Bạn đang xem bài viết Quyền Con Người Ở Việt Nam Hiện Nay được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Những thành tựu nổi bật trong việc bảo đảm thực hiện quyền con ngườiNăm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng chính thức tuyên bố đường lối đổi mới, với nội dung cơ bản là chuyển nền kinh tế từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; dân chủ hóa đời sống xã hội trên cơ sở xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; mở cửa tăng cường giao lưu hợp tác với bên ngoài trên tinh thần Việt Nam sẵn sàng làm bạn với các nước, phấn đấu vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Với việc đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển, đường lối đổi mới kể trên không chỉ tác động đến kinh tế, xã hội mà đồng thời chi phối mạnh mẽ nhận thức và thực tế bảo đảm quyền con người ở nước ta trong thời gian qua.
Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở nước ta trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, so với các Hiến pháp năm 1959 và 1980, Hiến pháp năm 1992 đã thể hiện một bước phát triển mới trong việc pháp điển hóa các quyền con người, với việc khẳng định khái niệm và sự tôn trọng các quyền con người (Điều 50) cũng như bổ sung một loạt các quyền và tự do mới trên tất cả các lĩnh vực. Xét trên lĩnh vực dân sự, chính trị, trong Hiến pháp 1992, có 5 quyền quan trọng được ban hành mới hoặc bổ sung thêm, bao gồm: quyền sở hữu tài sản (bao gồm cả tư liệu sản xuất); quyền tự do kinh doanh; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo luật định; quyền được thông tin theo luật định; quyền bình đẳng của các tôn giáo; quyền không bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, Hiến pháp năm 1992 còn đề cập đến việc Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và mở rộng việc bảo vệ, giúp đỡ các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Nội dung đảm bảo quyền dân sự – chính trị ở nước ta được thể hiện một cách cụ thể: – Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân: Bình đẳng trong bầu cử, ứng cử, tự ứng cử; bình đẳng trong quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và nhiều dạng quan hệ dân sự khác, đặc biệt là bình đẳng trong hoạt động sản xuất – kinh doanh; bình đẳng trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục, khoa học – công nghệ như quyền được học tập của công dân, quyền nghiên cứu, sáng tạo, chuyển giao, chuyển nhượng kết quả nghiên cứu của mọi công dân.
– Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, cụ thể: ngăn ngừa những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người (trong đó kể cả những bị can, bị cáo và những phạm nhân đang thi hành án phạt tù)…
– Bảo đảm một số quyền dân sự, chính trị khác: Quyền tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội, hội họp, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo…
Bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của nhân dân trong giai đoạn mới, từ năm 1986 đến nay, bên cạnh Hiến pháp năm 1992, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, trong đó có thể kể như Bộ Luật Dân sự (1995), Bộ Luật Lao động (1994), Luật Giáo dục (1998), Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (1991), Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (1991), Pháp lệnh về người tàn tật (1998)…
Nội dung bảo đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được cụ thể trong các quyền tiêu biểu nhất:
– Bảo đảm quyền làm việc: ở nước ta, quyền làm việc được ghi nhận trong các bản Hiến pháp và được Hiến pháp năm 1992 quy định: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động” (Điều 55).
Bên cạnh việc thiết lập một hành lang pháp lý, từ khi đổi mới đến nay, Nhà nước đã xây dựng và thực hiện hàng loạt chính sách, chương trình kinh tế – xã hội nhằm thúc đẩy việc bảo đảm quyền làm việc, tập trung vào việc mở mang, phát triển các ngành nghề tại các địa phương, hỗ trợ các doanh nghiệp, mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo nghề và xuất khẩu lao động…
– Bảo đảm quyền được tiếp cận với giáo dục: Ngay từ khi mới giành được độc lập, Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến quyền được tiếp cận với giáo dục của nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH do Đảng đề ra năm 1991 xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu. Quan điểm này được thể chế hóa trong Điều 35 Hiến pháp năm 1992: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Đây là cơ sở tư tưởng cho việc hiện thực hóa quyền được tiếp cận với giáo dục của nhân dân trong thời kỳ mới.
Bên cạnh quy định kể trên, Hiến pháp năm 1992 cũng nêu rõ, học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân (Điều 59), đồng thời xác định nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền này (Điều 36). Trên cơ sở đó, một loạt các văn bản pháp luật khác được ban hành nhằm cụ thể hóa việc bảo đảm quyền được tiếp cận với giáo dục, trong đó quan trọng nhất là Luật Giáo dục (năm 1998).
– Bảo đảm quyền được chăm sóc y tế: Từ khi đổi mới đến nay, cũng giống như các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác, có sự chuyển đổi về hướng tiếp cận việc bảo đảm quyền được chăm sóc y tế từ chế độ bao cấp hoàn toàn của Nhà nước sang hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ y tế, thực hiện chế độ BHYT, tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe. Sự chuyển đổi này không có nghĩa là Nhà nước giảm bớt sự quan tâm đến việc bảo đảm quyền được chăm sóc y tế của nhân dân, mà ngược lại, Nhà nước vẫn thừa nhận và nỗ lực bảo đảm quyền này, nhưng theo một cách thức phù hợp và hiệu quả hơn.
– Quyền được bảo đảm xã hội: Từ khi đổi mới, Đảng và Nhà nước chủ trương đổi mới chính sách bảo đảm xã hội theo hướng mọi người lao động và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH, tách quỹ BHXH với công nhân, viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương ra khỏi ngân sách theo hướng xã hội hóa công tác BHXH. Điều 56 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ BHXH đối với viên chức nhà nước và những người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động”. Ban hành Luật BHXH (2006), hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007 đối với BHXH bắt buộc, từ ngày 1/1/2008 đối với BHXH tự nguyện và từ ngày 1/1/2009 đối với bảo hiểm thất nghiệp.
Nhờ đổi mới hướng tiếp cận trong chính sách, pháp luật về công tác BHXH, việc thực hiện quyền được BHXH ở nước ta từ khi đổi mới đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ: Số lượng đối tượng tham gia và được hưởng BHXH ngày càng được mở rộng, quyền được BHXH có sự phát triển về chất; mức trợ cấp bình quân cho các đối tượng BHXH nói chung và mức tiền lương hưu bình quân nói riêng liên tục tăng. Thành công nổi bật nhất trong việc thực hiện quyền được bảo đảm xã hội ở nước ta từ khi đổi mới đến nay là việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo – một chủ trường và quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước ta trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Xuất phát từ quan điểm: Vấn đề nghèo khó không được giải quyết thì không có một mục tiêu nào mà cộng đồng quốc tế, cũng như quốc gia đặt ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, hòa bình, ổn định, bảo đảm các quyền con người được thực hiện, Nhà nước ta đã coi Chương trình xóa đói giảm nghèo là một trong bảy chương trình mục tiêu quốc gia và đã có những ưu tiên đặc biệt về nguồn nhân lực, vật lực cho chương trình này.
Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện quyền con người ở nước ta hiện nay
Mặc dù về cơ bản, pháp luật nước ta không mâu thuẫn với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền và việc bảo đảm các quyền con người trên thực tế là phù hợp, thậm chí ở mức tiến bộ, so với thông lệ quốc tế; tuy nhiên, trong việc bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay vẫn còn một số vấn đề tồn tại nhất định.
– Về nhận thức của cán bộ, công chức: Thực tế cho thấy, hiểu biết về nhân quyền ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, dẫn đến có những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các quyền hợp pháp của công dân, đặc biệt là ở một số cơ quan công quyền và một số cơ quan tư pháp. Sự hạn chế như vậy có nguyên nhân từ công tác tuyên truyền, giáo dục về nhân quyền.
– Sự tham gia của các cơ quan thông tin đại chúng trong hoạt động tuyên truyền và đấu tranh chống vi phạm nhân quyền: Các phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta hiện nay chủ yếu đề cập đến vấn đề nhân quyền dưới dạng phê phán sự xuyên tạc, lợi dụng nhân quyền để chống phá ta của các thế lực phản động, thù địch. Nhân quyền được coi là một vấn đề nhạy cảm, ít khi những vấn đề nhân quyền trong nước được đề cập một cách trực tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng.
– Cơ chế bảo đảm nhân quyền chưa hiệu quả: Hiện nay, nước ta vẫn chưa có một cơ quan chuyên trách về vấn đề thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; chưa có một quy chế chặt chẽ trong việc xử lý các tố cáo và vi phạm nhân quyền.
– Sự thiếu hụt các nguồn vật chất bảo đảm: Mặc dù đòi hỏi ở mức độ khác nhau, song việc bảo đảm bất cứ quyền con người nào cũng không thể tách rời các điều kiện vật chất. Do những khó khăn về kinh tế, ở nước ta hiện nay còn thiếu các điều kiện để chăm sóc, giải quyết việc làm cho các đối tượng: những người bị nhiễm HIV/AIDS, những người làm mại dâm, những người vi phạm pháp luật sau khi mãn hạn tù…
Các giải pháp bảo đảm phát triển các quyền cơ bản của con người
Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước hết xuất phát từ mục tiêu, bản chất của chế độ; đó cũng là một trong những nội dung và đặc trưng rất cơ bản và quan trọng của Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng; đồng thời, trước xu thế dân chủ hóa, giao lưu và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng, đòi hỏi quyền con người và các quyền tự do cơ bản của cá nhân công dân phải được tôn trọng và tăng cường hơn nữa. Trước yêu cầu đó, trong điều kiện nước ta hiện nay, bảo đảm hiện thực hóa quyền con người cần phải áp dụng một hệ thống đồng bộ các nhóm giải pháp.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người, quyền công dân
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta và trong các Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X đều xác định: Nhà nước ta định ra các đạo luật quy định quyền con người, quyền công dân, trong đó bên cạnh các luật về kinh tế, Nhà nước cần ưu tiên xây dựng các luật về quyền công dân.’ nước ta, tồn tại một nguyên tắc Hiến định: các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp và Luật. Như thế, các quyền được quy định trong Hiến pháp tạo thành hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản có tính nguyên tắc nền tảng. Các quyền được quy định trong luật, một mặt, là cụ thể hóa các quyền trong Hiến pháp, mặt khác, phát triển và bổ sung thêm những quyền mới. Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân đòi hỏi tăng cường hoạt động lập pháp của Quốc hội như là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người.
Trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm các quyền con người về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội như quyền trẻ em, quyền phụ nữ; quyền của công dân cao tuổi… Để làm được điều đó, cần có sự nghiên cứu và tổng kết toàn diện và sâu sắc hệ thống pháp luật hiện hành, có sự phân tích, so sánh đối chiếu với các quy định quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.
Trên cơ sở các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đặt ra trong thời gian tới, các quy phạm pháp luật về các quyền dân sự, chính trị cần được chế định thêm, cụ thể và rõ ràng hơn trong Hiến pháp; tiến tới mỗi quyền trong Hiến pháp cần được quy định trong một đạo luật cụ thể, chẳng hạn như quyền được thông tin (cần có Luật về thông tin); quyền tự do lập hội, hội họp (cần phải sửa đổi luật hiện hành); các quyền tham gia công việc nhà nước như quy định về trưng cầu dân ý (cần có Luật trưng cầu dân ý); các quy định về dân chủ ở cơ sở (cần nâng cấp Quy chế dân chủ ở cơ sở lên thành Luật về dân chủ ở cơ sở…).
Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng cần gấp rút được nghiên cứu và tổng kết thực tiễn; trên cơ sở đó chế định quyền sở hữu cá nhân cần phải được quy định cụ thể hơn. Vì đây là quyền giữ vị trí chi phối các quyền khác. Theo đó, cần hoàn thiện pháp luật cụ thể hóa Điều 58 Hiến pháp 1992, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để cá nhân, công dân tự kiểm soát, bảo vệ tài sản của mình và Nhà nước thông qua công cụ pháp lý và bộ máy chuyên chính có trách nhiệm bảo vệ tài sản của cá nhân, công dân. Chỉ khi quyền sở hữu cá nhân được bảo đảm, công dân mới an tâm đưa vốn vào sản xuất kinh doanh, tạo ra của cải làm giàu cho bản thân và xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền không chỉ bảo vệ quyền lợi của người dân nói chung mà xuất phát từ đặc thù về thể chất, tâm lý, quyền lợi của trẻ em, phụ nữ, công dân cao tuổi cũng như những người bị khuyết tật… phải được coi là đối tượng ưu tiên trong việc bảo vệ, yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của nhóm đối tượng này là: Không được có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trong các quy định của pháp luật; quyền lợi của họ phải được bảo đảm trên thực tế. Đồng thời, từ chủ nghĩa nhân văn, “uống nước nhớ nguồn”, sớm hoàn thiện nâng lên thành luật định bảo đảm quyền lợi của gia đình cách mạng và người có công với đất nước trước những biến đổi sâu sắc của bối cảnh xã hội và những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
Xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát bảo đảm nhân dân tham gia thực sự công việc nhà nước
Trước mắt và trong thời gian tới đối với cán bộ, công chức nhà nước trong mối quan hệ với nhân dân (quan hệ cá nhân và Nhà nước) đòi hỏi xây dựng chế độ trách nhiệm bảo đảm mỗi cán bộ, công chức nhà nước có thể phát huy hết năng lực cá nhân; đồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình thực thi công vụ, giảm thiểu nguy cơ có thể xâm phạm quyền của công dân. Theo đó, pháp luật phải cụ thể hóa mối quan hệ giữa cá nhân, công dân với Nhà nước. Nhà nước là tổ chức công quyền, nghĩa là người làm công, mang quyền lực được ủy quyền từ nhân dân, do đó xác định cụ thể các quyền của công dân theo hướng công dân có quyền được làm tất cả những gì luật pháp không cấm, còn cán bộ, công chức nhà nước chỉ được phép làm những gì mà luật pháp quy định. Đồng thời, trách nhiệm của Nhà nước là phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện quyền con người; và công dân cũng phải làm tròn những nghĩa vụ phát sinh từ việc hưởng thụ các quyền do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân bảo đảm tính ràng buộc hai chiều, trước hết nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức là phục vụ nhân dân, chứ không phải “làm quan cách mạng”. Trong điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi chuyển mạnh từ “nền hành chính cai trị sang nền hành chính phục vụ”.
Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và tạo điều kiện để nhân dân tham gia tích cực, chủ động vào công việc nhà nước, công việc xã hội, trong đó có việc nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước, hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước. Kiểm tra và giám sát hoạt động của Nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước – những người phục vụ nhân dân, đòi hỏi Nhà nước phải báo cáo hoạt động trước nhân dân, bảo đảm quyền của công dân được cung cấp thông tin một cách chân thực và chính xác từ phía cơ quan công quyền. Những người trực tiếp do nhân dân bầu ra, phải thường xuyên tiếp xúc với nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức nhà nước, tăng cường hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là tổ, khu dân phố nơi cán bộ, vợ con của cán bộ, công chức sinh sống và làm việc.
Xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm sự phân hóa giàu nghèo, nền tảng cho phát triển bền vững
Bảo đảm thực hiện quyền con người trong nhà nước pháp quyền XHCN tự bản thân đã đòi hỏi nghèo đói phải được giải quyết về căn bản. Điều đó cho thấy, bảo đảm quyền kinh tế cho mọi người, quyền bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế, đòi hỏi chiến lược xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội và dần dần giảm sự phân cách giàu nghèo là rất quan trọng.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là một xã hội người giàu với số lượng ngày càng đông và người nghèo số lượng ngày càng giảm. Để thực hiện được điều đó, vấn đề quan trọng hiện nay là Nhà nước với vai trò điều tiết vĩ mô, quản lý nền kinh tế, dùng công cụ, sức mạnh thông qua chính sách thuế, thực hiện việc điều tiết, phân phối lợi ích và bảo đảm phúc lợi xã hội, trong đó chú trọng đến các đối tượng hưởng chính sách xã hội, đến vùng sâu, vùng xa; đồng thời, có chiến lược phát triển kinh tế vùng miền, bảo đảm vùng sâu, vùng xa dần tiến kịp với các thành phố, đô thị…
Kinh nghiệm chỉ ra rằng, những bất ổn về chính trị, sự phân hóa và ly khai có những nguyên nhân sâu xa của nó, nhưng đều bắt nguồn từ sự phân bổ không công bằng về lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần và sự phân cách giàu nghèo quá lớn trong xã hội. Vì thế, để khắc phục tình trạng trên, cần thực hiện tốt chiến lược xóa đói, giảm nghèo. Trong đó, việc đào tạo nghề, cho vay vốn, ưu tiên trong giáo dục, đào tạo, trong đầu tư… đối với đối tượng nghèo, gia đình khó khăn, gia đình thuộc diện chính sách, con em nông dân và đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số phải là bước đi đầu tiên trong hoạch định chính sách cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Và phát triển đồng đều phải trở thành một nguyên tắc trong hoạch định chính sách xã hội, chính sách kinh tế.
Tăng cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự
Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, đó là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và cả quá trình giam giữ, cải tạo phạm nhân, bảo đảm rằng mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh, và suốt quá trình tiến hành tố tụng không được làm oan người vô tội. Người phạm tội phải bị đưa ra xét xử, chịu hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội. Những mục đích của hình phạt lại không phải chỉ là trừng trị mà giáo dục, cải tạo, răn đe và phòng ngừa tội phạm là mục đích ưu tiên hàng đầu. Đây là yêu cầu rất cơ bản để bảo đảm quyền con người trong nhà nước pháp quyền XHCN.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi xây dựng được một đội ngũ cán bộ tư pháp tận tâm, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ; đồng thời hoàn thiện kể cả về tổ chức với một cơ chế giám sát, chỉ đạo điều hành chặt chẽ từ phía Đảng, cơ quan nhà nước, đoàn thể, nhân dân là rất cần thiết.
– Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng không phải là can thiệp vào hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, mà bảo đảm sự lãnh đạo chỉ đạo bằng đường lối, chủ trương lớn ở tầm vĩ mô; về xây dựng tổ chức, bộ máy, về công tác cán bộ…
– Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với cơ quan tư pháp.
– Tăng cường sự giám sát của đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị xã hội đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm sự tham gia trong lĩnh vực đấu tranh phát giác tội phạm và tham gia hoạt động xét xử (cơ chế hội thẩm).
– Cuối cùng, nhưng chiếm vị trí quan trọng là nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong hoạt động tư pháp. Luật sư phải là người đại diện thực sự cho thân chủ. Sự tham gia của luật sư là để giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình tiến hành tố tụng, nhanh chóng làm sáng tỏ bản chất thật sự của vụ án, tránh và giảm thiểu đến mức thấp nhất oan sai, không vô tư, khách quan trong hoạt động tố tụng.
