Xu Hướng 12/2023 # Phương Pháp Dạy Học Trực Quan # Top 19 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Phương Pháp Dạy Học Trực Quan được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Dạy học trực quan (hay còn gọi là trình bày trực quan) là PPDH sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học trước, trong và sau khi nắm tài liệu mới, khi ôn tập, khi củng cố, hệ thống hóa và kiểm tra tri thức, kĩ năng, kĩ xảo

PPDH trực quan được thể hiện dưới hình thức là minh họa và trình bày:

Minh họa thường trưng bày những đồ dùng trực quan có tính chất minh họa như bản mẫu, bản đồ, bức tranh, tranh chân dung, hình vẽ trên bảng,…

Trình bày thường gắn liền với việc trình bày thí nghiệm, những thiết bị kĩ thuật, chiếu phim đèn chiếu, phim điện ảnh, băng video. Trình bày thí nghiệm là trình bày mô hình đại diện cho hiện thực khách quan được lựa chọn cẩn thận về mặt sư phạm. Nó là cơ sở, là điểm xuất phát cho quá trình nhận thức – học tập của hs, là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn. Thông qua sự trình bày của giáo viên mà học sinh không chỉ lĩnh hội dễ dàng tri thức mà còn giúp họ học tập được những thao tác mẫu của GV từ đó hình thành kĩ năng, kĩ xảo,…

GV treo những đồ dùng trực quan có tính chất minh họa hoặc giới thiệu về các vật dụng thí nghiệm, các thiết bị kĩ thuật, … và nêu yêu cầu định hướng cho sự quan sát của học sinh

GV trình bày các nội dung trong lược đồ, sơ đồ, bản đồ,… tiến hành làm thí nghiệm, trình chiếu các thiết bị kĩ thuật, phim đèn chiếu, phim điện ảnh,…

GV yêu cầu một số hs trình bày lại, giải thích nội dung sơ đồ, biểu đồ, trình bày những gì thu nhận được qua thí nghiệm hoặc qua những phương tiện kĩ thuật, phim đèn chiếu, phim điện ảnh

Từ những chi tiết, thông tin hs thu được từ phương tiện trực quan, gv nêu câu hỏi yêu cầu hs rút ra kết luận khái quát về vấn đề mà phương tiện trực quan cần chuyển tải.

Trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học nhằm tạo cho hs những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa sự vật. Đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu sâu sắc bản chất kiến thức, là phương tiện có hiệu lực để hình thành các khái niệm, giúp học sinh nắm vững các quy luật của sự phát triển xã hội. Ví dụ, khi nghiên cứu bức tranh “hình vẽ trên vách hang”, hs không chỉ có biểu tượng về săn bắn là công việc thường xuyên và hàng đầu của thị tộc mà còn hiểu: nhờ chế tạo cung tên, con người đã chuyển hẳn từ hình thức săn bắt sang săn bắn, co hiệu quả kinh tế cao hơn. Điều đó giúp hs biết sự thay đổi trong đời sống vật chất của con người thời nguyên thủy luôn gắn chặt với tiến bộ trong kĩ thuật chế tác công cụ của họ.

Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp hs nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan. Vì vậy, cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử, đồ dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của hs

Phương pháp này đòi hỏi nhiều thời gian, gv cần tính toán kĩ để phù hợp với thời lượng đã quy định.

Nếu sử dụng đồ dùng trực quan không khéo sẽ làm phân tán chú ý của hs, dẫn đến hs không lĩnh hội được những nội dung chính của bài học

Khi sử dụng đồ dùng trực quan, đặc biệt là khi quan sát tranh ảnh, các phim điện ảnh, phim video, nếu gv không định hướng cho hs quan sát sẽ dễ dẫn đến tình trạng hs sa đà vào những chi tiết nhỏ lẻ, không quan trọng

Khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học cần chú ý các nguyên tắc sau:

Phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dục của bài học để lựa chọn đồ dùng trực quan tương ứng thích hợp. Vì vậy, cần xây dựng một hệ thống đồ dùng trực quan phong phú, phù hợp với từng bài học

Có phương pháp thích hợp đối với việc sử dụng mỗi loại đồ dùng trực quan

Phải đảm bảo được sự quan sát đầy đủ đồ dùng trực quan của hs

Phát huy tính tích cực của hs khi sử dụng đồ dùng trực quan

Đảm bảo kết hợp lời nói với việc trình bày các đồ dùng trực quan, đồng thời rèn luyện khả năng thực hành của hs khi xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan (đắp sa bàn, vẽ bản đồ, tường thuật trên bản đồ, miêu tả hiện vật,…)

Tùy theo yêu cầu của bài học và loại hình đồ dùng trực quan mà có các cách sử dụng khác nhau. Loại đồ dùng trực quan treo tường được sử dụng nhiều nhất trong dạy học hiện nay là vật mẫu, bản đồ, sơ đồ, đồ thị, bảng niên biểu,… Trước khi sử dụng chúng cần chuẩn bị thật kĩ (nắm chắc nội dung, ý nghĩa của từng loại phục vụ cho nội dung nào của giờ học,…). Trong khi giảng cần xác định đúng thời điểm sử dụng đồ dùng trực quan

Loại đồ dùng trực quan cỡ nhỏ được sử dụng riêng cho từng hs trong giờ học, trong việc tự học ở nhà, gv phải hướng dẫn hs sử dụng tốt loại đồ dùng trực quan này: quan sát kĩ, tìm hiểu sâu sắc nội dung, hoàn thành các bài tập, tập vẽ bản đồ, chứ không phải “can” theo sách.

Trong dạy học một số môn như Lịch sử, Địa lí, Sinh học, Công nghệ, … ở trường phổ thông, việc kết hợp chặt chẽ giữa lời nói sinh động với sử dụng đồ dùng trực quan là một trong những điều quan trọng nhất để thực hiện nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.

