Bạn đang xem bài viết Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Dạy Học Toán 5 Giúp Học Sinh Tự Tìm Tòi, Khám Phá Kiến Thức được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Thực tế cho thấy việc đó đòi hỏi giáo viên phải chủ động lựa chọn nội dung theo từng đối tượng học sinh, tức là phải dạy học xuất phát từ trình độ, năng lực, điều kiện cụ thể của từng học sinh. Điều đó có nghĩa là phải “cá thể hoá” dạy học, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn quá trình học tập. Điều đó không có nghĩa là làm giảm vai trò của người giáo viên mà chính là làm tăng vai trò chủ động, sáng tạo của họ. Điều đó cũng kéo theo sự thay đổi hoạt động học tập của học sinh. Mục đích của việc làm này là nhằm tạo điều kiện cho mọi học sinh có thể học tập tích cực, sáng tạo, chủ động theo khả năng của mình trong từng lĩnh vực. Cách dạy này gọi là: “Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh” (phương pháp dạy học toán). Vì lý do trên mà trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi đưa ra một số biện pháp gây hứng thú trong giờ học toán cho học sinh tiểu học bằng cách tổ chức các hoạt động học tập để học sinh tự tìm tòi khám phá kiến thức mới góp phần nâng cao chất lượng trong các giờ học toán. II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU I. Thực trạng của lớp: I.1 Thuận lợi Cơ sở vật chất đảm bảo, đủ ánh sáng thoáng mát. Các em đã qua chương trình học lớp 1 dến lớp 4 của môn toán và đã làm quen với các phép tính cơ bản và làm quen với phần phân số, Các em được đào tạo theo chẩn mực của học sinh từ những năm trước nên nề nếp lớp ổn định và các em tương đối ngoan trong các giờ học. I.2. Khó khăn Tâm lý học sinh hiện nay, việc học môn toán, các em rất ngại hay nói đúng hơn là sợ do còn yếu và ít học toán. Thời gian tập trung cho việc học toán còn ít. Do vậy, học sinh không phát triển được năng lực tư duy, tìm tòi sáng tạo trong khi học môn toán, không hình thành được kĩ năng khái quát hóa, trừu tượng hóa của trí lực học sinh. Năm học trước, tôi áp dụng đề tài này cho lớp tôi và thấy có kết quả rất khả quan nên đến đầu năm học 2011-2012, được sự đồng ý của Hội đồng khoa học trường, tôi đăng ký thực hiện đề tài này cho học sinh lớp lớp 5A. Do đó, vào đầu năm học tôi thống kê các sai lầm của học sinh trong lớp tôi để tìm ra nguyên nhân và các biện pháp để khắc phục ngay cho môn toán. Qua thống kê, tôi nhận thấy học sinh của lớp tôi học chưa tốt về môn toán do những nguyên nhân sau: Một số em tiếp thu bài còn chậm, ý thức tự học chưa cao. Chưa hiểu và nắm được đầy các khái niệm trong môn toán và chưa có hứng thú trong môn học toán. II. Biện pháp thực hiện II.1. Tự tìm tòi, khám phá kiến thức trong học tập. Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội; con người không chỉ tiếp thu những cái đã có mà luôn chủ động tìm tòi, khám phá, sáng tạo ra những cái mới phục vụ cho nhu cầu và cuộc sống của mình. Tính tích cực trong học tập là tính tích cực trong hoạt động nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh nội dung học tập bằng hoạt động tìm tòi, khám phá. Hoạt động tìm tòi, khám phá là một chuỗi hành động và thao tác để hướng tới một mục tiêu xác định. Hoạt động tìm tòi, khám phá trong học tập có nhiều dạng khác nhau, từ mức độ thấp đến mức đọ cao tuỳ theo năng lực tư duy của từng học sinh và được tổ chức thực hiện theo cá nhân hoặc theo nhóm. Hoạt động tìm tòi, khám phá trong học tập có thể tóm tắt như sau: A. Mục tiêu của hoạt động: – Hình thành kiến thức, kĩ năng mới. – Xây dựng thái độ, niềm tin cho học sinh. – Rèn luyện khả năng tư duy, năng lực xử lí tình huống, giải quyết vấn đề. B. Các dạng hoạt động: – Trả lời câu hỏi và đặt câu hỏi.(hỏi – đáp) – Lập bảng, biểu đồ, sơ đồ, phân tích dữ kiện. – Thông báo kết quả, kiểm định kết quả. – Đưa ra giải pháp, kiến thức mới. C. Hình thức tổ chức: – Hoạt động cá nhân. – Hoạt động theo nhóm (2 người hoặc 4 người). – Làm việc chung cả lớp. – Trò chơi. II.2. Tác dụng của hoạt động tự tìm tòi khám phá kiến thức mới. – Giúp học sinh rèn luyện tính chủ động, sáng tạo trong học Toán. – Học sinh sẽ hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức nếu như chính mình tìm ra kiến thức đó hoặc góp phần cùng các bạn tìm tòi, khám phá, xây dựng lên kiến thức đó. – Trong quá trình tìm tòi, khám phá học sinh tự đánh giá được kiến thức của mình. Cụ thể: + Khi gặp khó khăn chưa giải quyết được vấn đề, học sinh tự đo được thiếu sót của mình về mặt kiến thức, về mặt tư duy và tự rút kinh nghiệm. + Khi tranh luận với các bạn, học sinh cũng tự đánh giá được trình độ của mình so với các bạn để tự rèn luyện, điều chỉnh. – Trong quá trình học sinh tự tìm tòi, khám phá, Giáo viên biết được tình hình của học sinh về mức độ nắm kiến thức từ vốn hiểu biết, từ bài học cũ; trình độ tư duy, khả năng khai thác mối liên hệ giữa yếu tố đã biết với yếu tố phải tìm. – Học sinh tự tìm tòi, khám phá sẽ rèn luyện được tính kiên trì vượt khó khăn và một số phẩm chất tốt của người học Toán như: Tự tin, suy luận có cơ sở, coi trọng tính chính xác, tính hệ thống… II.3. Quy trình dạy học để học sinh tự tìm tòi, khám phá kiến thức mới. II.3.1. Đặc trưng của cách dạy – Giáo viên đặt ra bài toán nhận thức chứa đựng mâu thuẫn hoặc mối quan hệ giữa cái đã biết với cái phải tìm theo cấu trúc một cách hợp lí, tự nhiên. – Học sinh tiếp nhận mâu thuẫn và được đặt vào tình huống có vấn đề. Khi đó học sinh được đặt vào trạng thái muốn tìm tòi, khám phá và chiếm lĩnh nội dung kiến thức. – Bằng cách giải bài toán nhận thức mà học sinh lĩnh hội được một cách tự giác và tích cực cả kiến thức và kĩ năng; từ đó có được niềm vui của sự nhận thức sáng tạo. II.3.2. Quy trình cụ thể. Bước 1: Ôn tập tái hiện Bước 2: Phát hiện, nêu vấn đề: Cho học sinh phát hiện ra những vấn đề chưa rõ và xem đó là vấn đề cần được giải quyết trong tiết học đó. Bước 3: Tổng hợp, so sánh và đề xuất ý tưởng: Bước 4: Dự đoán giả thuyết: Cho học sinh suy nghĩ tiếp và dự đoán hay đề xuất giả thuyết về nội dung kiến thức, kĩ năng mới. Bước 5: Kiểm tra giả thuyết: Cho học sinh kiểm tra giả thuyết đã đề xuất qua một số ví dụ cụ thể để khẳng định đó là kiến thức, kĩ năng mới. Bước 6: Rút ra kiến thức mới: Sau khi kiểm tra và khẳng định giả thuyết đó là đúng, Giáo viên cho học sinh phân tích tìm ra kết luận chung về kiến thức, kĩ năng mới. II.3.3. Một số lưu ý khi thực hiện cách dạy để học sinh tự tìm tòi, khám phá kiến thức mới. – Phải chú ý ngay từ việc soạn giáo án. Phải tập trung vào việc thiết kế các hoạt động của học sinh trước, trên cơ sở đó mới xác định các hoạt động chỉ đạo, tổ chức của Giáo viên. – Số lượng hoạt động và mức độ tư duy trong mỗi tiết học phải phù hợp với trình độ học sinh để có đủ thời gian tổ chức hoạt động tìm tòi, khám phá. – Nghiên cứu kĩ nội dung bài học, tìm kiếm các tinh huống có vấn đề, tạo cơ hội cho học sinh tìm tòi, khám phá. II.3.4. Một số ví dụ: II.3.4.1. Ví dụ 1: Tuần 1 – Bài: Phân số thập phân (trang 8 SGK) I. Mục tiêu. – Giúp học sinh nhận biết được các phân số thập phân. – Giúp các em biết được một số phân số có thể viết thành phân số thập phận và biết cách chuyển những phân số đó thành phân số thập phân. II. Các hoạt động dạy học chủ yếu. 1. Kiểm tra bài cũ: (5 – 6 phút) – Kiểm tra viết tất cả học sinh trong lớp ( có thể dùng phiếu kiểm tra). (1 học sinh lên bảng làm , yêu cầu học sinh này trình bày ở bảng bên trái.) Đề bài Đáp án (Học sinh làm) a) So sánh với = = = = b) với = = = = 2. Bài mới a) Giới thiệu bài: Dựa vào các bài làm trên bảng, giáo viên dùng thước để chỉ vào những phân số nói đến: Để so sánh với ta so sánh hai phân số tương đương là với , để so sánh với ta so sánh 2 phân số tương ứng là với , những phân số này…… và phân số (giáo viên dùng phấn màu đóng khung 5 phân số đó) gọi là phân số thập phân. Từ đó giáo viên giới thiệu tên bài mới VD: Phân số thập phân b. Giới thiệu về phân số thập phân: ( 15 – 18 phút) *) Nhận biết phân số thập phân. – Dựa vào 5 phân số trên, mỗi học sinh trong lớp viết vào giấy nháp 2 phân số thập phân và hai phân số không phải là phân số thập phân (1 học sinh A lên bảng viết). – Tất cả lớp, dùng bút đánh dấu đặc điểm của phân số thập phân (học sinh A cũng làm tương tự ở bảng). – Ba, bốn học sinh nêu đặc điểm mà minh đánh dấu (trong đó có học sinh A) – Giáo viên tổng kết theo phần a (SGK) và yêu cầu cả lớp cầm bút gạch 1 gạch dưới 3 chữ: Có mẫu số và gạch 2 gạch dưới các số 10;100,1000;… (trong SGK) – Giáo viên viết sẵn 5 phân số (ở bài 3 trang 8) vào băng giấy rồi gắn lên bảng. Gọi 1 học sinh lên bảng, yêu cầu dùng bút hãy xoá những phân số không phải là phân số thập phân trong 5 phân số ở băng giấy đó – tất cả học sinh còn lại cũng dùng bút xoá tương tự ở bài 3 trang 8 SGK. – Cũng từ bài làm kiểm tra của học sinh ở trên (đáp án). Giáo viên chỉ và nói tiếp: Khi so sánh với ta đã chuyển thành và chuyển thành , … thế là ta đã làm 1 việc là chuyển từ 1 phân số thành 1 phân số thập phân. *) Chuyển 1 phân số thành phân số thập phân. Dựa theo cách chuyển như bài kiểm tra trên. – Từng em trình bày trong giấy nháp, chuyển và thành phân số thập phân. – Gọi 1 học sinh lên bảng làm. – Cả lớp sửa lại câu trên thành 1 câu đúng. (gọi 1 học sinh lên bảng viết câu đúng đó). – Giáo viên tổng kết và gắn lên bảng băng giấy đã viết sẵn cách chuyển. Cách chuyển: Tìm một số khi nhân với mẫu số để được 10, 100, 1000… rồi nhân số ấy với cả tử số và mẫu số sẽ được phân số thập phân. c. Thực hành ( 12 – 15 phút). Bài 1: Đọc phân số thập phân. Từng em trong lớp (gọi một học sinh lên bảng làm) ghi lời đọc cho từng phân số thập phân ở dưới phân số thập phân đó trong SGK. Theo mẫu. ; ; ; ; Chín phần mười Bài 2: Viết phân số thập phân. Tiến hành tương tự như trên. Theo mẫu: Bảy phần mười; hai mươi phần trăm; bốn trăm bảy mươi lăm phần nghìn; một phần triệu. Bài 4. Chuyển phân số thành phân số thập phân. + Tất cả học sinh điều làm bài ngay trong sách giáo khoa hoặc vào giấy nháp (gọi 2 học sinh lên bảng). Giáo viên chú ý kèm cặp, giúp đỡ những em còn yếu làm bài. II.3.4.2- Ví dụ 2: Tuần 15 – Bài: Giải toán về tỉ số phần trăm (trang 75 SGK) I. Mục tiêu. Giúp học sinh: – Biết cách tìm tỷ số phần trăm của hai số. – Biết vận dụng để giải các bài toán đơn giản có nội dung tìm tỷ số phần trăm của hai số. II. Các hoạt động dạy học chủ yếu * Hoạt động 1: Tổ chức cho học sinh nhắc lại khái niệm tỉ số phần trăm. chẳng hạn: GV nêu bài toán tương tự ví dụ 2 trang 74 trong SGK, ghi tóm tắt lên bảng: Số HS toàn trường: 400 Số học sinh nữ: 208 Sau đó hỏi học sinh: Tỉ số phần trăm của số học sinh nữ và số học sinh toàn trường là bao nhiêu? Hay: Số HS nữ chiếm bao nhiêu phần trăm số HS toàn trường? (Kết quả là 52%). * Hoạt động 2: Giới thiệu hoặc hướng dẫn HS cách tìm tỉ số phần trăm của hai số 315 và 600. – Gợi ý để HS có thể viết tỷ số của số HS nữ và số HS toàn trường (315 : 600). – Giao việc cho HS làm thế nào để đưa tỉ số (315 : 600) về tỉ số phần trăm. Từ đó xuất hiện vấn đề cần phải giải quyết. – Giúp HS tự tìm đọc cách giải quyết là thực hiện phép chia. Nếu không thì yêu cầu HS thực hiện phép chia (315 : 600 = 0,525). – Hướng dẫn để HS tự tìm thấy được là để chuyển tỉ số về tỉ số phần trăm thì phải nhân kết quả đó với 100 và chia cho 100. 0,525 x 100 : 100 = 52,5 : 100 = 52, 5%. – Từ đó dẫn dắt giúp học sinh nêu được quy tắc: + Chia 315 cho 600. + Nhân thương đó với 100 và viết kí hiệu % vào bên phải tích vừa tìm được. * Hoạt động 3: Hướng dẫn HS vận dụng để giải bài toán có nội dung tìm tỉ số phần trăm. – GV đọc bài toán hoặc gọi HS đọc bài toán trong SGK và giải thích: Khi 80 kg nước biển bốc hơi hết thì thu được 2,8 kg muối. Tìm tỉ số phần trăm của lượng muối trong nước biển. – Hướng dẫn học sinh trình bày lời giải bài toán: Bài giải Tỉ số phần trăm của lượng muối trong nước biển là: 2,8 : 80 = 0,035 0,035 = 3,5 % Đáp số : 3,5 % * Hoạt động 4: Tổ chức cho HS luyện tập thực hành qua 3 bài tập. Bài 1: Cho HS nêu bài toán, GV giới thiệu mẫu. Yêu cầu HS làm vào vở, sau đó trao đổi kết quả với nhau. 0,3 = 30%; 0,234 = 23,4 %; 1,35 = 135 %. Bài 2: Giáo viên giới thiệu mẫu (cho HS thực hiện tính 19 : 30, dừng lại ở 4 chữ số sau dấu phẩy, viết 0,6333… = 63,33%). Cho HS tự làm bài, gọi 1 vài HS trình bày trên bảng rồi chữa bài. Kết quả là: 45 : 61 = 0,7377… = 73,77 %; 1,2 : 26 = 0,0461 … = 4,61 %. Bài 3: Hướng dẫn HS tìm hiểu đề bài, tóm tắt bài toán, làm vào vở. GV chú ý giúp đỡ học sinh còn lúng túng. Có thể cho HS trao đổi theo nhóm để giải toán. Gọi HS trình bày trên bảng hoặc bảng phụ. Bài giải Tỉ số phần trăm của số HS nữ và số HS của lớp học là. 13 : 25 = 0,52. 