Bạn đang xem bài viết Quy Luật Thay Thế Các Kiểu Nhà Nước Theo Quan Niệm Của Chủ Nghĩa Mác được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
44975
Kiểu nhà nước là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản,đặc thù của nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại và phát triển của nhà nước trong 1 hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Quy luật thay thế các kiểu nhà nước theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Nguyên nhân sâu xa của sự thay thế kiểu nhà nước
Sự thay thế các kiểu nhà nước trong lịch sử mang tính quy luật
Quy luật thứ nhất của sự thay thế các kiểu nhà nước là tính tất yếu khách quan
Quy luật thứ 2 của sự thay thế các kiểu nhà nước là kiểu nhà nước mới thay thế kiểu nhà nước cũ thông qua các cuộc cách mạng xã hội
Quy luật thứ 3 của sự thay thế các kiểu nhà nước là kiểu nhà nước mới bao giờ cũng ưu việt và tiến bộ hơn kiểu nhà nước cũ bị thay thế
Quy luật thứ 4 của sự thay thế các kiểu nhà nước là tính kế thừa
2. Nguyên nhân sâu xa của sự thay thế kiểu nhà nước
Mầm mống của mỗi sự thay thế đều nằm trong lòng chế độ cũ. Khi hạt giống đó phát triển đến một mức nhất định, giai cấp cầm quyền cũ bị lật đổ và giai cấp mới giành được chính quyền thông qua 1 cuộc cách mạng xã hội. Giai cấp mới giành được chính quyền, về cơ bản tiến bộ hơn so với giai cấp cũ nhưng vẫn kế thừa những ưu điểm của giai cấp cũ.
3. Sự thay thế các kiểu nhà nước trong lịch sử mang tính quy luật
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin trong phép duy vật biện chứng thì quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp đi lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của sự vật hiện tượng.nói sự thay thế các kiểu nhà nước có tính quy luật bởi kiểu nhà nước mới thay thế kiểu nhà nước cũ đều lặp lại những đặc điểm,dấu hiệu chung mà sự thay thế nào cũng có.
a) Quy luật thứ nhất của sự thay thế các kiểu nhà nước là tính tất yếu khách quan
Đây là 1 biểu hiện quan trọng của quy luật phát triển và thay thế các hình thái kinh tế xã hội trong thượng tầng chính trị pháp lý. Xét theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin trong phép duy vật biện chứng thì 1 hình thái kinh tế xã hội là 1 sự vật khách quan còn lực lượng sản xuất là mặt nội dung và quan hệ sản xuất là hình thức của hình thái kinh tế xã hội. Quan hệ sản xuất biến đổi chậm hơn,lúc đầu quan hệ sản xuất còn là thích hợp cho lực lượng sản xuất. Nhưng do lực lượng sản xuất biến đổi nhanh hơn nên sẽ đến lúc quan hệ sản xuất lạc hậu hơn so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sẽ trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển.Để mở dường cho lực lượng sản xuất phát triển, con người phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất. Sự thay đổi của phương thức sản xuất là 1 điều khách quan bởi bản thân quan hệ sản xuất là 1 sự vật,mang tính tất yếu là do sự phát triển của lực lượng sản xuất là không ngừng,con người ngày càng phát triển và nhận thức sâu sắc hơn về thế giới khách quan.
Trong suốt quá trình lịch sử thế giới đã có 4 kiểu nhà nước ra đời và thay thế nhau,đều do sự ra đời và thay thế các hình thái kinh tế xã hội.
Nhà nước chủ nô là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử, ra đời trên cơ sở tan rã của chế độ thị tộc,bộ lạc,gắn liền với chế độ tư hữu và phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng. Quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ được xây dựng dựa trên cơ sở chế độ chiếm hữu của chủ nô đối với toàn bộ tư liệu sản xuất và người nô lệ. Nô lệ không có tư liệu sản xuất, bị coi là tài sản của chủ nô, vì vậy bị bóc lột rất tàn nhẫn và phải phục tùng vô điều kiện những ý muốn của chủ nô. Sự bóc lột không có giới hạn đó làm cho mâu thuẫn chủ nô và nô lệ ngày càng gay gắt. Nô lệ không muốn bị bóc lột,họ đứng lên đấu tranh chống lại chủ nô. Mặt khác,giai cấp chủ nô cũng nhận thấy không thể duy trì quan hệ sản xuất cũ. Họ giải phóng nô lệ, giao đất canh tác cho họ và thu thuế trên những vùng đất đó. Chính điều đó đã dẫn đến sự chuyển hoá dần từ phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ sang phương thức sản xuất phong kiến.Nhà nước chiếm hữu nô lệ dần bị diệt vong và thay vào đó là nhà nước phong kiến.
Cơ sở kinh tế của nhà nước phong kiến là quan hệ sản xuất phong kiến đặc trưng bằng chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu là ruộng đất và 1 phần sức lao động của nông dân. Nông dân không có ruộng đất,phải làm thuê cho địa chủ và nộp tô thuế. Sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất và các cuộc phát kiến địa lí đem lại nguồn của cải lớn về Châu Âu. Trên cơ sở đó,công cuộc tích luỹ tư bản được tiến hành, hình thành 2 giai cấp mới tư sản và vô sản.Giai cấp tư sản đang lên,có vị thế kinh tế nhưng lại bị chế độ phong kiến và giáo hội cùng quan hệ sản xuất phong kiến kìm hãm. Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và chế độ phong kiến ngày càng gay gắt,họ đứng lên đấu tranh.hình thái kinh tế xã hội phong kiến dần bị thay thế bởi hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa và nhà nước tư sản ra dời thay thế nhà nước phong kiến.
Cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản là các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa,chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về tư kiệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư.người nông dân, công nhân vẫn tự do,và về hình thức vẫn bình đẳng với chủ. Tuy nhiên,do không có tư liệu sản xuất,người công nhân phải làm thuê và kết quả,họ vẫn lệ thuộc vào nhà tư sản. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở thời kì đầu là những quan hệ sản xuất tiến bộ so với quan hệ sản xuất phong kiến, tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Nhưng do được xây dựng dựa trên cơ sở tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư, khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, những quan hệ đó đã trở nên mâu thuẫn,không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển đến 1 trình độ xã hội hoá rất cao. Mâu thuẫn này ngày càng gay gắt,đòi hỏi phải có 1 cuộc cách mạng để xoá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thiết lập 1 quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là kiểu quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất sẽ dẫn đến sự thay thế hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa tư bản sang xã hội chủ nghĩa và sự thay thế kiểu nhà nước tư sản bằng kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
b) Quy luật thứ 2 của sự thay thế các kiểu nhà nước là kiểu nhà nước mới thay thế kiểu nhà nước cũ thông qua các cuộc cách mạng xã hội
Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng kiểu nhà nước khác tiến bộ hơn là 1 quy luật tất yếu. Tuy nhiên, giai cấp thống trị đại diện cho phương thức sản xuất cũ không bao giờ chịu rời bỏ quyền lực nhà nước,do vậy giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới phải tập trung lực lượng đấu tranh cho họ. Như vậy sự thay thế các kiểu nhà nước chỉ được diễn ra thông qua con đường là các cuộc cách mạng.1 kiểu nhà nước mới xuất hiện trong quá trình cách mạng khi giai cấp cũ bị lật đổ và giai cấp thống trị mới giành được chính quyền.
Vào giai đoạn cuối của chế độ chiếm hữu nô lệ.Ở phương Tây, đế quốc Rôma lâm vào tình trạng khủng hoảng.Từ thế kỉ III,những cuộc đấu tranh của nô lệ làm cho sản xuất bị giảm sút,đình đốn. Người Giéc-man là 1 bộ tộc lớn sinh sống ở phía Bắc và Đông Bắc Rôma từ nhiều thế kỉ trước công nguyên,đến thế kỉ IV do sự tấn công của người Hung nô vào khu vực Đông và Nam Âu,các bộ lạc người Giéc-man ồ ạt xâm nhập vào lãnh thổ Rôma.Năm 476,đế chế Rôma sụp đổ, chế độ chiếm nô kết thúc, xã hội của người Giéc-man bước vào quá trình phong kiến hoá.Ở phương Đông, chế độ chiếm nô tuy không rõ ràng, nhưng cũng đã xuất hiện ở Trung Quốc từ thiên niên kỉ III TCN từ thời nhà Hạ.Trải qua các thời kì Xuân Thu-Chiến Quốc,đến năm 221 TCN, nhà Tần là nước lớn mạnh hơn cả đã thông nhất Trung Quốc, xác lập chế độ phong kiến.
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất cùng với thành quả của các cuộc phát kiến địa lí ở Châu Âu làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện, mâu thuẫn với quan hệ sản xuất phong kiến.giai cấp tư sản đã tiến hành các cuộc cách mạng chống lại nhà nước phong kiến: cách mạng Hà Lan (1566), cách mạng tư sản Anh (1649).Và với đỉnh cao là cách mạng tư sản Pháp (14/7/1789), chế độ phong kiến lung lay khắp Châu Âu. Đến giữa thế kỉ XIX,chủ nghĩa tư bản đã xác lập trên toàn Châu Âu.Ở Châu Á,Nhật Bản là nước duy nhất tiến hành cách mạng tư sản thông qua cuộc Duy tân Minh Trị năm 1868.
Tính đến nay,sự tồn tại của nhà nước tư sản đã mang lại cho văn minh nhân loại nhiều tiến bộ lớn,nhưng do tồn tại trên cơ sở tư hữu về tư liệu sản xuất,các nhà tư sản nước tư sản vẫn không thể thoát khỏi những hạn chế của nó, tức là sự thống trị của 1 số ít nắm quyền lực về kinh tế, vẫn còn tình trạng người bóc lột người.Chính vì vậy,việc thay thế nhà nước tư sản bằng 1 kiểu nhà nước mới tiến bộ hơn vẫn là 1 xu thế lịch sử. Với thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 10 Nga,lần đầu tiên trong lịch sử, chủ nghĩa xã hội được thiết lập,kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời. Tiếp đó.nhà nước xã hội chủ nghĩa được hình thành ở Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên,Lào, Cu Ba thông qua các cuộc cách mạng như cách mạng tháng 8/1945 ở Việt Nam. Hiện nay nhà nước xã hội chủ nghĩa mới chỉ xuất hiện ở 1 số nước,có mầm mống ở 1 số nước Mỹ la tinh, nhưng trong tương lai sẽ là kiểu nhà nước tiến bộ nhất và tồn tại trên khắp thế giới. Sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ tiêu vong và không còn tồn tại kiểu nhà nước nào nữa.
c) Quy luật 3 của sự thay thế các kiểu nhà nước là kiểu nhà nước mới bao giờ cũng ưu việt và tiến bộ hơn kiểu nhà nước cũ bị thay thế
Theo quan điểm của chủ nghĩa mác-Lênin thì sự thay thế các kiểu nhà nước tuân theo nguyên lý của sự phát triển. Nhà nước mới bao giờ cũng đại diện cho phương thức sản xuất mới,dựa trên phương thức sản xuất mới và thúc sự phát triển của phương thức sản xuất mới.Đó là sự hoàn thiện trong quá trình phát triển của các kiểu nhà nước.Nhà nước chiếm nô là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử,ra dời và phát triển dựa trên quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ.Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và hình thái kinh tế xã hội,kiểu nhà nước phong kiến ra dời thay thế nhà nước chủ nô.
Vì là đại diện cho phương thức sản xuất mới nên nhà phong kiến có nhiều điểm tiến bộ hơn nhà nước chủ nô.Sự xuất hiện của nó đánh dấu 1 bước phát triển mới của xã hội loài người, nó đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội mà đặc biệt là xoá bỏ ách nô lệ cho những người lao động, nâng cao năng suất lao động xã hội.hình thức bóc lột của nhà nước phong kiến tinh vi hơn,đỡ tàn bạo hơn nhà nước chủ nô. Nông dân đã có kinh tế riêng, có 1 số quyền công dân,có thể lập gia đình riêng. Về chức năng,hình thức, bộ máy nhà nước phong kiến tiến bộ hơn, tổ chức chặt chẽ,hình thức đa dạng hơn.
