẩm đạo đức học sinh ở lứa tuổi THCS. Vì thế nếu có hệ thống những biện pháp, giải pháp phù hợp điều chỉnh và khắc phục kịp thời có hiệu quả những nguyên nhân này thì việc giáo dục đạo đức cho học sinh ở nhà trường THCS có thể sẽ mang lại hiệu quả mang tính tích cực và thiết thực nhất. Xuất phát từ nhận thức đó, tôi đã thành công trong việc giáo dục đạo đức của học sinh mình chủ nhiệm trong năm học 2011-2012 với "Giải pháp giáo dục đạo đức học sinh lớp chủ nhiệm" THỰC TRẠNG: Thuận lợi: - Được sự chỉ đạo sâu sắc của Ban Giám Hiệu nhà trường, đề ra kế hoạch cụ thể hàng tháng, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thường xuyên. - Sự kết hợp, hỗ trợ kịp thời của đoàn đội, của ban thi đua trong nhà trường. - Sự cộng tác chặt chẽ từ phía giáo viên bộ môn cùng tôi quản lí lớp. Sự quan tâm từ phía điạ phương và chính quyền. - Đa số học sinh lớp ngoan hiền, có ý thức học tập và rèn luyện đạo đức. - Các em trong lớp có ý thức xây dựng tập thể lớp. Khó khăn: - Học sinh lớp 7 là lứa tuổi dậy thì nên thay đổi về tâm sinh lý: thường chú trọng về dáng vẻ bên ngoài hơn, ích lo đến việc học, ham vui - Một số học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn. - Một số học sinh thiếu thốn tình cảm ( chỉ ở với mẹ hoặc bố, cha mẹ làm ăn xa, mồ côi) - Bản thân tôi là giáo viên giảng dạy môn lịch sử số giờ trực tiếp đứng trước lớp dạy chỉ có một đến hai tiết trên một tuần nên thời gian tiếp xúc các em còn hạn chế. - Gần trường có nhiều tụ điểm vui chơi hấp dẫn học sinh: bida, game, đánh banh bàngây ảnh hưởng không tốt đối với học sinh. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT: Sau nhiều năm với vai trò là giáo viên chủ nhiệm lớp 7, tôi đã đầu tư để tìm ra cho mình những giải pháp cụ thể và đã áp dụng thành công như sau: 1. Giải pháp thứ nhất: Chuẩn bị a) Tìm hiểu sơ bộ tình hình lớp: @ Xem qua lý lịch để có được nhận xét sơ bộ hoàn cảnh gia đình của từng em và nhất là nghề nghiệp của phụ huynh các em để phần nào thuận lợi khi tiếp xúc với các em sau này. @ Xem qua sổ điểm và học bạ của năm học trước để biết được kết quả học tập và rèn luyện của từng em trong năm học vừa qua. Ở đây tôi quan tâm nhiều hơn tới các em học sinh cá biệt (nếu có) và ghi riêng ra một quyển tập mà tôi gọi đó là "sổ tay của giáo viên chủ nhiệm"; trong sổ này tôi dành riêng cho mỗi em một trang để tôi ghi nhận về đặc điểm tâm lý, tính tình, năng lực cá nhân, hoàn cảnh gia đình. . . của em đó để làm cơ sở điều chỉnh hành vi và phương pháp làm việc với em này trong thời gian tới. Trong một số trường ... t biện pháp giáo dục học sinh có hiệu quả. Đến nhà thì có khi được phụ huynh niềm nở đón tiếp, có phụ huynh thì tỏ vẽ không cần sự quan tâm của tôi vì họ cho rằng không học được phổ thông thì đi học phổ cập; học phổ thông phải tốn nhiều khoản tiền còn học phổ cập thì "được lo từ A tới Z" nên họ "bỏ phế" việc học tập và rèn luyện của con em mình. Khi đó, tôi sẳn sàng giải thích cho họ hiểu mọi vấn đề để cùng tôi góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của Đảng và Nhà nước. Trong khi làm việc với phụ huynh học sinh, tôi đặc biệt lưu ý đến tâm lí của phụ huynh, tránh trường hợp dùng lời lẽ nặng nề gây mặc cảm, tự ái cho họ. Phải làm cho họ thấy được sự cần thiết của việc học tập và rèn luyện của con em họ. Phải biết nêu gương tốt cho các em noi theo. : Email (thư điện tử) hoặc sổ liên lạc điện tử: Đây là một hình thức liên lạc hiện đại nhưng trong điều kiện hiện nay thì chỉ có vài PHHS liên hệ với tôi bằng phương thức này vì nó chỉ phù hợp với các phụ huynh có sự hiểu biết về máy tính và biết sử dụng Internet hoặc nhà có máy vi tính nối mạng Internet. Qua Đại hội PHHS đầu năm, tôi ngoài việc cho số điện thoại, địa chỉ cho PHHS tôi còn cho họ cả địa chỉ Email của mình để các phụ huynh có thể liên hệ với tôi bằng cách gửi email cho tôi. Mỗi tuần tôi check mail 2 lần để thu thập các thông tin đó. 6. Giải pháp thứ sáu: Khen thưởng Khi đặt ra một yêu cầu mà muốn yêu cầu đó được thực hiện nghiêm túc nhằm mang lại hiệu quả cao thì yêu