Sử dụng các đồ dùng trực quan cần theo một quy trình hợp lý để có thể khai thác tối đa kiến thức từ các đồ dùng trực quan. Cần chuẩn bị câu hỏi hoặc hệ thống câu hỏi dẫn dắt hs quan sát và tự khai thác kiến thức

Sử dụng các bộ mô hình: khối đa diện, khối đa diện đều, khối tròn xoay (Toán 12), cho học sinh được thao tác trực tiếp trên các mô hình này, đặc biệt là với hs trung bình, yếu kém, trí tưởng tượng không gian còn hạn chế thì ban đầu nên cho các em được tiếp cận các khái niệm này thông quan việc quan sát các mô hình.

Sử dụng bộ dụng cụ tạo mặt tròn xoay hoặc thiết kế trên phần mềm Sketchpad, cho hs được thao tác trực tiếp nhiều lần để học sinh có thể hình dung được sự tạo thành mặt tròn xoay. Đặt câu hỏi cho hs liên hệ thực tiễn, tìm những đồ vật có hình dạng là những mặt tròn xoay và người ta có thể tạo nên những vật đó như thế nào.

Hs nhấn chuột vào hộp “quay mặt phẳng” trên trang hình của phần mềm, hs sẽ quan sát một cách rất trực quan “vết” tạo thành chính là mặt nón tròn xoay.

Từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài

Modul số 18: Phương pháp dạy học tích cực; Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GV khối THPT; Vụ Giáo dục Trung học; 2013

Sử Dụng Phương Pháp Trực Quan Khi Dạy Học Tiểu Học

Published on

2. Câu 1: Việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan khi dạy thể loại văn miêu tả của môn Tập làm vănlớp 4. Anh (chị) nêu phương án cùng ví dụ cụ thể cho biết lí do chọn phương án ấy? – Phương pháp dạy học trực quan bao gồm phương pháp quan sát và phương pháp trình bày trực quan. Hai phương pháp này có mối liên hệ với nhau, cụ thể là khi trình bày trực quan, học sinh tiến hành quan sát chúng một cách có khoa học dưới vai trò chủ đạo của giáo viên. – Phương pháp này giúp nâng cao hiệu quả dạy học nhờ có những biểu tượng rõ ràng. Rất phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học. Phát triển tư duy trực quan, hình tượng trí nhớ. – Người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của học sinh để từ đó tìm ra hướng đi đúng, tìm ra những phương pháp phù hợp khi lên lớp:  Chúng ta đã biết, tâm lý chung của học sinh Tiểu học là luôn muốn khám phá, tìm hiểu những điều mới mẻ. Từ đó hình thành và rèn luyện cho các em quan sát, cách tư duy về đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn diện và cụ thể tức là quan sát sự vật hiện tượng về nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, từ đó các em có cách cảm, cách nghĩa sâu sắc khi miêu tả.  Ở tuổi Tiểu học từ hình thức đến tâm hồn, mọi cái mới chỉ là sự bắt đầu của một quá trình. Do đó những tri thức để các em tiếp thu được phải được sắp xếp theo một trình tự nhất định. Trí tưởng tượng càng phong phú bao nhiêu thì việc làm văn miêu tả sẽ càng thuận lợi bấy nhiêu. – Văn miêu tả là loại văn thuộc phong cách nghệ thuật đòi hỏi viết bài phải giàu cảm xúc, tạo nên cái “hồn” chất văn của bài làm. Muốn vậy giáo viên phải luôn luôn nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, một tấm lòng dễ xúc động và luôn hướng tới cái thiện.

4. từ hay, một câu văn hay các em ghi vào sổ tay theo từng chủ điểm và khi làm văn có thể sử dụng một cáchdễ dàng. – Giáo viên cần tiến hành theo mức độ yêu cầu tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu học sinh đặt câu đúng, song yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh hay những từ biểu lộ tình cảm.  Việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan khi dạy thể loại văn miêu tả của môn Tập làm văn lớp 4 có rất nhiều hiệu quả. Ví dụ: Đề bài: Hãy tả chiếc cặp sách của em.  Thể loại: Văn mô tả lớp 4.  Phương án dạy học: Cho học sinh quan sát một cách từ gần đến xa, quan sát các dấu hiệu đặc trưng bản chất, các dấu hiệu chính xen kẽ các dấu hiệu phụ dưới sự định hướng của giáo viên. Sau đó căn cứ vào dàn bài chung của thể loại văn miêu tả, các em tái hiện lại những điều đã quan sát để tiến hành làm bài.  Dàn ý chung: 1. Mở bài: Giới thiệu đồ vật (Đồ vật em định tả là gì? Tại sao em có nó? Nó có vào thời gian nào? …) 2. Thân bài: a. Tả bao quát: Hình dáng, kích thước, màu sắc… b. Tả chi tiết: Tả các bộ phận của đồ vật… c. Tả công dụng của đồ vật. d. Hoạt động hoặc kỷ niệm của em với đồ vật đó. 3. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em với đồ vật.