Nhà nước tư sản là kiểu nhà nước hoàn thiện nhất trong lịch sử các kiểu nhà nước bóc lột. So với quan hệ sản xuất phong kiến, nông dân, công nhân được tự do,về hình thức bình đẳng với chủ như những công dân. Tuy nhiên,do không có tư liệu sản xuất,họ vẫn bị lệ thuộc vào giai cấp tư sản. Hình thức bóc lột của giai cấp tư sản với giai cấp vô sản tinh vi và vô hình hơn.Xét về mặt lịch sử,nhà nước tư sản với những thể chế dân chủ là 1 tiến bộ lớn so với nhà nước phong kiến, đặc biệt trong thời kì đầu đã xác lập những thể chế dân chủ nghị viện, quyền tự do dân chủ,phổ thông đầu phiếu… Nhưng sau đó,các quyền tự do dân chủ ngày càng bị thu hẹp. Nhà nước tư sản cũng rất đa dạng về hình thức do sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế,tương quan lực lượng giữa các giai cấp và mức độ mâu thuẫn giữa chúng.
Tuy là kiểu nhà nước hoàn chỉnh hơn nhưng nhà nước tư sản vẫn có bản chất là nhà nước bóc lột.Và tuân theo quy luật tất yếu của lịch sử,nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời. Đây là kiểu nhà nước ưu việt ,tiến bộ nhất và là kiểu nhà nước cuối cùng. Tính ưu việt tiến bộ nhất của nó được thể hiện trên mọi mặt. Với cơ sở kinh tế là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà đặc trưng là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, lao động là nghĩa vụ của tất cả các thanh viên trong xã hội,thực hiện nguyên tắc phân phối theo số lượng và chất lượng lao động. Các thành viên trong xã hội hoàn toàn bình đẳng trong sở hữu về tư liệu sản xuất,trong lao động và trong hưởng thụ. Nền tảng xã hội là liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân,do dân,vì dân,dân chủ là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
d) Quy luật thứ 4 của sự thay thế các kiểu nhà nước là tính kế thừa
Nhà nước mới ra đời không bao giờ đập tan hoàn toàn kiểu nhà nước cũ mà bao giờ cũng kế thừa những mặt,những yếu tố tích cực của nhà nước cũ còn phù hợp với nó.
Nhà nước phong kiến ra dời trên cơ sở kế thừa rất nhiều yếu tố của nhà nước chiếm nô. Quan hệ sản xuất phong kiến xây dựng dựa trên cơ sở chiếm hữu về tư liệu sản xuất bởi nó phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất lúc bấy giờ. Về chức năng,nhà nước phong kiến cũng kế thừa nhà nước chủ nô như bảo vệ chế độ sở hữu của giai cấp thống trị,trấn áp nhân dân lao động. Nhà nước phong kiến cũng tiến hành chiến tranh để mở rộng lãnh thổ như nhà nước chủ nô. Về hình thức thì nhà nước phong kiến vẫn là chính thể quân chủ,bộ máy nhà nước mang tính quân sự, tập trung, quan liêu, Về pháp luật,nhà nước phong kiến vẫn duy trì hình thức chủ yếu là tập quán pháp.
Cũng theo quy luật kế thừa đ,nhà nước tư sản ra đời trên cơ sở kế thừa những điểm của nhà nước phong kiến phù hợp với mình. Đó là bản chất bóc lột,chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, sự áp bức thống trị của thiểu số người với đa số nhân dân. Về đối ngoại, nhà nước tư sản cũng âm mưu nô dịch các dân tộc khác,Về hình thức thì nhà nước tư sản kế thừa chế độ quân chủ ở 1 chừng mực nhất định, đó là chế độ quân chủ lập hiến.
Cũng ra dời và thay thế nhà nước tư sản theo quy luật kế thừa,nhưng nhà nước xã hội chủ nghĩa với bản chất chuyên chính vô sản, 1 nhà nước của dân, do dân, vì dân, đã xoá bỏ tất cả những quan hệ bóc lột cùng chế độ tư hữu về lực lượng sản xuất, chỉ kế thừa những yếu tố tiến bộ tích cực với mục đích của cuộc cách mạng vô sản. Giai cấp vô sản kế thừa bộ máy nhà nước cũ, cải tạo và phục vụ cho mục đích của mình, cải tạo và kế thừa các cơ sở kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, kế thừa các quan điểm nhân quyền, tự do dân chủ trong các tuyên ngôn độc lập của Mỹ, Pháp. Về hình thức pháp luật, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng kế thừa yếu tố tích cực của pháp luật tư sản như xây dựng hiến pháp …
Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng kiểu nhà nước khác trong lịch sử là một quy luật tất yếu,khách quan của lịch sử. Mặc dù hiện nay, sự thay thế này diễn ra chưa hoàn toàn bởi nhà nước xã hội chủ nghĩa chưa được thiết lập trên toàn thế giới nhưng trong tương lai,nhà nước tư sản sẽ tiêu vong,nhà nước xã hội chủ nghĩa – kiểu nhà nước tiến bộ nhất và là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử sẽ được xác lập trên toàn thế giới. Và sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ tiêu vong,sau đó sẽ không còn một kiểu nhà nước nào khác nữa.
Kiểu Nhà Nước Chủ Nô Là Gì ? Tìm Hiểu Về Kiểu Nhà Nước Chủ Nô
Kiểu nhà nước chủ nô là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, ra đời trên sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thủy gắn liền với sự xuất hiện sở hữu tư nhân và sự hình thành những giai cấp đầu tiên – giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ.
Nhà nước chủ nô xuất hiện đầu tiên trên thế giới là Nhà nước Ai Cập cổ đại xuất hiện vào khoảng bốn nghìn năm trước Công nguyên, Nhà nước Xume (Sumer) cổ đại (vùng vịnh Pecxich) xuất hiện vào khoảng 2000 năm trước Công nguyên. Nhà nước Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại cũng xuất hiện vào khoảng 2000 năm trước Công nguyên. Cơ sở kinh tế – xã hội của nhà nước chủ nô là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ dựa trên chế độ sở hữu tư nhân của chủ nô về tư liệu sản xuất và nô lệ. Xã hội chiếm hữu nô lệ có hai giai cấp cơ bản và có sự mâu thuẫn đối kháng là chủ nô và nô lệ. Nô lệ được coi là công cụ biết nói và là một thứ hàng hoá mà chủ nô có thể mua bán trên thị trường. Xét về bản chất thì nhà nước chủ nô là bộ máy chuyên chính của giai cấp chủ nô, là công cụ thiết lập và bảo vệ quyền lực của giai cấp chủ nô, đồng thời, là bộ máy trấn áp giai cấp nô lệ và những người lao động tự do trong xã hội. Bộ máy của nhà nước chủ nô chủ yếu là bộ máy quân sự và cảnh sát. Phần lớn, các nhà nước chủ nô chưa có sự phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước.