cầu đó phải kèm theo các hình thức thưởng phạt. Theo tôi, khen thưởng giúp gây lòng tự trọng và lòng tự tin của học sinh nên tôi xây dựng cho mình một quy trình khen thưởng như sau: a. Một số nguyên tắc tôi lấy làm cơ sở cho việc xem xét khen thưởng: - Khen thưởng nên dựa trên nền tảng tình cảm, phải công bằng, không thiên vị để làm gương tốt cho các em. - Đối với một học sinh, việc được khen nhiều hơn chê, thưởng hiều hơn phạt sẽ thúc đẩy công tác giáo dục đạo đức học sinh này đạt hiệu quả hơn vì đôi khi hình phạt chỉ không giải quyết được nguyên nhân mà chỉ giải quyết được hiện tượng. - Khen những gì mà các em hơn bạn mình và khen những cố gắng của các em - Nên tập trung vào khen các hành động có ý thức trách nhiệm và giúp đỡ lẫn nhau trong học tập và rèn luyện. - Khen trước tập thể có ý nghĩa hơn khen riêng cho cá nhân vì các em thỏa mãn tinh thần do được bạn bè biết đến khả năng và các thanh công của mình; qua đó các em tiếp tục phấn đấu để đạt được nhiều hơn thế nữa. b. Hình thức khen thưởng: Khi các em đạt được kết quả cao trong việc thực hiện các yêu cầu đặt ra thì việc cần phải có một hình thức khen thưởng tương xứng là rất cần thiết nhằm để động viên và kích thích cho các yêu cầu sau đó cũng đạt được hiệu quả cao. Có nhiều hình thức khen thưởng mà tôi thường sử dụng là: khen bằng lời, khen bằng cách tặng các tràn pháo tay, khen bằng các món quà tinh thần như kể chuyện, ca một bài nhạc, thưởng vật chất nhỏ phục vụ học tập như: vở, bút, thước, giấy khen. . . hay những phần thưởng mang tính chất kỷ niệm như đề nghị với Tổng phụ trách Đội, Ban giám hiệu khen trong giờ sinh hoạt dưới cờ. c. Tiến hành khen thưởng: - Chọn không gian và thời gian để khen cho phù hợp để việc khen thưởng không bị đơn điệu và hình thức. - Khen trước tập thể là tốt nhất vì học sinh được khen sẽ có thêm sự tự hào trước bạn bè; điều này vừa kích thích em được khen thưởng cố gắng hơn nữa, mặc khác còn kích thích những em chứng kiến khen thưởng cố gắng nỗ lực nhiều hơn để được khen. - Cố gắng làm sao cho học sinh được khen có những ấn tượng tốt. V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Tôi ra trường nay đã được 9 năm, trong thời gian này có đến 5 năm tôi được phân công làm công tác chủ nhiệm lớp. Lần đầu tiên nhận nhiệm vụ, tôi rất lo lắng vì mình chưa có kinh nghiệm, chưa từng quản lí và chịu trách nhiệm về sự quản lí của mình; trong khi đó công tác chủ nhiệm không được đào tạo bài bản khi được học ở trường Sư phạm, phần lớn là dựa vào kinh nghiệm và năng khiếu của cá nhân. Thời gian hai năm đầu do chưa có kinh nghiệm nên tôi tự động viên mình việc chủ nhiệm chỉ là thay nhà trường quản lí lớp, phổ biến các quy định, các thông báo của nhà trường đến lớp còn việc giáo dục đạo đức của các em chủ yếu là do cha mẹ vì học sinh có đến gần 5/6 thời gian ở nhà cùng gia đình. Nhưng do yêu cầu khách quan và do sự phát triển của xã hội, việc giáo dục đạo đức học sinh ở trường ngày càng trở nên cấp bách, để công tác chủ nhiệm của mình đạt được hiệu quả cao, tôi đã tiến hành đầu tư nghiên cứu, tôi đã tìm ra được giải pháp hữu hiệu giúp tôi hoàn thành tốt việc giáo dục đạo đức học sinh năm học 2011-2012 đạt kết quả như sau: * Đầu năm học: lớp 7A1 (tổng số 43 học sinh) : Xếp Loại Giỏi Khá TB Yếu Kém SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% Học Lực 5 11.6 17 39.6 9 20.9 9 20.9 3 7.0 Hạnh kiểm 39 90.7 4 9.3 00 00 00 00 00 00 * Học Kì I: lớp 7A1 (tổng số 43 học sinh) : Xếp Loại Giỏi Khá TB Yếu Kém SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% Học Lực 11 25.6 24 55.8 8 18.6 00 00 00 00 Hạnh kiểm 43 100 00 00 00 00 00 00 00 00 ðNhận xét: Một căn cứ nữa minh chứng hiệu quả của giải pháp là năm nay lớp tôi thường xuyên được Liên đội nhà trường xếp hạng cao toàn trường trong thi đua tuần. - Nhìn lại kết quả trên, bản thân tơi rất vui vì mình đã thực hiện đạt hiệu quả công tác giáo dục đạo đức học sinh ở lớp tơi phụ trách. - Đối với học sinh: Đã tạo niềm tin nơi các em, em nào cũng ham thích học tập, gắn bĩ với trường lớp hơn. - Đối