0,52 = 52% Đáp số: 52% II.3.4.3- Ví dụ 3: Tuần 18 – Bài: Diện tích hình tam giác (trang 87 SGK) I/- Mục tiêu. – HS tự hình thành được công thức tính diện tích của hình tam giác. – Biết vận dụng công thức để tính diện tích hình tam giác. II/- Các hoạt động dạy học chủ yếu Hoạt động 1: Hình thành công thức tính diện tích hình tam giác. Bước 1: Tạo tình huống có vấn đề. GV: Đưa hình tam giác chuẩn bị sẵn (như hình vẽ 1), yêu cầu HS tính diện tích của hình tam giác (xem hình 1). 3cm 4cm Bước 2: Tổ chức cho HS phát hiện và tìm hiểu vấn đề (hoạt động theo nhóm nhỏ). – GV gợi ý để HS phát hiện được: Vấn đề được đặt ra là gì? (tính diện tích của hình tam giác). HS tìm cách giải quyết vấn đề? Bước 3: Tổ chức cho học sinh hoạt động giải quyết vấn đề. Cắt tam giác ghép thành hình chữ nhật (hình 2). Sử dụng hai tam giác bằng nhau, ghép thành hình bình hành (hình 3). Sử dụng hai tam giác bằng nhau, ghép thành hình chữ nhật (hình 4). Hoặc đếm số ô vuông nằm trọn trong tam giác (hình 1). Hình 2 Hình 3 Hình 4 – Các nhóm trình bày cách giải quyết vấn đề của nhóm mình và trao đổi ý kiến về các cách đó để tự rút ra được: Có 2 cách là thuận lợi hơn cả, đó là: Cách 1: Sử dụng 2 tam giác bằng nhau ghép thành 1 hình bình hành. Cách 2: Sử dụng 2 tam giác bằng nhau cắt, ghép thành hình chữ nhật. (các cách khác nhau không thuận lợi bằng). GV có thể hướng dẫn: Theo cách 1: Dùng 2 tam giác bằng nhau ghép lại để tạo thành hình bình hành ABCD (như hình vẽ) A H H Cho học sinh so sánh, đối chiếu các yếu tố hình học trong hình để thấy: Hình bình hành ABCD gổm 2 hình tam giác bằng nhau ghép lại nên có diện tích gấp 2 lần diện tích hình tam giác ABC. Hình bình hành ABCD và hình tam gíc ABC có chung đáy BC và đường cao AH. Tính diện tích hình bình hành ABCD bằng cách: lấy đáy x chiều cao, tức là BC x AH. Rút ra cách tính diện tích hình tam giác ABC là: Từ đó nêu quy tắc và công thức tính như SGK Theo cách 2 (là cách trong SGK): Sử dụng mô hình chuẩn bị trước: Lấy ra 2 tam giác bằng nhau (trong đó có một tam giác đã chia làm hai mảnh) rồi ghép thành hình chữ nhật. Hoặc sử dụng giấy (đã chuẩn bị sẵn ở trên ), cắt đồng thời 2 tam giác bằng nhau (gấp đôi mảnh giấy, cắt theo hình tam giác đã vẽ), rồi cắt một tam giác (theo đường cao) được 2 tam giác nhỏ ghép vào tam giác kia để được hình chữ nhật. Bước 4: Tổ chức cho HS phân tích vấn đề và khái quát hoá vấn đề (hoạt động cá nhân kết hợp hoạt dộng chung cả lớp). + GV mô tả hoạt động cắt, ghép trên bằng hình vẽ: Đường cắt 1 2 1 2 + GV hướng dẫn HS so sánh, đồi chiếu các yếu tố hình học trong hình vừa ghép để nhận thấy: Chiều rộng của hình chữ nhật bằng chiều cao của hình tam giác, chiều dài của hình chữ nhật bằng cạnh đáy của hình tam giác. Từ đó, GV có thể gợi ý: * Viết ngắn gọn cách tính diện tích của hình chữ nhật? (Chiều cao x đáy). * So sánh diện tích của hình tam giác với diện tích của hình chữ nhật và rút ra cách tính diện tích của hình tam giác (chiều cao x đáy: 2); + GV nhận xét kết quả làm việc của HS, hướng dẫn HS khái quát hoá: S = a x b : 2, trong đó a là độ dài đáy, h là chiều cao tương ứng với đáy a (a và h có cùng đơn vị đo) S là diện tích (kèm hình vẽ). h a * Lưu ý HS: Cần ghi nhớ công thức, cách thành lập công thức để vận dụng trong những trường hợp khác sẽ gặp sau này. + Học sinh áp dụng công thức (vừa thành lập) để tính diện tích tam giác đã nêu trong bước 1 (3 x 4 : 2 = 6 (cm2)) Hoạt động 2: : Thực hành Bài 1: Tính diện tích hình tam giác mà độ dài đáy và chiều cao có cùng đơn vị đo. + HS tự làm và nêu kết quả. HS khác nhận xét (cách tính và kết quả). 8 x 6 : 2 = 24 cm2; 2,3 x 1,2 : 2 = 1, 38 dm2. + GV tổ chức cho HS khá, giỏi giúp đỡ bạn. Nhận xét về đơn vị đo (đáy và chiều cao đều có đơn vị đo là cm (dm)), diện tích có đơn vị đo là cm2 (dm2). Bài 2: Tính diện tích hình tam giác mà độ dài đáy và chiều cao không có cùng đơn vị đo (1 bài) và 1 bài tính diện tích hình tam giác mà độ dài đáy và chiều cao có cùng đơn vị đo, số đo là số thập phân nhưng số chữ số ở phần nguyên khác nhau. + HS tự làm và nêu kết quả? HS khác nhận xét. a) 5m = 50 dm; hoặc 24 dm = 2,4 m. 50 x 24 : 2 = 600 (dm2); hoặc 5 x 2,4 : 2 = 6 (m2). b) 42,5 x 5,2 : 2 = 110,5 (m2) + HS phát hiện thêm vấn đề: số đo độ dài đáy và chiều cao không cùng đơn vị đo (câu a).+ GV tổ chức cho HS khá, giỏi giúp đỡ bạn. GV nhận xét, kết luận và nêu vấn đề: trước khi áp dụng công thức tính diện tích hình tam giác cần lưu ý điều gì? (đổi số đo độ dài đáy và chiều cao về cùng số đo) III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Kết quả đạt được: Lớp 5A GIỎI KHÁ TRUNG BÌNH YẾU SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) Sĩ số:31 Nhờ vận dụng những biện pháp tạo tình huống có vấn đề trong tiết dạy Toán ở trên tôi thấy chất lượng môn Toán của lớp tôi tăng lên rất nhiều. Tôi đã đối chiếu bài kiểm tra cuối học kỳ II với bài kiểm tra Khảo sát đầu năm học năm như sau: IV. KẾT LUẬN Các biện pháp tạo ra tình huống có vấn đề trong tiết dạy Toán là rất quan trọng, nó mang lại rất nhiều lợi ích cho giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. – Về nhận thức: đa số giáo viên trong nhà trường đều hiểu và xác định được vai trò và sự cần thiết của việc đổi mới phương pháp dạy học trong quá trình lên lớp. giáo viên, tổ chuyên môn đều xây dựng các giờ dạy thử, các giờ dạy mẫu nhằm định hình cho mình một phương pháp dạy học phù hợp trong từng bài dạy, tiết dạy. nếu trước kia giáo viên đổi mới phương pháp dạy học chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của bản thân thì nay dựa vào cơ sở khoa học và định hướng của đề tài mà giáo viên có một cách nhìn tổng thể để đổi mới phương pháp dạy học, nhờ đó mà thực hiện dễ dàng và hiệu quả hơn. Cách dạy này có một số ưu điểm sau: + Học sinh nắm chắc được kiến thức trọng tâm của bài. + Phát huy được tính chủ động, tích cực trong học tập. + Giáo viên không phải nói nhiều mà thay vào đó học sinh sẽ được thực hành nhiều. + Các tồn tại của những năm học trước đã được khắc phục ở năm học này. + Tiết học đảm bảo đúng thời gian quy định (không kết thúc sớm), tránh được sự đơn điệu trong bài học, thu hút sự chú ý của học sinh. Tôi xin trân thành cảm ơn Người viết Nguyễn Ngọc Ánh V. KIẾN NGHỊ 1. Đối với nhà
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Tự Học
gặp bạn bè. Nhưng ở các em biết tự học còn có thêm nhiều niềm vui nữa. Đó là: hiểu bài, biết thêm nhiều tri thức mới, tự tạo ra sản phẩm, cảm thấy mình lớn khôn hơn, Đöùng tröôùc tình hình hoïc sinh chưa biết tự học, Toâi mong muoán laøm sao tìm ñược nguyeân nhaân vaø ñeà ra höôùng khaéc phuïc vì ñaây laø vaán ñeà caáp thieát. Vaø sau 10 naêm giaûng daïy, toâi ñaõ vaän duïng nhieàu phöông phaùp vaøo giaùo duïc cho caùc em, giuùp caùc em thaáy ñöôïc vieäc töï hoïc taäp laø caàn thieát, thaày coâ chæ laø ngöôøi hoã trôï maø thoâi. Keát quaû laø nhöõng naêm hoïc ñoù, hoïc sinh lôùp toâi ñeàu naém baét ñöôïc baøi hoïc moät caùch töï giaùc. Töø ñoù, toâi ñöa ra quyeát ñònh choïn ñeà taøi: "MOÄT SOÁ BIEÄN PHAÙP GIUÙP HOÏC SINH TÖÏ HOÏC" ñeå nghieân cöùu. II. NHỮNG BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: A. Những vấn đề chung: a) Giáo viên tìm hiểu nguyên nhân học sinh yếu và nhu cầu của các em: Đây là vấn đề đầu tiên khi tiến hành các giải pháp thực hiện. Biết được nguyên nhân và nhu cầu của đối tượng thì mới có những biện pháp tác động đúng đắn. Tôi tìm hiểu nguyên nhân theo các cách sau: quan sát thực tế học sinh của 5 lớp 5, lấy danh sách học sinh yếu của các lớp khác, phát phiếu kiểm, bảng hỏi, rồi phỏng vấn trực tiếp các em học sinh yếu. Với sự bùng nổ thông tin như hiện nay, các em có thể tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin và được nhiều môi trường tác động đến - tốt có, xấu có, trái chiều cũng có. Bản thân các em học sinh ngày càng thể hiện cá tính mạnh mẽ Làm sao để các em tin tưởng mình? Làm thế nào phát huy tính tích cực của các em, phát huy vốn kiến thức sẵn có? Đó cũng là nghệ thuật. Dạy học sinh tự học, người giáo viên phải biết vai trò chủ đạo của mình là cần phải làm gì. b) Rèn luyện ý chí cho học sinh: Theo tôi, người giáo viên cần phải gần gũi, thương yêu học sinh và đôi lúc cũng nên để các em tự bơi, tự lội. Có thể các em sẽ bị vấp ngã trong những bước đi đầu tiên nhưng không sao. Vì lần vấp ngã này nằm trong tầm quan sát của chúng ta, các em sẽ tự đứng dậy được và ý chí thêm mạnh mẽ. Dạy cho học sinh biết con đường thành công phải trải qua gian nan, lắm khi thất bại chứ không phải dễ dàng đạt được - Đường đời còn dài - Thất bại là mẹ thành công. Việc này, giúp các em bỏ đi tính chủ quan và mơ tưởng của mình (không phải năm trước khá thì năm nay cũng được khá, mỗi năm phải có sự thay đổi cho phù hợp. Làm như vậy, chúng ta đang xây dựng lại tư tưởng mới, suy nghĩ mới cho học sinh. Giáo viên không chỉ dạy tri thức theo sách giáo khoa mà còn phải dạy cách học, dạy cách tiếp cận tri thức, dạy cách suy nghĩ, và dạy các kỹ năng. Ví dụ: Cần phải phối hợp nhuần nhuyễn giữa hướng dẫn cách giải ở một bài cụ thể rồi suy rộng ra cách giải ở dạng điển hình (các bài tương tự các em sẽ tự làm được). Theo cách dạy mới này, bóng dáng của người thầy xem qua thì thấy có vẻ mờ nhạt hơn, bởi vì người thầy không tác động nhiều, chỉ chiếm khoảng 30%. Nhưng nghĩ kỹ, nó lại là phần then chốt. Giáo viên đã tác động bàn tay vô hình của mình vào học sinh đến nỗi các em không biết được thầy đã dạy những gì mà mình vẫn lĩnh hội được tri thức. Tôi rất tâm đắc với lời đánh giá sau: Người thầy dạy giỏi là người thầy biết giải thích; Người thầy xuất sắc là người thầy biết minh họa; Người thầy xuất chúng là người thầy biết truyền cảm hứng. Một biện pháp đơn thuần không thể có được hiệu quả cao và cũng không phải chỉ phải có thực hiện ở một lớp mà chúng ta cần phải thực hiện đồng bộ trong toàn trường, toàn xã hội và bền bỉ tác động; cần phải kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục. B. Những biện pháp cụ thể 1. Xây dựng niềm tin và hứng thú học tập: Trong khi tiến hành một công việc, yếu tố tinh thần rất quan trọng, càng vào những lúc khó khăn, con người ta mới biết mình cần phải làm gì. Việc học tập của học sinh cũng vậy. Học quả là khó khăn và gian khổ. Nếu không tìm thấy được niềm vui, không thấy được ý nghĩ của việc học thì không thể nào học tốt được. Scheckov đã từng đưa ra tổng kết về con đường thành công trong việc học tập, nghiên cứu của mình bằng câu: "Nghệ thuật học là: Ý CHÍ - TRÌNH TỰ - THỜI GIAN" Thực tế cho thấy: Học sinh có ý chí sẽ luôn tìm cách vươn lên và trong quá trình học tập, các em sẽ tự đúc rút ra kinh nghiệm cho bản thân mình. Như vậy là đã có sự thành công. Đầu tiên, tôi tạo cho học sinh một sức ép, một tâm thế thôi thúc, chuẩn bị cho việc học tập. Tôi kiểm tra, khảo sát một cách kĩ lưỡng, đưa ra những điểm số chính xác về mức độ hoàn thành bài tập của học sinh để cho các em thấy được kết quả của mình (trên thực tế điểm số rất thấp, ngay cả đối với nhiều em khá giỏi ở năm học trước). Làm như vậy để các em thấy mình cần phải bỏ công suy nghĩ thì mới đạt kết quả cao và kết quả này cho các em biết thực chất mình đang đứng ở đâu, đạt được mức độ nào. Tình cảm của các em sẽ được hun đúc nên từ những tấm gương trong những câu chuyện kể. Những câu chuyện cảm động dễ đi vào lòng các em hơn là những mệnh lệnh. Tôi đã kể cho các em nghe về tấm gương hiếu học như: Bông sen trong giếng ngọc - Cuộc đời của Mạc Đỉnh Chi; Cậu bé viết thuê của A-mi-xi - Một cậu bé con nhà công nhân thức khuya để viết thay cha, truyện kể về ý chí, cách học tập, làm việc của Bác Hồ và nhiều vĩ nhân khác trên thế giới. Giảng cho học sinh hiểu ý nghĩa của việc học tập bằng những câu danh ngôn. Chẳng hạn: Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để làm người; Học để xây dựng quê hương đất nước Quan trọng hơn, tôi đã dựa vào thực tế trong làng xóm. Nếu không học, ta sẽ không có việc làm, không có cuộc sống ổn định. Và tôi cũng lấy chính những lời tâm sự của mẹ cha các em về cuộc đời mình: Không học buồn tủi lắm; Hối hận vì ngày xưa không tiếp tục đi học; Mình như vậy nên bây giờ cũng cố gắng tạo điều kiện cho con mình học hành đầy đủ Tôi động viên tinh thần cho học sinh cảm lớp bằng cách viết lên góc bảng trong khi học sinh làm bài những cụm từ như: Cố lên; Tự suy nghĩ mới thông minh; 1 điểm của mình = 10 điểm do người khác cho; Kết quả, học sinh cũng hiểu ra được mình cần phải tự cố gắng, nếu trông chờ các bạn thì điểm cao cũng không có ý nghĩa gì. Viết lên bảng