Ở các nước phương Đông, hình thức chính thể của nhà nước chủ nô phổ biến là hình thức quân chủ chuyên chế với quyền lực vô hạn của vua hay quốc vương, hoàng đế. Ở Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại, hình thức nhà nước phong phú hơn. Ngoài hình thức quân chủ chuyên chế, ở La Mã còn tồn tại hình thức cộng hòa quý tộc, ở Aten (Hy Lạp) còn có hình thức cộng hòa dân chủ mà ở đây đại hội nhân dân được coi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Tên Các Cơ Quan Nhà Nước Bằng Tiếng Anh Theo Quy Định Của Bộ Ngoại Giao
Tên các cơ quan nhà nước bằng tiếng Anh theo thông tư số 03/2009/TT-BNG của Bộ Ngoại Giao về hướng dẫn dịch quốc hiệu, tên các cơ quan, đơn vị và chức danh lãnh đạo, cán bộ công chức trong hệ thống chính quyền Nhà nước sang tiếng Anh để giao dịch đối ngoại. Tên các cơ quan nhà nước bằng tiếng Anh giúp cho biên dịch tiếng Anh nhà chóng tìm ra cụm từ tiếng Anh nhanh chóng và chính xác.
Tên các cơ quan nhà nước bằng tiếng Anh thông tư số 03/2009/TT-BNG
-. Quốc hiệu, chức danh Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước
-. Tên của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang bộ
-. Tên của các Cơ quan thuộc Chính phủ
-. Chức danh Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
-. Văn phòng Chủ tịch nước và chức danh Lãnh đạo Văn phòng
-. Tên chung của các đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang bộ
-. Chức danh từ cấp Thứ trưởng và tương đương đến Chuyên viên các Bộ, cơ quan ngang Bộ.
-. Chức danh của Lãnh đạo các Cơ quan thuộc Chính phủ
-. Tên của các đơn vị và chức danh Lãnh đạo của các đơn vị cấp tổng cục (Tổng cục, Ủy ban …)
-. Tên thủ đô, thành phố, tỉnh, quận, huyện, xã và các đơn vị trực thuộc
-. Chức danh lãnh đạo, cán bộ công chức chính quyền địa phương các cấp
11 mục về tên các cơ quan nhà nước bằng tiếng Anh
1. Quốc hiệu, chức danh Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước
Tên tiếng Việt Tên tiếng Anh Viết tắt (nếu có)2. Tên của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang bộ
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Government of the Socialist Republic of Viet Nam GOV* Ghi chú: – Danh từ “Viet Nam” tiếng Anh chuyển sang tính từ là “Vietnamese” – “Người Việt Nam” dịch sang tiếng Anh là “Vietnamese” – Sở hữu cách của danh từ “Viet Nam” là “Viet Nam’s”
3. Tên của các Cơ quan thuộc Chính phủ
Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh Ho Chi Minh Mausoleum Management HCMM4. Chức danh Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
5. Văn phòng Chủ tịch nước và chức danh Lãnh đạo Văn phòng
Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước
Chairman/Chairwoman of the Office of the President
Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước
Vice Chairman/Chairwoman of the Office of the President
Trợ lý Chủ tịch nước
Assistant to the President
6. Tên chung của các đơn vị thuộc Bộ, cơ quan ngang bộ
7. Chức danh từ cấp Thứ trưởng và tương đương đến Chuyên viên các Bộ, cơ quan ngang Bộ
8. Chức danh của Lãnh đạo các Cơ quan thuộc Chính phủ
9. Tên của các đơn vị và chức danh Lãnh đạo của các đơn vị cấp tổng cục (Tổng cục, Ủy ban …)
10. Tên thủ đô, thành phố, tỉnh, quận, huyện, xã và các đơn vị trực thuộc
11. Chức danh lãnh đạo, cán bộ công chức chính quyền địa phương các cấp
Nhận Thức Và Giải Quyết Mối Quan Hệ Giữa Tuân Theo Các Quy Luật Của Kinh Tế Thị Trường Và Bảo Đảm Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa
1. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu trong đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta gần 35 năm qua. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng ngày càng rõ và đầy đủ hơn. Đến nay, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây dựng được xác định là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với trình độ phát triển đất nước trong từng giai đoạn, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân trong nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Các quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, tự do lưu thông được pháp luật bảo vệ. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Thị trường, với sự tác động của các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, là yếu tố chủ yếu quyết định giá cả hàng hóa, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa; tạo động lực phát triển và điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc doanh nghiệp yếu kém. Nhà nước quản lý kinh tế bằng luật pháp, chính sách, các tiêu chuẩn, định mức, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng lực lượng kinh tế của mình (gồm các nguồn lực thuộc sở hữu nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước) để tạo khung khổ pháp luật, môi trường công khai, minh bạch, thuận lợi cho các chủ thể kinh tế, các thị trường hoạt động, cho sản xuất và lưu thông; khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường; đồng thời, thúc đẩy và định hướng phát triển kinh tế, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường. Phân phối được thực hiện theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn và các nguồn lợi khác vào hoạt động kinh tế và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường được bảo đảm bởi vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, được thể hiện ở hệ thống luật pháp, chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để tạo ra môi trường kinh doanh công khai, minh bạch, thuận lợi, tạo động lực phát triển kinh tế nhanh, bền vững; gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế; thể hiện ở quan hệ phân phối để mọi người đều được hưởng thành quả phát triển đất nước, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nhận thức, quan điểm của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thể chế hóa thành luật pháp, chính sách, các chiến lược, chương trình, kế hoạch của nhà nước, được thực hiện đạt kết quả, thành tựu to lớn. Đến nay, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta đã có đầy đủ các yếu tố của nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế theo thông lệ quốc tế, đồng thời các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được củng cố, tăng cường; kinh tế đất nước đạt tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian dài, cơ cấu và trình độ công nghệ thay đổi tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp, đời sống nhân dân được cải thiện, uy tín quốc tế của đất nước được nâng cao.