Minh Chứng Sinh Động Về Quyền Con Người Ở Việt Nam
Hiến pháp được Quốc hội thông qua năm 2013 đã đánh dấu bước tiến quan trọng của Việt Nam trong nhận thức về quyền con người cũng như trách nhiệm của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân trên tất cả các lĩnh vực. Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp năm 2013, nhiều văn bản quy phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau đã được sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới, trong đó bao gồm các nội dung về quyền con người, quyền công dân. Chỉ tính từ tháng 1-2014 đến nay, đã có khoảng hơn 100 luật, pháp lệnh được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, trong đó có nhiều luật quan trọng về quyền con người, chẳng hạn như: Bộ luật Hình sự năm 2023; Bộ luật Dân sự năm 2023; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2023; Bộ luật Dân sự năm 2023; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2023; Luật Tiếp cận thông tin năm 2023; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2023; Luật Báo chí năm 2023; Luật Trợ giúp pháp lý năm 2023; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2023; Luật An ninh mạng năm 2023; Luật Tố cáo năm 2023; Luật Đặc xá năm 2023… Các đạo luật này quy định đầy đủ, rõ ràng hầu hết các quyền dân sự và chính trị; các cơ chế bảo đảm và phát huy các quyền này tại Việt Nam…
Đại sứ Dương Chí Dũng, Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới và các tổ chức quốc tế khác tại Geneva dẫn đầu đoàn Việt Nam tham Khóa họp thứ 40 Hội đồng Nhân quyền LHQ, ngày 25/2 tại Geneva (Thụy Sĩ).
Ảnh: Hoàng Hoa/Pv TTXVN tại Thụy Sĩ
TỰ DO NGÔN LUẬN, BÁO CHÍ, TÔN GIÁO
Về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Việt Nam luôn coi trọng chính sách đoàn kết và hòa hợp giữa các tôn giáo, đảm bảo sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo. Pháp luật Việt Nam đã tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc để bảo đảm tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân.
Ở Việt Nam, không có việc cưỡng ép từ bỏ niềm tin, theo dõi, đe dọa, xúc phạm, giam giữ, tra tấn, hạn chế quyền tiếp cận tôn giáo. Việt Nam nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để kích động hận thù, chia rẽ, gây mâu thuẫn và xung đột, làm tổn hại đến an ninh, ổn định của đất nước và cuộc sống yên bình của người dân. Các tôn giáo ở Việt Nam chung sống hòa hợp trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hiện có 42 tổ chức thuộc 15 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân; 60 cơ sở đào tạo tôn giáo, thuộc Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo. Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo in ấn, phát hành kinh sách và đồ dùng việc đạo; đảm bảo tự do tôn giáo tín ngưỡng của các dân tộc thiểu số.
Pháp luật Việt Nam đã tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc để bảo đảm tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân
Về quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do hội họp, thực tiễn cuộc sống là bằng chứng rất rõ nét về việc thụ hưởng quyền này ở Việt Nam. Có thể thấy, báo chí ở Việt Nam đã phát triển không ngừng, trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân dân, là công cụ bảo vệ quyền của người dân, lợi ích của xã hội, hỗ trợ công tác kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật, chính sách.
Tính đến tháng 6-2023, cả nước đã có tới có 857 cơ quan báo chí với 1.119 ấn phẩm, số lượng trang thông tin điện tử tổng hợp được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép đến hết tháng 6-2023 là 1.510. Hơn 20 cơ quan báo chí nước ngoài có phóng viên thường trú tại Việt Nam. Internet phát triển vô cùng nhanh chóng đang tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận thông tin, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa. Tỷ lệ hộ gia đình có truy cập internet là 28,35%, số người dùng Internet ở Việt Nam là khoảng 50 triệu người, chiếm 54% dân số (so với 30,8 triệu người năm 2013). Việt Nam có 58 triệu tài khoản sử dụng Facebook.
Quyền lập hội đã được quy định trong Hiến pháp 2013, Bộ luật hình sự 2023 và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Đến năm 2023, Việt Nam có 68.125 hội, trong đó có các tổ chức, hiệp hội của thanh niên, phụ nữ, công nhân, nông dân, người cao tuổi, người khuyết tật, các hội từ thiện, các tổ chức khoa học, nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ. 5 tổ chức chính trị-xã hội lớn có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội là: Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng Luật về Hội. Dự thảo Luật về Hội đã được tham vấn nhiều lần ý kiến của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức phi chính phủ, các chuyên gia và người dân để trình Quốc hội cho ý kiến.
Năm 2023, số lượng đăng ký hộ tịch đều tăng so với năm 2023, đặc biệt là số lượng đăng ký khai sinh lại tăng rất lớn (đăng ký khai sinh mới cho 2.180.030 trường hợp, đăng ký khai sinh lại cho 1.413.987 trường hợp và 5.354 trường hợp khai sinh có yếu tố nước ngoài; đăng ký kết hôn cho tổng số 787.764 cặp, trong đó có 20.849 trường hợp có yếu tố nước ngoài). Năm 2023, Bộ Tư pháp đã tham mưu, trình Chủ tịch nước giải quyết 5.452 hồ sơ về quốc tịch (gồm 5.278 hồ sơ xin thôi, 164 hồ sơ xin nhập, 10 hồ sơ xin trở lại quốc tịch Việt Nam); trả lời tra cứu quốc tịch Việt Nam của 1.875 trường hợp theo đề nghị của các cơ quan.
GIẢI PHÁP KHI THỰC THI CÔNG ƯỚC
Trong quá trình thực hiện Công ước ICCPR với mục tiêu hết sức tốt đẹp, Việt Nam phải đương đầu với một số khó khăn,thách thức cả về chủ quan và khách quan. Một là, hậu quả của nhiều cuộc chiến tranh và sự phát triển kinh tế đã khiến môi trường bị tàn phá; Hai là, thu nhập của người dân còn ở mức trung bình thấp; điều kiện kinh tế – xã hội còn hạn chế; Ba là, khuôn khổ pháp luật về quyền con người vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, năng lực tổ chức thực hiện pháp luật còn hạn chế, hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật còn chưa cao; Bốn là, mức độ phát triển kinh tế – xã hội giữa các vùng và nhóm dân cư chưa đồng đều; thiếu hụt nguồn lực; Năm là, chất lượng giáo dục về quyền con người mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin; phong tục, tập quán lạc hậu; biến động của tình hình khu vực và quốc tế…
Chăm sóc sức khỏe cho người dân ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Những thách thức trên không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi người dân mà còn làm phân tán nguồn lực của đất nước, làm giảm hiệu quả của các chính sách khuyến khích và thúc đẩy phát triển quyền dân sự và chính trị ở Việt Nam. Tuy vậy, Việt Nam vẫn nỗ lực vượt qua và đặt ưu tiên cao nhất là tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách pháp luật và tư pháp, thực thi có hiệu quả các quy định pháp luật để thành công hơn nữa trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền dân sự và chính trị ở Việt Nam.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, để thực hiện các mục tiêu trên, cần tập trung vào một số giải pháp sau: Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người, quyền công dân; Hai là, xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát bảo đảm nhân dân tham gia thực sự công việc Nhà nước; Ba là, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm sự phân hóa giàu nghèo, nền tảng cho phát triển bền vững; Bốn là, tăng cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự; Năm là, tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với cơ quan tư pháp. Sáu là, tăng cường sự giám sát của đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị xã hội đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm sự tham gia trong lĩnh vực đấu tranh phát giác tội phạm và tham gia hoạt động xét xử./.
Việt Nam vẫn nỗ lực vượt qua và đặt ưu tiên cao nhất là tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách pháp luật và tư pháp, thực thi có hiệu quả các quy định pháp luật để thành công hơn nữa trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền dân sự và chính trị ở Việt Nam.
Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 4/2023
Một Số Vấn Đề Đặt Ra Trong Quá Trình Thực Hiện Quyền Con Người Ở Việt Nam
Tại Việt Nam, việc thúc đẩy và bảo đảm quyền con người trên cơ sở tôn trọng chủ quyền quốc gia, hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa và phát triển của mỗi nước cũng như sự tăng cường sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau, đối thoại và hợp tác.
Bên cạnh đó, Việt Nam luôn khẳng định, quan điểm, chính sách và luật pháp của Nhà nước Việt Nam về quyền con người cũng như thành tựu của Việt Nam trong thực hiện các quyền thuộc nhóm quyền dân sự – chính trị, nhóm quyền kinh tế – văn hóa – xã hội, quyền của các nhóm dễ bị tổn thương.
Tuy nhiên, như mọi quốc gia khác, Việt Nam cũng phải đối mặt với các thách thức, đặc biệt là biến đổi khí hậu, thiên tai như hạn hán, ngập mặn, lũ lụt. Những thách thức này đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, hạn chế các quyền lương thực, sức khỏe, giáo dục và nhà ở của người dân Việt Nam.Việt Nam luôn đặt người dân ở trung tâm của phát triển và tiếp tục tăng cường hệ thống luật pháp, chính sách và thể chế thông các Công ước nhân quyền mà Việt Nam là thành viên.