với trường, ngành: Gĩp phần cùng cấp trên làm phong phú thêm kinh nghiệm cơng tác chủ nhiệm giảm thiểu tình trạng học sinh suy thối về đạo đức. C. KẾT LUẬN Là học sinh trung học, các em được tu dưỡng đạo đức tốt, tiếp thu kiến thức cần thiết để cĩ cách lựa chọn cho tương lai của mình đúng đắn và phù hợp. Bởi vậy, giáo viên cần hướng cho các em xác định thái độ đúng đắn trong học tập, cĩ hồi bảo trở thành nhân tài trong thời kì cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa đất nước, luơn học tập và rèn luyện theo tấm gương Bác Hồ, cĩ quyết tâm là con ngoan, trị giỏi xứng đáng là Đồn viên ưu tú, là cơng dân tốt sau này. I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Qua thực tế tôi nhận thấy rằng: giáo dục đạo đức học sinh thành công hay thất bại điều phụ thuộc vào yếu tố khác nửa. Chúng ta không nên áp dụng rập khuôn máy móc bấc kỳ một phương pháp giáo dục tiên tiến nào, bởi lẽ sản phẩm nay chính là "con người". Để đạt được mục đích giáo dục, ta cần phải biết chọn điểm xuất phát thích hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng học sinh, Muốn duy trì tốt thành quả giáo dục can phải có sự phối hợp tốt chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội để tạo sức mạnh đồng bộ, toàn xã hội sẽ giáo dục thế hệ trẻ đồng thời giữ vững được hướng đi đúng. Sự thành công trong công tác chủ nhiệm lớp-một nhân tố quan trọng mà chúng ta nên thận trọng cân nhắc khi quyết định lựa chọn đó chính là "lớp trưởng". II. HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐỀ TÀI: Ø Hướng phổ biến áp dụng đề tài: Sau khi hoàn thành đề tài này ở góc độ cá nhân tôi, tôi sẽ trình qua Ban giám hiệu xem xét và đưa ra Hội đồng sư phạm nhà trường, nhất là các giáo viên làm công tác chủ nhiệm nghiên cứu cho ý kiến đóng góp và chỉnh sửa để áp dụng cho toàn đơn vị. Ø Hướng nghiên cứu áp dụng đề tài Nhà trường THCS có đến bốn khối lớp 6,7,8,9; nếu đề tài chỉ được nghiên cứu và vận dụng ở lớp 7 thôi thì hoàn toàn chưa thể thực hiện được mục tiên giáo dục đạo đức học sinh của nhà trường. Hơn nữa, giáo dục đạo đức học sinh lớp 7 là một vấn đề khá rộng, một vấn đề có rất nhiều khía cạnh khác nhau, diễn biến về hành vi đạo đức của từng em trong từng giai đoạn cũng khác nhau. Do đó, vào thời gian tới với điều kiện cho phép, tôi sẽ tiến hành nghiên cứu vận dụng đề tài với những giải pháp đã có, đồng thời cập nhật bổ sung thêm các giải pháp mới mà trong đề tài này tôi chưa thể hiện được nhằm để mở rộng và phát triển đề tài này thành đề tài "Giải pháp giúp giáo viên chủ nhiệm cấp THCS làm tốt công tác giáo dục đạo đức học sinh". III. ĐỀ XUẤT: -Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp,hình thức tổ chức để giáo dục cho học sinh, nhằm thu hút người học tham gia học tập rèn luyện một cách tích cực. - Việc khen thưởng, phê bình đảm bảo tính công bằng, công khai. Khen thưởng kịp thời đối với những học sinh học yếu kém có tiến bộ qua từng tháng điểm. - BGH trường nên phát phần thưởng cho HS sau khi kết thúc tháng điểm hoặc học kì: giấy khen, tập..tạo hứng thú cho các em học tốt hơn, đồng thời những HS chậm tiến noi gương. Xin chân thành cảm ơn! Bình Thạn, Ngày 12 tháng 03 năm 2012 Người viết Trần Hiếu Hạnh * Ý KIẾN NHẬN XÉT CỦA HĐKH TRƯỜNG: .. * Ý KIẾN NHẬN XÉT CỦA HĐKH CẤP TRÊN: .. MỤC LỤC Trang A. Mở đầu: 1 I. Lí do chọn đề tài 1 II. Đối tượng nghiên cứu 2 III. Phạm vi nghiên cứu 2 IV. Mục đích và phương pháp nghiên cứu 2 B. Nội dung: 2 I. Cơ sở lí luận 2 II. Cơ sở thực tiễn 3 III. Thực trạng 4 IV. Các biện pháp giải quyết 4 V. Kết quả nghiên cứu 14 C. Kết luận 15 I. Bài học kinh nghiệm 15 II. Hướng phát triển đề tài 16 III. Đề xuất 16

Giáo Dục Đạo Đức Học Sinh Qua Công Tác Chủ Nhiệm Lớp