2. Tuy vậy, từ nhiều năm trước và đến ngày nay, vẫn có một số người, cả ở trong nước và ngoài nước, vì nhiều lý do, nhiều động cơ khác nhau, vẫn cho rằng không có nền kinh tế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế thị trường, các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau; ghép định hướng xã hội chủ nghĩa vào kinh tế thị trường là sự gán ghép chủ quan duy ý chí, không có cơ sở khoa học, không thuyết phục, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn; nếu bỏ, không có cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” thì kinh tế đất nước còn phát triển nhanh hơn, kết quả đạt được còn lớn hơn. Do đó, mặc dù Việt Nam có nhiều nỗ lực tuyên truyền, vận động, nhưng nhiều nước vẫn chưa công nhận kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường để được hưởng các quy chế ưu đãi trong quan hệ kinh tế với các nước.
Họ còn cho rằng: một mặt, Nhà nước ta chủ trương phát triển kinh tế thị trường, phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng các hình thức sở hữu; doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật, nhưng mặt khác lại xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể là nền tảng của nền kinh tế thì như vậy là có phân biệt đối xử, không thể bình đẳng, do đó, không thể có kinh tế thị trường thật sự, kinh tế thị trường theo thông lệ quốc tế. Hơn nữa, Nhà nước ta lại xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển thành các tổng công ty, tập đoàn kinh tế mạnh, hoạt động cả trong nước và ngoài nước thì nền kinh tế thị trường sẽ phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, như các nước tư bản khác, chứ không phải phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ là chủ quan, duy ý chí hay là tự lừa dối chính mình, lừa dối người khác mà thôi…
Những luận điệu như vậy không phải là không có tác động đến cán bộ, đảng viên, nhân dân, làm một số người băn khoăn, ảnh hưởng xấu đến sự thống nhất nhận thức, tư tưởng trong Đảng và trong xã hội; làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; ảnh hưởng tới việc thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, cần phải được đấu tranh, phản bác.
3. Sai lầm của những người cho rằng không thể có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thứ nhất, là do họ đã đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế thị trường chủ nghĩa tư bản, cho rằng, chỉ có một loại kinh tế thị trường là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Song, thực chất các quan hệ kinh tế thị trường và các quan hệ tư bản là hoàn toàn khác nhau. Nguồn gốc và bản chất của kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa; các phạm trù giá trị, giá cả, hàng hóa, tiền tệ, các quy luật cạnh tranh, cung cầu, quy luật giá trị của kinh tế hàng hóa cũng là các phạm trù và quy luật của kinh tế thị trường. Các phạm trù, quy luật này có trước chủ nghĩa tư bản, được chủ nghĩa tư bản nắm lấy, sử dụng để phát triển thành kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Giá trị và tư bản là những phạm trù khác nhau, cũng như quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư là những quy luật khác nhau.
Thứ hai, sai lầm của những người này là dường như cho rằng kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa từ khi ra đời đến nay là không thay đổi, “nhất thành, bất biến”. Họ không thấy rằng trải qua thời gian, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa cũng có nhiều biến đổi. Thời kỳ đầu khi mới ra đời, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, chưa có sự can thiệp của nhà nước. Sự điều tiết của “bàn tay vô hình” của thị trường đã đưa đến nhiều hiệu quả tiêu cực, đặc biệt là các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ, đòi hỏi phải có bàn tay quản lý của nhà nước để hạn chế, khắc phục những khuyết tật do điều tiết tự phát của cơ chế thị trường. Ngày nay, nền kinh tế thị trường hiện đại của các nước tư bản phát triển trên thế giới đều là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, vừa có điều tiết bởi “bàn tay vô hình” của thị trường, vừa có điều tiết bằng “bàn tay hữu hình” của nhà nước; trong đó, điều tiết thị trường là cơ sở, nền tảng, điều tiết của nhà nước trên cơ sở tôn trọng điều tiết của thị trường (Công cụ quản lý, điều tiết kinh tế của nhà nước là luật pháp, chính sách và các nguồn lực kinh tế của nhà nước).
Hơn nữa, kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước ở các nước trên thế giới không phải hoàn toàn giống nhau, mà có nhiều mô hình khác nhau, tùy thuộc vào mức độ can thiệp và nội dung, định hướng can thiệp của nhà nước. Có mô hình kinh tế thị trường tự do ở những nước mức độ can thiệp của nhà nước vào kinh tế thấp; nhà nước chỉ bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản, tự do kinh doanh, bảo đảm trật tự, ổn định xã hội, còn để phạm vi điều tiết của thị trường lớn, điều tiết mọi hoạt động kinh tế (như Mỹ trước thời Tổng thống D.Trump). Có mô hình kinh tế thị trường xã hội ở nước mà nhà nước can thiệp vào nền kinh tế để tạo cơ hội như nhau cho mọi người tham gia vào phát triển và hưởng thành quả phát triển, chống lại độc quyền, phát triển kinh tế theo định hướng xã hội (như Đức). Có mô hình kinh tế thị trường phúc lợi xã hội ở nước mà nhà nước can thiệp vào nền kinh tế để điều tiết thu nhập, phát triển các dịch vụ xã hội công, bảo đảm phúc lợi cho người dân, đặc biệt những người cần được trợ giúp: trẻ em, người già, người thất nghiệp… (như các nước Bắc Âu). Có mô hình kinh tế thị trường nhà nước phát triển ở nước mà nhà nước không chỉ tạo thể chế, môi trường cho các chủ thể kinh tế hoạt động, mà còn có chiến lược, chính sách và sử dụng các nguồn lực kinh tế của nhà nước để định hướng và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế (như Nhật Bản, Hàn Quốc)…
Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại. Chủ nghĩa tư bản đã lấy kinh tế thị trường làm cơ sở cho sự tồn tại, vận động, phát triển của mình. Trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế thị trường ở các nước tư bản phát triên, dù ở mức độ khác nhau, đều có định hướng xã hội. Đây là xu hướng tiến bộ, là những mầm mống của chủ nghĩa xã hội trong lòng chủ nghĩa tư bản (là những sự phủ định đối với tư bản tư nhân, dù vẫn chưa phá bỏ được chế độ tư bản). Do tính chất của thời đại, ngày nay, một nước kinh tế chưa phát triển, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, cũng có thể quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước này, sử dụng cả kinh tế thị trường và cả kinh tế tư bản chủ nghĩa để xây dựng nền tảng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
– Về sai lầm của luận điểm cho rằng các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn đối lập, loại trừ nhau.
