Xu Hướng 5/2023 # Quảng Bình Quan Tâm Giải Quyết Việc Làm Cho Người Lao Động # Top 13 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 5/2023 # Quảng Bình Quan Tâm Giải Quyết Việc Làm Cho Người Lao Động # Top 13 View

Bạn đang xem bài viết Quảng Bình Quan Tâm Giải Quyết Việc Làm Cho Người Lao Động được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Quảng Bình quan tâm giải quyết việc làm cho người lao động

(LĐXH)- Xác định việc đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, tạo mở việc làm là một trong những giải pháp cơ bản, mang tính bền vững nên tỉnh Quảng Bình đã thường xuyên quan tâm tới công tác giải quyết việc làm cho người lao động.

Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 555.300 người trong độ tuổi lao động. Do sự cố môi trường biển đã gây tổn thất nặng nề đến sản xuất kinh doanh, đời sống của nhân dân cũng như tìm kiếm việc làm thay thế. Theo kết quả điều tra về sự cố này, Quảng Bình có 40 xã, phường trên địa bàn 6 huyện, thị xã, thành phố với gần 23.000 hộ và gần 100.000 nhân khẩu bị ảnh hưởng. Đến nay, hơn 50% số lao động ở các địa phương bị ảnh hưởng đã quay trở lại làm việc và tỷ lệ thất nghiệp giảm còn 11% (thời điểm điều tra tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực này là 28%).

Hợp tác xã nón lá Mỹ Trạch (huyện Bố Trạch) vay 150 triệu đồng

để giải quyết việc làm cho chị em nghèo, gia đình khó khăn trên địa bàn xã.

Theo báo cáo từ Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, trong năm 2016, toàn tỉnh có 32.510 người được giải quyết việc làm (đạt 101,09% kế hoạch), trong đó số lao động được tạo thêm việc làm trên 10.700 người, tạo việc làm mới là 21.611 lao động, tỷ lệ thất nghiệp chung của tỉnh còn 2,79%; 2.366 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, đạt 100,68% kế hoạch.  Đạt được kết quả trên, tỉnh Quảng Bình đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó có việc khuyến khích phát triển sản xuất, thu hút nguồn lực tại chỗ, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế nông, lâm nghiệp, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa. Thực hiện chủ trương khuyến khích, thu hút đầu tư đã thúc đẩy công nghiệp phát triển nhanh, nâng tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Đối với lĩnh vực thương mại – du lịch và dịch vụ, thị trường nông thôn, vùng sâu, vùng xa ở Quảng Bình đã từng bước được khai thông mở rộng, bảo đảm lưu thông hàng hóa phục vụ nhân dân, nhất là các loại hàng thiết yếu, khuyến khích phát triển thương mại ngoài quốc doanh.

Theo báo cáo từ Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, trong năm 2016, toàn tỉnh có 32.510 người được giải quyết việc làm (đạt 101,09% kế hoạch), trong đó số lao động được tạo thêm việc làm trên 10.700 người, tạo việc làm mới là 21.611 lao động, tỷ lệ thất nghiệp chung của tỉnh còn 2,79%; 2.366 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, đạt 100,68% kế hoạch. Đạt được kết quả trên, tỉnh Quảng Bình đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó có việc khuyến khích phát triển sản xuất, thu hút nguồn lực tại chỗ, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế nông, lâm nghiệp, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa. Thực hiện chủ trương khuyến khích, thu hút đầu tư đã thúc đẩy công nghiệp phát triển nhanh, nâng tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Đối với lĩnh vực thương mại – du lịch và dịch vụ, thị trường nông thôn, vùng sâu, vùng xa ở Quảng Bình đã từng bước được khai thông mở rộng, bảo đảm lưu thông hàng hóa phục vụ nhân dân, nhất là các loại hàng thiết yếu, khuyến khích phát triển thương mại ngoài quốc doanh.