trăn trở: Do đâu mà số học sinh chưa ngoan ở các lớp có chiều hướng tăng? Các kinh nghiệm, các biện pháp tôi đã và đang giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm đã thực sự hiệu quả? Với tình hình chung hiện nay, phải xử trí thế nào để đạt được mục tiêu hình thành nhân cách học sinh toàn diện về Đức - Trí - Thể - Mỹ? Những năm gần đây, về lý luận cũng như thực tế đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức học sinh. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có sự nghiên cứu đầy đủ để tạo ra sự định hướng thống nhất về hình thức, biện pháp giáo dục có hiệu quả. Xuất phát từ tình hình thực tế của nhà trường nói chung, của lớp chủ nhiệm nói riêng, tôi trình bày biện pháp "Giáo dục đạo đức học sinh qua công tác chủ nhiệm" mà bản thân đã tích lũy được trong quá trình công tác, học tập ở nhà trường sư phạm và học hỏi từ đồng nghiệp. Xin được trao đổi cùng đồng nghiệp với mong ước được góp phần vào việc giảm dần số lượng học sinh chưa ngoan, nâng cao hiệu quả đào tạo của nhà trường. II. Giới hạn đề tài: Đối tượng nghiên cứu là học sinh tiểu học, tập trung vào học sinh khối 4, 5. Đây là lứa tuổi tâm sinh lý có sự phát triển và thay đổi khá nhiều. Việc giáo dục nhân cách cho học sinh, đặc biệt là công tác giáo dục đạo đức học sinh , là việc làm không thể thành công trong một sớm một chiều, bởi giáo dục là cả một quá trình. Quá trình này phải thực hiện xuyên suốt từ các cấp học: Bậc mầm non là giáo dục lễ giáo, bậc tiểu học là môn đạo đức, bậc trung học là môn giáo dục công dân. Thế nhưng vấn đề đạo đức học sinh hiện nay đang là sự lo lắng, bức xúc của toàn xã hội. Nhìn lại và so sánh tình hình chung về đạo đức của học sinh những năm 90 cùng với thực tế những năm công tác, tôi nghiên cứu đề tài này nhằm hạn chế số lượng học sinh có đạo đức chưa tốt của lớp chủ nhiệm. Qua đó góp phần kéo giảm tỷ lệ học sinh vi phạm đạo đức ở nhà trường đến ngoài xã hội. Đồng thời cũng qua nghiên cứu này nhằm nâng cao nghiệp vụ công tác của bản thân và cũng để chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu: - Vận dụng tư tưởng tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh. - Sự nhạy bén, linh hoạt trong kết hợp các phương pháp giáo dục học sinh. - Đặt chữ "Tâm" lên hàng đầu trong giáo dục học sinh. - Giáo viên chủ nhiệm là "Người bạn lớn" của học sinh. B. NỘI DUNG I. Thực trạng của vấn đề: Đất nước ta đang trong giai đoạn Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa, xã hội ngày một phát triển, cuộc sống ngày một hiện đại với bao sự đổi mới. Đặc biệt, đời sống văn hóa, tinh thần được nâng lên với những tiến bộ của công nghệ thông tin toàn cầu. Song song với những sự phát triển đó, tình hình đạo đức của học sinh ở các tỉnh, thành nói chung và của học sinh ở trường tiểu học nói riêng cũng có nhiều biến động. Năm học 2014 - 20115, trường tiểu học Đông Bình 2 có 506 học sinh, trong đó khối 4 là 103 học sinh. Được sự phân công của Ban giám hiệu. Tôi chủ nhiệm lớp 4A, sau một thời gian dạy lớp, tôi thấy lo lắng cho vấn đề đạo đức của các em, đa số học sinh đều ham học và chăm ngoan, đáp ứng được yêu cầu đào tạo. Bên cạnh đó, vẫn có một bộ phận không nhỏ học sinh chưa ngoan, biểu hiện đạo đức ở các em vô cùng phức tạp và đa dạng: Văng tục, chửi thề, không vâng lời cha mẹ, thầy cô, không trung thực, trốn học để chơi game online, gây gỗ đánh nhau, vô lễ với người lớn, luôn có nguy cơ bỏ học, xem thường nội quy trường lớp, chính vì thế ngay từ đầu năm học tôi đã kiểm tra để năm tình hình về hạnh kiểm và học lực của lớp: + Tổng số học sinh 30 + Nề nếp tốt : 25 + Nề nếp chưa tốt: 5 Xét về tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi hiếu động và hiếu thắng, nhiều nông nổi do sự phát triển tâm sinh lý chưa hoàn chỉnh, là lứa tuổi đang trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Quá trình hình thành cái mới diễn ra không đồng đều ở các mặt trong mỗi cá nhân. Ở góc độ chủ quan và khách quan, học sinh có đạo đức chưa tốt do chịu ảnh hưởng từ những nguyên nhân sau: 1. Đông Bình là xã thuộc địa bàn nông thôn vùng sâu, vùng xa đa số gia đình học sinh sống bằng nghề nông, kinh tế chậm phát triển, nhiều cha mẹ học sinh phải đi làm ăn xa, để con em tự quản lý gia đình. 2. Sự phát triển của mạng Internet về nông thôn, nhiều điểm chat, chơi game online mọc lên ở lân cận trường học và trên đường đi học của nhiều học sinh. 3. Nhiều bậc cha mẹ hoặc phải lo làm ăn do kinh tế còn khó khăn hoặc mãi lo làm giàu mà vô tình quên đi việc giáo dục đạo đức cho con, đẩy hết trách nhiệm về phía nhà trường. 