như vậy, học sinh tập trung hơn và còn có một khoảng thời gian tuy không dài nhưng cũng đủ để tĩnh tâm suy xét, chuẩn bị cho hoạt động mới một cách nhẹ nhàng, không hối hả. Phải tùy hoàn cảnh cụ thể, tạo khung cảnh giáo dục tốt làm cho học sinh ngồi trong lớp học thấy vui tươi, thích thú không nặng nề, sợ sệt. Tôi luôn lưu ý xem tài sản lớp học, chăm sóc lớp như nhà của mình để cùng nhau trang trí, là học sinh lớp 5 tôi tự cho học sinh chọn những tranh vui tươi treo trên tường có tính cách giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Giờ ra chơi, tôi tổ chức vui chơi tập thể để tạo sự gắn bó thương yêu trong học sinh và sự gần guõi thân mật giữa học sinh với giáo viên. Trong chương trình giảng dạy tôi tổ chức những buổi vui học cuối tuần trong tiết sinh hoạt với hình thức đố vui, ôn tập, hái hoa để chuẩn bị cho các kỳ khảo sát và kiểm tra học kỳ. Trong những năm qua, bằng hình thức này tôi đã ôn tập cho các em thi đạt kết quả cao, và các em cũng vui thích tham gia tích cực cho phong trào của lớp sôi động trong các hoạt động ngoại khóa như thi kể chuyện, thời trang, vẽ tranh, hát . Vì vậy cứ đến ngày cuối tuần là các em rất buồn vì sắp phải xa không khí học tập, hứng thú ấy và mong gặp nhau trong những tuần học tới. 2. Lập nhật ký học tập: Học tập cũng phải mang tính khoa học, cần phải có trình tự, cần phải có sự đánh giá kết quả và đưa ra hướng học tập mới thích hợp. Ai là người đánh giá quá trình học của các em? - Đó là giáo viên, là bạn bè, là phụ huynh. Nhưng quan trọng hơn đó là chính bản thân các em. Bởi vì các em là chủ thể của hoạt động. Khi các em biết đánh giá chính bản thân mình thì không còn điều gì khó khăn trong học tập nữa, các em sẽ tự điều chỉnh mình. Đó là vấn đề mà các lực lượng giáo dục đang mong mỏi. Tôi cho học sinh viết "Nhật ký học tập". Việc làm này có nhiều em rất thích bởi vì các em đó có sự tự tin. Nhưng nhiều em ban đầu rất sợ viết vì trong đó có nêu cả những việc chưa làm được của chính mình rồi từ đó khắc phục. Sau một thời gian, các em biết cách ghi và có nhiều tiến bộ. Các em biết mình còn thiếu kiến thức nào rồi tìm cách học lại kiến thức đó. Khi đến trường, các em tự tin hơn, không phải thụ động như trước mà chủ động tiếp thu kiến thức và thực hành. Tôi động viên các em viết nhật ký hàng ngày. Cuối mỗi tuần, các em đưa cho cha mẹ xem rồi nộp lại cho tôi nhận xét. Những lời nhận xét ngắn gọn nhưng rõ ràng, đúng trọng tâm vấn đề có tác dụng rất lớn. Trong nhiều năm đi dạy, tôi thấy: ghi nhận xét và lời động viên ra giấy để các em đọc có tác dụng và hiệu quả hơn lời nói trực tiếp. Các em vui mừng trao cho nhau đọc những lời nhận xét; và cũng có nhiều em xấu hổ không dám để các bạn đọc. Cả hai đều có tác dụng tốt, tạo động lực cho các em phấn đấu. Nhật ký học tập Trang 1: Điều kiện học tập của em: Trang 2: Kế hoạch học tập (Dựa vào thời khóa biểu trong ngày để lên kế hoạch; ghi thời gian nghỉ ngơi, phụ giúp gia đình) 3. Hướng dẫn cách học tốt cho từng môn Mỗi môn học có những yêu cầu riêng và cần phải có cách học riêng thì mới có hiệu quả. Bất cứ một môn học nào, tôi cũng cố gắng tạo một hứng thú, một bất ngờ về nội dung mà nó cung cấp để cho các em thấy nội dung thật lý thú, chứ không phải là dạy xong nội dung này rồi sang nội dung khác. Việc củng cố nội dung ở từng bài tập cũng được tôi áp dụng trước khi chuyển sang bài tập khác. * Phân môn tập làm văn: Cả lớp cùng nhận xét bài văn để rút kinh nghiệm; hoặc có khi tôi viết một câu văn hay của một học sinh nào đó lên bảng rồi mỗi em viết thêm một câu khác sao cho mạch nội dung được liên tục. Làm được điều này, học sinh sẽ rất nhanh trí và phải tích cực động não, các em học được nhiều cái hay ở mỗi bạn. * Ở các môn Khoa học, Địa Lý, Lịch sử: Tôi thường ghi một câu lệnh lên bảng. Chẳng hạn: Tự nghiên cứu vấn đề này trong 5 phút; và tôi thường nêu những câu hỏi trước để cho học nghiên cứu. Làm như thế, tất cả học sinh đều phải tự mình làm việc. Dần dần, học sinh sẽ rèn được kĩ năng đọc - đọc là phải hiểu, phải nắm bắt được những yếu tố trọng tâm. * Ở môn Toán: Do học sinh quên nhiều kiến thức cũ nên tôi đã ôn lại cặn kẽ các kiến thức ấy. Ở những dạng toán có lời văn, tôi thường hay ghi đề bài lên bảng và hỏi học sinh: Chúng ta cần chú ý vào những từ ngữ nào? Tôi cũng ghi lên góc bảng cách suy nghĩ một bài toán: Bài toán hỏi gì? Bài toán cho biết điều gì, mối quan hệ? Muốn tìm được điều này thì ta tìm điều gì trước và bằng cách nào? Tôi hướng học sinh tập trung chú ý vào những từ ngữ then chốt, dựa trên những từ ngữ này mà giải bài tập chứ tôi không vội vàng giảng giải các bước. Và dần dần, học sinh cũng biết cách đọc đề, cũng biết suy luận. 4. Phối hợp cùng phụ huynh, tạo môi trường giáo dục tốt: Gia đình là nơi gần gũi với các em nhất, việc biết cách dạy con của cha mẹ đóng góp một phần quan trọng cho việc thành công. Đổi mới nội dung cuộc họp phụ huynh là điều cần thiết. Cha mẹ học sinh sẽ thực sự là một lực lượng giáo dục quan trọng và hiệu quả. Cho nên, trong những cuộc gặp mặt, những lần họp phụ huynh, tôi đều lồng ghép nội dung, cách giáo dục con em họ. Cụ thể là: ñònh höôùng cho phuï huynh veà caùch giaùo duïc tình caûm, cách quaûn lyù thôøi gian ôû nhaø cuûa con em mình; cách dạy tự học và lồng ghép các yêu cầu của thời đại, câu chuyện giáo dục ở một số nước tiên tiến Tôi cũng đề nghị phụ huynh nên tạo không gian tự học tại nhà cho học sinh. Đó là một nơi yên tĩnh, thoáng mát. Ngồi tĩnh tâm mới có thể tập trung suy nghĩ và rèn luyện được trí nhớ. 5. Giáo dục kĩ năng tư duy độc lập, tư duy nhóm. Học sinh có nhiều nguồn tri thức khác nhau lấy từ thực tế cuộc sống, từ gia đình, bạn bè, xã hội nên tôi đã chú ý tới việc học theo nhóm tại nhà. Đầu tiên, tôi hướng dẫn cách học theo nhóm, hướng dẫn cách hướng dẫn cho các bạn. Vì tôi hiểu: "Học thầy không tày học bạn", "Biết dạy người khác là học hai lần". Dạy học sinh rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng diễn giải. Tôi gọi học sinh lên lớp giảng giải về vấn trong đề bài học. Qua quan sát, tôi thấy các em có hứng thú hơn khi tôi trực tiếp giảng. Em học sinh đứng lên giảng sẽ rèn được tính tự tự tin còn các em ở dưới mong ước mình cũng giảng bài được như bạn, từ đó mà cố gắng phấn đấu. Các em học kém, yếu có tâm trạng sợ sệt, không tự tin làm bài. Sau khi kiểm tra chất lượng đầu năm nắm được tình hình học tập của từng em trong lớp mình, tôi phân cụ thể cho những em học giỏi hỗ trợ các em yếu kém cùng tiến bộ tạo thành một phong trào "Đôi bạn cùng tiến" Khi phân công làm việc này, tôi phải liên hệ gia đình các em để nhờ sự hỗ trợ, kiểm soát việc học tập của các em ở nhà, tôi lập phiếu theo dõi và đưa ra những hướng dẫn , biện pháp để các em học tập ở nhà dưới sự quản lý của nhóm trưởng. Hàng tháng đều phải đúc kết việc phong trào "Đôi bạn cùng tiến" baèng moät baøi kieåm tra daønh cho hoïc sinh yeáu. III. KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG NỘI DUNG VÀO THỰC TIỄN 1. Kết quả : Trong 10 năm đầu tôi đi dạy, có khi tôi dạy hai lớp trong một năm, học sinh lớp tôi đã biết tự học và sẵn sàng học ở các lớp sau. Đó là điều thành công lớn nhất và tôi cảm thấy thích điều này. Phụ huynh cũng hiểu được cách dáo dục con cái từ đó mà nhân rộng ra toàn xã hội. Đồng thời cũng tạo được sự tin tưởng ở phụ huynh. Vì bây giờ, trong ngành Giáo dục cũng có nhiều đáng phải bàn. 2. Bài học kinh nghiệm : Muốn việc giáo dục tự học được thành công, giáo viên cần phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với Đoàn thể, với địa phương, tạo những điều kiện, môi trường giáo dục tốt. Quan trọng hơn là phối hợp giáo viên toàn trường để có được phương pháp dạy đồng bộ. Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp qua các phong trào. Tạo cho các em động cơ ham học, trong việc uốn nắn các em, giáo viên chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hòa hợp với các em, biết lắng nghe ý kiến học sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp . Nên tổ chức vui chơi tập thể trong các giờ ra chơi, giờ sinh hoạt lớp để tạo sự gắn bó thương yêu trong học sinh và giáo viên. Trong chương trình giảng dạy nên tổ chức những buổi vui học, học vui dưới hình thức ôn tập. 3. Hướng phát triển của đề tài: Tôi tin rằng đề tài của tôi hoàn toàn có thể áp dụng đặc biệt là về phía phụ huynh. Phụ huynh hoàn toàn có thể tham gia vào việc giáo dục con em mình theo các cách mà tôi đã nêu. Như vậy là ta đã có thêm một lực lượng tham gia vào giáo dục có hiệu quả. IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ: Phía nhà trường cần phải có những kế hoạch cho tất cả giáo viên thực hiện một cách đồng bộ. Vì cả trường thực hiện thì sẽ thành công hơn. Đối với ngành, sau này, khi thay sách, đổi mới chương trình cần đưa những nội dung giáo dục tình cảm là chính. Mặc dù đó là những câu chuyện quá cũ không hiện đại nhưng đối với học sinh đó vẫn là một điều mới mẻ. Hơn nữa, tiểu học là bậc nền tảng, chúng ta chỉ cần xây dựng vững chắc nền tảng là đã thành công, sự phát triển sẽ dành cho ở các bậc học, cấp học sau. Khi học sinh đã được hun đúc những tình cảm, ý chí thì tự các em sẽ tìm hiểu nền tri thức của nhân loại để phát triển mà không cần chúng ta phải khổ công hướng dẫn. Cùng với việc thay đổi nội dung sách giáo khoa. Chúng ta cần thay đổi thời gian dạy học. Vẫn chia thành 4 kì. Học xong mỗi kì, ta sẽ ôn tập 2 tuần rồi mới thi. Hiện nay, chúng ta đã tăng thời gian học lên rất nhiều bằng cách học ngày 2 buổi. Vậy ta chỉ tăng thêm 2 tuần thì có ý nghĩa gì hay không? Theo tôi là rất lớn. Học sinh đến trường trong 2 tuần này sẽ có một tâm thế khác. Vì nội dung học các em chưa biết trước - do giáo viên tự quyết định kế hoạch giảng dạy của mình: có thể là kể chuyện, tâm sự, thầy trò vui vây bên nhau, có thể là giáo dục kĩ năng sống, có thể là tự suy nghĩa về những gì mình học được, làm được, chưa làm được để đưa ra phương hướng cho kì học tiếp theo, cũng có thể là ôn tập, Các em không bị áp lực. Đây là khoảng thời gian các em hồi tĩnh - rất cần thiết - không ai có thể tiến lên mà không ngừng lại nghỉ ngơi. Hơn nữa, giáo viên chủ nhiệm là người hiểu học sinh của mình nhất, hiểu các em còn khuyết chỗ nào, mạnh chỗ nào và cần những gì, Từ đó đưa ra nội dung ôn tập phù hợp. Như vậy là học sinh sẽ có thời gian tự học. Phía xã hội và phía phụ huynh nên coi sự nghiệp giáo dục cũng là việc của mình. Trong các cuộc họp khu phố, thôn xóm nên cùng nhau bàn bạc, lồng ghép nội dung, cách thức giáo dục con em mình. Phước Dân, ngày 16 tháng 3 năm 2023 NGƯỜI VIẾT Phaïm Huy Chöông Nhận xét của Hội Đồng Sáng kiến cơ sở Trường Tiểu học Vĩnh Thuận Chủ tịch ------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ -------------------------------------------------------------------------------------------------
Luận Văn Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Toán Lớp 5
Luật phổ cập giáo dục Tiểu học có ghi “Giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và thể chất của trẻ em nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam XHCN”. Để tiến kịp thời đại, phục vụ kịp thời cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước, giáo dục Tiểu học đã và đang trở thành mối quan tâm lớn của toàn xã hội. Bậc Tiểu học được coi là nền móng của hệ thống giáo dục quốc dân. Chất lượng giáo dục phổ thông tuỳ thuộc rất nhiều vào kết quả đào tạo ở bậc Tiểu học. Vì thế, giáo dục Tiểu học phải chuẩn bị thật tốt về mọi mặt để học sinh tiếp tục học lên. Đồng thời, giáo dục Tiểu học có trách nhiệm xây dựng một nền dân trí tối thiểu cho cả dân tộc. Chương trình giáo dục Tiểu học phải xây dựng một cách khoa học để có thể hình thành cho trẻ em từ 6 đến 11 tuổi những cơ bản ban đầu hết sức quan trọng trong nhân cách con người Việt Nam hiện đại, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện tại cũng như trong tương lai. Có thể nói, mỗi tri thức, kỹ năng, năng lực học sinh được rèn luyện ở bậc Tiểu học sẽ định hình những phẩm chất, nhân cách cho học sinh. những gì đã hình thành trong các em, sau này lớn lên khó mà thay đổi được. Vì vậy nhà trường có nhiệm vụ rèn luyện, giáo dục học sinh trở thành những con người phát triển toàn diện. Để làm được điều đó cần coi trọng tất cả các môn học và mỗi môn có một đặc trưng riêng, môn nào cũng có ý nghĩa, mục đích, yêu cầu riêng nhưng đều hỗ trợ, bổ sung cho nhau góp phần giáo dục con người phát triển một cách toàn diện. Để chiếm lĩnh được đỉnh cao của khoa học kỹ thuật càng cần phải có nhiều nhân tài, phải giỏi về các môn khoa học tự nhiên và xã hội trọng đó có môn Toán.