Là một nền kinh tế thị trường thì phải vận hành theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đó là các quy luật cạnh tranh, quy luật cung – cầu, quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, trong đó trung tâm là quy luật giá trị. Đặc trưng của kinh tế thị trường là cạnh tranh. Các doanh nghiệp (dùng doanh nghiệp để chỉ chung cho tất cả các chủ thể kinh tế) luôn phải cạnh tranh với nhau để chiếm được các nguồn lực sản xuất (đất đai, tài nguyên, vốn, lao động, khoa học công nghệ…), các dự án đầu tư, chiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cạnh tranh là sức ép, động lực thúc đẩy các doanh nghiệp năng động, sáng tạo, cải tiến quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh hợp lý; ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ; đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm; tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh; qua đó, thúc đẩy kinh tế phát triển, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Quy luật cạnh tranh là mạnh được, yếu thua. Đây là mặt tích cực của cạnh tranh. Nhưng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng dẫn đến những hậu quả tiêu cực: khai thác tối đa sức lực người lao động (kéo dài giờ làm, tăng cường độ lao động), giảm chi phí cho lao động (giảm lương, giảm bảo hộ lao động); khai thác cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường; sử dụng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, như: làm hàng giả, kém chất lượng, ăn cắp công nghệ, buôn lậu, trốn thuế, phá hoại đối thủ… Trong nền kinh tế thị trường có quản lý của nhà nước ở các nước trên thế giới, nhất là ở các nước phát triển hiện nay, nhà nước tạo khung khổ pháp luật cho cạnh tranh; bảo vệ, tôn trọng, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh; nhưng, đồng thời, ngăn ngừa, hạn chế độc quyền cản trở cạnh tranh và chống lại các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh.
Lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế thị trường (cả hàng hóa là yếu tố đầu vào của sản xuất và hàng hóa là sản phẩm do sản xuất tạo ra) được điều tiết bởi quy luật cung – cầu. Khi cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ giảm xuống; khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ tăng lên. Sự tăng lên hay giảm xuống của giá cả hàng hóa là tín hiệu của thị trường để những người kinh doanh thương mại chuyển hàng hóa từ nơi có giá thấp đến nơi có giá cao, từ nơi thừa đến nơi thiếu; để các nhà sản xuất thu hẹp hay dừng sản xuất các hàng hóa thừa, cung lớn hơn cầu, tăng cường, mở rộng sản xuất các hàng hóa thiếu, cung nhỏ hơn cầu. Đây chính là sự điều tiết sản xuất và lưu thông một cách tự động, linh hoạt, nhanh nhạy của cơ chế thị trường, là mặt tích cực của quy luật cung – cầu. Nhưng, trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, những người sản xuất và lưu thông đều chạy theo lợi nhuận tối đa, luôn muốn đè bẹp đối thủ, lại không xác định được tổng cầu của xã hội (từ người sản xuất đến người tiêu dùng phải qua rất nhiều khâu trung gian), nên thường xuyên sản xuất thừa, dẫn đến những cuộc khủng hoảng chu kỳ, phá hoại nền kinh tế, gây bất ổn xã hội. Đây là mặt trái của quy luật cung – cầu, của cơ chế tự điều tiết của thị trường. Trong nền kinh tế thị trường có quản lý của nhà nước, nhà nước có khả năng thấy rõ hơn từng người sản xuất kinh doanh về tổng cung, tổng cầu của xã hội; sự can thiệp của nhà nước là để khắc phục khiếm khuyết này, khắc phục những mất cân đối lớn, những cuộc khủng hoảng chu kỳ do điều tiết tự phát của cơ chế thị trường gây ra.
Quy luật giá trị là quy luật cơ bản, trung tâm của kinh tế thị trường. Giá trị hàng hóa là lao động xã hội cần thiết kết tinh trong hàng hóa. Chi phí để sản xuất hàng hóa, xét đến cùng, là chi phí lao động, bao gồm lao động của người trực tiếp sản xuất ra hàng hóa (lao động sống) và lao động chi phí để sản xuất ra các tư liệu sản xuất được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa này (lao động quá khứ). Về lượng giá trị, không phải mọi hao phí lao động cá biệt của những người sản xuất hàng hóa đều được xã hội thừa nhận để trở thành giá trị, chỉ những hao phí lao động ở mức trung bình xã hội, được hình thành do cạnh tranh, được xem là hao phí lao động xã hội cần thiết, mới là lượng giá trị. Giá trị biểu hiện ra bên ngoài thành giá cả, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá trị là hình thái của cải trong nền kinh tế thị trường, là mục tiêu, là yếu tố chi phối mọi hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế thị trường.
Trong kinh tế thị trường, đối với người sản xuất, việc sản xuất hàng hóa nào chỉ là phương tiện để làm giàu, để thu được nhiều giá trị nhất. Trong sản xuất, họ năng động, sáng tạo, cải tiến, đổi mới… là để nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, để chi phí sản xuất của họ thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, qua đó thu được nhiều giá trị hơn. Đối với người lưu thông hàng hóa cũng vậy, mua và bán hàng hóa gì đối với họ không quan trọng, vấn đề cũng là để thu được nhiều giá trị nhất, để làm giàu. Họ năng động, sáng tạo, nắm bắt kịp thời yêu cầu của thị trường, đưa hàng hóa từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu, từ nơi giá thấp đến nơi giá cao; cải tiến quản lý để giảm chi phí lưu thông… cũng để thực hiện mục đích này. Đây là cách thức vận hành của quy luật giá trị, cách thức vận hành đó gắn bó chặt chẽ với quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu; có thể nói các quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu là những hình thức biểu hiện, cách thức vận hành của quy luật giá trị. Tác động của quy luật giá trị bao gồm những tác động của quy luật cạnh tranh và quy luật cung cầu (tất nhiên, quy luật giá trị còn có nội dung rộng hơn hai quy luật này), cả những tác động tích cực, như: thúc đẩy năng động, sáng tạo, không ngừng cải tiến quản lý, đổi mới công nghệ… thúc đẩy kinh tế phát triển; điều tiết sản xuất, lưu thông một cách nhanh nhạy… và cả những hậu quả tiêu cực, như: khủng hoảng chu kỳ, phân hóa xã hội, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường… Trong các nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế là để tạo khung khổ pháp luật và điều kiện thuận lợi cho quy luật giá trị vận hành, đồng thời hạn chế, khắc phục những hậu quả tiêu cực này.