4. Một số gia đình phụ huynh có điều kiện nhưng lại nuông chìu con quá mức. 5. Một số học sinh có cha mẹ bất hòa hoặc cha mẹ li thân, li dị, hoặc cha (mẹ) có vợ (chồng) khác, 6. Một số học sinh kết bạn và đi chơi với các thanh thiếu niên hư hỏng ở bên ngoài nhà trường cộng với sự tác động của những tiêu cực xã hội. Mục tiêu năm học 2014 - 2015 là đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng giáo dục. Nhà trường luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh. Là một giáo viên vừa giảng dạy, vừa làm công tác chủ nhiệm lớp, cộng với những biểu hiện chưa ngoan của một bộ phận học sinh đã thôi thúc tôi thực hiện đề tài này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh của lớp chủ nhiệm và góp phần vào việc thực hiện mục tiêu chung của năm học. II. Giải pháp thực hiện Xuất phát từ việc nghiên cứu kỹ về chức năng và nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm, về tiêu chuẩn giáo viên chủ nhiệm giỏi kết hợp với những kinh nghiệm đã tích lũy cùng với những hiểu biết về học sinh, đặc biệt là học sinh có đạo đức chưa tốt, đồng thời kết hợp việc khảo sát học sinh khối 4, tôi đã đúc kết được một số phương pháp giáo dục đạo đức học sinh ở lớp chủ nhiệm. Áp dụng từng bước các phương pháp sau đây vào thực tiễn, tôi đã thu được những kết quả khá khả quan. 1. Tìm hiểu từng đối tượng học sinh: Người giáo viên chủ nhiệm phải nắm rõ được tình hình của lớp thông qua: - Sơ yếu lý lịch mà giáo viên chủ nhiệm yêu cầu học sinh ghi đầu năm, chú ý cảm tưởng của từng học sinh. - Giáo viên chủ nhiệm cũ. - Các giáo viên môn chuyên giảng dạy lớp năm trước. - Gặp gỡ, trao đổi với học sinh trong các buổi lao động tổng vệ sinh đầu năm. Việc làm này để bước đầu tìm hiểu, phát hiện các học sinh cốt cán cũng như học sinh chưa ngoan. Từ đó có thể kiện toàn đội ngũ Cán bộ lớp và phát huy các mặt mạnh, các truyền thống tốt đẹp của lớp. 2. Lập kế hoạch cho lớp: Giáo viên chủ nhiệm cùng Cán bộ lớp lập kế hoạch hoạt động của lớp và phổ biến cho lớp sau đó thông qua buổi sinh hoạt lớp, lồng ghép trong hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Cụ thể là nội dung thi đua của các nhóm trong lớp, việc thực hiện nội quy của lớp, quyền và nhiệm vụ của mỗi cá nhân, phát động phong trào thi đua (có sơ kết, tổng kết ở cuối mỗi học kỳ). Các nội dung này bám sát vào nội quy của trường và các nội dung thi đua của tổng phụ trách Đội như xoay quanh việc thực hiện đồng phục, truy bài đầu giờ, thực hiện nội quy trường lớp, rèn luyện tác phong, Sau khi hoàn chỉnh kế hoạch, giáo viên chủ nhiệm phổ biến và hướng dẫn Cán bộ lớp cách làm việc, cách quản lý thành viên của nhóm mình. Nêu rõ nhiệm vụ của từng thành viên trong Cán bộ lớp từ Chủ tịch hội đồng tự quản, phó chủ tịch hội đồng tự quản, đến các nhóm trưởng. Nội dung này cần phổ biến trước tập thể lớp nhằm thể hiện tính công khai, dân chủ trước học sinh. Mặt khác còn nhằm đưa tập thể lớp vào ổn định nề nếp và hơn hết là nhằm giúp các học sinh có đạo đức chưa tốt, chưa ngoan phần nào nhận thức được vai trò, nhiệm vụ của mình trong tập thể lớp để từ đó có những hành vi phù hợp hay chỉ mới là ý nghĩ vừa được nhấn mạnh. 3. Lập kế hoạch giáo dục đạo đức học sinh chưa ngoan: Trên cơ sở lý luận, sau khi đã thực hiện được 2 bước nói trên giáo viên chủ nhiệm vừa vạch ra vừa thực hiện kế hoạch tiếp theo tùy tình hình diễn biến của các học sinh có đạo đức chưa tốt, chưa ngoan. Chú ý tập trung vào những việc sau: a) Cần nắm rõ số lượng học sinh có đạo đức chưa tốt của lớp. b) Tìm hiểu kỹ và phân loại học sinh có đạo đức chưa tốt đầy đủ và chính xác về: - Hoàn cảnh sống từng học sinh, điều kiện kinh tế gia đình của học sinh, sự quan tâm của cha mẹ, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, - Những đặc điểm thể chất, sinh lý từng học sinh. Thể trạng bình thường hay không. - Những đặc điểm về tâm lý: khả