TÀI LIỆU LUẬN VĂN CÙNG DANH MỤC
TIN KHUYẾN MÃI
Thư viện tài liệu Phong Phú
Hỗ trợ download nhiều Website
Nạp thẻ & Download nhanh
Hỗ trợ nạp thẻ qua Momo & Zalo Pay
Nhận nhiều khuyến mãi
Khi đăng ký & nạp thẻ ngay Hôm Nay
NẠP THẺ NGAY
DANH MỤC TÀI LIỆU LUẬN VĂN
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Lớp Bốn Học Tốt Môn Toán
Hồ Chủ tịch – người thầy vĩ đại của Đảng, của Cách mạng Việt Nam đã nói: “Muốn có đạo đức Cách mạng thì phải có tri thức”.
Điều này chứng tỏ tri thức trong xã hội là chìa khóa vạn năng để mở tất cả bí mật trong vũ trụ bao la này.
Muốn có tri thức thì phải học và học thật tốt. Việc học phải trải qua muôn vàn gian khổ, quá trình thử thách, nghiền ngẫm, suy luận, tìm tòi, kể cả phải vượt qua thác ghềnh, chông gai mới có được.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của nhà trường hiện nay là hình thành, phát triển trí tuệ cho học sinh. Những nghiên cứu gần đây, Hồ Ngọc Đại cho thấy khi thực hiện nhiệm vụ đó bằng cách tổ chức hoạt động học tập ngay từ khi trẻ tới trường tiểu học, môn Toán chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Toán học với tư cách là một môn khoa học nghiên cứu về một số mặt của thế giới hiện thực, có một hệ thống kiến thức cơ bản và phương pháp nhận thức cơ bản rất cần thiết cho đời sống sinh hoạt và lao động. Nó còn là phương tiện, là công cụ cần thiết để học các môn học khác. Đồng thời nó góp phần to lớn vào việc phát triển tư duy lo-gic, bồi dưỡng và phát triển các thao tác trí tuệ: trừu tượng hóa, khái quát hóa, phân tích, tổng hợp, so sánh, Mặt khác, môn Toán còn góp phần quan trọng vào việc phát triển tư duy độc lập, linh hoạt, sáng tạo trong việc hình thành các phẩm chất của con người lao động mới.
Hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh là mối quan tâm có tầm quan trọng hàng đầu bao trùm và chi phối mọi hoạt động khác. Trong các môn học ở tiểu học thì môn Toán giúp học sinh nắm được kiến thức Toán học cơ bản, có cơ sở học tốt các môn khác, giúp các em năng động, sáng tạo, tự tin hơn. Chương trình Toán lớp 4 là sự kế thừa, tiếp tục của toán 1, 2, 3. Nội dung đã có những thay đổi mới, tăng cường thực hành, ứng dụng kiến thức mới giúp học sinh phát huy được năng lực, tích cực hơn trong việc học, các bài tập vừa sức với học sinh.
I. TÊN ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP BỐN HỌC TỐT MÔN TOÁN II. ĐẶT VẤN ĐỀ: Hồ Chủ tịch - người thầy vĩ đại của Đảng, của Cách mạng Việt Nam đã nói: "Muốn có đạo đức Cách mạng thì phải có tri thức". Điều này chứng tỏ tri thức trong xã hội là chìa khóa vạn năng để mở tất cả bí mật trong vũ trụ bao la này. Muốn có tri thức thì phải học và học thật tốt. Việc học phải trải qua muôn vàn gian khổ, quá trình thử thách, nghiền ngẫm, suy luận, tìm tòi, kể cả phải vượt qua thác ghềnh, chông gai mới có được. Một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của nhà trường hiện nay là hình thành, phát triển trí tuệ cho học sinh. Những nghiên cứu gần đây, Hồ Ngọc Đại cho thấy khi thực hiện nhiệm vụ đó bằng cách tổ chức hoạt động học tập ngay từ khi trẻ tới trường tiểu học, môn Toán chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Toán học với tư cách là một môn khoa học nghiên cứu về một số mặt của thế giới hiện thực, có một hệ thống kiến thức cơ bản và phương pháp nhận thức cơ bản rất cần thiết cho đời sống sinh hoạt và lao động. Nó còn là phương tiện, là công cụ cần thiết để học các môn học khác. Đồng thời nó góp phần to lớn vào việc phát triển tư duy lo-gic, bồi dưỡng và phát triển các thao tác trí tuệ: trừu tượng hóa, khái quát hóa, phân tích, tổng hợp, so sánh,Mặt khác, môn Toán còn góp phần quan trọng vào việc phát triển tư duy độc lập, linh hoạt, sáng tạo trong việc hình thành các phẩm chất của con người lao động mới. Hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh là mối quan tâm có tầm quan trọng hàng đầu bao trùm và chi phối mọi hoạt động khác. Trong các môn học ở tiểu học thì môn Toán giúp học sinh nắm được kiến thức Toán học cơ bản, có cơ sở học tốt các môn khác, giúp các em năng động, sáng tạo, tự tin hơn. Chương trình Toán lớp 4 là sự kế thừa, tiếp tục của toán 1, 2, 3. Nội dung đã có những thay đổi mới, tăng cường thực hành, ứng dụng kiến thức mới giúp học sinh phát huy được năng lực, tích cực hơn trong việc học, các bài tập vừa sức với học sinh. Để đạt được mục tiêu chương trình đề ra, Gv phải nắm chắc mục tiêu, nội dung đề khai thác trong từng bài. Điều quan trọng là GV phải nghiên cứu, đầu tư xây dựng phương pháp dạy và học, giao việc vừa sức cho từng đối tượng học sinh nhằm giúp học sinh tích cực trong hoạt động học tập, vận dụng được thành thạo những nội dung trong từng bài. Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của môn toán ở tiểu học, xuất phát từ thực trạng dạy và học trong chương trình toán 4, qua nghiên cứu khả năng ứng dụng cụ thể, thiết thực của vấn đề tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài " Một số biện pháp giúp học sinh lớp Bốn học tốt môn toán". Với mong muốn nâng cao hiệu quả trong công tác giảng day. III. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Toán học là một môn khoa học đòi hỏi sự chính xác cao. Đặc biệt người học toán cần có kĩ năng làm toán tốt thì mới đem lại kết quả cao trong học tập. Mặt khác, học giỏi toán cũng là công cụ cần thiết để học các môn học khác cũng như nhận thức thế giới xung quanh và thực tiễn một cách có hiệu quả. Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó là tiền đề để phát triển tư duy logich đồng thời bồi dưỡng và phát triển những thao tác mang tính trí tuệ để nhận thức thế giới hiện thực như: trừu tượng hóa, khái quát hóa, phân tích tổng hợp, dự đoán, chứng minh. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy luận, giải quyết vấn đề có căn cứ khoa học, toàn diện, chính xác; nó có nhiều tác dụng trong việc phát triển trí thông minh, tư duy độc lập, linh hoạt sáng tạo, góp phần giáo dục ý chí và những đức tính tốt như cần cù, nhẫn nại của con người. IV.CƠ SỞ THỰC TIỄN: Đặc điểm tình hình chung của lớp: 1. Thuận lợi: - Đa số học sinh có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập. - Cơ sở vật chất đầy đủ, khang trang, đầy đủ điều kiện ánh sáng để học sinh học tập. - Hầu hết các em có lòng say mê học toán, thích tìm tòi, khám phá điều mới lạ trong toán học. 2. Khó khăn: - Mức độ lĩnh hội kiến thức của các em không đồng đều. - Một số em còn ham chơi, thiếu chuyên cần trong học tập. - Một số phụ huynh thiếu quan tâm đến việc học tập của con em mình. 3. Thực trạng: Qua giảng dạy nhiều năm, tôi thấy thực trạng về chất lượng của học sinh lớp Bốn như sau: - Nhân chia các em ít thực hiện được, trong lớp có 30 em chỉ có 1/3 số học sinh làm được, theo kịp được chương trình, còn lại 2/3 là làm chưa được. - Còn nhiều em cộng trừ rất chậm, mau quên những kiến thức vừa lĩnh hội được, chưa có kĩ năng xác định yêu cầu bài toán thuộc dạng cơ bản, vận dụng kiến thức ở mức độ thấp ( máy móc, thuộc quy tắc nhưng có khi không áp dụng được). - Giải bài toán có từ hai phép tính trở lên một cách khó khăn, hầu hết chưa biết tìm lời giải chính xác, đơn vị chư thích hợp. GIỎI KHÁ TB YẾU SL TL SL TL SL TL SL TL 3 10% 10 33.3% 6 20% 11 36.7% 4 . Nguyên nhân: Qua điều tra tôi thấy học sinh yếu toán do các nguyên nhân sau: 4.1. Học sinh ít thuộc bảng nhân, bảng chia từ lớp 2, 3. - Hầu hết học sinh ít thuộc bảng nhân, bảng chia nên thực hiện phép nhân, phép chia vô cùng khó khăn; không hiểu được 28 : 4 là được bao nhiêu lần. - Nhân chia một chữ số đã khó với học sinh. Vậy mà đến lớp 4 các em phải nhân chia 2, 3 hoặc nhiều chữ số nên lại càng khó hơn. Do đó học sinh khó có thể hiểu được cách làm một cách nhanh chóng. 4.2. Một số em quá yếu, khả năng tính nhẩm chậm, nên làm các phép tính cộng, trừ chậm; nhân chia lại càng chậm hơn. Làm bài này chậm thì không thể hiểu được bài kia do vậy càng không hiểu bài dẫn đến không có kĩ năng làm bài. 4.3. Học sinh hầu hết ít thuộc quy tắc nên mau quên, còn có số đông là học suông chứ không hiểu rõ nên việc áp dụng rất khó khăn.. - Ví dụ như các quy tắc về tính giá trị của biểu thức. Học sinh không nắm rõ nên vẫn làm lộn xộn chứ không thực hiện đúng theo thứ tự trong quy tắc. 4.4 Khả năng phân tích, tổng hợp các yếu tố, các dữ kiện của đề toán của các em còn quá yếu nên học giải bài toán từ hai phép toán từ hai phép tính trở lên rất khó khăn, không biết phân tích từ kết luận đến giả thiết, không biết vận dụng cái có để đi tìm cái chưa có. Do vậy, nhiều bài tính giả giảng kĩ nhưng học sinh vẫn không làm được, khi giải xong lại ghi đơn vị của cái đã cho chứ không ghi đơn vị của cái phải tìm, lời giải cho mỗi phép tính lại không phù hợp. 4.5. Do bản thân mỗi học sinh lười học: - Trong lớp chỉ có vài học sinh ham học hỏi, ham hiểu biết, lo tìm tòi, tìm hiểu cách giải, còn lại hầu hết là học cho xong chuyện, làm cho xong rồi đi chơi không cần biết đúng hay sai, không chịu khó tìm tòi suy nghĩ, không phát triển được tư duy, không nắm được kiến thức cơ bản. 4.6. Sự cộng tác của phụ huynh còn rất hạn chế. - Một số phụ huynh đưa con em đến trường là khoáng cho GV, con em học được chừng nào hay chừng ấy, không có sự kiểm tra chỉ bảo của phụ huynh. - Còn lại số đông phụ huynh là chăm lo cho con cái nhưng không nắm được phương pháp giải nên không thể hướng dẫn cho con em học được. Với chương trình cải cách mới, cách học cách làm rất xa lạ với phụ huynh; rất nhiều phụ huynh có vốn kiến thức rất khá nhưng phương pháp giải không phù hợp với học sinh tiểu học nên vẫn không thể nào hướng dẫn cho con em được. 4.7. Cấu tạo chương trình lớp 4 quá nặng đối với học sinh, chương trình học liên tục là những tiết phải cung cấp kiến thức mới với rất nhiều dạng toán, số tiết luyện tập ít nên giáo viên không có điều kiện, thời gian để luyện cho học sinh làm bài, do đó khó có thể làm cho học sinh nắm kiến thức chắc chắn được. V . NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: Để giúp cho học sinh học được môn toán, để hoàn thành nội dung chương trình lớp 4 theo đúng yêu cầu, tôi đã tìm ra những biện pháp cần thiết áp dụng vào việc học toán như sau: Kiểm tra bảng cửu chương: Để học sinh làm được phép nhân, phép chia với số có một chữ số tiến đến hiểu và làm được tính nhân, tính chia số có hai, ba hoặc nhiều chữ số thì bắt buộc học sinh phải thuộc lòng bảng cửu chương. Do đó việc kiểm tra bảng cửu chương là việc làm thường xuyên ở mỗi tiết toán, có như vậy thì học sinh mới lo học và có thể thuộc được. * Biện pháp: Trong mỗi tiết toán tôi đã dành khoảng 2 phút đầu để kiểm tra, những tuần đầu tôi kiểm tra đọc thuộc lòng, các tuần sau đó lại kiểm tra theo cách chỉ bất kì. ví dụ: Hỏi 8 x 7= ?. Yêu cầu học sinh phải trả lời ngay, nếu em nào trả lời chậm hoặc không trả lời được tức là chưa thật thuộc, mục đích ở đây là tránh cho các em thuộc một cách máy móc. Để khuyến khích và bắt buộc học sinh học thuộc, tôi luôn kèm theo hình thức khen thưởng và trách phạt. Nếu thuộc thì được cộng thêm một điểm, nếu không thuộc các em phải về nhà chép lại bảng nhân đó ít nhất là 10 lần cho nhớ, kèm với việc liên hệ với gia đình để nhắc nhở thêm. Đây là việc giáo viên phải làm thường xuyên cho đến khi nào biết chắc rằng cả lớp đã thật thuộc thì mới thôi. Luyện cho học sinh tính nhẩm: Tính nhẩm về cộng trừ hai chữ số trên dưới 10, học sinh đã học từ lớp một nhưng đến lớp 4 vẫn còn nhiều em tính quá chậm, tính chậm sẽ làm toán chậm do đó làm bài không kịp giờ. Muốn học sinh tính nhanh thì phải rèn kĩ năng tính nhẩm cho các em. Ví dụ : 5 + 7= 5 + 5 + 2 = 10 + 2 = 12 15 - 7 = 15 - 5 - 2 = 10 - 2 = 8 Trong mỗi tiết học đều cho học sinh yếu lên bảng, hướng dẫn cho em trên bảng tính và cả lớp cùng nghe. Đây cũng là việc giáo viên phải làm thường xuyên trong mỗi tiết học để cho học sinh khắc sâu, nhớ được cách tính, từ đó sẽ giúp các em làm tính nhanh hơn. 3. Cho học sinh nắm được qui tắc, tên số trong mỗi phép tính: - Muốn làm tốt dạng toán tìm x thì học sinh cần phải nắm được các thành phần trong mỗi phép tính thì mới áp dụng qui tắc để làm được bài, nếu không nắm được các thành