5.  Lí do chọn: Đây là phương pháp dạy học trực quan phù hợp nhất với học sinh Tiểu học. Vì nó mang tính khoa học, giúp học sinh thể hiện khả năng sáng tạo của các em, giúp các em biết quan sát và làm bài một cách có logic, trình tự.  Người giáo viên không nên hướng dẫn cho học sinh một đề cương chi tiết thuộc nội dung bài làm, sau đó trực tiếp đưa cho học sinh cái cặp để cho học sinh tiến hành quan sát theo đề cương chi tiết đã được học; cuối cùng sau khi quan sát xong các em tiến hành bài tập làm văn. Vì theo phương án này, người giáo viên vô tình đã áp đặt một đề cương để theo đó học sinh tiến hành quan sát. Như vậy, việc quan sát của học sinh không còn mang tính khoa học nữa và mất đi khả năng sáng tạo nơi các em. Dự đoán bài làm của các em hầu như sẽ giống nhau, không còn thể hiện những dấu hiệu đặc trưng của mỗi em.  Người giáo viên cũng không được: không hướng dẫn đề cương chi tiết trước cho học sinh mà đưa thẳng cái cặp cho học sinh quan sát. Giáo viên để hoc sinh tự tiến hành quan sát rồi sau đó tự làm bài Tập làm văn với đề bài trên.Vì theo phương án này, các em sẽ không biết cách thức tiến hành quan sát như thế nào, vì không có sự chỉ đạo của giáo viên. Điều này cũng vi phạm cách thức tiến hành dạy học trực quan. Dự đoán các em sẽ không theo một trình tự logic nào và bài làm thậm chí còn lạc đề hoặc không nêu đủ nội dung yêu cầu.  Để làm 1 bài văn hay, đạt chất lượng, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh biết cách nhìn nhận sự vật, sự việc xung quanh. Để nhìn được sự vật thông qua đôimắt của học sinh cần có sự hướng dẫn từ người thầy. Ví dụ: Muốn miêu tả 1 cái cây, giáo viên hướng dẫn quan sát cây từ xa, toàn bộ cái cây tiếp đến quan sát từng bộ phận của cậy và rút ra nhận xét ban đầu về cái cây.  Nội dung dạy học phải mới, phải thường xuyên thay đổi phương pháp dạy để học sinh không cảm thấy nhàm chán.

7. Toán 4 5 5 5 5 Đạo đức 1 1 1 1 1 Tự nhiên và Xã hội 1 1 2 Khoa học 2 2 Lịch sử và Địa lí 2 2 Âm nhạc 1 1 1 1 1 Mĩ thuật 1 1 1 1 1 Thủ công 1 1 1 1 1 Kĩ thuật 1 1 Thể dục 1 2 2 2 2 Giáo dục tập thể 2 2 2 2 2 Giáo dục ngoài giờ lên lớp 4 tiết/tháng Tự chọn ( không bắt buộc) * * * * * Tổng số tiết/tuần 22 23 23 25 25 c. Hướng dẫn thực hiện – Ở mỗi lớp, mỗi tuần có ít nhất hai tiết hoạt động tập thể dành cho Sinh hoạt lớp, Sao Nhi đồng, Đội thiếu niên và sinh hoạt trường. – Dấu (*) chỉ thời lượng của các nội dung tự chọn và môn học tự chọn (chủ yếu là môn Anh văn và Tin học) bắt đầu từ lớp 3. – Sẽ có hướng dẫn cụ thể quy định riêng cho các trường Tiểu học dạy bằng tiếng dân tộc và tiếng Việt hoặc bằng tiếng nước ngoài và tiếng Việt, và cho các trường, các lớp tiểu học có khó khăn đặc biệt khác, cho các trường Tiểu học dạy học cả ngày (hoặc 2 buổi/ngày). – Căn cứ vào kế hoạch dạy học nêu trên và chương trình cụ thể của các môn học, mỗi trường Tiểu học tự lập kế hoạch dạy học hàng tuần theo đặc điểm của nhà trường và của địa phương sao cho:  Đảm bảo dạy đủ số môn học và hoạt động bắt buộc và đủ thời gian tối thiểu nêu trong kế hoạch dạy học.  Các hoạt động dạy học ở các lớp 1, 2, 3 chủ yếu thực hiện ở nhà trường, hạn chế học và làm bài tập ở nhà.

12. – Con người và sức khoẻ: Sự trao đổi chất, nhu cầu các chất dinh dưỡng của cơ thể; sự sinh sản và lớn lên và phát triển của cơ thể con người; cách phòng chống các bệnh thông thường và bệnh truyền nhiễm; cách sử dụng thuốc an toàn. – Vật chất và năng lượng: Tính chất và ứng dụng của một số chất, vật liệu và dạng năng lượng thường gặp trong đời sống và sản xuất. – Thực vật và động vật: Sự trao đổi chất và sinh sản của cây xanh và một số loài đông vật. – Môi trường và tài nguyên thiên nhiên: Ảnh hưởng qua lại của con người và môi trường; một số biện pháp bảo vệ môi trường tự nhiên.  NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ: I. Ưu điểm: – Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa là một việc làm có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. – Chương trình mới của cấp tiểu học đều hợp lý về mặt nội dung khoa học và cũng phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi cũng như kinh nghiệm sống của học sinh. – Việc tiếp nhận và đưa vào ứng dụng chương trình và sách giáo khoa tiểu học phù hợp với tính hiện đại cập nhật, sát thực tiễn, bước đầu đã tạo được hứng thú, tích cực và chủ động hơn trong học tập, học sinh có ý thức hợp tác với thầy cô và bạn bè để cùng học, cùng tìm hiểu, phát hiện kiến thức, biết thao tác sử đụng đồ dùng học tập, thực hành kĩ năng, mạnh dạn hơn trong việc trình bày ý kiến cá nhân hơn. – Chương trình sách giáo khoa các môn Toán, Tiếng Việt ở lớp 1 và lớp 3 nhìn chung phù hợp với khả năng học tập của học sinh: Cụ thể bài “Làm quen với chữ số La Mã” (Toán lớp 3). Sau khi học xong bài này, tiếp đến bài “Thực hành xem đồng hồ”, rồi đến xem lịch năm, tháng, ngày, tuần, thứ… – Về sách giáo khoa, thì sách giáo khoa là phương tiện chính thức để định hướng cho giáo viên tổ chức các hoạt động học tập, nhằm giúp học sinh tự phát hiện, tự chiếm lĩnh các kiến thức mới và biết vận dụng chúng vào cuộc sống, theo năng lực của từng cá nhân. – Sách giáo khoa có hình ảnh đẹp, hấp dẫn hơn, sách giáo khoa phù hợp với chương trình, cung cấp những kiến thức cơ bản, cập nhật có hệ thống. Kênh