Bên cạnh đó, trong việc bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay vẫn còn một số vấn đề tồn tại nhất định. Ví dụ như: Về nhận thức của cán bộ, công chức, thực tế cho thấy, hiểu biết về nhân quyền ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, dẫn đến có những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các quyền hợp pháp của công dân; Nhân quyền được coi là một vấn đề nhạy cảm, ít khi những vấn đề nhân quyền trong nước được đề cập một cách trực tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng; Hiện nay, nước ta vẫn chưa có một cơ quan chuyên trách về vấn đề thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; Ngoài ra, ở nước ta hiện nay còn thiếu các điều kiện để chăm sóc, giải quyết việc làm cho các đối tượng người bị nhiễm HIV/AIDS, những người làm mại dâm, những người vi phạm pháp luật sau khi mãn hạn tù…
Trong các năm gần đây, Việt Nam đã duy trì tăng trưởng kinh tế ổn định, tăng cường mức sống của người dân, giảm mạnh tỉ lệ nghèo, thúc đẩy bình đẳng xã hội, góp phẩn bảo đảm thụ hưởng các quyền kinh tế xã hội, cũng như thực hiện quyền con người trong nhiều lĩnh vực khác. Việt Nam cũng nghiêm túc thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người, và ngày càng chủ động, tích cực đóng góp tại các diễn đàn về quyền con người trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, ASEAN và nhiều cơ chế khác.
Việt Nam đã chứng kiến những thành tựu hết sức quan trọng trong công tác bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, đặc biệt là việc thông qua Hiến pháp 2013 và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người. Hiến pháp năm 2013 đã nêu rõ chủ thể và nội dung quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Để đảm bảo thực hiện quyền con người trong điều kiện nước ta hiện nay, bảo đảm hiện thực hóa quyền con người theo Hiến Pháp 2013 quy định, cần phải áp dụng đồng bộ các nhóm giải pháp.
Bên cạnh các văn bản quy phạm về kinh tế, Nhà nước cần ưu tiên xây dựng các văn bản hướng dẫn về quyền công dân, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người. Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng cần gấp rút được nghiên cứu và tổng kết thực tiễn; Trên cơ sở đó chế định quyền sở hữu cá nhân cần phải được quy định cụ thể hơn. Vì đây là quyền giữ vị trí chi phối các quyền khác. Chỉ khi quyền sở hữu cá nhân được bảo đảm, công dân mới an tâm đưa vốn vào sản xuất kinh doanh, tạo ra của cải làm giàu cho bản thân và xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền không chỉ bảo vệ quyền lợi của người dân nói chung mà xuất phát từ đặc thù về thể chất, tâm lý, quyền lợi của trẻ em, phụ nữ, công dân cao tuổi cũng như những người bị khuyết tật… phải được coi là đối tượng ưu tiên trong việc bảo vệ, yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của nhóm đối tượng này là: Không được có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trong các quy định của pháp luật; Quyền lợi của họ phải được bảo đảm trên thực tế.
Nhà Nước Việt Nam Đối Với Việc Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Điều Kiện Hội Nhập Quốc Tế Hiện Nay
TRẦN THỊ HÒE*
1. Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế
Thứ nhất, xây dựng Hiến pháp, pháp luật, chính sách về quyền con người
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Nhà nước ta đã nỗ lực xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về quyền con người (QCN), tạo ra những thay đổi tích cực trong hoạt động xây dựng và hoạch định chính sách, pháp luật. Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người đặt con người vào “vị trí trung tâm”, “mọi mục tiêu, động lực của sự phát triển là vì con người, do con người”, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của con người đã trở thành một nguyên tắc trong hoạch định chính sách, pháp luật của nhà nước. Nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng và bảo vệ QCN, minh bạch hóa trách nhiệm nhà nước đã được thẩm thấu vào trong quy trình xây dựng luật pháp và chính sách về QCN, góp phần vào sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội, tiền đề quan trọng cho việc bảo đảm QCN.
Việc ghi nhận các quyền mới của con người trong Hiến pháp năm 1992 và năm 2013 đã phản ánh xu thế hội nhập của đất nước, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo đảm QCN ở Việt Nam. Điều này cũng thể hiện những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng và thừa nhận QCN phổ biến được ghi nhận trong pháp luật quốc tế, là sự năng động, nhạy bén của Nhà nước trong việc xử lý mối quan hệ biện chứng giữa QCN phổ biến với đặc thù về lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị của các quốc gia, giữa luật quốc tế và pháp luật quốc gia trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật để vừa bảo đảm lợi ích quốc gia, vừa tuân thủ những quy định và cam kết quốc tế, bảo đảm tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Cùng với việc ghi nhận quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, Hiến pháp năm 1992 và sau này là Hiến pháp năm 2013 quy định về bản chất quyền lực của Nhà nước Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. Do đó, trách nhiệm của Nhà nước là phải “bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân,…” (Điều 3, Hiến pháp năm 2013). Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền (Điều 8). Vì vậy, nghĩa vụ của Nhà nước là: tạo mọi điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân (Điều 28); tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội (Điều 59),… Các quy định trên một lần nữa khẳng định nghĩa vụ của Nhà nước không chỉ là ghi nhận QCN mà còn có trách nhiệm tạo ra các cơ chế để bảo đảm QCN đã được ghi nhận.
Bên cạnh việc nâng cao số lượng và chất lượng QCN trong Hiến pháp, Nhà nước chú trọng nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, ban hành các văn bản luật với các quy định cụ thể, dễ thực hiện, giảm dần các luật, pháp lệnh chỉ dừng lại ở các nguyên tắc chung nhằm giảm bớt việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành. Nhiều bộ luật được sửa đổi và ban hành mới đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, bảo đảm tốt hơn các quyền của người dân như: Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật về Trách nhiệm bồi thường của nhà nước, Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật Người cao tuổi,…
Những kết quả đạt được trong việc ban hành chính sách, pháp luật về QCN của Nhà nước ta những năm qua là một bước tiến lớn trong quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật về QCN, phù hợp với thực tiễn đòi hỏi trong nước cũng như đáp ứng các yêu cầu của quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế. Các nguyên tắc, tiêu chuẩn về QCN trong luật Nhân quyền quốc tế đã được quán triệt và trở thành nội dung quan trọng của văn bản pháp luật Việt Nam về QCN, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các hoạt động bảo vệ và thực thi QCN.
Thứ hai, tổ chức thực thi Hiến pháp, pháp luật và chính sách bảo đảm quyền con người
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, việc bảo đảm QCN trong hoạt động thực thi Hiến pháp, pháp luật, chính sách đã được Nhà nước Việt Nam quan tâm một cách tích cực. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương các cấp đã áp dụng một số biện pháp chủ yếu sau:
– Hướng dẫn, tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương về những vấn đề chung, có ý nghĩa chiến lược về bảo đảm QCN. Nổi bật nhất trong hoạt động này là Quyết định số 366/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (11/3/2011) Ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư về công tác nhân quyền trong tình hình mới.
Với mục tiêu tạo sự chuyển biến tích cực về bảo đảm QCN, Quyết định số 366/QĐ-TTg đã cụ thể hóa một bước quan trọng nghĩa vụ bảo đảm QCN đối với một số bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đóng vai trò kiểm tra, giám sát, phân bổ nguồn lực, tăng cường năng lực bảo đảm QCN trong hoạt động của các cơ quan nhà nước.
– Hướng dẫn, tổ chức và kiểm tra việc thực hiện pháp luật của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhằm bảo đảm các quyền đã được công nhận trong Hiến pháp như: quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà nước, xã hội; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; quyền tiếp cận giáo dục, y tế; các quyền về lao động, việc làm, an sinh xã hội;…
Đây là hoạt động có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, gắn với quá trình cung cấp các biện pháp cụ thể và hành chính, kinh tế, quy tắc, thủ tục, các dịch vụ xã hội cho việc bảo đảm QCN và ngăn chặn các hành vi vi phạm QCN theo pháp luật. Do vậy, nó thường có tác động nhanh và sâu sắc đến thực tiễn bảo đảm QCN của các cơ quan công quyền ở trung ương và địa phương.
– Lồng ghép QCN vào quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách phát triển. Hoạt động này phản ánh những đổi mới trong tư duy phát triển của Đảng, Nhà nước Việt Nam, phù hợp với chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, nhiều chương trình, chính sách phát triển của Việt Nam đã có những quy định tác động đến bảo đảm QCN như: Chương trình Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 và 2011 – 2023; Chương trình Mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2001 – 2005, 2006 – 2010, 2012 – 2023; Chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2006 – 2010; Chương trình Hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo (Chương trình 134); Chương trình Phát triển kinh tế – xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135); Chương trình xây dựng nông thôn mới,…
Nhìn tổng thể, những chương trình, chính sách nêu trên đã hỗ trợ tích cực cho người dân phát huy quyền làm chủ của mình trong quản lý nhà nước, xã hội; tiếp cận thuận lợi hơn với các dịch vụ về việc làm; đào tạo nghề; trợ giúp pháp lý; y tế, giáo dục, an sinh xã hội;… hạn chế gia tăng phân hóa giàu nghèo và góp phần thực hiện mục tiêu công bằng xã hội trong quá trình phát triển.
– Trực tiếp áp dụng các biện pháp mang tính sáng tạo, phù hợp với bối cảnh cụ thể của từng ngành, từng địa phương nhằm nâng cao năng lực hưởng thụ các quyền của người dân, đặc biệt là của các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Hoạt động này gắn với những sáng kiến đa dạng của các ngành, các địa phương như: tuyên truyền, nâng cao nhận thức về QCN cho cán bộ, công chức, viên chức, các tầng lớp nhân dân; xây dựng các dịch vụ xã hội thân thiện, dễ tiếp cận; đào tạo nguồn nhân lực cho những vùng khó khăn; hỗ trợ trực tiếp cho các nhóm dễ bị tổn thương trước những hiểm họa như thiên tai, mất mùa, dịch bệnh,…
Thứ ba, xây dựng và củng cố các thiết chế bảo đảm quyền con người
Không chỉ hoàn thiện các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước, Nhà nước ta còn đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng các cơ quan chuyên môn, chuyên trách về QCN như: Ban chỉ đạo Nhân quyền Chính phủ và các địa phương; xây dựng và hoàn thiện tổ chức của các cơ quan chuẩn bị và thực hiện Báo cáo tình hình thực hiện các Công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam là quốc gia thành viên.