phần chưa biết trong mỗi phép tính thì dù có thuộc qui tắc cũng sẽ không làm được bài. - Do đó, khi gặp loại toán này giáo viên phải thường xuyên ôn luyện . Mỗi lần ôn, luyện sẽ giúp học sinh vừa nhớ bài, vừa khắc sâu kiến thức hơn. - Khi đã thuộc được tên số và qui tắc thì chắc chắn học sinh sẽ làm bài một cách dễ dàng, không thể lẫn lộn. Ví dụ: Tìm số trừ : 325 - x = 200 Khi gặp dạng này học sinh sẽ áp dụng một cách dễ dàng: Muốn tìm số trừ ta lấy số bị trừ trừ đi hiệu: x = 325 - 200 x = 125 4. Luyện cách làm toán có nhiều phép tính: - Đến lớp 4, giải toán đã tiến lên bước cao hơn, ... động vui khỏe, nó đóng vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu, củng cố, nâng cao kiến thức một cách sinh động và có chất lượng. - Tìm hiểu đề toán đơn giản có ý nghĩa gần gũi với thực tế, dễ hiểu, có hệ thống kiểu đề cùng dạng cho học sinh chơi để giúp học sinh có thói quen với cách phân tích tổng hợp, tìm ra lời giải. Ví dụ: Trong lớp ta em Uyên được 15 điểm mười, em Lan có số điểm mười nhiều gấp ba lần em Uyên. Hỏi cả hai em có bao nhiêu điểm mười? - Cho thi đua giữa các nhóm, nhóm nào có nhiều em giải được và giải nhanh nhất thì sẽ được tuyên dương, khen thưởng. - Nếu cách chơi này thường xuyên được tổ chức trong mỗi tiết học toán sẽ kích thích học sinh động não và tính toán nhanh. - Tìm nhiều trò chơi đố toán, đố vào đầu tiết học nhằm kích thích học sinh ham thích và cởi mở, thoải mái trong lúc học toán, cũng có thể đố toán trong lúc sinh hoạt. Làm như vậy vừa là trò chơi mà cũng vừa là cung cấp kiến thức. Ví dụ: + Cô có tám quả cam chia đều cho 3 tổ, mổi tổ được bao nhiêu quả? + Con đường từ nhà em đến trường dài 900m, em đi hết quãng đường đó trong 1/3 giờ. Hỏi mỗi phút đi được bao nhiêu mét? - Với nhiều dạng bài tập khác nhau nhưng hầu hết là gần gũi với các em làm kích thích tính ham hiểu biết cho các em, từ đó em vừa ham học, vừa có thói quen suy nghĩ tính toán, góp phần hình thành kỹ năng tính toán. 9 .Đề ra hình thức thi đua hằng tuần: - Bên cạnh việc khuyến khích học tập, gây hứng thú học tập, còn phải đề ra những biện pháp thi đua làm cho tất cả học sinh trong cả lớp tích cực học tập, hạn chế tình trạng lười học. - Để theo dõi thường xuyên và đầy đủ tất cả học sinh trong lớp, bản thân giáo viên không thể nào quán xuyến hết mà phải nhờ đến đội ngũ ban chỉ huy lớp, ban chỉ huy Đội nhưng sâu sát, đắc lực nhất là các tổ trưởng. - Lập cho mỗi học sinh một phiếu theo dõi hàng ngày về các hoạt động trên lớp và giao cho các tổ trưởng giữ để theo dõi kiểm tra và ghi vào phiếu hằng ngày. Mỗi phiếu được làm theo cỡ giấy vở học sinh gồm các nội dung sau: PHIẾU THEO DÕI HẰNG NGÀY Họ và tên Lớp.. các mặt TUẦN Không truy bài Mất trật tự Không thuộc bài Không làm bài ở nhà Nhận xét cảu giáo viên Ý kiến của P.H 1 2 . .. - Hằng ngày ở lớp trong 15 phút đầu giờ, tổ trưởng kiểm tra nội dung truy bài, kiểm tra việc tổ viên có thuộc bài theo lời dặn của giáo viên ở buổi học trước hay không, kiểm tra kết quả làm bài ở nhà và trong cả buổi tổ trưởng cũng theo dõi về trật tự để ghi vào phiếu của mỗi em. Hằng ngày được tính bằng số lần và qui định ghi bằng dấu gạch như một lần ghi , 2 lần ghi Cuối tuần tổ trưởng tổng kết số lần và ghi ở dòng dưới. giáo viên tập hợp phiếu theo dõi và nêu nhận xét trước lớp rồi gởi cho học sinh mang về cho phụ huynh xem, có ý kiến rồi trả lại cho tổ trưởng vào đầu tuần. Qua phiếu này phụ huynh sẽ nắm được việc học của con mình ở trường, việc học bài, làm bài ở nhà của con mình, từ đó phụ huynh có biện pháp theo dõi, nhắc nhỡ, giúp đỡ con mình học tốt hơn. - Việc làm này được thực hiện thường xuyên, qua phiếu theo dõi, giáo viên tóm tắt được ở lớp của mỗi học sinh và liên hệ được những điểm yếu cần khắc phục của từng em để gởi về gia đình. Nhờ vậy mà phụ huynh sẽ có cách giúp đỡ và cùng hỗ trợ với giáo viên để nâng cao chất lượng học tập của con em trong đó có môn cơ bản là môn toán. - Kèm theo với việc liên hệ phụ huynh ở lớp cuối mỗi tuần tôi cũng tổng kết tuyên dương những em đạt tốt, động viên, nhắc nhở, có thể trách phạt đối với các em chưa tốt hoặc thường xuyên vi phạm nhiều lần. - Đề ra thi đua từng đợt trong lớp. Dựa trên kết quả tổng kết hằng tuần để có khen thưởng đối với những em xuất sắc và nhất là chú ý tuyên dương khen thưởng mà có cố gắng để tiến bộ. - Tuy phần thưởng chỉ là những phần thưởng nhỏ như một cuốn vở, một cây bút bi nhưng đây là vinh dự nên sẽ kích thích tinh thần thi đua của các em, làm cho mỗi em sẽ có sự nỗ lực phấn đấu để được thường xuyên nhận vinh dự trên. VI/KẾT QUẢ: Qua một thời gian áp dụng đề tài: " Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp bốn" đem lại những kết quả sau: 1. Tất cả học sinh hiện nay đều làm tính cộng trừ tốt, nhân không phải tính bằng ngón tay, ngón chân vì vậy mức độ làm toán nhanh hơn. 2. Tất cả đều thuộc lầu bảng cửu chươnglàm tính nhân chia dễ dàng. Kể cả nhân chia với số có nhiều chữ số cũng thực hiện tốt. 3. Làm toán tính x một cách khoa học, không còn nhầm lẫn giữa các dạng, không còn học sinh không biết làm. 4. Tính giá trị biểu thức một cách thành thạo, thực hiện đúng qui tắc, không thực hiện lộn xộn như trước đây. 5. Biết cách để phân tích đề toán, giải được bài toán có nhiều phép tính một cách logic, khoa học. Kết quả cụ thể qua các lần kiểm tra như sau: Thời gian kiểm tra Tổng số học sinh Kết quả Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Giữa kì I 30 10 33.3 13 43.3 5 16.7 2 6.6 Cuối kì I 30 11 36.7 12 40.0 7 23.3 VII. KẾT LUÂN: Trong dạy học nói chung, dạy toán nói riêng tôi thiết nghĩ mỗi một giáo viên ai cũng mong muốn học sinh mình đều đạt những yêu cầu cơ bản về kiến thức cũng như kĩ năng. Song đối với những đối tưọng học sinh yếu kém về môn toán thì điều này quả thật không dễ dàng chút nào. Qua trao đổi, học hỏi ở bạn bè đồng nghiệp cùng với kinh nghiệm giảng dạy của bản thân tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm cho mình trong việc giúp đỡ học sinh gặp khó khăn trong học toán đạt kết quả như sau: - Người giáo viên phải nhiệt tình, tận tuỵ với nghề nghiệp, có lòng yêu mến trẻ. - Phải thường xuyên học hỏi để có nhiều kinh nghiệm, sáng tạo trong bài dạy, cách truyền thụ kiến thức nhằm tạo cho học sinh hứng thú học tập. - Phải nắm được trình độ học sinh, để lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức cho phù hợp tạo ra không khí lớp học nhẹ nhàng, vui vẻ, sôi nổi. - Giáo viên phải kiên trì, không vội vàng, nôn nóng, luôn luôn tin tưởng vào sự tiến bộ của học sinh để khuyến khích, động viên các em kịp thời. Đồng thời cũng phải nghiêm khắc đối với những học sinh có biểu hiện lười và tiêu cực trong học tập. - Khi dạy mỗi bài, mỗi dạng cần giúp các em nắm vững bản chất, xác lập mối quan hệ giữa các dữ kiện , không bỏ sót dữ kiện nào để có kĩ năng giải thạo từng dạng bài. - Giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy bằng nhiều hình thức như: trò chơi, đố vui.... phù hợp với đối tượng học sinh của mình: " Lấy học sinh để hướng vào hoạt động học, thầy là người hướng dẫn, tổ chức, trò nhận thức chủ động trong việc giải toán ''. - Trong khi giải phải yêu cầu học sinh đặt câu hỏi: '' Làm phép tính đó để làm gì ?'' , từ đó có hướng giải đúng, chính xác. Sau mỗi bài giải, học sinh phải biết xem xét lại kết quả mình làm để giúp các em tự tin hơn khi giải quyết một vấn đề gì đó. VIII. ĐỀ NGHỊ: - Đối với phòng Giáo dục:Thường xuyên mở chuyên đề về dạy toán để giáo viên tham gia học tập, cùng học hỏi ở đồng nghiệp để phục vụ cho công tác giảng dạy đạt kết quả hơn nữa. - Đối với nhà trường: Tổ chức ngoại khóa với hình thức thi đố vui để học nhằm ôn lại những kiến thức học sinh đã được học nhằm giúp các em khắc sâu hơn khi vận dụng. - Đối với phụ huynh: Cần quan tâm, tạo mọi điều kiện để giúp các em học tốt ở nhà. TÀI LIỆU THAM KHẢO: TÊN TÁC GIẢ TÊN TÀI LIỆU NHÀ XUẤT BẢN NĂM XB Đỗ Đình Hoan Sách giáo khoa toán 4 NXB Giáo Dục 1996 Đỗ Đình Hoan Sách giáo viên toán 4 NXB Giáo Dục 2005 Trần Thị Minh Phương Bồi dưỡng thường xuyên Bộ GD&ĐT 2005 Vũ Dương Thuỵ Đổi mới phương pháp dạy học tiểu học NXBGiáo Dục 2000 MỤC LỤC TT TIÊU ĐỀ TỪNG PHẦN TRANG 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 Tên đề tài Đặt vấn đề Cơ sở lý luận Cơ sở thực tiễn Nội dung nghiên cứu Kết quả nghiên cứu Kết luận Đề nghị Tài liệu tham khảo Đánh giá xếp loại SKKN 1 1 2 2 3-10 10-11 11-12 12 13 14 15-16 Mẫu SK1 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc PHIẾU ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2009 - 2001 I. Đánh giá xếp loại của HĐKH Trường Tiểu học: Đinh Bộ Lĩnh 1. Tên đề tài: Một số biên pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 4. 2. Họ và tên tác giả: 3. Chức vụ: Gáo viên - Tổ: bốn 4. Nhận xét của Chủ tịch HĐKH về đề tài: a)Ưuđiểm:......................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... b)Hạnchế:......................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... 5. Đánh giá, xếp loại: Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Trường ................................ .......................................................thống nhất xếp loại : ..................... Những người thẩm định: Chủ tịch HĐKH (Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên) ..................................................... ..................................................... . II. Đánh giá, xếp loại của HĐKH Phòng GD&ĐT .......................................... Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Phòng GD&ĐT ....................................................thống nhất xếp loại: ............... Những người thẩm định: Chủ tịch HĐKH (Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên) ..................................................... ..................................................... III. Đánh giá, xếp loại của HĐKH Sở GD&ĐT Quảng Nam Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Sở GD&ĐT Quảng Nam thống nhất xếp loại: ............... Những người thẩm định: Chủ tịch HĐKH (Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên) ............................................................ ................................................................Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Giúp Trẻ 5
g ban đầu để đi đến kết luận. Với các thí nghiệm phải tiến hành trong thời gian dài, cô cần lựa chọn những thời điểm thích hợp để hướng dẫn trẻ ghi lại kết quả quan sát sự thay đổi của vật làm thí nghiệm bằng hình vẽ, biểu đồ, kết hợp với các câu hỏi gợi ý để trẻ so sánh kết quả thí nghiệm với trạng thái ban đầu, cùng trẻ giải thích nguyên nhân của sự thay đổi và kết quả thí nghiệm. 4.1: Thí nghiệm 1 : Quả trứng thần bí. * Mục đích: - Trau dồi óc quan sát, khả năng phán đoán. - Kích thích tính tìm tòi, ham hiểu biết. * Chuẩn bị: - 2 quả trứng sống, 2 cốc thủy tinh, Nước ngọt, nước muối. * Cách tiến hành. - Cô hỏi trẻ các đồ dùng cô đã chuẩn bị, trẻ đoán xem cô sẽ làm gì với những đồ dùng này - Trẻ đánh dấu thứ tự 2 cốc nước ( Cốc 1 và 2), sau đó thả cả 2 quả trứng vào 2 cốc nước ngọt, trẻ nhận xét khi thả trứng vào thì trứng sẽ nổi lên trên mặt nước. Cô mời trẻ cho muối vào cốc nước thứ nhất, khuấy đều, sau đó thả quả trứng vào. Quả trứng sẽ từ từ nổi lên trên mặt nước. - Cô cho trẻ quan sát và rút ra kết luận: Quả trứng trong cốc nước muối sẽ nổi lên trên mặt nước vì trứng nặng hơn nước muối, nhưng quả trứng sẽ chìm trong nước ngọt vì nó nặng hơn nước ngọt. 4.2. Thí nghiệm 2. Làm nổi một vật chìm. * Mục đích yêu cầu.