14. DANH SÁCH THÀNH VIÊN 1. Hoàng Thanh Bình 2. Đỗ Thị Thanh Huyền 3. Trần Thị Hương 4. Nguyễn Cẩm Tú 5. Bùi Thị Tuyết Lan 6. Nguyễn Thị Thùy Dung 7. Lê Thị Kim Ngân 8. Trần Thị Thủy Tiên 9. Nguyễn Thị Hoài 10. Nguyễn Tố Vân 11. Trần Nguyễn Thị Minh Châu 12. Phan Thị Huyền Trang 13. Ngô Thị Thùy Linh

Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Môn Tin Học 6 Bằng Phương Pháp Dạy Dạy Học Trực Quan

––&—–

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC 6 BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY DẠY HỌC TRỰC QUAN

Lĩnh vực: Tin học

Cấp học : Trung học cơ sở Năm học : 2023 – 2023

A. ĐẶT VẤN ĐỀ …………………………………………………….

I. Lý do chọn đề tài …………………………………………………..

II. Phạm vi nghiên cứu ……………………………………………….

III. Thời gian nghiên cứu ……………………………………………..

IV. Đối tượng nghiên cứu …………………………………………….

V. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ………………………………………….

I. Cơ sở lý luận………………………………………………………..

II. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………..

III. Thực trạng vấn đề…………………………………………………

IV. Mô tả giải pháp của đề tài…………………………………………

1. Các biện pháp tiến hành:………………………………………..

1.1. Biện pháp 1: Trực quan hoá thông tin dạy học.

1.2: Biện pháp 2: Tạo những tác nhân kích thích trực quan thông qua biểu trưng ngôn ngữ, biểu trưng đồ họa, biểu trưng tranh ảnh.

1.2.1 Dạy học trực quan bằng biểu trưng ngôn ngữ.

1.2.2 Dạy học trực quan bằng biểu trưng đồ họa.

1.2.3 Dạy học trực quan bằng biểu trưng hình ảnh

1.2.4. Kết hợp các loại hình trực quan.

1.3. Biện pháp 3: Xây dựng các kĩ năng, thực hành.

1.3.1. Kĩ năng nhận biết tính năng các loại biểu tượng.

1.3.2. Rèn luyện kĩ năng thao tác trên máy

1.4. Biện pháp 4: Sử dụng phần mềm hỗ trợ quản lý phòng máy (Netop School hoặc Italic và mạng LAN).

2. Kết quả

2.1. Khả năng áp dụng

2.2. Lợi ích kinh tế- xã hội

C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ: ……………………………..

I. Kết luận: ………………………………………………………….

1.Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp.

2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp.

3 Những bài học kinh nghiệm

II. Khuyến nghị: …………………………………………………….

D. PHỤ LỤC: ……………………………………………………….

ĐỀ TÀI: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC 6 BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC QUAN

Thực hiện Nghị quyết 40/2000/NQ-QH của Quốc hội và chỉ thị số 14/2001 CTTTg của thủ tướng chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Đến nay việc đổi mới giáo dục phổ thông đã trở thành nền nếp sâu rộng từ đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, phương pháp dạy học, đặc biệt là chú trọng đến đối tượng dạy học. Phần lớn giáo viên đứng lớp đã thích nghi với chương trình, phương pháp mới nhất là sử dụng, khai thác triệt để tác dụng thiết bị thực hành, của trang thiết bị, phương tiện dạy học nh­ bảng phụ, tranh ảnh, thiết bị thí nghiệm – thực hành, máy chiếu qua đầu, máy chiếu đa chức năng, …..

Xuất phát từ cuộc vận động ứng dụng đẩy mạnh công nghệ thông tin vào dạy học của Bộ giáo dục, Sở giáo dục, Phòng giáo dục và Ban giám hiệu nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Đặc biệt là bộ môn Tin học, môn Tin học là một môn khoa học công cụ, tri thức và kỹ năng Tin học được áp dụng rộng rãi, hỗ trợ đắc lực cho rất nhiều ngành khoa học khác nhau trong hầu hết lĩnh vực của đời sống và là một phần không thể thiếu của trình độ văn hóa phổ thông của con người trong thời đại mới. Bởi vậy dạy tin học cho học sinh không chỉ truyền thụ nội dung đơn giản, mà phải hướng cho học sinh những nhận thức, những hiểu biết ngang tầm thời đại…

Do hạn chế về nhiều mặt cơ sở vật chất, trang thiết bị, trình độ giáo viên… mà đôi khi phương pháp dạy học đã không tận dụng hết những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, để truyền tải nhiều thông tin cho người học một cách trực quan nên chất lượng dạy và học có mặt hạn chế.

Sự thành công của một tiết dạy ngoài phương pháp giảng dạy của giáo viên và cách học của học sinh, còn cần sự có mặt của đồ dùng, phương tiện, thiết bị và phần mềm dạy học. Chính vì vậy mà bản thân tôi luôn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, trao đổi với đồng nghiệp và nghiên cứu các ứng dụng của thiết bị và phần mềm dạy học phù hợp với đặc trưng của bộ môn. Trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi và ứng dụng đó bản thân tôi đã tìm ra một số biện pháp hữu ích góp phần trong việc nâng cao chất lượng bộ môn Tin học lớp 6.

Để nâng cao chất lượng môn tin học nói chung và tin học 6 nói riêng tôi đã đăng kí nghiên cứu và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao chất lượng dạy học môn tin học 6 bằng phương pháp dạy học trực quan”, đề ra một số biện pháp về việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan với đồ dùng dạy học đó là máy chiếu (Projecter hoặc Tivi màn hình lớn), các phần mềm dạy học (Netop school, Violet..), tranh ảnh, biểu tượng… mà bản thân tôi đã nghiên cứu và áp dụng thành công tại đơn vị trường THCS mà tôi đang công tác.