năng nhận thức, nhu cầu giao tiếp, tình cảm như: cởi mở hay lầm lì, ưu tư, nóng nảy, luôn nghĩ mình bị mọi người "cô lập", "bỏ rơi", - Nắm được tính cách và hành vi đạo đức từng học sinh: lười học, ba hoa, không trung thực, cách ứng xử với mọi người xung quanh - Nắm được sở trường và sở thích của học sinh: khả năng ca hát, bóng đá, bơi lội, chơi game, yêu thích thơ văn, - Đặc biệt cần chú trọng đến mối quan hệ của học sinh với những thanh thiếu niên bên ngoài và học sinh có đạo đức chưa tốt khác trong nhà trường. c) Thực hiện thường xuyên công tác phối hợp: - Cần kết hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục: Gia đình - Nhà trường - Xã hội. - Với phụ huynh: Thường xuyên gặp gỡ và trao đổi cùng phụ huynh bằng nhiều hình thức như: đến thăm nhà học sinh, mời phụ huynh đến trường dự họp, gửi sổ liên lạc giữa gia đình với nhà trường, thậm chí liên lạc qua điện thoại để thông báo mức độ vi phạm, những biểu hiện sai lệch cần được uốn nắn, khắc phục. Nhưng cần lưu ý rằng phải giao tiếp ở một góc độ cởi mở, tâm lý, tế nhị nhưng chân tình, tránh sự dồn dập, gay gắt. Có như vậy giáo viên chủ nhiệm mới tạo được với phụ huynh sự tin tưởng và tận tâm hợp tác để giáo dục con em họ tốt hơn. - Với Ban giám hiệu: Tham mưu thường xuyên, nhờ sự "trợ giúp" kịp thời của các vị Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng khi cần thiết nhằm có những giải pháp thiết thực, phù hợp từng thời điểm hoặc nhờ Ban giám hiệu trao đổi riêng với các học sinh có đạo đức chưa tốt xem như là "đưa lên cấp cao hơn" đối với những trường hợp thường xuyên tái phạm lại lỗi cũ sau nhiều lần đã được xử lý ở lớp. - Với tổ chức Đoàn, Đội: Trong các hoạt động vui chơi, giải trí, các hoạt động ngoài giờ, nhiều em học sinh có đạo đức chưa tốt lại tỏ ra xông xáo, thể hiện sở thích, năng lực của bản thân. Qua đó có thể tùy theo khả năng từng đối tượng mà giao nhiệm vụ, mà phân công để các em cùng tham gia với tập thể. Từ đó, cảm giác bị "cô lập", bị bỏ rơi của các em sẽ được xóa dần. - Với giáo viên phụ trách phổ cập: Liên hệ thường xuyên, cùng đi đến thăm nhà học sinh, đặc biệt là các học sinh có nguy cơ bỏ học vì thông thường các học sinh có đạo đức chưa tốt đều rất dễ dẫn đến kết cục này. - Với giáo viên môn chuyên: Giáo viên môn chuyên có một phần trách nhiệm đối với việc giáo dục học sinh có đạo đức chưa tốt ở các lớp. Khi lên lớp, cần chú ý đến các đối tượng học sinh này, cần tìm cách tạo ra "cơ hội học tập tốt" bằng các câu hỏi dễ hay bài tập đơn giản. Và hãy đừng quên tặng một lời khen khi các em có sự tiến bộ dù rất ít. - Với giáo viên chủ nhiệm của các lớp: Ở các lớp khác cũng có những học sinh có đạo đức chưa tốt. Khi lên lớp, người giáo viên chủ nhiệm bấy giờ trở thành người thực hiện trách nhiệm giáo dục học sinh có đạo đức chưa tốt ở các lớp với tư cách là giáo viên dạy lớp. Cần giáo dục tại chỗ và thông báo ngay những biểu hiện có đạo đức chưa tốt của học sinh đến giáo viên chủ nhiệm của các lớp khác. d) Phân công, giao nhiệm vụ cho cán bộ lớp: Hơn cả giáo viên chủ nhiệm và giáo viên môn chuyên, Cán bộ lớp là những người có thời gian gần gũi, tiếp xúc với các học sinh có đạo đức chưa tốt trong lớp nhiều nhất. Do vậy, giao nhiệm vụ cho các thành viên trong cán bộ lớp quan sát và quan tâm, giúp đỡ các học sinh chưa ngoan, chưa tốt dưới sự hướng dẫn, giám sát của giáo viên chủ nhiệm là việc làm rất hợp tình hợp lý. Bằng hình thức "Đôi bạn cùng tiến", học sinh giỏi sẽ nhận trách nhiệm kèm học sinh yếu, cả trong rèn luyện đạo đức. Ở đây đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm phải thật tinh ý, sáng suốt. Thông qua Cán bộ lớp, giáo viên chủ nhiệm càng hiểu rõ hơn về từng đối tượng học sinh, về các học sinh có đạo đức chưa tốt của lớp. 4. Thực hiện kế hoạch giáo dục học sinh có đạo đức chưa tốt: Khi đã hiểu rõ từng đối tượng học sinh của mình quản lý và thường xuyên thực hiện công tác phối hợp, việc giáo dục học sinh có đạo đức chưa tốt ở lớp chủ nhiệm sẽ phần nào giảm bớt được khó khăn nan giải. Để kế hoạch giáo dục học sinh có đạo đức chưa tốt đạt hiệu quả, người giáo viên chủ nhiệm cần: 4.1 Biết lắng nghe: Giáo viên chủ nhiệm luôn giữ mối quan hệ gần gũi, thân thiết với học sinh, đặc biệt là với học sinh có đạo đức chưa tốt, hãy khuyến khích các em nói ra những điều mình nghĩ bằng nhiều cách khác nhau. "Lắng nghe và thấu hiểu" là điều mà các học sinh chưa ngoan thật sự rất cần ở giáo viên chủ nhiệm. 