Tiếp đó, Quảng Bình còn đa dạng hóa và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, thường xuyên chú trọng tới công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đối với người sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp, rà soát nhu cầu sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp. Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh khi tuyển dụng lao động ưu tiên tuyển lao động tại chỗ và người địa phương. Đặc biệt, tỉnh đã có chủ trưởng chuyển hướng giới thiệu, tuyển lao động đi làm việc tại các tỉnh, thành phố, các khu công nghiệp trong nước, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các khu công nghiệp ở những vùng phụ cận có mức thu nhập ổn định.

Chị Nguyễn Thị Dịu ở Nhân Trạch (huyện Bố Trạch) vay 50 triệu đồng từ chương trình giải quyết việc làm để phát triển nghề chế biến thủy sảnTỉnh cũng coi việc thực hiện dự án hỗ trợ người lao động đi làm việc tại nước ngoài là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Sở Lao động – TBXH thường xuyên tổ chức tuyên truyền các quy định của pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; ban hành kịp thời các văn bản để triển khai đối với lĩnh vực này, xây dựng chỉ tiêu kế hoạch công tác giải quyết việc làm và chỉ tiêu xuất khẩu lao động cụ thể cho từng Phòng Lao động – TBXH. Đồng thời, tiến hành thẩm định, tiếp nhận và giới thiệu các doanh nghiệp được Bộ Lao động – TBXH cấp phép hoạt động xuất khẩu lao động có uy tín, có năng lực để mở rộng việc tuyển dụng lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; phối chặt chẽ với các hội, tổ chức, đoàn thể trong tỉnh triển khai tuyển lao động tham gia xuất khẩu lao động.

Tỉnh cũng coi việc thực hiện dự án hỗ trợ người lao động đi làm việc tại nước ngoài là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Sở Lao động – TBXH thường xuyên tổ chức tuyên truyền các quy định của pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; ban hành kịp thời các văn bản để triển khai đối với lĩnh vực này, xây dựng chỉ tiêu kế hoạch công tác giải quyết việc làm và chỉ tiêu xuất khẩu lao động cụ thể cho từng Phòng Lao động – TBXH. Đồng thời, tiến hành thẩm định, tiếp nhận và giới thiệu các doanh nghiệp được Bộ Lao động – TBXH cấp phép hoạt động xuất khẩu lao động có uy tín, có năng lực để mở rộng việc tuyển dụng lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; phối chặt chẽ với các hội, tổ chức, đoàn thể trong tỉnh triển khai tuyển lao động tham gia xuất khẩu lao động.

Nhờ vậy, công tác giải quyết việc làm cho lao động thời gian qua ở Quảng Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực, các chỉ tiêu về việc làm đều đạt và vượt so với kế hoạch đề ra. Các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, dịch vụ du lịch tiếp tục thu hút được nhiều lao động tham gia, góp phần khơi dậy tiềm năng, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo nhiều việc làm mới. Mặt khác, công tác giải quyết việc làm đã có sự chỉ đạo sâu sát của các cấp, các ngành, nhất là các chương trình phát triển kinh tế – xã hội được quan tâm đẩy mạnh. Riêng về vay vốn Quỹ quốc gia việc làm, số lao động được giải quyết việc làm thông qua vay vốn là 1.144 lao động.

Bên cạnh đó, Quảng Bình cũng thường xuyên tăng cường, đôn đốc công tác tư vấn, giới thiệu việc làm, nhằm kịp thời giới thiệu việc làm cho các khu công nghiệp, các doanh nghiệp trong tỉnh cũng như cung ứng lao động cho các địa phương lân cận. Chỉ tính riêng trong năm 2016, các Trung tâm dịch vụ việc làm đã tư vấn việc làm, học nghề và pháp luật lao động cho trên 23.5000 lượt người.

Qua đánh giá, Chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết việc làm Quảng Bình đã có sự quan tâm lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát của chính quyền các cấp; sự tham mưu tích cực của các cơ quan chuyên môn tổ chức thực hiện đồng bộ các giải pháp một cách cụ thể, phù hợp với tình hình thực tiễn ở mỗi địa phương, ban, ngành, đoàn thể và tổ chức xã hội. Đặc biệt là hệ thống văn bản chỉ đạo, hướng dẫn đồng bộ, chặt chẽ từ Trung ương đến tỉnh và cấp cơ sở đã phát huy khá hiệu quả các giải pháp, nguồn lực để thực hiện chương trình.