Qua các năm giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6, tôi nhận thấy rằng nếu truyền thụ tri thức chỉ thông qua lời nói thì học sinh cảm thấy mệt mỏi, không có hứng thú trong học tập, việc tiếp thu bài giảng của học sinh không cao. Khi sử dụng phương tiện trực quan trong bài giảng giúp học sinh dễ dàng tiếp thu và tham gia bài giảng một cách tích cực và chủ động. Phương tiện dạy học vừa điều khiển nhận thức một cách sinh động, vừa là nguồn tri thức phong phú để lĩnh hội tri thức và rèn luyện kỹ năng. Phương pháp dạy học trực quan là một trong những phương pháp dạy học tích cực giúp học sinh dễ dàng chiếm lĩnh kiến thức thông qua quan sát. Tuy vậy, trong quá trình dạy học một số học sinh vẫn chưa chú ý đến sự hướng dẫn của giáo viên nên việc chiếm lĩnh kiến thức vẫn còn thụ động. Vì vậy trong quá trình dạy học giáo viên phải biết kết hợp các phương pháp dạy học một cách thích hợp, linh hoạt khai thác và vận dụng tốt các phương tiện sẽ kích thích được hứng thú tư duy của học sinh.

Việc khai thác tốt các hình ảnh và mô hình đưa ra thông qua phương pháp dạy học trực quan trong quá trình dạy học không chỉ giúp học sinh tiếp thu kiến thức mới nhanh hơn, hiệu quả hơn mà còn rèn luyện kỹ năng quan sát, phân tích, dự đoán, so sánh, khái quát, kỹ năng vận dụng để học sinh nâng cao kỹ năng kiến thức và có hứng thú hơn đối với môn học.

Một thực tế khác là ý thức học tập của một số học sinh chưa cao, chưa thực sự hứng thú trong học tập, lười hoạt động, không tích cực tự giác, ý thức tự học, tự rèn luyện yếu hoặc chỉ biết đến máy tính như một công cụ giải trí.

Qua điều tra khảo sát về cả lí thuyết và thực hành tôi tiến hành đã thu được kết quả như sau:

Qua kết quả khảo sát thì đa số các em nắm kiến thức lí thuyết còn yếu, các em hay quên và chưa vận dụng vào thực hành được nếu không có sự hướng dẫn của giáo viên.

Tỉ lệ yếu kém còn cao: chiếm 37%

Từ thực tế trên và bản thân tôi là một giáo viên dạy bộ môn Tin học luôn suy nghĩ phải đưa ra những giải pháp như thế nào để các em nắm lí thuyết chắc hơn nhớ lâu hơn và vận dụng vào thực hành tốt hơn. Sau một thời gian suy nghĩ tiến hành thực nghiệm tôi đã thu được những kết quả rất tốt sau đây tôi xin đề ra một số giải pháp sử dụng các dụng cụ trực quan trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6.

3. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới

Việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào thực tiễn giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng học tập bộ môn Tin học của học sinh, giúp các em vừa ôn luyện được kiến thức cũ, phát hiện nội dung kiến thức mới. Từ đó các em lĩnh hội tri thức một cách nhẹ nhàng, hứng thú, say mê học tập, rèn cho học sinh óc tư duy sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.

Đề tài tập trung giới thiệu và giải quyết những vấn đề về “Các phương pháp dạy học trực quan ở môn tin học 6”

Năm học: 2023 – 2023

– Môn Tin học lớp 6.

– Học sinh khối 6

V. Phương pháp nghiên cứu

– Tổng hợp điều tra về mức độ học sinh thích học, mức độ học sinh hiểu bài trong các giờ học có sử dụng dụng cụ trực quan

– Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới).

– Sử dụng bảng biểu đối chiếu.

– Kiểm tra chất lượng sau giờ học.

– Tận dụng tối đa các buổi học thực hành để các em được làm quen và luyện tập thật tốt các bài học lý thuyết.

– Hiện nay việc sử dụng các dụng cụ trực quan giúp cho giáo viên xây dựng tư liệu tương đối phong phú. Việc khai thác tư liệu có thể từ nhiều nguồn như: Khai thác thông tin tranh ảnh từ mạng Internet, từ sách báo tài liệu, tạp chí, băng hình, phim, các phần mềm,…

– Trao đổi, chia sẻ, rút kinh nghiệm

Do nhiều yếu tố nên phạm vi nghiên cứu và thực hiện là với môn Tin học tại 3 lớp 6A, 6B và 6C của trường THCS nơi tôi đang công tác trong năm học 2023 – 2023.

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC 6 BẰNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC QUAN I. CƠ SỞ LÍ LUẬN

Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Chỉ có đổi mới căn bản phương pháp dạy học và chúng ta có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới hướng tới nền kinh tế tri thức.

Trong vài thập kỷ gần đây, đã có sự bùng nổ về thông tin hay gọi là thời đại thông tin. Cùng với việc sáng tạo ra hệ thống công cụ mới, con người cũng đã tập trung trí tuệ từng bước xây dựng ngành khoa học tương ứng để đáp ứng những yêu cầu khai thác tài nguyên thông tin. Trong bối cảnh đó, ngành Tin học được hình thành và phát triển thành một ngành khoa học độc lập với các nội dung, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu riêng và ngày càng có nhiều ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người.

Tin học được đưa vào nhà trường, vào giáo dục của nước ta nhằm giúp học sinh chúng ta theo kịp với trình độ phát triển của khu vực và thế giới. Đưa Tin học vào nhà trường nói chung và THCS nói riêng là một việc làm cần thiết để các em làm quen và tiếp cận với công nghệ khoa học tiên tiến.