4.2 Biết quan tâm: Giáo viên chủ nhiệm quan tâm bằng cách trò chuyện, hỏi thăm hoàn cảnh gia đình học sinh, về bạn bè thân của các em, biết được sở thích, cá tính cũng như thái độ, sự lễ phép của học sinh đối với người lớn. Kêu gọi và yêu cầu các học sinh khác trong lớp quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ bạn mình, không nên xem thường hay cô lập các bạn có đạo đức chưa tốt, chưa ngoan đó. Dưới sự hỗ trợ của cán bộ lớp, giáo viên chủ nhiệm luôn theo dõi được những biểu hiện hàng ngày của học sinh có đạo đức chưa tốt, tránh được sự kết luận về vấn đề nào đó thiếu chính xác làm tổn thương đến tâm lý và tình cảm của các em. 4.3 Có uy tín với học sinh và đồng nghiệp về chuyên môn và tư cách đạo đức, tác phong sinh hoạt: Giáo viên có tầm hiểu biết rộng rãi ngoài việc biết tốt bộ môn của mình, bao giờ cũng giải đáp được vấn đề học sinh đang qua tâm thì ảnh hưởng và uy tín của giáo viên sẽ tác động mạnh đến việc giáo dục đạo đức học sinh. Mặt khác, uy tín về tư cách đạo đức của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành ý thức và hành vi của học sinh. Nếu được như vậy, chắc chắn rằng tầm ảnh hưởng của giáo viên chủ nhiệm đối với các học sinh chưa ngoan, có đạo đức chưa tốt sẽ không nhỏ. 4.4 Động viên và định hướng: Thông thường các học sinh chưa ngoan không định hướng được mình cần rèn luyện thế nào để giúp ích bản thân và hoàn thành nhiệm vụ học tập. Mặt khác, một trong những nguyên nhân chủ yếu làm học sinh chưa ngoan, đạo đức chưa tốt đều bắt đầu từ sự học kém, dẫn đến bất mãn, chán học rồi bỏ mặt mọi việc. Chính vì vậy giáo viên chủ nhiệm là người giúp học sinh biết định hướng và động viên, khích lệ các em trên tinh thần "Kiến tha lâu cũng đầy tổ", "Có công mài sắt có ngày nên kim". Hãy tìm và tuyên dương những mặt tốt ở các em dù nhỏ thay vì cứ phê bình khi các em sai phạm. 4.5 Là "Người bạn lớn": Giáo viên chủ nhiệm hãy là "Người bạn lớn" của học sinh. Chính điều này làm cho học sinh chưa ngoan, đạo đức chưa tốt thấy mình không hề bị "bỏ rơi", tình cảm thầy trò được hình thành, tạo điều kiện thuận lợi cho những tâm sự, chia sẻ. Khi đó những lời động viên, những định hướng của giáo viên chủ nhiệm sẽ đạt hiệu quả cao. 4.6 Nghiêm khắc: Giáo viên chủ nhiệm tỏ ra nghiêm khắc với tất cả học sinh trong lớp, tôn trọng học sinh, xử lý mọi việc công bằng cho dù là cán bộ lớp hay học sinh chưa ngoan vi phạm. Như thế các học sinh chưa ngoan sẽ cảm thấy giáo viên chủ nhiệm đều tôn trọng mọi học sinh, không thiên vị, không hề "ghét bỏ" mình. 4.7 Vui tính: Ngoài những điều trên, giáo viên chủ nhiệm cần phải có óc khôi hài, luôn vui vẻ với mọi người, kể cả học sinh chưa ngoan. Điều này giúp cho học sinh có cảm giác dễ gần với giáo viên, dễ sẻ chia tâm sự, mối quan hệ giữa thầy trò tránh được sự căng thẳng. 4.8 Đặt chữ "Tâm" lên hàng đầu: Người giáo viên được xem là "Kỹ sư tâm hồn". Chính cái "Tâm" của người giáo viên chủ nhiệm sẽ giúp cho họ có đủ kiên nhẫn để thực hiện hết trách nhiệm của mình. Đó là năng lực để cảm hóa học sinh. Việc dùng nhân cách để giáo dục nhân cách chính là việc người thầy dùng nhân cách của mình để tác động vào học sinh, dạy học sinh bằng chính nhân cách của mình. III. Những kết quả đạt được: Thực tế trong công tác chủ nhiệm lớp và giáo dục học sinh chưa ngoan của lớp chủ nhiệm ở các năm trước, việc áp dụng các biện pháp trên đã mang lại những hiệu quả giáo dục nhất định: Đa số học sinh chăm ngoan, lễ phép, vân lời thầy cô giáo, thực hiện tốt nội quy học sinh hơn các lớp khác. Cụ thể so sánh chất lượng qua học kỳ I như sau: * Lớp thực nghiệm 4A Năm học 2014 - 2015 SSHS Chất lượng học lực Chất lượng giáo