- Rèn luyện sự quan sát chú ý, tư duy thông qua thí nghiệm " Làm nổi một vật chìm" - Kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của trẻ. - Có ý thức giữ gìn đồ dùng đồ chơi. * Chuẩn bị: - Một vài đồ chìm trong nước như: thìa ilốc, thìa nhôm, gạch đồ chơi, lon côca, chai nước, cốc thủy tinh.... - Một chậu nước. - Băng dính, đất nặn, túi bóng.... * Cách tiến hành. - Cô cho trẻ xem viên bánh trôi nước khi sống, thả xuống nước. Viên bánh trôi sẽ chìm xuống nước. Hỏi trẻ làm thế nào để viên bánh trôi có thể nổi lên? ( Trẻ nêu ý kiến) - Cô đặt một đồ chơi đã chuẩn bị vào chậu nước và cho trẻ quan sát, nhận xét ( Các đồ chìm trong nước). Cô hỏi trẻ. Làm thế nào để vật đó có thể nổi lên được? - Cô hỏi trẻ ngoài cách như vậy thì còn cách nào khác để cho các vật nổi có thể nổi lên được? - Cho trẻ về các nhóm nhỏ để làm thí nghiệm với các đồ cô đã chuẩn bị. Cô quan sát, bao quát trẻ và hỏi. Làm sao cho vật nổi được? vì sao vật đó lại nổi lên được? ( Mỗi nhóm sẽ có cách riêng của trẻ. Có trẻ đổ nước ở trong lon nước ra, có trẻ dùng túi bóng buộc vào cái thìa, có trẻ lấy băng dính bịt chặt miệng cốc...những đồ đó sẽ nổi lên được). Nếu trẻ không làm vật đó nổi được, cô phải xem và xử lý kịp thời hoặc có thể giải thích cho trẻ. 5.3. Thí nghiệm 3: Cuộc chạy đua của ba cây nến. * Mục đích: - Trẻ nhận biết được không khí xung quanh. - Trẻ biết nến cháy nhờ khí ôxy. Khí ôxy hết thì nến sẽ tắt. - Trẻ rút ra được nhận xét: Cây nến nào cháy lâu nhất? Tại sao? * Chuẩn bị:- 3 cây nến, bật lửa - 2 cốc thuỷ tinh lớn và nhỏ cho mỗi nhóm. * Cách tiến hành; - Cho trẻ quan sát và gọi tên các đồ dùng cô đã chuẩn bị. - Hỏi trẻ gắn cây nến lên đĩa bằng cách nào? Cô gắn cho từng nhóm để trẻ quan sát. - Sau khi gắn xong đặt 1 đĩa nến ở ngoài, 1 đĩa còn lại được đậy bởi 1 cái cốc thủy tinh nhỏ. Cô hỏi trẻ: Hiện tượng gì xảy ra? Cây nào cháy lâu hơn? - Cô tiếp tục đốt một cây nến nữa và úp lên bởi 1 cốc thủy tinh lớn. Cô hỏi trẻ: Hiện tượng gì xảy ra? Cho trẻ dự đoán xem cây nến nào cháy lâu nhất trong 3 cây nến? - Cho trẻ quan sát cho đến khi 2 cây nến ở trong cốc tắt dần 4.4: Thí nghiệm 4: Có thể trồng cây bằng gì? * Mục đích. - Giúp trẻ hiểu được ngoài cách trồng cây bằng hạt, người ta có thể trồng cây bằng cành, bằng lá hoặc bằng củ. * Chuẩn bị. - 4 chậu đất để trồng cây. - Một số dây khoai lang hoặc cành hoa trạng nguyên. - Một số lá bỏng. - Một số cành hoặc lá cây khác mà không thể trồng bằng cành hoặc bằng lá. * Cách tiến hành. - Cô cho trẻ chơi trò chơi " Gieo hạt, nảy mầm" - Hỏi trẻ: Ngoài cách trồng cây bằng hạt, ta có thể trồng cây bằng cách nào? - Cho trẻ nói tên 1 số loại cây và lá mà cô đã chuẩn bị. - " Hôm nay chúng ta sẽ giâm, trồng một số cành cây khoai lang, trạng nguyên, lá bỏng....và thử xem điều gì sẽ xảy ra" - Cô cho trẻ dự đoán chậu nào sẽ có các mầm cây mọc lên. - Hàng ngày, cô cùng trẻ tưới nước đủ độ ẩm để cây phát triển, cho trẻ theo dõi sự thay đổi diễn ra trong các chậu cây trồng. - Khi thí nghiệm kết thúc, cô trò chuyện với trẻ về điều xảy ra và rút ra kết luận. Ngoài cách trồng cây bằng hạt, ta có thể trồng cây bằng cành, hoặc bằng lá. Song không phải cây nào cũng trồng được bằng cành hoặc bằng lá và chỉ cho trẻ thấy rễ và mầm sinh ra từ các mắt của cành hoặc các mép lá. 4.5 . Thí nghiệm với nước: Các lớp chất lỏng. * Mục đích: - Trẻ biết phân biệt lớp chất lỏng khác nhau: Dầu, nước, sirô. - Nhận biết lớp sirô nặng hơn nước nên chìm xuống dưới, lớp dầu nhẹ hơn nước và siro nên nổi lên trên cùng. Còn lớp nước ở giữa. - Nhận biết một số chất liệu: Nhựa, gỗ, kim sắt, cao su- nổi ở lớp chất lỏng nào: Nước, siro, dầu, để rút ra kết luận. * Chuẩn bị: - 1 chai dầu ăn, 1 chai nước, 1 chai sirô. - 3 ly thủy tinh, khay. - Các vật liệu: Cao su, sỏi, đồ nhựa, sắt. - Các thẻ màu đỏ, trắng, vàng. * Tiến hành. - Cho trẻ quan sát và gọi tên 3 chai chất lỏng: Dầu, nước, siro. - Mỗi chất lỏng cô dùng một miếng nhựa màu tương ứng với màu chất lỏng: Miếng nhựa đỏ, vàng, trắng. - Cho trẻ chọn chất lỏng thứ 1 đổ vào ly trước và chọn miếng nhựa có màu tương ứng gắn lên bảng. - Cô cho trẻ chọn chất lỏng thứ 2 và đổ vào ly. Trẻ tự đoán nó sẽ đứng ở chỗ nào trong cái ly. Chọn thẻ nhựa có màu tương ứng gắn tiếp lên bảng. Cô cho trẻ quan sát lớp chất lỏng thứ 2 nó đứng ở vị trí nào trong cái ly có đúng như dự đoán của trẻ không. - Làm tương tự với chất lỏng thứ 3. - Cho trẻ quan sát vị trí các lớp chất lỏng ở trong ly để rút ra kết luận. ( Lớp siro nặng hơn nước nên chìm xuống dưới cùng. Lớp nước nhẹ hơn siro nhưng nặng hơn dầu nên ở giữa. Lớp trên cùng là lớp dầu vì nhẹ hơn lớp nước và lớp siro) - Cho trẻ chia thành 2 nhóm, mỗi nhóm tự chọn vị trí xếp thẻ nhựa khácvới lúc đầu. Mỗi nhóm sẽ đổ thứ tự các lớp chất lỏng theo như đã chọn và mang ly chất lỏng vừa đổ lên cùng quan sát xem các lớp chất lỏng có đứng ở đúng vị trí đó không? - Trẻ tự rút ra kết luận: Chất lỏng dù đổ loại nào trước thì nó vẫn đúng theo thứ tự siro, nước, dầu. và trẻ gắn lại thứ tự thẻ nhựa theo đúng vị trí các chất lỏng trong ly. * Mở rộng: cho trẻ thả một số vật: Cao su, nhựa, sỏi, gỗ, sắt và quan sát xem nó nổi hoặc chìm ở lớp chất lỏng nào và tự rút ra kết luận. 4.6: Thí nghiệm: Nhuộm màu hoa. * Mục đích: - Trẻ biết bông hoa hút màu qua những ống hẹp trong cuống hoa và có khả năng biến đổi thành màu đó - Trau dồi óc quan sát, khả năng phán đoán, suy luận và chú ý. * Chuẩn bị: - Bình thủy tinh hoặc lọ hoa trong suốt. - Nước. - Thực phẩm màu ( Màu nước) - Hoa cúc hoặc hoa cẩm chướng sáng màu. * Cách tiến hành. - Cho trẻ quan sát và gọi tên các dụng cụ. trẻ có thể đoán xem cô sẽ làm gì với các dụng cụ này. - cho trẻ đánh dấu 2 lọ nước, sau đó đổ màu vào lọ nước thứ 2, sau đó đặt 2 bông hoa vào 2 lọ nước. - Cô cho trẻ quan sát sau nhiều giờ, cuối cùng các cánh của bông hoa đặt trong lọ thứ hai sẽ chuyển sang màu của nước trong lọ. * Mở rộng: có thể làm những bông hoa nhiều màu bằng cách chẻ đôi cuống hoa và ngâm mỗi nửa cuống hoa vào một lọ nước màu khác nhau. 4.7 : Thí nghiệm: Táo, lê đổi màu. * Mục đích: - Giúp trẻ phát hiện được sự thay đổi màu sắc của táo, lê sau khi gọt vỏ. Hình thành cho trẻ kỹ năng tạo ra những miếng táo ngon hơn, sạch hơn và đẹp hơn. * Chuẩn bị: - 2 quả táo hoặc lê. - Đĩa đựng hoa quả. - Dao. - 1 bát nước muối loãng đun sôi để nguội. - Giấy bút để ghi lại kết quả thí nghiệm. * Cách tiến hành. - Cô cho trẻ nói tên các đồ dùng cô đã chuẩn bị. - Cô pha một chút muối vào bát nước sôi đã chuẩn bị. - Cô cùng trẻ bổ 2 quả táo( hoặc lê), một quả cắt thành miếng bày ra đĩa, còn quả kia cắt thành miếng ngâm vào bát nước muối loãng. - Cho trẻ dự đoán điền gì sẽ xảy ra với các miếng táo bày ở đĩa và các miếng táo ở trong bát nước muối pha loãng. - cho trẻ quan sát sau 5-7 phút, ghi lại kết quả trẻ quan sát được. + Tại sao nước muối ngâm làm táo không đổi màu? -Cô giải thích: Vì trong táo và một số loại quả như cà, hồng, lê....có loại chất Tanin nên khi bổ ra, chúng tiếp xúc với không khí, và khiến cho quả đó chuyển thành màu nâu. Còn nước muối ngâm quả táo kia chuyển thành nâu vì nhựa trong quả táo thôi ra ở trong nước muối. Vớt những miếng táo được ngâm trong nước muối loãng cho trẻ quan sát, so sánh với những miếng táo không ngâm và hướng dẫn trẻ cách làm cho táo, lê trắng ngon khi bổ ra. Biện pháp 5. Phôí kết hợp với phụ huynh. Giáo dục mầm non là bậc học đặc biệt cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ nhằm phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ. Với mong muốn trẻ có thể ghi nhớ lâu hơn và nắm chắc những kiến thức đã học trên lớp nên ngay từ đầu năm khi họp phụ huynh tôi đã thông qua chương trình giáo dục, thời khóa biểu ở lớp với các chủ điểm, tôi còn thông báo với phụ huynh về yêu cầu cần đạt của từng môn học để phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục trẻ theo đúng độ tuổi và có hướng rèn các cháu ở nhà để trẻ có một tâm thế tốt trước khi vào lớp 1. - Đặc biệt với bộ môn " Khám phá khoa học", tôi giải thích rõ cho phụ huynh về nội dung và sự cần thiết của môn học trong sự phát triển toàn diện của trẻ, giải thích cho họ hiểu khoa học không chỉ là kiến thức mà còn là quá trình, hay là con đường tìm hiểu, khám phá thế giới vật chất. Khoa học với trẻ nhỏ là quá trình tìm hiểu, khám phá tự nhiên và là quá trình tích cực tham gia hoạt động thăm dò, tìm hiểu thế giới tự nhiên từ đó kích thích ở trẻ tính tò mò, ham hiểu biết. Tôi tuyên truyền tới phụ huynh về một số kinh nghiệm để có thể cùng với trẻ khám phá. " Trẻ nhỏ học bằng cách thực hành, thử làm những ý tưởng mới lạ và những thử thách chưa vượt qua được. Điều này không phải chỉ diễn ra tại trường học. Các phụ huynh có thể giúp trẻ học bằng cách cung cấp cho trẻ một những kinh nghiệm học tập thú vị trong môi trường an toàn với nhiều sự khích lệ. Là bố mẹ, có thể tạo hứng thú học cho trẻ bằng cách mà không ai có thể làm ngoại trừ bạn. Đam mê học tập, tìm hiểu là chìa khóa thành công của trẻ. Nếu bạn chọn cách cùng làm việc với trẻ, hãy nhớ rằng giúp trẻ học không có nghĩa là bạn không thể tỏ thái độ buồn cười hay nghiêm trọng" . Ngoài ra tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh vào các giờ đón trả trẻ về tình hình sức khỏe và tình hình học tập của trẻ ở lớp để cùng với phụ huynh giúp trẻ tiến bộ hơn. - Ngoài ra tôi thường lên một số tiết có sự tham dự củaphụ huynh,Phụ huynh rất vui khi thấy các con mình thật sự được học và chơi, được trải nghiệm và họ không ngờ các con mình lại có thể thông minh như vậy. Sau khi áp dụng biện pháp này, tôi thấy mối quan hệ giữa tôi và phụ huynh trở nên gần gũi và phụ huynh cũng rất nhiệt tình, vui vẻ khi có những lời đóng góp từ phía giáo viên. 4/ KẾT QỦA * Đối với cô: Trong những năm học trước việc cho trẻ " Khám phá khoa học" ở trường tôi nói chung và ở lớp tôi nói riêng vẫn chưa được sáng tạo, một số giáo viên vẫn chưa mạnh dạn cho trẻ thực hiện các thí nghiệm, vì vậy trẻ còn thụ động, chưa nhanh nhẹn tìm tòi khám phá các sự vật hiện tượng xung quanh. Sau khi tiến hành áp dụng biện pháp trên, tôi thấy tự tin hơn, và đã tổ chức tiết học khám phá một cách linh hoạt, không gò bó ,thụ động, không ngại ngùng trước các trải nghiệm thí nghiệm. * Đối với trẻ. Qua các biện pháp trên, trong quá trình thực hiện, tôi thấy trẻ ở lớp tôi rất hứng thú, phát triển khả năng tư duy cao. Trẻ tò mò, thích khám phá các sự vật hiện tượng xung quanh. Trẻ biết đặt ra những câu hỏi " Tại sao" trước những hiện tượng tượng lạ, từ đó thu nhận được những hiểu biết, những vốn kinh nghiệm nhất định để áp dụng trong đời sống hàng ngày. Hầu hết tất cả các trẻ đều háo hức chờ đón những giờ thí nghiệm, tập trung cao độ để quan sát hiện tượng xảy ra, kiên nhẫn chờ đón kết quả. Qua đó khơi gợi ở trẻ nhu cầu khám phá, trẻ bắt đầu để ý những biến đổi của sự vật hiện tượng xung quanh, biết tự khám phá bằng nhiều giác quan và có sự trao đổi giữa cô và bạn. Chính vì thế tôi đã hình thành cho trẻ một số kỹ năng, thao tác thử nghiệm trong khoa học. Trẻ lớp tôi ngày càng có kỹ năng quan sát tốt, biết suy đoán, phán đoán nhằm tìm ra một kết quả chính xác. * Về phía phụ huynh Qua các biện pháp trên, qua thực tế các hoạt động ở lớp năm học 2023- 2023 vừa qua trẻ lớp tôi đã đạt được kết quả như sau Lớp mẫu giáo lớn Đầu năm ( Chưa áp dụng SKKN) Hết học kì I( Sau khi áp dụng SKKN) Tăng ( + ) Giảm ( - ) So với đầu năm Số trẻ Tỷ lệ % Số trẻ Tỷ lệ % Số trẻ Tỷ lệ % Sĩ số lớp 32 100 32 100 32 100 Trẻ đạt 12 27 32 100 20 63 Trẻ chưa đạt 20 63 0 0 20 63 Qua kết quả khảo sát học sinh giữa học kỳ II so với đầu năm học, sau khi đã áp dụng các biện pháp tổ chức trong sáng kiến kinh nghiệm, tôi thấy trẻ lớp tôi có tiến bộ rất nhiều. Nhờ có sáng kiến mà tôi đã tạo cho trẻ được tìm tòi, khám phá về thế giới xung quanh trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Không chỉ khám phá trong góc khoa học hoặc trong các hoạt động khoa học mà trẻ lớp tôi còn khám phá, áp dụng và phát hiện được rất nhiều điều qua các môn học khác. III/KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ 1. KẾT LUẬN Từ những kết quả đạt được như trên, tôi rút ra được một số bài học kinh nghiệm như sau. Giáo viên cần khích lệ trẻ khám phá, hướng sự quan tâm chú ý của trẻ tới đối tượng quan sát, tạo ra thói quen tìm hiểu về thế giới xung quanh ở trẻ bằng cách tạo ra những tình huống bất ngờ, mang tính ngẫu nhiên để lôi kéo trẻ vào hoạt động khám phá. Hãy để cho trẻ có thời gian, không gian và tự do để khám phá. Ở trẻ sẵn có niềm đam mê khám phá và nhạy cảm với thế giới xung quanh với hàng loạt câu hỏi: " Tại sao con cá bơi trong nước lâu như vậy mà không ngạt thở" " Tại sao chim có thể đứng yên một chỗ trên trời mà khỏngơi xuống" "Con giun này chân