Hoạt động nhận thức của con người là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Đối với học sinh lớp 6 khi học bộ môn Tin học này không thể làm trái với nguyên lý nhận thức đó. Việc dạy tin học trong nhà trường hiện nay đối với nước ta không phải là dễ, vì Tin học nó gắn liền với một công cụ riêng của môn học là máy tính. “Tin học là ngành khoa học nghiên cứu các quá trình có tính chất thuật toán nhằm mô tả biến đổi thông tin. Là khoa học dựa trên máy tính điện tử nghiên cứu cấu trúc, các tính chất chung của thông tin, các quy luật và phương pháp thu thập, lưu trữ, tìm kiếm thông tin, xử lý thông tin một cách tự động chính xác qua công cụ là máy tính điện tử”. Vậy làm thế nào để cho học sinh dễ hiểu một cách nhanh chóng chính xác và có kỹ năng thực hành là một nhiệm vụ rất quan trọng của người giáo viên dạy Tin học hiện nay.

Để giảng dạy tốt bộ môn Tin học có chất lượng, đạt kết cao thì người thầy giáo ngoài tin thông về bộ môn Tin học, cần nắm chắc phương pháp dạy học trực quan. Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học mà từ các hình ảnh, hoạt động trực quan đến tư duy trừu tượng hay còn gọi trực quan hoá thông tin thông qua các công cụ trực quan.

II/ CƠ SỞ THỰC TIỄN

Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động độc lập để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính nhưng khi soạn giáo án, giáo viên phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện trên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng tranh luận sôi nổi của học sinh. Để làm được điều này thì đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.

Khó khăn lớn nhất hiện nay ở các trường học khi áp dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy vẫn là trang thiết bị nghe nhìn, phương tiện dạy học… còn nhiều thiếu thốn và bất cập. Trường THCS nơi tôi đang công tác tuy đã có được sự quan tâm hỗ trợ tích cực của các cấp lãnh đạo và phụ huynh học sinh nhưng đến nay vẫn chưa có phòng học bộ môn, phòng máy vi tính đã có số lượng tương đối đầy đủ nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu do sĩ số đông (30-35 HS/lớp). Để áp dụng phương pháp này vào dạy Tin học thì đòi hỏi phải có đèn chiếu (máy chiếu qua đầu – Over head) hay đèn chiếu (Projecter), máy vi tính đó là chưa kể đến việc nếu áp dụng đồng loạt thì mỗi lớp cũng đều phải được trang bị.

Tin học là một môn học đã được đưa vào giảng dạy tại trường THCS nơi tôi đang công tác nhưng so với các nơi khác cũng có thể nói là đang còn chậm, đặc biệt là các em lớp 6 cũng đã tiếp xúc với bộ môn này từ tiểu học mặc dù các em rất thích máy tính nhưng là để chơi các trò chơi trên máy chứ chưa ý thức được tầm quan trọng của bộ môn nên chất lượng học tập còn hạn chế. Đây là bộ môn đặc trưng muốn đạt chất lượng cao đòi hỏi các em phải tiếp xúc với máy tính nhiều nhưng thời lượng mỗi tuần chỉ có 2 tiết trên lớp thì các em chưa thể thực hành hết các kiến thức đã học mà nếu có thực hành hết thì sẽ chóng quên. Một thực tế khác là ý thức học tập của một số học sinh không cao, không hứng thú trong học tập, lười hoạt động, không tích cực tự giác, ý thức tự học, tự rèn luyện yếu.

III. THỰC TRẠNG KHI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

* Một số thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề tài:

1. Thuận lợi: * Nhà trường:

– Tuy môn Tin học mới chỉ là môn học tự chọn nhưng nhà trường đã tạo điều kiện để học sinh có thể học từ khối lớp 6, tạo điều kiện sắm sửa máy móc, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn Tin học.

* Giáo viên:

Giáo viên được đào tạo vượt chuẩn chuyên ngành về tin học để đáp ứng yêu cầu cho dạy và học môn tin học trong bậc THCS.

* Học sinh:

Vì là môn học trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực mới nên học sinh rất hứng thú học, nhất là những tiết thực hành.

Đời sống kinh tế gia đình của một số em học sinh ở nhà đã có máy vi tính nên cũng có những thuận lợi nhất định đối với môn học.

2. Khó khăn: * Nhà trường:

Nhà trường đã có một phòng máy vi tính để cho học sinh học nhưng vẫn còn hạn chế về số lượng cũng như chất lượng, mỗi ca thực hành có tới 3 em ngồi cùng một máy nên các em không có nhiều thời gian để thực hành làm bài tập một cách đầy đủ. Hơn nữa nhiều máy cấu hình máy đã cũ, chất lượng không còn tốt nên hay hỏng hóc, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của học sinh.

* Giáo viên:

Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc THCS nên chương trình và sự phân phối chương trình bước đầu chưa có sự thống nhất và đang hoàn chỉnh. Hơn nữa khi thực hành, các máy móc chất lượng kém thường gặp sự cố, trục trặc dẫn đến học sinh thiếu máy, không thực hành được.

* Học sinh:

Đa số các em học sinh chỉ được tiếp xúc với máy vi tính ở trường là chủ yếu, do đó sự tìm tòi và khám phá máy vi tính với các em còn hạn chế, nên việc học tập của học sinh vẫn còn mang tính chậm chạp.

IV. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI 1. Các biện pháp tiến hành:

1.1. Biện pháp 1: Trực quan hoá thông tin dạy học.

Trực quan hoá thông tin dạy học là một quá trình thông qua đó người học tri giác các tài liệu học tập dưới dạng các biểu trưng hình ảnh, âm thanh, mô hình, vật thật… với sự hỗ trợ của dụng cụ trực quan.

Dụng cụ trực quan được sử dụng trong môi trường học tập như trong dạy học, giáo dục qua mạng dựa trên cơ sở máy tính… dụng cụ trực quan có thể được sử dụng hiệu quả để giảng dạy các sự kiện, các chỉ dẫn, các quá trình và các khái niệm trừu tượng mà chúng thường khó nhớ, khó hiểu. Các mục tiêu dạy học có thể thực hiện tốt nếu biết phát huy thông qua công cụ trực quan.