Chí Tâm

Đồng Bộ Giải Pháp Giải Quyết Việc Làm Cho Người Lao Động

Nâng cao hiệu quả tư vấn, giới thiệu việc làm

Số liệu thống kê từ Cục Việc làm (Bộ LĐ-TB&XH), năm 2017, cả nước có hơn 1.639 lao động được tạo việc làm (bằng 102,48% kế hoạch năm 2017), trong đó, số lao động được tạo việc làm trong nước khoảng 1.505.000 người. Bên cạnh việc đẩy mạnh giải quyết việc làm trong nước, năm 2017 cũng được xem là năm thành công đối với hoạt động đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, với trên 134,7 nghìn lao động (bằng 127,6% kế hoạch năm 2017), góp phần quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo và đem lại cơ hội lớn trong việc tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài.

Song song với phát triển kinh tế tạo việc làm, hoạt động cho vay vốn từ Quỹ Quốc gia về việc làm tiếp tục phát huy vai trò hỗ trợ tạo việc làm cho người lao động một cách hiệu quả. Ước năm 2017 thông qua Quỹ quốc gia về việc làm góp phần giải quyết việc làm cho khoảng 110.000 lao động, đạt 110% kế hoạch. Quỹ Quốc gia về việc làm đã tạo điều kiện cho lao động thanh niên, lao động nữ, lao động là người khuyết tật, lao động là người dân tộc, lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp có cơ hội vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho bản thân và cộng đồng.

Bà Lê Kim Dung, Cục trưởng Cục Việc làm cho biết, với vai trò là quản lý nhà nước về việc làm và thị trường lao động, năm 2017, Cục Việc làm đã tham mưu cho Bộ thường xuyên hướng dẫn các địa phương giám sát và điều tiết quan hệ cung – cầu lao động trên thị trường lao động, nâng cao năng lực hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm trong tư vấn, giới thiệu việc làm và thu thập thông tin thị trường lao động; nghiên cứu chuyển đổi mô hình quản lý hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm đáp ứng yêu cầu; từng bước hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động; thu thập, cập nhật, phân tích và xử lý thông tin thị trường lao động kịp thời, đầy đủ, chính xác; dự báo thị trường lao động trong ngắn hạn và dài hạn.

Công tác phân tích dự báo cũng đã có sự phát triển. Năm 2017, đã nghiên cứu, xây dựng các báo cáo chuyên đề về phát triển thị trường lao động phục vụ cho các hội nghị, hội thảo của Bộ, đặc biệt là những báo cáo phân tích và dự báo nhu cầu sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp phục vụ cho các hội nghị tuyển sinh học nghề của Bộ và Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp.

Hướng dẫn các địa phương cập nhật, phổ biến thông tin thị trường lao động, tổng hợp báo cáo tình hình thị trường lao động của vùng và địa phương, tăng cường kết nối cung – cầu lao động. Hệ thống các Trung tâm dịch vụ việc làm ngày càng phát huy được hiệu quả hoạt động, thông tin thị trường lao động được phổ biến rộng rãi đến người lao động với nhiều hình thức đa dạng; tổ chức các sàn giao dịch việc làm định kỳ và thường xuyên hơn, quy mô mở rộng hơn, hiệu quả kết nối cung – cầu lao động cao hơn, đặc biệt là ở các tỉnh, thành phố vùng kinh tế trọng điểm.

Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp cho biết, nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả thực hiện dự án phát triển thị trường lao động và việc làm, góp phần thực hiện các mục tiêu đã đặt ra trong giai đoạn 2018-2020, năm 2018, Bộ LĐ-TB&XH sẽ tập trung thực hiện các giải pháp như: đầu tư nâng cao năng lực hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm; hỗ trợ phát triển thị trường lao động qua việc hỗ trợ các địa phương tổ chức các sàn giao dịch việc làm, tổ chức điều tra, khảo sát thị trường lao động phục vụ công tác quản lý và phân tích, dự báo thị trường lao động; Hỗ trợ lao động di cư từ nông thôn ra thành thị, các khu công nghiệp và lao động vùng biên; hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, phụ nữ nghèo nông thôn…

Bên cạnh đó, Bộ cũng tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp tập trung vào phát huy giá trị cốt lõi của chính sách này là tổ chức hệ thống thông tin thị trường lao động, hỗ trợ doanh nghiệp tránh sa thải và duy trì việc làm cho người lao động, đào tạo nâng cấp kỹ năng hoặc trang bị kỹ năng mới cho người lao động để thích ứng với những yêu cầu mới của vị trí việc làm trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm thay đổi cấu trúc của thị trường lao động; Nâng cao năng lực, tuyên truyền, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc triển khai thực hiện các chương trình, dự án về việc làm.

Bên cạnh hỗ trợ giải quyết việc làm cho lao động, Bộ LĐ-TB&XH đẩy mạnh nâng cao chất lượng đào tạo nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu xã hội, gắn đào tạo nghề nghiệp với việc làm; xã hội hóa công tác dạy nghề, khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề cho người lao động.

Việc hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, nâng cao chất lượng dự báo thị trường lao động trong ngắn hạn và dài hạn nhằm cung cấp các thông tin về cơ hội việc làm, chỗ việc làm trống, các khoá đào tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp thanh niên, sinh viên lựa chọn và quyết định học nghề, lập nghiệp, tham gia thị trường lao động.

Mặt khác, hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm được nâng cao trong khâu tư vấn, giới thiệu việc làm và định hướng nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên; phối hợp hoạt động của Trung tâm với các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp; tổ chức các phiên giao dịch việc làm dành riêng cho thanh niên nông thôn, thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an.

Đây là những giải pháp đồng bộ, then chốt giải quyết những vấn đề tồn tại về chất lượng đào tạo, trình độ, tay nghề của thanh niên, tạo việc làm, phát huy vai trò của lực lượng thanh niên trong phát triển kinh tế – xã hội.

Để giải quyết việc làm cho người lao động nói chung, thanh niên, sinh viên tốt nghiệp nói riêng đòi hỏi sự tham gia tích cực, chủ động của các ngành, các cấp và trực tiếp là các địa phương, trong đó việc đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại địa phương có ý nghĩa quyết định. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã và đang tập trung thực hiện những giải pháp sau:

– Tổ chức thực hiện đồng bộ và có hiệu quả Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo.

– Chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Chương trình mục tiêu Giáo dục nghề nghiệp – Việc làm và An toàn lao động giai đoạn 2016-2020, tập trung vào các dự án đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, dự án phát triển thị trường lao động và việc làm; Đề án hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025; hỗ trợ thanh niên lập nghiệp, khởi sự doanh nghiệp qua Quỹ quốc gia về việc làm và các nguồn tín dụng ưu đãi khác; nâng cao chất lượng, tăng số lượng lao động trẻ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

– Nâng cao năng lực dự báo nhu cầu lao động theo ngành, nghề làm cơ sở, định hướng đào tạo cho thanh niên; hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong thu thập, cập nhật và phổ biến thông tin thị trường lao động.

– Chỉ đạo đẩy mạnh đào tạo nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu xã hội, gắn đào tạo nghề nghiệp với việc làm; chú trọng xã hội hóa công tác dạy nghề, khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề; đổi mới nội dung, chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.

– Tăng cường tư vấn, giới thiệu việc làm, định hướng nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên, thanh niên thông qua hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm công; đa dạng hóa các hoạt động giao dịch việc làm; nâng tần suất, phạm vi các hoạt động các sàn giao dịch việc làm; xây dựng cơ sở dữ liệu việc tìm người – người tìm việc ứng dụng công nghệ thông tin.

– Tăng cường thông tin, tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp, hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên.

Theo tổng hợp từ kết quả điều tra lao động việc làm quý IV/2016 của Tổng cục Thống kê, số thanh niên trong độ tuổi lao động là 24,3 triệu người, chiếm hơn 44% lực lượng lao động. Để “gỡ” sức ép giải quyết việc làm, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đưa ra những giải pháp đột phá tạo việc làm cho đối tượng thanh niên, đặc biệt là thanh niên vùng nông thôn, bộ đội, công an xuất ngũ.