Bên cạnh việc xây dựng, hoàn thiện tổ chức của Ban chỉ đạo về Nhân quyền, Chính phủ, Nhà nước có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng và hoàn thiện Báo cáo Nhân quyền trong khuôn khổ Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc cũng như các hoạt động hợp tác quốc tế khác trên lĩnh vực.
Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn chặn việc lạm dụng quyền lực của các cá nhân, tổ chức trong bộ máy nhà nước, Việt Nam đang nghiên cứu và xúc tiến việc thành lập Ủy ban Nhân quyền quốc gia để theo dõi, giám sát, tư vấn việc thực thi QCN trên các lĩnh vực: ban hành pháp luật; thực thi Hiến pháp, pháp luật; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; xem xét về tính tương thích của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về QCN;…
Thứ tư, huy động sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp vào quá trình bảo vệ, thúc đẩy quyền con người
Phù hợp với quy định về quyền lập hội trong Tuyên ngôn thế giới về QCN (1948) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (1966), Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thời kỳ đổi mới đã tạo thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức này trong quá trình bảo vệ QCN. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới, nhiều tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, như công đoàn, nông dân, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh; các cơ quan báo chí, truyền thông; các tổ chức xã hội, nghề nghiệp;… đã đóng vai trò ngày càng tích cực trong những hoạt động: giám sát và phản biện xã hội; tuyên truyền, nâng cao nhận thức về QCN; thúc đẩy bình đẳng giới; trợ giúp pháp lý, nâng cao năng lực cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương; xóa đói giảm nghèo; tham gia các hoạt động giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức nhà nước; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở,… nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nhà nước và trong hoạt động của các tổ chức kinh tế, xã hội.
Thứ năm, tuyên truyền, giáo dục về quyền con người
Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt từ sau khi có Chỉ thị 12-CT/TW (1992) của Ban Bí thư, hoạt động tuyên truyền, giáo dục QCN đã được tích cực triển khai dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn từ năm học 1998 – 1999, môn học Lý luận về QCN đã được đưa vào giảng dạy chính thức tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tiếp đó, nhiều chương trình nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục về nhân quyền được triển khai thực hiện tại các trường chính trị, hành chính, Ban Chỉ đạo về Nhân quyền của Chính phủ, các trường đại học, các viện nghiên cứu,… Bên cạnh đó, hoạt động tuyên truyền, tập huấn về nhân quyền còn được thực hiện thông qua một số dự án hợp tác quốc tế của Quốc hội, Chính phủ; của các ngành, các cơ quan như: ngoại giao, tư pháp, công an, báo chí, tôn giáo, dân tộc và của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp. Trong những năm gần đây, hoạt động tuyên truyền, giáo dục về nhân quyền liên tục được mở rộng, được lồng ghép vào nhiều môn học và một số chương trình đào tạo sau đại học. Đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho phép đào tạo Thạc sĩ về QCN ở ba cơ sở đào tạo là: Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện Khoa học Xã hội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Những hoạt động tuyên truyền, giáo dục nêu trên đã góp phần tích cực nâng cao nhận thức về QCN cho đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cơ quan Đảng, Nhà nước; cán bộ thực thi pháp luật; sinh viên các trường đại học; thành viên một số tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp.
Thứ sáu, hợp tác và hội nhập quốc tế trên lĩnh vực quyền con người
Để phát huy tốt vai trò, nâng cao uy tín quốc tế và hội nhập vào đời sống chính trị – xã hội quốc tế, Việt Nam đã gia nhập, phê chuẩn hầu hết các công ước quốc tế chủ chốt về QCN. Từ những năm 1980, Nhà nước đã thực hiện tương đối đầy đủ và bảo đảm thời gian hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ các Báo cáo quốc gia của các Công ước Nhân quyền quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việt Nam hiện là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 – 2023). Trong việc thực hiện QCN theo Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR), Việt Nam đã bảo vệ thành công báo cáo của mình tại cả hai chu kỳ (1 và 2) năm 2009 và 2014, đồng thời tiếp thu các ý kiến đóng góp xây dựng của các nước khác, cũng như tích cực đóng góp ý kiến cho các quốc gia khác về tình hình thực hiện QCN tại các chu kỳ này.
Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ trả lời và giải quyết kháng thư của Liên hợp quốc. Trong việc thực thi nghĩa vụ thực hiện các Thủ tục đặc biệt (Special Procedures – SP) cho đến nay, Việt Nam đã đón các chuyên gia về các vấn đề người thiểu số; đói nghèo cùng cực và nhân quyền; tác động của nợ nước ngoài đối với nhân quyền, quyền được chăm sóc y tế; Báo cáo viên đặc biệt về quyền văn hóa và tôn giáo. Việt Nam đăng cai tổ chức nhiều hội thảo quốc tế về QCN như: Hội thảo về Công ước quốc tế chống tra tấn và đối xử vô nhân đạo (tháng 12/2003); Hội thảo Việt Nam – EU về Án tử hình (tháng 11/2004), Hội thảo về QCN lần thứ 6 (tháng 12/2004),… Tại các hội thảo này, Việt Nam đã tạo cơ hội để các đại biểu quốc tế hiểu rõ hơn về chính sách, pháp luật của Việt Nam về QCN. Đây thực sự là diễn đàn trao đổi cởi mở, thẳng thắn, công khai nhằm thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.
Trong phạm vi khu vực, cùng các nước thành viên ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp tích cực vào việc thành lập Ủy ban Liên Chính phủ ASEAN về Nhân quyền (AICHR), Ủy ban ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy các quyền của phụ nữ và trẻ em (ACWC) và Tuyên bố Nhân quyền ASEAN (tháng 11/2012). Qua đó thể hiện cam kết và quyết tâm cao của Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng và thúc đẩy các QCN cũng như các quy định của pháp luật quốc tế về QCN.
2. Những thách thức, khó khăn của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Thành tựu của thời kỳ hội nhập quốc tế đã giúp chúng ta có thêm nhiều kinh nghiệm và bài học bổ ích cho việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền của người dân; tuy nhiên, đây là quá trình có nhiều thách thức và khó khăn đan xen:
– Hệ thống pháp luật về QCN ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại một số yếu tố bất hợp lý, mâu thuẫn, chưa theo kịp với yêu cầu bảo đảm các quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Bên cạnh sự phức tạp, chồng chéo, pháp luật Việt Nam vẫn chưa thể chế hóa kịp thời một số quyền hợp hiến, tạo nên hiện tượng gọi là quyền “treo”, ít có hiệu lực thực tế, như: quyền lập hội, biểu tình, tiếp cận thông tin. Quy trình xây dựng pháp luật còn lạc hậu, chưa coi trọng sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền với nguyên tắc cơ bản là công dân có quyền tham gia vào các quyết định có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Trong một số lĩnh vực, pháp luật còn có những quy định gây trở ngại cho việc bảo vệ các quyền đã được công nhận trong Hiến pháp, như quyền có luật sư, quyền được suy đoán vô tội, quyền được im lặng của bị can, bị cáo, người bị bắt giữ. Ngoài ra là tình trạng kém hiệu quả của pháp luật trong bảo vệ quyền của các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương; bảo vệ các quyền về kinh tế, xã hội của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp;…
– Hoạt động giám sát việc bảo đảm QCN còn có biểu hiện hình thức, thiếu hiệu quả trong việc phát hiện, khắc phục kịp thời những hạn chế, thiếu sót của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện QCN theo quy định của pháp luật. Một trong những nguyên nhân cơ bản của hiện tượng này là Việt Nam đang thiếu một cơ quan quốc gia có địa vị pháp lý đầy đủ, hoạt động chuyên trách, đủ khả năng chủ trì, phối hợp, giám sát, hướng dẫn các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội trong việc bảo đảm các QCN.
– Sự hình thành những yêu cầu mới, đa dạng về QCN trong bối cảnh xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Một mặt hiện nay, khi đất nước đã bước vào giai đoạn đang phát triển, có mức thu nhập trung bình, cùng với sự tăng lên của nguồn lực kinh tế và trình độ dân trí trong xã hội sẽ xuất hiện yêu cầu cao hơn đối với việc bảo đảm các tiêu chuẩn nhân quyền đã được pháp luật quốc tế công nhận. Các hình thức lao động, sản xuất, kinh doanh; sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đã tạo ra những khả năng mới trong việc bảo đảm QCN. Do những thay đổi đó nên trong các hoạt động xã hội, bên cạnh những quyền căn bản (quyền sống, quyền có việc làm, chỗ ở, chăm sóc sức khỏe,…) cũng xuất hiện những đòi hỏi cho các quyền mới, như quyền về môi trường trong lành, quyền được bảo đảm an sinh xã hội, quyền sở hữu tư nhân, quyền của giới tính “thứ ba”, quyền của kiều dân nước ngoài định cư tại Việt Nam và Việt kiều,…
Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phân hóa – phân tầng xã hội không chỉ bị tác động bởi sự phân hóa giàu nghèo, mà còn bị ảnh hưởng bởi sự đa dạng về văn hóa vùng miền, văn hóa tộc người và hội nhập quốc tế. Sự phân hóa – phân tầng xã hội đã và sẽ dẫn đến sự đa dạng hóa mạnh mẽ hơn các nhu cầu về QCN giữa các giai tầng xã hội. Nhà nước vừa phải có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về QCN cho các nhóm dân cư tại các khu đô thị, vừa phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ bảo đảm các quyền rất thiết yếu, đặc biệt là các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cho các nhóm dễ bị tổn thương. Sự đa dạng đó đã và sẽ tạo ra những thách thức mới đối với chính sách, pháp luật không chỉ trên lĩnh vực nhân quyền.