Có thể nói dụng cụ trực quan có nhiều thuận lợi hơn hẳn so với dạy học bằng ngôn ngữ: Chứa nhiều thông tin và tổ chức thuận lợi các thông tin trong cùng một vị trí, làm đơn giản các khái niệm, làm sáng tỏ các chi tiết của một khái niệm dựa trên ngôn ngữ trừu tượng. Đặc biệt là tranh ảnh trực quan làm tăng khả năng tiếp nhận và ghi nhớ trong học tập đây là một trong những mục tiêu hàng đầu của giáo dục.

Từ những ưu điểm trên, tôi nhận thấy nếu áp dụng vào dạy học nhờ dụng cụ trực quan là đèn chiếu, tranh ảnh, biểu tượng…. vào dạy Tin học có hiệu quả rất cao.

Trước khi sử dụng dụng cụ trực quan cho một bài học thì trước hết giáo viên cần xác định bài nào cần dụng cụ trực quan và những dụng cụ trực quan đó là gì phục vụ cho những đơn vị kiến thức nào trong bài học.

Tiếp đến là công tác chuẩn bị với dụng cụ trực quan.

Ví dụ dạy bài: “Máy tính và phần mềm máy tính” cần chuẩn bị những đồ dùng trực quan khi giới thiệu cấu trúc chung của máy tính điển tử như: bộ xử lí trung tâm (CPU), thanh RAM, các ổ đĩa các thiết bị lưu giữ thông tin như USB, đĩa mềm, đĩa CD, DVD… hay hình ảnh của một số loại máy vi tính trong thực tế bằng cách chụp bởi tranh ảnh hoặc các dụng cụ trực quan thiết thực như thế HS mới nhớ lâu và thấy trong thực tế có thể gọi tên dụng cụ trực quan chính xác.

Đèn chiếu tương đối dễ sử dụng và việc chuẩn bị cho việc dạy học với đèn chiếu tương đối dễ dàng, ít tốn thời gian. Tuy nhiên để sử dụng đèn chiếu thì phải có sự chuẩn bị kiến thức và các nội dung kiến thức cần trình chiếu. Nội dung đưa lên máy chiếu phải rõ ràng chính xác và phải có máy vi tính.

Sau bài dạy tôi tiến hành kiểm tra nhận thức của học sinh bằng hình thức kiểm tra 15 phút. Kết quả thu được:

* Hiệu quả của biện pháp 1: Sau khi áp dụng một số ví dụ vào đề tài, số học sinh biết phân biệt các thiết bị của máy tính tăng lên rõ rệt.

Tỉ lệ khá giỏi đã được nâng lên so với chất lượng khảo sát đầu năm học: Tăng 26%

Tỉ lệ yếu giảm: 12 %

Tỉ lệ kém còn: 0%

Tuy nhiên một số học sinh vẫn chưa xác định đúng các vị trí thiết bị, …. Như vậy bước đầu việc vận dụng kiến thức, kĩ năng của các em vào làm bài tập thực hành đã có hiệu quả rõ rệt.

1.2. Biện pháp 2: Tạo những tác nhân kích thích trực quan thông qua biểu trưng ngôn ngữ, biểu trưng đồ họa, biểu trưng tranh ảnh.

Muốn sử dụng phương pháp dạy học này thành công thì việc đầu tiên người thầy phải làm là thiết kế các thông điệp trực quan đòi hỏi nhiều sức lực và trí lực nhưng lại là công việc đem lại nhiều lợi ích. Việc thiết kế các tài liệu dạy học trực quan mới có thể tạo nên sự thay đổi, và khi người học chú ý sẽ cho nhiều điều bổ ích. Người thiết kế phải quan tâm tới khía cạnh giảng dạy, tính trực giác và đặc biệt quan tâm tới những kĩ năng học tập của học sinh trong nghiên cứu và thực hành. Người giáo viên phải biết phân tích chọn lựa các loại hình trực quan sao cho phù hợp với nội dung bài học.

1.2.1 Dạy học trực quan bằng biểu trưng ngôn ngữ.

Biểu trưng ngôn ngữ được tạo ra từ chữ viết dưới dạng một từ đơn lẻ hoặc câu hoàn chỉnh dùng đặt tên đối tượng, định nghĩa, mô tả đối tượng.

Thường khi dạy các bài học lý thuyết tôi thường sử dụng loại biểu trưng trực quan bằng ngôn ngữ.

Ví dụ: Dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” giáo viên chiếu sơ đồ cấu trúc chung của máy tính điện tử lên màn hình rồi yêu cầu học sinh quan sát và cho biết máy tính điện tự gồm những phần nào. Sau đó giáo viên chỉ vào từng đối tượng trên sơ đồ và giới thiệu lần lượt các khái niệm của các thành phần trong cấu trúc máy tính.

Ví dụ dạy bài “Định dạng văn bản”, thì đưa lên màn hình các bước thực hiện định dạng Font như sau:

Bước 1. Chọn khối văn bản cần định dạng

Bước 3. Hộp thọai Font xuất hiện chọn Font

+ Font: chọn phông chữ

+ Font Style: kiểu chữ

+ Size : cở chữ

+ Font color: màu chữ

+ Underline Style: đường gạch chân

+ Underline Color: màu đường gạch chân

+ Effects: các hiệu ứng

+ Preview: khung hiển thị

? Nêu các bước để định dạng văn bản phông chữ, kiểu chữ, cỡ chữ bằng menu lệnh (HS chỉ cần quan sát màn hình và nêu được các bước cần định dạng phông chữ…)

? Thao tác quan trọng nhất trong định dạng văn bản là gì (HS chọn phần văn bản cần định dạng)

Chẳng hạn khi dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản” giáo viên cần cho học sinh làm quen với việc sao chép, di chuyển, cắt (xoá)… nhanh qua các biểu tượng.