Giải quyết việc làm cho người lao động là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Các chính sách kinh tế – xã luôn hướng tới mục tiêu việc làm cho người lao động, đặc biệt là thanh niên nông thôn, bộ đội, công an xuất ngũ. Bộ LĐ-TB&XH đặc biệt quan tâm việc giải quyết việc làm cho bộ đội xuất ngũ. Vì vậy, trong giai đoạn 2010-2016, trên 285 nghìn bộ đội xuất ngũ tham gia học nghề tại các cơ sở dạy nghề trong và ngoài quân đội (chiếm khoảng 40% số bộ đội xuất ngũ hàng năm), 70 – 80% bộ đội xuất ngũ sau khi học nghề đã có việc làm ổn định. Nhiều mô hình, cách làm hiệu quả trong giải quyết việc làm cho bộ đội, công an xuất ngũ như: tổ chức các phiên giao dịch việc làm dành riêng cho bộ đội xuất ngũ; phối hợp giữa các đơn vị quân đội, công an với chính quyền địa phương, các cơ sở đào tạo…

THÁI AN

Quảng Bình Nỗ Lực Giải Quyết Việc Làm Cho Lao Động Bị Ảnh Hưởng Sự Cố Môi Trường Biển

Thời gian qua, tỉnh Quảng Bình đã triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động, đặc biệt đối với lao động thuộc hộ gia đình bị ảnh hưởng do sự cố môi trường biển. Qua đó, nâng cao thu nhập, bảo đảm đời sống của người lao động trong tỉnh, góp phần tích cực vào việc ổn định và phát triển kinh tế-xã hội.

Theo Sở Lao động -  Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Bình, 6 tháng đầu năm 2019 đã giải quyết việc làm cho khoảng 18.300 lao động (đạt 50,08% kế hoạch năm), trong đó tạo việc làm cho khoảng 9.700 lao động (đạt 51,05% kế hoạch năm); xuất khẩu lao động khoảng 1.700 người (đạt 51,37% kế hoạch năm), chủ yếu là đi Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc (chiếm khoảng 62% lao động xuất cảnh).

Để có được kết quả đó, ông Phạm Thành Đồng, Phó gám đốc Sở Lao động Thương binh và Xã hộ tỉnh Quản Bình, cho hay, ngay từ đầu năm, Sở đã tích cực tham mưu UBND tỉnh ban hành quyết định cấp giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm cho các doanh nghiệp; trình Bộ Lao động – Thương binh và Xã hộ xem xét, quyết định cấp giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cho doanh nghiệp; đẩy mạnh tuyên truyền các chủ trương, chính sách về việc làm và xuất khẩu lao động; tổ chức tuyên truyền chính sách Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm thất nghiệp cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Bên cạnh đó, Trung tâm Dịch vụ việc làm cũng đã tổ chức 18 phiên giao dịch việc làm với 11.936 lượt người lao động được tư vấn, 2.148 lượt người được giới thiệu việc làm, 169 người xuất khẩu lao động. Ngoài ra, công tác giáo dục nghề nghiệp được thực hiện có hiệu quả, 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã tuyển sinh 5.042 người, trong đó Cao đẳng 32 người, Trung cấp 134 người, Sơ cấp 3.354 người, dưới 3 tháng 1.522 người và đã tốt nghiệp tất cả 3.181 người.

Là địa phương có phạm vi thiệt hại rộng, nhiều đối tượng với khối lượng và giá trị thiệt hại lớn (chiếm hơn 40% tổng thiệt hại của 04 địa phương bị ảnh hưởng), ông Phạm Thành Đông cho biết, công tác bồi thường, hỗ trợ đối tượng bị thiệt hại do sự cố môi trường biển đã được tỉnh triển khai kịp thời, đạt hiệu quả, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội giữ vững.