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của Nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
Để khắc phục những thách thức đang đặt ra, nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả nghĩa vụ bảo đảm QCN của các cơ quan nhà nước Việt Nam hiện nay, cần chú trọng thực hiện một số phương hướng cơ bản sau:
Một là, trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm QCN. Quá trình này cần chú ý:
– Thể chế hóa các QCN, quyền công dân đã được chế định trong Hiến pháp năm 2013 thành các tiêu chuẩn rõ ràng, minh bạch, nhất quán về cách hiểu và cách thực hiện. Không để tình trạng quyền bị “treo”. Sớm có hướng dẫn thống nhất về phương thức hạn chế quyền phù hợp với quy định của Điều 14(2) Hiến pháp năm 2013.
– Xây dựng khuôn khổ pháp luật về dân chủ, pháp quyền, quản trị xã hội cho việc bảo đảm QCN. Thí dụ xây dựng và triển khai thực hiện các luật về thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa như: Luật Trưng cầu dân ý, Luật về Lập hội, Luật Biểu tình, Luật Tiếp cận thông tin,…; thể chế hóa việc tổ chức, vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên thực tế (cơ chế tổ chức, hoạt động của Hội đồng bầu cử và kiểm toán quốc gia, cơ chế bảo hiến,…); thể chế hóa trách nhiệm quản trị quốc gia của Nhà nước (xây dựng luật giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, quản lý an ninh quốc gia,…). Trên cơ sở đó, Nhà nước Việt Nam mới tạo ra một khuôn khổ pháp luật đủ mạnh để bảo đảm quyền cho mọi người, mọi nhóm xã hội trên thực tế.
Hai là, tiếp tục chú trọng xây dựng, củng cố các thiết chế nhà nước trong bảo vệ, giám sát việc thực hiện QCN. Hiện nay cần quan tâm củng cố, hoàn thiện cơ chế khắc phục và bồi thường thiệt hại do vi phạm QCN gây ra; cơ chế phát hiện và ngăn chặn vi phạm QCN trên các lĩnh vực; cơ chế bảo vệ quyền của các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Tiếp đó, cần xúc tiến thiết lập cơ quan chuyên trách nhân quyền quốc gia bên cạnh các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Muốn vậy cần đẩy mạnh việc nghiên cứu toàn diện, khoa học một số phương án cho việc hình thành cơ quan này phù hợp với chuẩn mực quốc tế, với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Bốn phương án để lựa chọn có thể là: 1) Thanh tra Quốc hội (ombusman) hay Hội đồng Nhân quyền của Quốc hội với tính cách là một ủy ban của Quốc hội do Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo; 2) Ủy ban về Quyền con người trực thuộc Chính phủ; 3) Hội bảo vệ Quyền con người Việt Nam với tính cách là một tổ chức xã hội thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; 4) Viện Nghiên cứu Quyền con người quốc gia.
Ba là, coi trọng áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên QCN trong xây dựng và thực thi luật pháp, chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội. Việc sử dụng phương pháp này cần tập trung xây dựng các biện pháp nâng cao năng lực của chủ thể quyền và chủ thể có nghĩa vụ thực hiện quyền trên từng lĩnh vực cụ thể; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong bảo đảm các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa cho các nhóm người nghèo, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người nhiễm HIV/AIDS,…
Bốn là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục về QCN. Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là đổi mới mạnh mẽ cả nội dung và phương pháp giáo dục nhân quyền cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; cán bộ thực thi pháp luật và sinh viên các trường đại học. Tiếp đó cần thể chế hóa vững chắc việc đưa giáo dục QCN vào các trường chính trị, hành chính, các trường đại học, các trường của các tổ chức đoàn thể. Giáo dục phải hướng đến nâng cao nhận thức, tôn trọng và tuân thủ các QCN trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước, của các cán bộ công chức, viên chức; các tổ chức kinh tế, xã hội; các chương trình và chính sách phát triển.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên lĩnh vực QCN nhằm nâng cao năng lực xây dựng và thực thi pháp luật, năng lực bảo vệ và giám sát việc bảo đảm QCN. Hiện nay cần quan tâm nâng cao chất lượng các Báo cáo theo cơ chế của Công ước và cơ chế của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc; chủ động hơn về chiến lược trong quá trình tham gia vào một số cơ chế, thủ tục nhân quyền của Liên hợp quốc, khu vực Đông Nam Á (ASEAN), đối thoại về QCN, phát triển các hình thức hợp tác quốc tế đa dạng về giáo dục nhân quyền.
Ghi chú:
(*) ThS.; Viện Nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Đăng Dung (2006), Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước, Nxb. Pháp lý, Hà Nội.
2. Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Hiến pháp Việt Nam (năm 1946,1959,1980,1992) và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5. Đào Trí Úc (Chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
6. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2009), Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Chính Sách, Pháp Luật Về Biến Đổi Khí Hậu Ở Việt Nam
Trường đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Tình trạng biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện nay không còn là vấn đề của một địa phương, hay một quốc gia đơn lẻ nào mà đã trở thành câu chuyện của toàn nhân loại. Nhận thức đúng đắn và khoa học về những tác hại của BĐKH để có những giải pháp và hành động thiết thực là yêu cầu cấp thiết. Bảo vệ môi trường (BVMT) nói chung, ứng phó với BĐKH và bảo đảm quyền con người trong chính sách, pháp luật về BĐKH nói riêng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau và trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản, trong đó có nguyên tắc Nhà nước ghi nhận và bảo vệ quyền con người được sống trong một môi trường trong lành. Bài viết giới thiệu một số nội dung trong chính sách và pháp luật về BĐKH ở Việt Nam trong mối tương quan với việc đảm bảo quyền con người.1. Cơ sở lý luận của việc đảm bảo quyền con người trong chính sách, pháp luật về biến đổi khí hậuở Việt Nam
Quyền con người được sống trong một môi trường trong lành đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng do các hoạt động tác động đến chính môi trường, làm cho môi trường bị ô nhiễm, suy thoái. Nói một cách khác, chính con người đang tự tước đoạt quyền được sống trong điều kiện môi trường trong lành.
Môi trường trong lành có thể được hiểu là môi trường vật chất mà chất lượng của nó cho phép cuộc sống được đảm bảo an toàn, hài hòa với tự nhiên. Quyền con người được sống trong một môi trường trong lành, dưới góc độ pháp lý, là chất lượng môi trường xung quanh đạt tiêu chuẩn cho phép. Điều này phụ thuộc vào quy định của từng quốc gia cụ thể.
Tuyên bố của Liên hợp quốc về Môi trường con người năm 1972 (Tuyên bố Stockholm) đã đưa quyền con người được sống trong môi trường trong lành thành một nguyên tắc của quan hệ giữa các quốc gia. Nguyên tắc số 1 của Tuyên bố Stockholm nêu rõ: “Con người có quyền cơ bản được sống trong một môi trường chất lượng, cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có trách nhiệm long trọng bảo vệ, cải thiện cho thế hệ hôm nay và mai sau”[1]. Nguyên tắc số 1 của Tuyên bố của Liên hợp quốc về Môi trường và phát triển bền vững năm 1992 (Tuyên bố Rio de Janeiro) cũng khẳng định:”Con người là trung tâm của các mối quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con người có quyền được hưởng một cuộc sống hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên”[2]. Cộng đồng quốc tế thừa nhận đây là quyền quan trọng hàng đầu, là mục tiêu hoạt động BVMT và các quốc gia đều ghi nhận quyền này trong các văn bản pháp luật của mình. Việt Nam cũng không đứng ngoài xu thế đó, nhất là với tư cách quốc gia ký hai tuyên bố trên, có trách nhiệm biến quyền được sống trong môi trường trong lành thành nguyên tắc pháp lý và thực tế nó đã là nguyên tắc trong pháp luật môi trường Việt Nam. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận một cách tổng quát: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật”. Quyền này được thực hiện thông qua những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như quyền được bồi thường thiệt hại, quyền tự do tín ngưỡng, quyền khiếu nại tố cáo,…
Lời nói đầu của Luật BVMT năm 1993 đề cập: “Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và trách nhiệm của chính quyền các cấp, các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân trong việc BVMT nhằm bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành, phục vụ sự nghiệp phát triển lâu bền của đất nước, góp phần BVMT khu vực và toàn cầu”. Nguyên tắc này cũng được đề cập một cách gián tiếp tại khoản 2, Điều 3 Luật BVMT năm 2005: “BVMT là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình cá nhân”. Đến Luật BVMT năm 2014, nguyên tắc này được quy định ở khoản 2 Điều 4: “BVMT gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, an sinh xã hội, bảo đảm quyền trẻ em, thúc đẩy giới và phát triển, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó với BĐKH để bảo đảm quyền mọi người được sống trong môi trường trong lành”. Đây không chỉ là nguyên tắc mà là mục đích của pháp luật về môi trường, tất cả những quy định của pháp luật về môi trường đều nhằm thể hiện nguyên tắc này.