nó ở đâu" " Tại sao cùng đốt 2 cây nến mà có 1 cây nến bị tắt, 1 cây vẫn cháy".........Vì vậy giáo viên cần tạo cho trẻ cơ hội tiếp xúc tìm hiểu khám phá, thể hiện cảm xúc của mình. Các câu hỏi trẻ thường tìm đến cô để tìm lời giải đáp. Cô đừng từ chối mà hãy tận dụng cơ hội này gọi các trẻ khác đến cùng chia sẻ để tạo niềm hưng phấn và thói quen tìm hiểu thế giới xung quanh. Nên cho thời gian để trẻ suy nghĩ. Khuyến khích trẻ sáng tạo, cố gắng htể hiện, tìm ra cách làm, cách giải quyết khác với bạn, lựa chọn cách tốt hơn. Các câu trả lời hoặc những cách làm của trẻ đúng hay sai không quan trọng bằng việc biết được trẻ suy nghĩ, tìm ra câu trả lời bằng cách nào. Chú ý tới những trẻ nhút nhát, có khó khăn và khuyến khích bằng những câu hỏi dễ hơn, những yêu cầu đơn giản hơn, tạo cho trẻ cảm giác thành công trong công việc mà dần dần bạo dạn, tự tin vào bản thân. Giáo viên phải xử lý tình huống một cách linh hoạt, mềm dẻo và ph ù hợp Tích cực nghiên cứu làm đồ dùng đồ chơi tự tạo cho trẻ hoạt động, giáo viên phải tìm tòi và nghiên cứu xem học liệu nào trẻ sẽ dùng để trẻ có thể thực hiện các thí nghiệm, các hoạt động. Việc lựa chọn này cũng rất quan trọng để trẻ đạt được các yêu cầu đề ra. Trẻ phải được thao tác bằng tay với các nguyên vật liệu đã chuẩn bị. Giáo viên nên tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có của địa phương, tái sử dụng các đồ dùng gia đình, các phế liệu. Tận dụng các nguyên vật liệu thiên nhiên ( đá, sỏi, vỏ sò, vỏ hến...) và sử dụng những thứ có sẵn trng môi trường ( Cây cối, cỏ , hoa, lá.....) Không ngừng học hỏi, tiếp thu những cái mới từ bạn bè, đồng nghiệp, từ các phương tiện thông tin, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc, đến gần công nghệ thông tin ngay từ bậc học mầm non. Với giáo viên mầm non việc dạy trẻ môn khám phá khoa học là rất cần thiết. Khi nghe đến từ " Khoa học" chúng ta thường có cảm giác căng thẳng vì trong chúng ta luôn sẵn có một suy nghĩ rằng khoa học là cái mà luôn cần đến nhiều tri thức và phải vắt óc suy nghĩ, thế nhưng khi tôi làm bản sáng kiến này thì thật sự không phải vậy. Thông qua những hoạt động khoa học, trẻ có thể giải quyết một cách rất sáng tạo bằng tính tò mò bẩm sinh những vấn đề, hiện tượng vốn luôn xuất hiện không ngừng trong cuộc sống hàng ngày. Việc vừa mang lại niềm vui và sự quan tâm về khoa học một cách tự nhiên, vừa chuẩn bị một nền tảng suy nghĩ khoa học đang trở thành mục tiêu lớn trong ngành giáo dục mầm non. Thông qua các hoạt động khoa học, trẻ mầm non tìm hiểu thế giới xung quanh và biểu hiện các suy nghĩ của mình một cách tự nhiên. Tôi đã phát huy những mặt thuận lợi và khắc phục những khó khăn ở trường ở lớp. Chủ động tham mưu với ban giám hiệu nhà trường và phối kết hợp với phụ huynh đầu tư thêm cơ sở vật chất cho công tác tổ chức khám phá khoa học. Chính vì vậy trẻ ở lớp tôi rất hào hứng, tự tin tham gia vào các hoạt động khám phá khoa học và các hoạt động khác. II/ NHỮNG KHUYẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT. Sau khi thực hiện thành công sáng kiến kinh nghiệm này, tôi cũng xin có một vài khuyến nghị đề xuất nhỏ với các cấp lãnh đạo như sau. * Đối với phòng giáo dục: - Tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia nhiều tiết kiến tập khám phá khoa học và các môn học khác. * Đối với nhà trường: - Tiếp tục đầu tư thêm cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho học tập và hoạt động của trẻ Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Rèn Học Sinh Yếu Toán Lớp 2
Qua thực tiễn giảng dạy, Chúng tôi nhận thấy rằng trong một lớp bao giờ cũng xuất hiện 3 đối tượng hs: Học sinh khá giỏi, học sinh trung bình, học sinh yếu kém. Do vậy chất lượng của lớp không đồng đều. Vì thế trong quá trình giảng dạy, người giáo viên phải chú ý cả ba đối tượng hs này, phải có một phương pháp giảng dạy thích hợp. Trong bài giảng bao giờ cũng phải có hệ thống câu hỏi thích hợp, dành cho từng đối tượng hs để gây cho các em lòng tin, tự khẳng định bản thân mình. Nếu chỉ có lòng nhiệt tình thôi thì chưa đủ mà giáo viên còn phải có phương pháp giảng dạy thích hợp, có năng lực và trình độ sư phạm tốt có kinh nghiệm trong giảng dạy. Nhất là đối với hs yếu, kém phải hết sức quan tâm bồi dưỡng thì các em mới theo kịp bạn bè và nắm được hệ thống kiến thức lô gíc. Mỗi thầy cô là một tấm gương sáng cho hs noi theo. Muốn đạt được điều đó thì người giáo viên phải có trình độ cao, có ý thức học hỏi, trau dồi và nâng cao kiến thức, nâng cao trình độ cho bản thân.
ến 1. Hoàn cảnh nảy sinh sỏng kiến: Đổi mới phương phỏp dạy học là một vấn đề rất cần thiết trong quỏ trỡnh giảng dạy hiện nay. Đũi hỏi người giỏo viờn cần cú sự đầu tư rất lớn để tỡm ra phương phỏp dạy thớch hợp. Tuy nhiờn, đú khụng là một vấn đề đơn giản mà mỗi chỳng ta cần phải gúp một phần cụng sức nhỏ bộ của mỡnh trong giảng dạy. Từ đú rỳt ra những kinh nghiệm của bản thõn trong thực tế giảng dạy, để cú biện phỏp dạy học tốt hơn nhất là phần rốn học sinh học yếu Toỏn lớp 2.Chớnh vỡ vậy,chỳng tụi đó cố gắng tỡm hiểu, nghiờn cứu để tỡm ra những biện phỏp rốn học sinh yếu Toỏn ở lớp 2. Cơ sở lớ luận: Tiểu học là bậc học" nền tảng" trong nền giáo dục nước nhà. Vì vậy người giáo dục- giáo viên Tiểu học có một vai trò rất quan trọng là người đặt viên gạch hồng đầu tiên xây dựng nền móng tri thức cho các em là một ông thầy tổng thể tạo điều kiện cho các em phát triển toàn diện. Đối với học sinh Tiểu học, được đi học là bước ngoặt trong cuộc sống của trẻ. Các em được đặt chân vào một thế giới khoa học đầy mầu sắc và cũng rất mới mẻ. Các em được tiếp cận với các môn học về tự nhiên và xã hội. Trong đó môn Toán có một vị trí rất quan trọng, nó đòi hỏi người thầy giáo có một sự lao động nghệ thuật sáng tạo, tìm ra những phương pháp phù hợp. Đặc biệt nó đòi hỏi mỗi học sinh phải có niềm say mê, có phương pháp học tập sáng tạo để giải các bài tập toán. Với hs lớp 2, các em đã được học Một năm ở bậc Tiểu học lẽ ra các em phải có phương pháp và các kỹ năng cơ bản để giải toán. Song trong thực tế giảng dạy chỳng tôi thấy vẫn còn một số hs học yếu môn Toán. Trước tình hình của lớp, với lòng yêu nghề mến trẻ của mình, với trách của một người giáo viên chỳng tôi đã băn khoăn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để hs dễ hiểu giảm bớt khó khăn, hạn chế hs học yếu toán ở lớp 2. Đây cũng chính là lí do khiến chỳng tôi chọn đề tài: " Một số biện pháp rèn học sinh yếu Toán ở lớp 2". Nghiên cứu đề tài này chỳng tôi mong rằng sẽ tìm ra được những nguyên nhân học sinh học yếu toán và tìm ra được những giải pháp tích cực nhằm nâng cao chất lượng môn Toán ở lơp 2, góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp giáo dục nói chung và công tác giảng dạy ở trường Tiểu học nói riêng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp " Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước". 2. Thực trạng của vấn đề: Ngay từ khi nhận lớp chỳng tôi đã bắt tay vào việc nghiên cứu tình hình học tập của các em. Thông qua sổ điểm, học bạ, vở nghi, vở bài tập của các em chỳng tôi thấy các em nắm kiến thức Toán còn mơ hồ chưa chắc, có nhưng em học rất yếu. Số em yếu là đa dạng, có những em yếu cả Toán và Tiếng Việtnhưng đa số các em học yếu Toán. Cụ thể tôi đã thống kê được kết quả về môn Toán của hai lớp như sau: Cụ thể chỳng tôi đã thống kê được kết quả về môn Toán của hai lớp như sau: Số HS Kết quả Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Lớp2A(29 ) 6 21 12 41 6 21 5 17 Lớp 2B(24) 4 17 10 41 6 25 4 17 Như vậy bước đầu chỳng tôi đã tìm ra những hs yếu trong số em được bồi dưỡng, kèm cặp. Để chính xác hơn về số lượng và phần kiến thức nào các em còn hổng chỳng tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng vòng đầu với đề sau: Câu 1: Tính ( có đặt tính) 42 + 54 5 + 23 66 - 16 60 +25 84 - 21 58 - 7 Câu 2: Viết các số: a) Từ 70 đến 80. b) Từ 89 đến 95 Câu 3: Mai và Hoa làm được 36 bông hoa, riêng Hoa làm được 16 bông hoa. Hỏi Mai làm được bao nhiêu bông hoa. Chấm bài xong tôi thu được kết quả như sau: Số HS Kết quả Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Lớp2A(29 ) 8 28 12 42 5 17 4 13 Lớp 2B(24) 6 25 10 42 5 21 3 12 Qua khảo sát chất lượng, theo dõi cách học của học sinh tôi nhận thấy hs yếu Toán do một số nguyên nhân sau: Học sinh có nhiều" lỗ hổng" kiến thức ngay từ lớp dưới. Mặt khác khi đến trường cũng như ở nhà các em còn mải chơi không chú ý đến việc học tập. Trong lớp không chú nghe giảng nhất là giờ toán các em hay mất trật tự, nghịch ngơm, làm việc riêng, khi cô hỏi không trả lời được. Các em ngồi học nhưng vẫn nhớ đến đồ chơi đẹp hay những trò chơi thích thú trong giờ ra chơi sắp tới nên không tiếp thu được bài dẫn tới hổng kiến thức. Đặc điểm của hs Tiểu học là mau nhớ nhưng lại chóng quên, tư duy lô gích kém nên không hiểu bài này thì sang bài sau các em sẽ không tiếp thu được. Cứ như vậy kiến thức sẽ chồng chất lên nhau tạo thành sự thiếu hụt lớn. *Về phía giáo viên: Trong quá trình giảng dạy, giáo viên chủ nhiệm lớp còn mải truyền thụ kiến thức mới cho kịp thời gian. Chưa chú ý tới việc kèm cặp hs yếu, nếu có chỉ qua loa một vài lần thế các em chậm hiểu, lại không có thời gian lên bỏ mặc. Trong khi giảng bài hệ thống câu hỏi chủ yếu dành cho hs khá, giỏi và trung bình, không chú ý ra câu hỏi giành cho hs yếu: Do vậy, nhiều khi ngồi trong lớp học toán mà các em thấy quá nhàn dỗi sinh ra nói chuyện, làm việc riêng, không chú ý đến bài giảng. Khi về nhà lại lười học, không chịu làm bài tập nên đã học yếu lại càng yếu hơn. *Về phía gia đình: phần lớn phụ huynh các em làm nông nghiệp, suốt ngày:" Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời". Nên ít có thời gian quan tâm đến việc học tập của con cái mình. Mặt khác do trình độ dân chí còn thấp nên có quan tâm dạy dỗ thì củng chưa đúng phương pháp hay cáu gắt, mắng mỏ làm các em rối trí lại càng không hiểu. Còn có gia đình lại cho rằng việc dạy dỗ là do nhà trường do thầy cô giáo nên không cần dạy ở nhà. Có những phụ huynh không tạo điều kiện về cơ sở vật chất: Bàn học, bút, vở, thước, Không tạo điều kiện về thời gian bắt trông em nhiều khi đang học bài bị bố mẹ sai việc này, việc khác dẫn đến các em lười học, kiến thức không lô gíc. Như vậy môi trường sống, phương pháp dạy, sự quan tâm của ba môi trường giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập của các em. Qua đó chỳng tôi thấy việc rèn hs học yếu toán là việc làm cần thiết và tạo tiền đề cho các em học tốt các môn học khác. 4.,Cỏc giải phỏp thực hiện: Từ việc nghiên cứu các tài liệu trên chỳng tôi đã hiểu và nắm vững nội dung chương trình. Nắm vững được kiến thức cơ bản, kiến thức trọng tâm cần truyền đạt cho các em b- Trong giảng dạy khi lên lớp chỳng tôi tìm tòi những phương pháp thích hợp nhất với đối tượng hs yếu như giảng chậm, sử dụng đồ dùng trực quan phù hợp trong khi giảng cần đặt ra những câu hỏi riêng cho những hs yếu. Ví dụ: Dạy bài tìm số bị trừ: x - 5 = 15 ở những hs khá, giỏi, trung bình chúng tôi yêu cầu các em làm bài xong mới trình bày cách làm. - Nhưng ở những hs yếu chúng tôi đòi hỏi cách làm trước sau đó các em mới làm bài. + Em hãy nêu thành phần trong phép tính? + Thành phần nào trong phép tính đã biết? + Thành phần nào trong phép tính chưa biết? + Trong phép tính ta phải tìm thành phần nào? Muốn tìm số bị trừ chưa biết em làm như thế nào? Từ việc trẻ nhỏ các câu hỏi như vậy, các em nắm chắc cách tìm số bị trừ chưa biết chúng tôi hướng dẫn các em vận dụng làm bài tập. Khi dạy đến phép cộng và phép trừ có nhớ trong phạm vi 100 chúng tôi yêu cầu hs nắm chắc được các hàng. Chúng tôi phân tích số tỉ mỉ và yêu cầu hs yếu ghi vào vở để về nhà xem lại. Chúng tôi phân tích số cụ thể như sau: Số 56 gồm: 5 chục và 6 đơn vị. Sau đó chúng tôi lấy ví dụ khác và gọi hs yếu lên bảng phân tích như trên. Dạy cộng trừ các số có nhớ trong phạm vi 100 tôi lưu ý cho các em cách đặt tính đúng thì mới tính kết quả đúng được. Ví dụ: 56 + 28 Việc đầu tiên chúng tôi yêu cầu hs phân tích cấu tạo số như phân tích ở trên. Qua phân tích các em nắm được đâu là hàng chục, đâu là hàng đơn vị. Khi đặt tính phải đặt thẳng hàng chục với hàng chục ( 2 đặt dưới 5 ) . Sau đó hs thực hiện tính từ phải sang trái cách viết kết quả cũng thẳng hàng. Đối với loại toán có lời văn tôi đã hướng dẫn các em làm từng phần từng bước đúng quy trình nhưng dễ hiểu, dễ nhớ. Ví dụ: Bài 4 ( trang 82) Lớp 2A trồng được 48 cây, lớp 2B trồng nhiều hơn lớp 2A 12 cây. Hỏi lớp 2B trồng được bao nhiêu cây? Đối với loại toán này tôi yêu cầu các em học yếu phải đọc nhiều lần sau đo gợi mở giải bài toán theo các bước sau: Bước1: Nghiên cứu bài. Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Bước 2: Các bước giải. Tóm tắt ( giáo viên gợi ý tóm tắt) 48 cây Lớp 2A: Lớp 2B: ? cây Bước 3: Lập kế hoạch giải. Giáo viên dùng hệ thống câu hỏi, gợi mở để dẫn dắt hs. Bài toán hỏi gì? ( Lơp 2B trồng được bao nhiêu cây) Muốn biết lớp 2B trồng được bao nhiêu cây ta làm thế nào? ( lấy 48 + 12 ) Bước 4: Thực hiện các phép tính theo trình tự thiết lập. Sau khi hướng dẫn xong chúng tôi yêu cầu hs khá, giỏi, trung bình làm vào vở, riêng hs yếu làm ra nháp. Chúng tôi quan sát, bao quát toàn lớp nhưng đặc biệt chú ý tới hs yếu. Nếu thấy em nào còn lúng túng về cách làm bài thì giúp các em bằng những câu hỏi gợi mở riêng để các em hiểu thêm và tìm ra cách giải sau đó làm vào vở. Khi chấm bài chúng tôi thường chấm tay đôi với những em hs yếu để chỉ cho các em những cái đúng, cái sai trong bài làm của mình và hướng dẫn cho hs sửa những chỗ sai đó như thế nào. Trong quá trình chấm nếu các em này giải đúng phép tính và câu trả lời còn chưa hoàn chỉnh tôi vẫn cho điểm tối đa để động viên khích lệ các em hào hứng học tập hơn. Đối với những em chưa đúng hết còn có phần sai thì tìm những chỗ đúng, chỉ ra những chỗ sai và cho điểm động viên thêm để các em không bị mặc cảm. Những em quá yếu khi thấy các em giơ tay phát biểu ý kiến là phải gọi và gợi mở để các em trả lời. Nếu trả lời đúng chúng tôi cho điểm, khen trước lớp, có thể cho cả lớp vỗ tay khen bạn. Sau khi học xong phần kến thức nào chúng tôi cũng cho hs ôn bài lại và cho các em làm bài kiểm tra đánh giá cho điểm thật chính xác. Bài tập về nhà hôm nào chúng tôi cũng kiểm tra xem bài giải của các em thường sai phần kiến thức nào thì bổ sung kịp thời. Song song với việc đó chúng tôi còn hướng dẫn các em cách đọc, có phương pháp học theo thời gian biểu, học kĩ lý thuyết xong mới làm bài tập. Khi làm bài tập phải đọc kỹ đề bài, nêu tóm tắt bằng sơ đồ hoặc bằng lời văn ngắn gọn. Làm bài bao giờ cũng làm vào vở nháp trước sau đó mới chép vào vở chính. c. Trong từng tiết dạy chúng tôi chuẩn bị bài chu đáo, nhiều nghiên cứu bài dạy từ phần mục tiêu, đồ dùng dạy học, phương pháp giảng dạy và những kiến thức cần truyền đạt.Chúng tôi chuẩn bị những câu hỏi cho từng đối tượng hs. Vì các em học yếu toán thường hay tư duy cụ thể nên tôi sử dụng nhiều đồ dùng trực quan và yêu cầu các em thực hành nhiều vào nháp, lên bảng làm bài tập để các em làm quen mạnh bạo dần và tự khẳng định mình trước tập thể. Bên cạnh việc hướng dẫn các em học tập trên lớp tôi còn xây dựng các nhóm học tập cho các em. Mỗi nhóm khoảng 5 em trong đó có những em học chắc hơn một chút để kèm cặp, giúp đỡ các em học yếu. d. Ngoài việc trao đổi qua sổ liên lạc với phụ huynh học sinh về việc học tập của con em mình chúng tôi còn thường xuyên thông báo và gặp gỡ tới từng phụ huynh để trao đổi, đề nghị gia đình tạo điều kiện về thời gian, về cơ sở vật chất ( bàn học, sách, vở, đồ dùng học tập,) phải có góc học tập ở nơi có đủ ánh sáng và yên tĩnh, phải theo dõi sát việc học tập của con em mình hạn chế ti vi, không sai việc vặt khi các em đang học bàiGiáo viên và phụ huynh phải có sự gặp gỡ, trao đổi thường xuyên để tìm ra những biện pháp tích cực giúp đỡ các em nhanh tiến bộ. Về phần cá nhân mình, chúng tôi luôn luôn chuẩn bị bài chu đáo, luôn học hỏi và trao đổi kiến thức, đổi mới phương pháp giảng dạy, luôn có tình cảm và thái độ tốt với các em. Với mỗi em, tôi tìm ra một phương pháp, một cách tiếp cận khác nhau để bồi dưỡng lượng kiến thức cho phù hợp. Khi giao bài về nhà chúng tôi luôn tìm, giao cho các em những bài toán vừa sức, vừa đủ với lực học của các em. Tạo không khí thoải mái, hào hứng khi học toán. Trước khi giao bài về nhà chúng tôi hướng dẫn tỉ mỉ, cụ thể để các em có điều kiện làm tốt vở bài tập. 5, Kết quả đạt được: Qua quá trình hướng dẫn, rèn luyện và kèm cặp thường xuyên cùng với sự vận dụng nhiều phương pháp trong quá trình giảng dạy tôi đã thu được những kết quả sau: - Các em đã hạn chế và khắc phục được rất nhiều sai sót trong quá trình làm bài. Các em đã biết phân tích, suy luận và biết chọn phương pháp giải toán thích hợp cho từng bài. Từ đó các em biết phân tích đề ở những bài toán có lời văn để đi tới giải đúng, lời giải gãy gọn, không còn trường hợp phép tính này lời giải kia vì thế kết quả được nâng lên rõ rệt. Nhiều em đầu năm học chỉ là học sinh trung bình nhưng nay đã trở thành học sinh khá. Các em đã hiểu rằng muốn làm đúng thì phải đọc kĩ đề bài, phải thực hiện thành thạo các phép tính cộng, trừ. - Một số em học yếu toán giờ đây đã biết thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ trong phạm vi 100, không nhớ trong phạm vi 1000, biết cách giải toán, tự sửa chữa được sai sót của mình và tiến tới không mắc nữa. - Sau khi học xong phép cộng, phép trừ có nhớ trong phạm vi 100, bảng nhân 5, bảng chia 5chúng tôi đã khảo sát chất lượng của các em bằng đề sau: Câu 1: Tính 68 + 17 47 + 35 58 -29 55 +16 81 - 27 72 - 31 Câu 2: Tìm x: x + 18 = 62 x - 27 = 37 40 - x = 8 Câu 3: Lan hái được 36 bông hoa, Mai hái ít hơn Lan 6 bông hoa. Hỏi Mai hái được bao nhiêu bông? Sau khi chấm bài tôi đã thu được kết quả như sau: Số HS Kết quả Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Lớp2A(29 ) 10 34 13 46 5 17 1 3 Lớp 2B(24) 8 33 11 46 4 17 1 4 *, So sánh đối chứng. Qua phương pháp rèn luyện, kèm cặp như trên chúng tôi rất phấn khởi vì thấy trong giờ toán hs say mê học tập, lớp học thật sự sôi nổi, đặc biệt là những em hs yếu đã có tiến bộ rõ rệt. Đầu năm các em học rất yếu, ngay cả việc đọc, viết còn nhầm, tính cộng, trừ còn tính đầu ngón tay, phép cộng,trừ có nhớ còn nhầm lẫn. Giờ đây các em đọc, viết số rất thành thạo, các kĩ năng cộng, trừ đã được nâng cao. Số học sinh khá giỏi tăng lên, hạn chế được số hs yếu. Cụ thể: Kết quả như sau Lớp 2A (29) Kết quả Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Đầu năm 6 21 12 41 6 21 5 17 Giữa kì II 10 34 13 46 5 17 1 3 Lớp 2C (24) Kết quả Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Đầu năm 4 17 10 41 6 25 4 17 Giữa kì II 8 33 11 46 4 17 1 4 Như vậy: *Lớp 2A Số hs giỏi tăng 4 em = 14 % Số hs khá tăng 1 em = 3 % Số hs trung bình giảm 1 em = 3 % Số lượng hs yếu giảm 4 em = 14 % *Lớp 2C Số hs giỏi tăng 4 em = 17 % Số hs khá tăng 1 em = 4 % Số hs trung bình giảm 1 em = 4 % Số lượng hs yếu giảm 3 em = 13 % Tuy kết quả chưa cao như ý muốn nhưng đó cũng là thành công bước đầu của chúng tôi trong quá trình giảng dạy để nghiên cứu, tìm tòi ra những phương pháp tốt nhất nhằm nâng cao chất lượng môn toán nói chung và hạn chế số lượng hs yếu nói riêng. .6, Bài học kinh nghiệm: Để đảm bảo cho việc cung cấp và rèn luyện những tri thức kĩ năng toán học cơ bản, có hệ thống phù hợp với những điều kiện cụ thể của nhà trường Tiểu học. Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu phương pháp hạn chế số học sinh yếu Toán 2. Chúng tôi tự rút ra một số kinh nghiệm sư phạm như sau: - Ngay từ khi bắt tay vào năm học mới phải diều tra, nắm chắc trình độ học Toán và khả năng tính toán của từng hs trong lớp mình chủ nhiệm. - Biết phối hợp tốt giữa ba môi trường giáo dục. - Đọc sách giáo khoa, sách tham khảo để nắm vững nội dung chương rrình của khối lớp mình dạy. - Phải nghiên cứu chuẩn bị bài và đồ dùng dạy học thật chu đáo trước khi đến lớp. - Trong khi soạn phải có những câu hỏi và bài tập dành riêng cho hs yếu. - Khi dạy, lời nói phải nhẹ nhàng, dễ hiểu. - Thường xuyên ôn tập, củng cố kiến thức thành hệ thống và rèn kĩ năng giải toán. - Luôn có đổi mới về cách dạy gây hứng thú, tạo không khí thoải mái cho các em trong các giờ học nói chung và giờ Tôán nói riêng. - Thường xuyên kiểm tra sát sao việc học và làm bài ở nhà của hs. Khi chấm phải nên chấm tay đôi để chỉ và và phân tích những chỗ sai cho hs. - Học sinh yếu thường bi quan, chán nản, sợ học nên giáo viên phải sử dụng biện pháp đơn giản nhưng vô cùng quan trọng đó là động viên, khích lệ các em. Để làm tốt những việc trên đòi hỏi giáo viên có lòng say mê nghề nghiệp, phải có năng lực giảng dạy Toán, phải có tính kiên trì, thương yêu hs. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1.Kết luận Qua thực tiễn giảng dạy, Chúng tôi nhận thấy rằng trong một lớp bao giờ cũng xuất hiện 3 đối tượng hs: Học sinh khá giỏi, học sinh trung bình, học sinh yếu kém. Do vậy chất lượng của lớp không đồng đều. Vì thế trong quá trình giảng dạy, người giáo viên phải chú ý cả ba đối tượng hs này, phải có một phương pháp giảng dạy thích hợp. Trong bài giảng bao giờ cũng phải có hệ thống câu hỏi thích hợp, dành cho từng đối tượng hs để gây cho các em lòng tin, tự khẳng định bản thân mình. Nếu chỉ có lòng nhiệt tình thôi thì chưa đủ mà giáo viên còn phải có phương pháp giảng dạy thích hợp, có năng lực và trình độ sư phạm tốt có kinh nghiệm trong giảng dạy. Nhất là đối với hs yếu, kém phải hết sức quan tâm bồi dưỡng thì các em mới theo kịp bạn bè và nắm được hệ thống kiến thức lô gíc. Mỗi thầy cô là một tấm gương sáng cho hs noi theo. Muốn đạt được điều đó thì người giáo viên phải có trình độ cao, có ý thức học hỏi, trau dồi và nâng cao kiến thức, nâng cao trình độ cho bản thân. Trong lớp người giáo viên phải làm tốt công tác tổ chức lớp và luôn chú ý, quan sát phát hiện kịp thời những hs yếu để từ đó đi sâu tìm hiểu nguyên nhân và tìm những biện pháp tốt, phù hợp giúp các em ngày càng tiến bộ. Đặc biệt người giáo viên cần phải kết hợp với gia đình học sinh trao đổi, hướng dấn họ phương pháp kèm cặp, dạy dỗ các em ở nhà, xây dựng góc học tập, thời gian biểu cho các em. Đồng thời biết gây hứng thú học tập và ý thức tự giác học tập cho các em. Có như vậy việc bồi dưỡng hs yếu, chất lượng giảng dạy mới có hiệu quả cao. 2. Kiến nghị: Để nâng cao chất lượng môn Toán cho hs hạn chế số hs học yếu môn Toán. chỳng tôi có một số ý kiến đề xuất với các cấp lãnh đạo như sau: - Thường xuyên tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên nhất là môn Toán. - Mở nhiều lớp đào tạo lại cho giáo viên tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên được học tập, mở rộng và nâng cao kiến thức, nâng cao trình độ giáo viên. - Hỗ trợ tạo điều kiện tốt hơn nữa về cơ sở vất chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học cho các trường nhất là các trường ở vùng nông thôn như trường Tiểu học Tân Hồng của chúng tôi để phục vụ tốt hơn nữa cho việc dạy và học theo yêu cầu đổi mới. Tôi xin chân thành cảm ơn! * GIAể ÁN DẠY THỰC NGHIỆM TOÁN Tiết 81: ễn tập phộp cộng và phộp trừ I - Mục tiờu: - Hs thuộc bảng cộng trừ nhẩm trong phạm vi 20, cộng trừ cú nhớ trong phạm vi 100.Biết giải bài toỏn nhiều hơn. -Rốn kĩ năng làm tớnh, giải toỏn chớnh xỏc. -Giỏo dục HS ý thức học tốt II, Đồ dựng day học : -Phiếu học tập. -Bảng con, VBT II - Hoạt động dạy học A, Kiểm tra bài cũ : Đặt tớnh rồi tớnh : 28 + 36 ; 61 - 35 - GV gọi 2 HS làm bài. - Nhận xột đỏnh giỏ (GV -HS) B, Hoạt động dạy học : 1- Giới thiệu bài : - GV nờu mục đớch yờu cầu tiết học. 2- ễn tập Bài 1: Tớnh nhẩm -GV cho HS đọc yờu cầu. - Cho hs nhẩm theo cặp -Gv gọi vài cặp nhẩm trước lớp. - Khi HS nờu kết quả 9 + 7 và 7 + 9 - GV ghi bảng. -Khi biết 9 + 7 = 16 tại sao ta cú thể trả lời ngay được 16 - 7 = 9 ? *Củng cố cỏc bảng cộng, trừ Bài 2: Đặt tớnh rồi tớnh. - GV cho HS đọc yờu cầu -Cho hs làm bảng con -Gọi hs làm bảng lớp. - Gọi HS nờu cỏch làm. * GV củng cố cỏch đặt tớnh và thực hiện phộp tớnh.. Bài 3: (a,c):Cập nhật thông tin chi tiết về Sáng Kiến Kinh Nghiệm Một Số Biện Pháp Dạy Học Toán 5 Giúp Học Sinh Tự Tìm Tòi, Khám Phá Kiến Thức trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!