“Đến nay, tỉnh Quảng Bình đã cơ bản hoàn thành chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ theo quy định tại Quyết định số 1880/QĐ-TTg, Quyết định số 309/QĐ-TTg và Công văn số 1826/TTg-NN. Công tác ổn định đời sống, sinh kế cho người dân được triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả; hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ thủy sản đã trở lại bình thường; hoạt động du lịch phục hồi mạnh mẽ”, ông Phạm Thành Đồng nói.

Nói về vấn đề này, Nguyễn Thanh Phương, Giám đốc Trung tâm dịch vụ việc làm tỉnh Quảng Bình chia sẻ, hầu hết ngư dân, các cơ sở sản xuất kinh doanh ở các địa phương sau khi nhận được kinh phí hỗ trợ đã tái đầu tư sản xuất hoặc chuyển đổi nghề đúng mục đích, mang lại hiệu quả kinh tế.

Thực tế việc chuyển đổi sinh kế cho người dân cũng đã được các cấp ủy, chính quyền các địa phương Quảng Bình quan tâm, hỗ trợ nhằm tìm những mô hình, hướng đi phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương. Nhờ vậy, những mô hình chuyển đổi sinh kế bước đầu thích ứng với tình hình thực tế và đặc thù địa phương, mang lại thu nhập cho bà con; đồng thời giải quyết việc làm cho trên 9.500 lao động tại các địa phương vùng biển.

Với mục đích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, đơn vị tuyển dụng có thể tiếp cận được với nguồn lao động và ngược lại, thời gian qua, Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh cũng thường xuyên phối hợp với các cơ sở đào tạo, các địa phương tổ chức các phiên giao dịch việc làm để kết nối thông tin thị trường lao động.

Vào ngày 12 và 16 hàng tháng, Trung tâm thường tổ chức phiên giao dịch định kỳ và thực hiện trên 20 phiên giao dịch lưu động tại các địa phương, thu hút gần 200 lượt doanh nghiệp tham gia. Nhiều doanh nghiệp có nhu cầu lao động và người lao động đã có cơ hội được gắn kết với nhau, nhiều lao động tìm được việc làm ổn định, các doanh nghiệp tìm được lao động phù hợp với yêu cầu.

“Hoạt động sàn giao dịch việc làm đã góp phần thúc đẩy thị trường lao động tại địa phương phát triển, thu hút đông đảo các cấp, ngành tham gia và trở thành địa chỉ tin cậy của các nhà tuyển dụng cũng như người tìm việc. Đây còn là một trong những căn cứ để các cơ quan quản lý, các cơ sở đào tạo nghề nắm bắt sát tình hình cung cầu lao động trên thị trường nhằm có các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động trong tỉnh”, ông Nguyễn Thanh Phương khẳng định.

Cải Thiện Môi Trường Làm Việc Cho Người Lao Động

(Báo Quảng Ngãi)- Chủ đề chính của Tháng hành động An toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) năm 2020 là: “Đẩy mạnh cải thiện điều kiện lao động và kiểm soát các nguy cơ rủi ro về ATVSLĐ tại nơi làm việc”. Trên địa bàn tỉnh, có nhiều lao động (LĐ) làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, tiềm ẩn nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp (BNN), nhưng chưa được quan tâm đúng mức.

Người lao động chịu thiệt

Quảng Ngãi có trên 100.000 LĐ làm việc tại gần 5.000 doanh nghiệp (DN) ở các KCN, KKT trong tỉnh thì có hơn 6.000 LĐ làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, tiềm ẩn nguy cơ BNN, như công nhân tại các mỏ đá, ngành dệt may, giày da, cơ khí… với các loại BNN là bụi phổi silic, bụi phổi bông, điếc… Thế nhưng, theo báo cáo của BHXH tỉnh, từ năm 2008 đến nay, toàn tỉnh chỉ có 16 LĐ được hưởng trợ cấp BNN; trong đó, từ năm 2017 đến nay không phát sinh thêm trường hợp nào được hưởng trợ cấp BNN. Sở LĐ-TB&XH cho rằng, con số này quá ít, không phản ánh đúng thực tế tình trạng BNN hiện nay. 