2. Chính sách, pháp luật về biến đổi khí hậuở Việt Nam
Quyền con người được sống trong một môi trường trong lành là quyền tự nhiên của con người, là quyền tạo hóa ban tặng cho con người. Nhà nước phải ghi nhận vì xuất phát từ hiện trạng môi trường đáng báo động hiện nay, tạo cơ sở pháp lý để người dân bảo vệ quyền được sống trong một môi trường trong lành (khi nó bị xâm phạm) thông qua các hoạt động như: biểu tình, mít-tinh, gây sức ép với Nhà nước, khiếu nại, yêu cầu bồi thường thiệt hại,… Đồng thời, Nhà nước có trách nhiệm thực hiện những biện pháp cần thiết để bảo vệ, phục hồi môi trường, đảm bảo cho người dân được sống trong một môi trường trong lành. Có nghĩa là khi Nhà nước đã ghi nhận quyền này thì Nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo quyền đó được thực hiện trên thực tế.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, có hai phương thức để công chúng tiếp cận thông tin về môi trường nói chung, thông tin về BĐKH nói riêng:
– Thứ hai, bảo đảm quyền con người trong chính sách, pháp luật về BĐKHgắn với xây dựng quy hoạch BVMT.
Một là, các cơ quan nhà nước, các cơ sở sản xuất kinh doanh… chủ động công khai thông tin theo quy định và mọi người dân đều có thể tiếp cận những thông tin này. Đây là phương thức chủ yếu ở Việt Nam hiện nay. Đối với phương thức này, pháp luật quy định rõ những thông tin buộc phải công khai, hình thức công khai, người có trách nhiệm phải công khai[7]. Ưu điểm của phương thức này là công chúng có thể dễ dàng tiếp cận thông tin mà không phải qua những thủ tục phức tạp, tốn kém nhưng nó cũng có hạn chế là nội dung và chất lượng thông tin lại tùy thuộc vào các cơ quan nhà nước, Nhà nước công bố cái gì, dân biết cái đó.
Hai là,người dân chủ động yêu cầu cơ quan nhà nước, các cơ sở sản xuất kinh doanh cung cấp thông tin về môi trường như quyền yêu cầu cung cấp thông tin môi trường của tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, của đại diện cộng đồng dân cư[8]. Phương thức tiếp cận thông tin này hiện chưa phải là kênh tiếp cận thông tin quan trọng vì pháp luật Việt Nam giới hạn thông tin mà người dân được chủ động yêu cầu cung cấp, thủ tục yêu cầu cung cấp phức tạp (phải thông qua người đại diện cộng đồng dân cư hoặc những tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp)[9] …
– Thứ ba, bảo đảm quyền con người trong chính sách, pháp luật về BĐKHgắn với xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; các dự án đầu tư.
Trên thực tế, những quy định về quyền tiếp cận thông tin về môi trường chủ yếu ở góc độ xác định trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước, quyền tự do thông tin mang tính nguyên tắc, hơn là tính thực tiễn. Chất lượng thông tin cung cấp nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Do đó, theo chúng tôi, cần quy định rõ việc tiếp cận thông tin về môi trường là quyền của người dân, quy định rõ các loại thông tin về môi trường người dân được phép tiếp cận, cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về môi trường của người dân.
Quy hoạch BVMT giúp có một tầm nhìn dài hạn và tổng thể về BVMT, gắn kết thực sự giữa BVMT với phát triển kinh tế – xã hội; chủ động triển khai công tác BVMT, gắn BVMT với phát triển kinh tế, an sinh xã hội và là cơ sở điều chỉnh hoặc xây dựng các quy hoạch phát triển khác, đặc biệt là phát triển bền vững. Quy hoạch BVMT phải được xây dựng phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội; chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh; chiến lược BVMT quốc gia bảo đảm phát triển bền vững; quy hoạch sử dụng đất; bảo đảm nguyên tắc BVMT.
– Thứ tư, bảo đảm quyền con người trong chính sách, pháp luật về BĐKHgắn với quản lý phát thải khí nhà kính, thu hồi năng lượng từ chất thải, trong sản xuất và tiêu thụ thân thiện môi trường, trong phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực thuộc đối tượng phải lập báo cáo đánh giá môi trường chiến lược thì báo cáo đánh giá môi trường chiến lược phải thể hiện các nội dung ứng phó với BĐKH (tương tự như thế đối với dự án đầu tư thuộc đối tượng phải đánh giá tác động môi trường). Việc tích hợp nội dung ứng phó với BĐKH trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, dự án đầu tư phải dựa trên cơ sở đánh giá tác động qua lại giữa các hoạt động của chiến lược, quy hoạch, kế hoạch với môi trường, BĐKH và xây dựng hệ thống giải pháp BVMT, ứng phó với BĐKH.
Trên thực tế, việc tham vấn ý kiến trong các báo cáo đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường còn được đánh giá là “hình thức”. Các ý kiến được tham vấn có giá trị tham khảo đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc quyết định triển khai hay không thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực hay dự án đầu tư chứ không có tính chất quyết định, dẫn đến tranh chấp phát sinh. Do đó, theo chúng tôi, cần quy định rõ cách thức, đối tượng, thủ tục và giá trị của tham vấn trong thực hiện hoạt động đánh giá môi trường chiến lược và đánh giá tác động môi trường.
– Thứ năm, bảo đảm quyền con người trong chính sách, pháp luật về BĐKHgắn với hoạt động khai thác bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Cho đến nay, chúng ta chưa biết hết nguyên nhân của BĐKH, nhưng một trong những nguyên nhân chính đã được thừa nhận rộng rãi là do con người phát thải quá nhiều khí nhà kính vào bầu khí quyển, vượt quá khả năng hấp thụ những khí này của trái đất, dẫn đến làm gia tăng lượng khí nhà kính trong bầu khí quyển so với tỷ lệ tự nhiên vốn có, làm gia tăng hiện tượng hiệu ứng nhà kính và làm cho nhiệt độ trái đất tăng lên. Con người có quyền phát thải khí nhà kính nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của bản thân với quy mô nhỏ; nhưng đến mức nào đó, thì việc kiểm soát và quản lý phát thải khí nhà kính từ các hoạt động của con người là điều cần thiết. Việc quản lý phát thải khí nhà kính bao gồm xây dựng hệ thống quốc gia về kiểm kê khí nhà kính; thực hiện các hoạt động giảm nhẹ khí nhà kính phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội; quản lý bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng các – bon rừng, bảo vệ và phát triển các hệ sinh thái; kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các quy định về kiểm kê và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; hình thành và phát triển thị trường tín chỉ các – bon trong nước và tham gia thị trường tín chỉ các – bon thế giới; hợp tác quốc tế về giảm nhẹ khí nhà kính[14].
Để giảm lượng khí nhà kính phát thải vào bầu khí quyển, cần hạn chế sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên có nguồn gốc hóa thạch (tài nguyên không thể phục hồi như dầu lửa, than đá, khí đốt,…), phát triển năng lượng tái tạo (là năng lượng được khai thác từ nước, gió, ánh sáng mặt trời, địa nhiệt, sóng biển, nhiên liệu sinh học và các nguồn tài nguyên năng lượng có khả năng tái tạo khác), khuyến khích sản xuất và tiêu thụ thân thiện môi trường, thu hồi năng lượng từ chất thải, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ ứng phó với BĐKH. Hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ về ứng phó với BĐKH được ưu tiên như: phát triển ngành và liên ngành khoa học về quản lý, đánh giá, giám sát và dự báo tác động của BĐKH đối với phát triển kinh tế – xã hội, môi trường, sức khỏe cộng đồng; hoạt động điều tra, nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ hiện đại trong giảm nhẹ khí nhà kính, thích ứng với BĐKH; tăng cường sức cạnh tranh của các ngành kinh tế, sản xuất trọng điểm, phát triển nền kinh tế các – bon thấp và tăng trưởng xanh. Cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có trách nhiệm thực hiện hoặc tham gia hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ nhằm ứng phó với BĐKH[15].
Do nguồn lực về kinh tế còn hạn chế nên nguồn lực cho hoạt động BVMT nói chung và nguồn tài chính hỗ trợ trong phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ để tìm ra những nguồn nguyên liệu sạch, công nghệ ít gây ô nhiễm môi trường ở Việt Nam còn chưa tương thích. Giải quyết bài toán BĐKH phải bao gồm cả các biện pháp về chính trị, tuyên truyền giáo dục, kinh tế, khoa học công nghệ và cả pháp lý. Trên thực tế, ở Việt Nam, việc áp dụng biện pháp tuyên truyền giáo dục là phổ biến hơn các biện pháp khác. Do đó, theo chúng tôi, Nhà nước cần dành khoản chi thích hợp cho hoạt động phòng ngừa, ứng phó với BĐKH; có nhiều quy định ưu đãi về tài chính cho những chủ thể đầu tư tốt các giải pháp tiên tiến trong hoạt động phát thải.
Hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên một mặt tác động đến sự suy giảm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, mặt khác gây tác động xấu đến môi trường, gia tăng BĐKH. Tùy thuộc vào khả năng đáp ứng các nhu cầu của con người mà tài nguyên thiên nhiên được chia thành: tài nguyên vĩnh viễn (tài nguyên vô tận); tài nguyên có thể phục hồi (tài nguyên có khả năng tái tạo); tài nguyên không thể phục hồi (tài nguyên không có khả năng tái tạo)… Khai thác tài nguyên không thể phục hồi và sử dụng chúng trong các hoạt động sản xuất của con người làm gia tăng lượng khí nhà kính; khai thác tài nguyên rừng làm giảm hấp thụ khí nhà kính; trong khi khai thác tài nguyên vĩnh viễn đang là sự lựa chọn của các quốc gia trong tương lai. Do đó, khai thác bền vững các nguồn tài nguyên là hướng tiếp cận giảm thiểu BĐKH. Đối với tài nguyên vĩnh viễn, cần triệt để khai thác. Đối với tài nguyên có thể phục hồi, khai thác trong giới hạn sự phục hồi. Đối với tài nguyên không thể phục hồi, phải khai thác tiết kiệm.