Trong nền kinh tế thị trường, còn có quy luật lưu thông tiền tệ, một quy luật phái sinh của quy luật giá trị. Đó là quy luật về mối quan hệ giữa hàng hóa và tiền tệ trong lưu thông, về số lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa, bảo đảm cho lưu thông hàng hóa thuận lợi, trôi chảy. Theo quy luật này, số lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa là do tổng giá trị hàng hóa cần lưu thông và tốc độ luân chuyển (hay tốc độ vòng quay) của tiền quyết định. Trong thời kỳ sử dụng tiền vàng, tiền có đủ giá trị, thì khi số lượng tiền vượt quá yêu cầu của lưu thông hàng hóa, tiền vàng sẽ tự động được rút khỏi lưu thông. Khi tiền giấy thay cho tiền vàng, nếu số lượng tiền vượt quá yêu cầu của lưu thông hàng hóa, tiền sẽ mất giá, gây ra hiện tượng lạm phát. Giữ vững giá trị đồng tiền là nhiệm vụ hàng đầu của nhà nước ở các nước có kinh tế thị trường trên thế giới.
Tóm lại, trong tất cả các nền kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới, đều có hoạt động của các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường và có vai trò quản lý của nhà nước; nhà nước vừa bảo đảm, tôn trọng hoạt động của các quy luật kinh tế thị trường, đồng thời, vừa hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực, tự phát do các quy luật kinh tế thị trường gây ra, giữ môi trường ổn định cho kinh tế phát triển và hướng sự phát triển kinh tế vào các mục tiêu xã hội, bảo đảm công bằng xã hội, quan tâm đến lĩnh vực an sinh xã hội. Song, không có phê phán nào về vai trò của nhà nước, cho rằng điều này đối lập với hoạt động của các quy luật của nền kinh tế thị trường.
Ở nước ta, sau gần 35 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta, về cơ bản, đã có đầy đủ các yếu tố của nền kinh tế thị trường hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế: có đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tự do kinh doanh, tự do lưu thông hàng hóa, doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng, hệ thống thị trường phát triển ngày càng đồng bộ…; quản lý kinh tế của nhà nước đã đổi mới, quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng nguồn lực kinh tế của nhà nước, không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giữ giá trị của đồng tiền, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường… Trong điều kiện đó, các quy luật của kinh tế thị trường đã vận hành đồng bộ: các doanh nghiệp đã phải nỗ lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển; giá cả hàng hóa đã cơ bản do thị trường quyết định; sản xuất và lưu thông đã phải chú ý đến những tín hiệu giá cả, cung – cầu trên thị trường; thị trường đã đóng vai trò trực tiếp điều tiết sản xuất và lưu thông, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, huy động và phân bổ các nguồn lực của sản xuất… Các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường gắn liền với vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, để giữ vững các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định xã hội, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường… Nội dung và phương thức quản lý của nhà nước ta như vậy không mâu thuẫn, cản trở hoạt động của các quy luật của kinh tế thị trường mà tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các quy luật này, để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Sai lầm của những người cho rằng nếu kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì không có bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế và không thể có nền kinh tế thị trường, thứ nhất, là do bị ám ảnh bởi kinh tế nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp trước đây và thứ hai, là do hiểu sai về vai trò chủ đạo, cho rằng chủ đạo là phải được ưu đãi, ưu ái của nhà nước, phải chiếm tỷ trọng lớn, chèn ép, lấn lướt các thành phần kinh tế khác. Trong nền kinh tế trước đổi mới, chỉ có kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, không có kinh tế tư nhân (kinh tế tư nhân không được phép tồn tại); kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế, do nhà nước trực tiếp quản lý bằng kế hoạch hóa tập trung, thì không thể có kinh tế thị trường. Ngày nay, kinh tế nhà nước hoàn toàn khác. Kinh tế nhà nước bao gồm các nguồn lực kinh tế của nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế nhà nước là một công cụ của nhà nước, để cùng với các công cụ khác như luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nhà nước quản lý, điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Các nguồn lực kinh tế của nhà nước được huy động, phân bổ, sử dụng theo yêu cầu phải phù hợp, phục vụ việc thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước; nhưng khi thực hiện phải theo cơ chế thị trường, thông qua đấu thầu cạnh tranh, có sự tham gia của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, để việc phân bổ hợp lý, sử dụng có hiệu quả cao. Doanh nghiệp nhà nước được nhà nước đầu tư, phát triển ở những ngành, lĩnh vực, địa bàn quan trọng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước (nhất là khi các thành phần kinh tế khác không được, không muốn hay không đủ sức đầu tư), làm lực lượng tiên phong, nòng cốt cho sự phát triển ngành, lĩnh vực, địa bàn đó. Các doanh nghiệp nhà nước tự chủ, hoạt động theo cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Khi đã có các thành phần kinh tế khác đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn này và không nhất thiết phải có doanh nghiệp nhà nước, thì nhà nước có thể thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp, chuyển vốn nhà nước đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, địa bàn quan trọng khác để thực hiện chiến lược, mục tiêu mới của nhà nước. Như vậy, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước với ý nghĩa là công cụ quan trọng để nhà nước điều tiết, thúc đẩy, định hướng phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Với vai trò đó, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước không mâu thuẫn, cản trở hoạt động của các quy luật kinh tế, với sự phát triển của kinh tế thị trường.