Công nhân, kỹ sư làm việc tại Công ty Cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn được khám sức khỏe định kỳ hàng tháng.

Theo ý kiến của các LĐ, nhiều hồ sơ không được giải quyết để hưởng chế độ, bởi vướng mắc trong khâu thủ tục. Có nhiều hồ sơ mất đến 10 năm vẫn chưa giải quyết được, từ đó người LĐ có tâm lý không mặn mà với việc làm thủ tục hưởng trợ cấp BNN. Anh H.B.M (Mộ Đức) làm việc tại công ty giày da ở KCN VSIP Quảng Ngãi giữa năm 2019 anh bị sụt cân không rõ nguyên nhân, ho nhiều. Sau khi đi khám, bác sĩ chẩn đoán anh bị nhiễm trùng đường hô hấp, có nguy cơ mắc BNN cao và đề nghị anh lập hồ sơ để hưởng chế độ. “Ban đầu, tôi cũng có ý định làm hồ sơ, nhưng qua tham khảo nhiều người thì được biết, việc lập hồ sơ cần rất nhiều giấy tờ, thủ tục, mà không chắc có được hưởng không, nên tôi không làm nữa”, anh M cho biết. Sau đó, anh M phải xin nghỉ không lương trong 2 tháng để tự đi chữa bệnh.

Khi thực hiện các thủ tục cho LĐ hưởng các chế độ BNN, cơ quan, đơn vị trong tỉnh gặp nhiều vướng mắc. Hầu hết, các chỉ số quan trắc môi trường của các nhà máy, xí nghiệp đều đạt mức cho phép. Vì vậy, khi LĐ phát sinh BNN không được công nhận, vì môi trường bảo đảm. Điều này khiến ngành chức năng lúng túng khi xác định BNN cho LĐ. 

Đâu là giải pháp

Theo đó, nhiệm vụ trọng tâm là các ngành, địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng về biện pháp phòng ngừa, kiểm soát các yếu tố nguy hiểm có hại tại nơi làm việc. Từ đó, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và trách nhiệm của các cấp, ngành, DN, cơ sở sản xuất, kinh doanh và người LĐ trong công tác cải thiện điều kiện làm việc, chăm lo sức khỏe, bảo đảm tính mạng người LĐ. 

Người lao động làm việc tại các mỏ đá dễ phát sinh bệnh nghề nghiệp.

Bên cạnh đó, cần xây dựng văn hóa an toàn tại nơi làm việc, chủ động phòng ngừa, giảm ô nhiễm môi trường, bảo đảm sự ổn định và phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Mặt khác, người LĐ cũng phải nâng cao nhận thức về quyền lợi của mình trong việc được bảo đảm ATLĐ, yêu cầu DN cung cấp bảo hộ LĐ, cải thiện điều kiện làm việc, chăm sóc sức khỏe, được hưởng các chế độ LĐ nặng nhọc, độc hại theo quy định…

Ngoài ra, công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan chức năng cũng góp phần chấn chỉnh, đôn đốc, nhắc nhở các chủ DN củng cố, kiện toàn hội đồng bảo hộ LĐ, mạng lưới an toàn viên và triển khai kế hoạch bảo hộ LĐ, các biện pháp ATLĐ, cải thiện điều kiện LĐ, phòng ngừa tai nạn LĐ và BNN cho người LĐ…

Chỉ có 21 DN triển khai khám BNN

Hằng năm, hầu hết các DN ở tỉnh ta chỉ khám sức khỏe định kỳ, không khám phân loại bệnh, phát hiện BNN theo quy định. Đơn cử như tại Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, năm 2019, chỉ có 21 DN triển khai khám BNN, với số lượng trên 6.000 LĐ. Thậm chí, DN nợ BHXH, LĐ cũng không được giải quyết chế độ BNN. Những bất cập này khiến ngành chức năng, DN lúng túng, còn người LĐ thì chịu thiệt.

Bài, ảnh: VŨ YẾN

     

                                                                                                                                     

Cập nhật thông tin chi tiết về Quảng Bình Quan Tâm Giải Quyết Việc Làm Cho Người Lao Động trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!