dục Ghi chú HT % CHT % Đ % CĐ % Khảo sát đầu năm 30 19 63.3 11 36.7 20 66.7 10 33.3 Kiểm tra cuối HKI 30 29 96.6 1 3.4 30 100 * Lớp đối chứng 4B Năm học 2014 - 2016 SSHS Chất lượng học lực Chất lượng giáo dục Ghi chú HT % CHT % Đ % CĐ % Khảo sát đầu năm 30 17 56.6 13 43.4 19 63.4 11 36.6 Kiểm tra cuối HKI 30 20 66.6 10 33.4 22 73.3 8 26.7 Đến thời điểm hiện nay đã mang lại kết quả rất tốt, Kết quả đạt được là do: + Làm tốt công tác kết hợp với ban giám hiệu và đoàn thể trong nhà trường, quán triệt các chỉ thị, công văn, văn bản, của phòng giáo dục và kế hoạch của nhà trường đề ra. + Do sự đồng tình, nhất trí cao của Ban giám hiệu, phụ huynh, học sinh nỗ lực thực hiện tốt công tác tuyên truyền và các cuộc vận động. + Do long nhiệt tình đối với học sinh "Tất cả vì học sinh than yêu", vì mầm non xanh của đất nước đã giúp tôi đạt được kết quả như trên. C. KẾT LUẬN I. Những bài học kinh nghiệm: Qua thực tế áp dụng, tôi nhận thấy để giáo dục học sinh chưa ngoan, đạo đức chưa tốt ở lớp chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm cần: - Hiểu rõ từng đối tượng học sinh. - Xây dựng kế hoạch rõ ràng, cụ thể. - Thực hiện tốt công tác phối hợp. - Kết hợp tốt ba môi trường giáo dục: Gia đình - Nhà trường - Xã hội. - Bản thân giáo viên có uy tín về chuyên môn nghiệp vụ lẫn uy tín về đạo đức. - Tận tâm với nghề. Kiên trì, nhẫn nại trong công tác. - Lắng nghe, thấu hiểu và là "Người bạn lớn" của học sinh. II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm: Sáng kiến kinh nghiệm nhằm định hướng về những hình thức, những biện pháp giáo dục có hiệu quả các đối tượng học sinh chưa ngoan, đạo đức chưa tốt. Giúp các em hình thành và phát triển nhân cách con người mới, trở thành người có ích cho xã hội. III. Khả năng ứng dụng, triển khai: Đề tài này có thể triển khai và cùng thực hiện ở các lớp 4, 5, mở rộng đến các khối lớp trong toàn cấp của bậc tiểu học. Đề tài này có tính khả thi, sát với thực tế địa phương và nhà trường. Bản thân tôi đã ứng dụng trong năm học qua và đã đạt được hiệu quả đào tạo như nói trên. IV. Những kiến nghị, đề xuất: Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp chịu trách nhiệm đồng thời là người tiên phong trong giáo dục đạo đức học sinh chưa ngoan ở lớp. Để thực hiện tốt vai trò, chức năng của người giáo viên chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm rất cần sự hỗ trợ, hợp tác. Vậy nên: - Với Ban giám hiệu: Cần tạo điều kiện nhiều hơn nữa trong việc giúp đỡ, hỗ trợ giáo viên chủ nhiệm xử lý học sinh chưa ngoan vi phạm nhiều lần, có nhiều cuộc trò chuyện, trao đổi riêng với các học sinh chưa ngoan. - Với phụ huynh học sinh cần quan tâm nhiều hơn nữa đời sống tình cảm, có hiểu biết rõ về diễn biến phát triển tâm sinh lý của con em, thường xuyên liên lạc với nhà trường, nhất là với giáo viên chủ nhiệm. - Với giáo viên môn chuyên và các tổ chức đoàn thể: Tạo cơ hội để các em được thể hiện mình, được trở nên tốt hơn trước tập thể. Cần động viên, khích lệ kịp thời các học sinh chưa ngoan, đạo đức chưa tốt khi thấy các em có sự chuyển biến tích cực. Qua đề tài nghiên cứu này, mong quí đồng nghiệp cùng tham khảo, chia sẻ và đóng góp ý kiến để tìm ra giải pháp giáo dục học sinh chưa ngoan, đạo đức chưa tốt hữu hiệu nhất./. Đông Bình, ngày 27 tháng 03 năm 2015 Duyệt của BGH Người viết Nguyễn Thị Mỹ Châu 1. Bônđưrep, 1982, Người Giáo viên chủ nhiệm, Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, 80 trang. 2. GS Nguyễn Minh Thuyết, "Người thầy - người bạn lớn", Báo điện tử Đại biểu nhân dân, trang Văn hóa - Giáo dục. 3. Phạm Thị Hải Anh, Thanh Thủy, " Giáo dục đạo đức cho học sinh", "Giáo viên chủ nhiệm - Chiếc cầu nối đa chiều", nguồn Giáo dục và Đào tạo online. Nhận xét, đánh giá của Hiệu Trưởng nhà trường .. .. . . . . . . . .. . Nhận xét, đánh giá của Hội Đồng Sáng Kiến Huyện .. .. . . . . . . . .. .

Cập nhật thông tin chi tiết về Sáng Kiến Kinh Nghiệm Vấn Đề Giáo Dục Đạo Đức Cho Học Sinh Lớp 3 Qua Môn Đạo Đức Ở Tiểu Học trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!