Trước đổi mới, kinh tế tập thể, dưới hình thức là các hợp tác xã sở hữu tập thể về đất đai và các tư liệu sản xuất chủ yếu, quản lý theo kế hoạch, phân phối theo lao động và nằm trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp chung của đất nước thì đối lập với kinh tế thị trường. Trong những năm đổi mới, các hợp tác xã cũng đã được đổi mới cả về tổ chức và phương thức hoạt động, khác rất nhiều so với các hợp tác xã trước đây. Hợp tác xã hiện nay (hợp tác xã kiểu mới) là tổ chức kinh tế tập thể do các hộ sản xuất kinh doanh tự nguyện thành lập để làm dịch vụ cho các hộ thành viên, hỗ trợ cho các thành viên, những người sản xuất nhỏ, yếu thế khi tham gia thị trường, giúp họ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tùy theo năng lực của hợp tác xã và nhu cầu của các hộ thành viên, hợp tác xã có thể cung ứng các vật tư, nguyên liệu, các yếu tố đầu vào cho sản xuất của các hộ (với giá rẻ hơn, chất lượng bảo đảm hơn khi từng hộ riêng lẻ mua); đảm nhận các dịch vụ sản xuất như làm đất, chăm sóc, thu hoạch cho các hộ thành viên (tiết kiệm cho các hộ phải mua máy móc thiết bị nhưng sử dụng không hết công suất); bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm cho các hộ thành viên (có lợi hơn cho hộ so với khi từng hộ bảo quản, chế biến, tiêu thụ); hỗ trợ các hộ thành viên vay vốn của các tổ chức tín dụng, ngân hàng… Các hợp tác xã phát triển không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp, mà cả trong các lĩnh vực tiểu, thủ công nghiệp, thương mại, vận tải…. Các hợp tác xã từng bước tích lũy vốn, quỹ, tài sản, mở rộng quy mô hoạt động; liên kết với nhau thành hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã theo ngành nghề, theo địa bàn hoạt động… tạo thành mạng lưới rộng khắp để hỗ trợ những người sản xuất nhỏ, đưa những người sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế tập thể với vai trò hỗ trợ cho những người sản xuất nhỏ hoạt động, phát triển trong nền kinh tế thị trường và cùng với kinh tế nhà nước, với vai trò là công cụ để nhà nước thúc đẩy, định hướng phát triển kinh tế đất nước, đi tiên phong để thu hút các thành phần kinh tế khác đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, địa bàn quan trọng của đất nướcthì hai thành phần kinh tế này được xác định là nền tảng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đúng đắn, không cản trở sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, cản trở sự phát triển của kinh tế thị trường.
Về sai lầm của luận điểm cho rằng kinh tế tư nhân với vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển thành các tổng công ty, tập đoàn kinh tế mạnh thì nền kinh tế không thể phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà sẽ trở thành nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Quả thật là nếu để kinh tế tư nhân phát triển một cách tự phát thì nền kinh tế thị trường nước ta sẽ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Nhưng nền kinh tế thị trường nước ta có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, kinh tế tư nhân không phát triển tự phát, mà phải tuân thủ luật pháp, chính sách của nhà nước, được định hướng hoạt động phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế của nhà nước. Mặt khác, khi nhà nước khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển thành các tổng công ty, tập đoàn kinh tế mạnh, hoạt động ở cả trong nước và ngoài nước thì luật pháp, chính sách của nhà nước cũng định hướng các tổng công ty, tập đoàn kinh tế phát triển thành các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các lực lượng xã hội. Bằng cách đó, Nhà nước ta sẽ đưa kinh tế tư nhân vào con đường phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước, một nấc thang quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để kinh tế tư nhân đóng góp vào phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
4. Một số kiến nghị
– Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn tạo cơ sở khoa học cho việc xây dựng, hoàn thiện đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; cho công tác tư tưởng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, tạo sự thống nhất về chính trị tinh thần trong Đảng và toàn xã hội; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước; tăng thêm động lực, quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, Nhà nước.
Việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn cần tập trung vào tiếp tục làm rõ những vấn đề mà thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đặt ra hiện nay, chuẩn bị cho việc hình thành lý luận về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước kinh tế chưa phát triển, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa như Việt Nam. Đồng thời, cần phải nghiên cứu những vấn đề mới của thời đại, của chủ nghĩa tư bản hiện đại, những mâu thuẫn và xu hướng phát triển trên thế giới, làm rõ tính chất quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới trong thời đại ngày nay.
– Tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tập trung vào những vấn đề còn vướng mắc trong nhận thức, quan điểm, lúng túng trong thực hiện, như: thể chế trong huy động, phân bổ các nguồn lực để các nguồn lực được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả; thể chế để thúc đẩy việc sắp xếp lại, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động các hợp tác xã; hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa; xây dựng, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; thể chế cho sự ra đời các mô hình kinh doanh mới, phát triển các sản phẩm mới, đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; thể chế định hướng các doanh nghiệp tư nhân phát triển theo mô hình công ty cổ phần, gắn kết các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước, đưa các doanh nghiệp trong nước tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu; thể chế để tạo thuận lợi cho tích tụ tập trung đất đai, phát triển nông nghiệp sản xuất lớn, công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái… để phát huy mặt tích cực của các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời củng cố, tăng cường các nhân tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
– Tiếp tục làm rõ nội dung và thực hiện có kết quả nhiệm vụ chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh mới để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Cái thiếu nhất đối với nước ta, cũng như các nước kinh tế kém phát triển, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nói chung, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cơ sở vật chất kỹ thuật, là trình độ phát triển của nền kinh tế (việc hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng hướng tới thực hiện mục tiêu này); bởi xét đến cùng năng suất lao động là yếu tố quyết định sự thắng lợi của một chế độ xã hội. Nhận thức rõ điều này, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; việc thực hiện tuy có đạt một số kết quả, nhưng chưa đạt yêu cầu, mục tiêu đề ra. Trong bối cảnh mới, nguy cơ chưa giàu đã già, rơi vào bẫy thu nhập trung bình, tụt hậu xa hơn về kinh tế so với thế giới đối với nước ta là rất lớn. Vượt qua thách thức này, nguy cơ này là yêu cầu cấp bách hàng đầu của nước ta trong những năm tới.
– Tập trung vào đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nâng cao chất lượng luật pháp, cơ chế chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch trong lĩnh vực kinh tế; rà soát, khắc phục những chồng chéo, mâu thuẫn, những điểm mơ hồ, bất hợp lý, không khả thi, tình trạng luật pháp mới ban hành, chờ thực hiện đã phải sửa đổi, bổ sung, tình trạng luật chờ nghị định, nghị định chờ thông tư… Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính, xóa bỏ những thủ tục hành chính không hợp lý, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp. Nâng cao trách nhiệm cá nhân, kỷ luật, kỷ cương trong thực hiện công vụ, trong tổ chức thực hiện. Xây dựng tổ chức bộ máy quản lý nhà nước tinh gọn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước, đẩy nhanh việc sử dụng các công cụ, phương thức quản lý hiện đại ở các cơ quan quản lý kinh tế nhà nước các cấp. Điều này gắn liền với nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, nhân tố quyết định đối với sự ổn định, phát triển của đất nước, với thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới./.
PGS.TS Nguyễn Văn Thạo
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
Nguồn Hội đồng lý luận Trung ương
Cập nhật thông tin chi tiết về Quy Luật Thay Thế Các Kiểu Nhà Nước Theo Quan Niệm Của Chủ Nghĩa Mác trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!