Luật BVMT năm 2014 quy định hoạt động BVMT trong điều tra, đánh giá, lập quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học. Theo đó, “các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học phải được điều tra, đánh giá thực trạng, khả năng tái sinh, giá trị kinh tế để làm căn cứ lập quy hoạch sử dụng hợp lý; xác định giới hạn cho phép khai thác, mức thuế tài nguyên, phí BVMT, ký quỹ phục hồi môi trường, bồi hoàn đa dạng sinh học, bồi thường thiệt hại về môi trường, các biện pháp khác để bảo vệ tài nguyên và môi trường”[16]. Luật BVMT 2014 cũng quy định về BVMT trong điều tra cơ bản, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; BVMT trong hoạt động thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản[17]. Các quy định cụ thể được đề cập trong các văn bản pháp luật về tài nguyên thiên nhiên[18] liên qua đến các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Về nguyên tắc, khi khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các chủ thể phải có giấy phép do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Tuy nhiên, dù có hay không có giấy phép thì khi khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên, các chủ thể vẫn phải đáp ứng các yêu cầu về BVMT.
[1] Xem: Các Công ước quốc tế về BVMT, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 11.
[2] Xem: Các công ước quốc tế về BVMT, Tlđd, trang 31.
[3] Chương IV, bao gồm 9 điều (từ Điều 39 đến Điều 48).
[4] [4] Xem Điều 46 Luật BVMT năm 2014.
[6] Khoản 1, 3 Điều 46 Luật BVMT năm 2014.
[7] Điều 131 Luật BVMT năm 2014.
[8] Điều 145, 146 Luật BVMT năm 2014.
[10] Xem các Điều 8 đến Điều 12 Luật BVMT năm 2014.
[11] Khoản 8 Điều 15, Điều 21 Luật BVMT năm 2014.
[12] Điểm c khoản 3 Điều 10 Nghị định số 18/2023/NĐ-CP ngày 14/02/2023 của Chính phủ quy định về quy hoạch BVMT, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và kế hoạch BVMT.
[13] Khoản 4 Điều 12 Nghị định số 18/2023/NĐ-CP.
[14] Điều 41 Luật BVMT năm 2014.
[15] Điều 43, 44, 45 Luật BVMT năm 2014.
[16] Khoản 1 Điều 35 Luật BVMT năm 2014.
(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 4(308) – tháng 2/2023)
[17] Điều 38 Luật BVMT năm 2014.
[18] Như Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Tài nguyên nước, Luật Thủy sản, Luật Khoáng sản, Luật Đa dạng sinh học…
[19] Khoản 6 Điều 3 Luật BVMT năm 2004 ghi: “Chủ rừng là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao rừng, cho thuê rừng, giao đất để trồng rừng, cho thuê đất để trồng rừng, công nhận quyền sử dụng rừng, công nhận quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng; nhận chuyển nhượng rừng từ chủ rừng khác”.
Phân Tích Những Phương Hướng, Giải Pháp Phát Huy Nguồn Lực Con Người Việt Nam Hiện Nay?
Câu hỏi: Phân tích những phương hướng, giải pháp phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện nay?
Đáp án: Phương hướng:
Một là, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mà thực chất là chuyển từ lao dộng thủ công sang lao động cơ khí máy móc. Nó có tác dụng vừa làm thay đổi thói quen của nền sản xuất nhỏ, vừa tạo điều kiện để nâng cao mức sống nhân dân. Đồng thời nó cũng đặt ra những thách thức buộc người lao động phải phấn đấu vươn lên, nếu họ không muốn bị đào thải khỏi dây chuyền sản xuất. Có thể nói đây là môi trường tốt nhất để bồi dưỡng nguồn lực con người và đến lượt con người sẽ là yếu tố quyết định cho sự thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hai là, từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính sách xã hội, với mục đích nhằm nâng cao năng suất lao động, công bằng trong phân phối, tạo điều kiện cho người lao động học tập phấn đấu, cống hiến sức mình cho xã hội góp phần vào phát triển kinh tế đất nước.
Ba là, từng bước xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý trên cơ sở nhân dân lao động là người làm chủ kinh tế, chính trị, văn hoá tư tưởng…Do vậy, xã hội phải tạo ra những điều kiện cho người lao động tham gia tích cực vào công việc quản lý xã hội, quản lý kinh tế, quản lý nhà nứơc, thông qua đó mà họ tích cực góp tài năng, trí tuệ cho xã hội.
Một số giải pháp phát huy nguồn lực con người ở nước ta hiện nay:
Thứ nhất, trong lĩnh vực kinh tế: nhanh chóng thực hiện giao đất, giao rừng cho nông dân, tạo điều cho người người lao động làm chủ tư liệu sản xuất ở mọi thành thành phần kinh tế. Phát động nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, của địa phương, của doanh nghiệp, của đơn vị, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động trên cơ sở thực hiện phân phối công bằng, dân chủ, công khai. động viên mọi người dân bỏ vốn sản xuất kinh doanh, khai thác thế mạnh của địa phương, phát triển ngành nghề truyền thống, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy trình độ tay nghề, năng lực quản lý kinh doanh của mỗi thành viên trong xã hội để cùng với Nhà nước giải quyết những khó khăn của đất nước. Giáo dục đạo đức, khơi dậy lương tâm nghề nghiệp, nêu cao trách nhiệm của mỗi người trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Cần làm cho mọi người thấy được trách nhiệm của mình là phải lao động nghiêm túc, có chất lượng, có hiệu quả, tạo ra hàng hoá tốt, nâng cao chất lượng dịch vụ. Điều đó vừa tạo điều kiện cho xã hội phát triển, vừa là điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Phê phán mạnh mẽ thói lười biếng, làm bừa, làm ẩu, ngăn chặn làm ăn phi pháp, phi đạo lý.
Thứ hai, trong lĩnh vực chính trị: nâng cao trình độ nhận thức cho mọi người để họ có thể tham gia có hiệu quả vào các công việc của các tổ chức trong hệ thống chính trị như kiểm tra giám sát thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng để người dân thực sự là người làm chủ đất nước.
Thứ ba, trên lĩnh cực xã hội: Từng bước khắc phục đi tới loại bỏ những phong tục, tập quan lạc hậu, những quan hệ không bình đẳng, xây dựng quan hệ mới giữa người với người trên tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, trong đời sống xã hội. Xây dựng quan hệ bình đẳng, hữu nghị giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, giữa các quốc gia. Có biện pháp làm giảm dần khoảng cách chênh lệch trên mọi lĩnh vực giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng lãnh thổ. Quan tâm tới những hộ nghèo, những gia đình khó khăn, những hộ chính sách xã hội, những vùng sâu, vùng xa tạo ra cơ hội phát triển cho mọi người, làm cho mọi người dân đều được hưởng những thành quả y tế, giáo dục văn hoá…. Thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo; tập trung giải quyết việc làm cho người lao động; trên cơ sở đó, người lao động mới có điều kiện nâng cao trình độ tri thức, trình độ tay nghề, mới có môi trường rèn luyện phấn đấu, cống hiến sức mình cho đất nước, cho xã hội.
Thứ tư, trên lĩnh vực giáo dục vào đào tạo. Phải xem “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” đáp ứng như cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội và gia đình phải quan tâm tới giáo dục hơn nữa. Nội dung giáo dục phải phản ánh được những tri thức của thời đại, những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ, phải giáo dục lòng yêu nước, ý thức tự cường dân tộc, phương pháp dạy phải kích thích được tính sáng tạo của người học. Phương pháp học phải độc lập tự chủ, biết vận dụng kiến thức đã học vào giải thích và giải quyết những vấn đề thực tiễn cuộc sống đang đặt ra nhằm rút ngắn khoảng cách giữa Việt Nam và các nước trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu nhiều hơn nữa.
Thứ năm, trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, nghệ thuật: phải xem văn hoá nghệ thuật là nhằm phục vụ tốt cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; đã động viên được nhân dân tích cực tham gia trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, do đó văn hoá nghệ thuật phải tích tham gia tích cực vào sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, vì vậy phải có thái độ phê phán nghiêm khắc một số văn nghệ sĩ trí thức đi lệch hướng, chạy theo thị hiếu thấp hèn, dễ dãi của một bộ phận thanh niên thiếu giáo dục. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, phê phán những tư tưởng phản động đang tìm cách phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, “nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị, tạo nên sự thống nhất hơn nữa trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội thực dụng, chặn đà suy thoái về đạo đức, lối sống”.
Trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đòi hỏi nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ, phải nâng cao trách nhiệm của mình trong sáng tác, biểu diễn, không vì đồng tiền mà bán rẽ lương tâm, vô trách nhiệm với đất nước.
Phải tăng cường hơn nữa công tác quản lý của Nhà nước trong hoạt động sáng tác, biểu diễn làm cho văn học nghệ thuật phải trở thành vũ khí, phương tiện cổ vũ cho cái hay, cái đẹp, góp phần xây dựng lối sống lành mạnh, nâng cao những giá trị nhân văn, phát huy những giá trị tốt đẹp trong con người Việt Nam.
Cập nhật thông tin chi tiết về Quyền Con Người Ở Việt Nam Hiện Nay trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!