Giáo viên đưa các biểu tượng

Tương tự bài “Chỉnh sửa văn bản” giáo viên đưa các biểu tượng

? Hãy nêu tên các biểu tượng trên và tính năng của các biểu tượng

Dạy bài “Định dạng văn bản” ngoài việc định dạng văn bản bằng menu lệnh giáo viên cần cho học sinh định dạng văn bản thông qua các biểu tượng sau.

HS nhìn vào biểu tượng và nêu chức năng của các biểu trượng từ đó các em nắm chắc hơn kiến thức lí thuyết để vận dụng vào làm thực hành tốt hơn.

* Dạy bài “Trình bày trang văn bản và in” ngoài việc dùng lệnh in, xem văn bản bằng menu lệnh thì có thể in, xem văn bản thông qua các biểu tượng sau.

1.2.3 Dạy học trực quan bằng biểu trưng hình ảnh

Giáo viên cần giải thích cho học sinh: Có rất nhiều kiểu dáng và hình thức khác nhau nhưng cấu tạo thì tương tự nhau, chuột có 3 nút bấm chính. Điều này lam cho các em dễ dàng nhận biết được chuột máy tính mà các em không bị ngỡ ngàng khi gặp phải loại chuột có kiểu dáng khác nhau.

Thiết bị nhớ USB cũng có nhiều kiểu dán khác nhau

Đặc biết là khi giới thiệu về một số thiết bị như Ram, Chíp, đĩa cứng, main của máy tính, nếu không có hình ảnh trực quan thì học sinh sẽ không hiểu được và chỉ hiểu mơ hồ, làm cho các em không có hứng thú học, giáo viên có thể đưa một số hình ảnh để học sinh nhận biết.

Ram máy tính

Chíp máy tính

Đĩa cứng

Main máy tính

1.2.4. Kết hợp các loại hình trực quan.

Giữa các loại hình trực quan, người thiết kế có thể kết hợp đa dạng các loại biểu trưng trực quan ngôn ngữ, hình ảnh, đồ họa với nhau. Đối với hầu hết học sinh ba loại này bao gồm nhiều mức độ khác nhau rất có ích trong học tập.

Ví dụ: Khi dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” ta có thể sử dụng kết hợp giữa biểu trưng hình ảnh và biểu trưng ngôn ngữ.

1.3: Biện pháp 3: Xây dựng các kĩ năng, thực hành.

Giáo viên yêu cầu:

– Quan sát hình ảnh và cho biết ở hình trên đâu là thiết bị xuất, nhập,. .

* Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”, “Tổ chức thông tin trong máy tính”, “Định dạng văn bản”… ta có thể sử dụng kết hợp cả ba hình thức trực quan

* Dạy bài “Định dạng văn bản” giáo viên chiếu hình ảnh sau và kết hợp cho học sinh thực hiện định dạng phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ… trên máy tính thì học sinh dể tiếp thu bài và ghi nhớ lâu hơn.

* Hiệu quả của biện pháp 2: Sau khi áp dụng biện pháp tạo những tác nhân kích thích trực quan thông qua biểu trưng ngôn ngữ, biểu trưng đồ họa, biểu trưng tranh ảnh học sinh nhận biết các biểu tượng được nhanh hơn, phân biệt và ghi nhớ các biểu tượng, các nút lệnh điều khiển được lâu hơn. Từ đó học sinh có thể sử dụng các kiến thức đã học để thực hành cũng như vận dụng vào thực tiễn tốt hơn.

Các bước sao chép khối

1.3.1. Kĩ năng nhận biết tính năng các loại biểu tượng.

Sau một tiết học tôi thường củng cố lại cho học sinh những cái vừa học bằng các dạng bài tập trắc nghiệm giúp học sinh nắm lại bài, học sinh có thể phân biệt được lệnh, các biểu tượng và nắm ý nghĩa của các biểu tượng.

Ví dụ: Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”, Nối các ý của cột A, B, C, D sao cho hợp lý.

A

B

C

D

Ctrl + O

Ctrl + N

Ctrl + S

Alt + F4

File Open

File Save

File Exit

File New

Tạo tập tin văn bản mới

Đóng tập tin văn bản

Mở văn bản đã có

Lưu văn bản

Các bước chuyển khối

* Bài “Chỉnh sửa văn bản”: Dùng các từ, cụm từ điền vào chổ trống cho phù hợp.

(1) Edit Copy

(2) Edit Cut

(3) Edit Paste

(4) Delete

(5) Ctrl + V

(6) Ctrl + C

(7) Ctrl + X

Bước1. Chọn khối

Các bước xoá khối

Bước3. Đưa con trỏ đến vị trí mới.

Bước1. Chọn khối

Bước3. Đưa con trỏ đến vị trí mới.

* Bài học kinh nghiệm:

Bước1. Chọn khối

2. Kết quả:

1.3.2. Rèn luyện kĩ năng thao tác trên máy

Để việc học Tin học của học sinh đạt kết quả tốt, chất lượng cao, học sinh nắm chắc bài, biết thao tác trên máy tính cần cho học sinh học tại phòng máy, học sinh vừa nghe giáo viên giảng bài vừa ghi bài và thực hiện trên máy tính theo từng bước một. Với cách tổ chức học như thế này kết quả cho thấy học sinh nắm chắc bài học, đa số các em đều thực hiện được các thao tác thực hành.

2.1. Khả năng áp dụng

* Hiệu quả của biện pháp 3: Sau khi áp dụng biện pháp xây dựng các kĩ năng, thực hành học sinh dễ dàng phân biệt được các biểu tượng các nút lệnh mà vốn học sinh rất khó nhớ và dễ nhầm lẫn. Tránh được hiện tượng học sinh khi thực hành phải mò mẫm các công cụ, các biểu tượng khi sử dụng phần mềm để làm bài tập thực hành cũng như vận dụng vào thực tiễn.

Các phần mềm hỗ trợ quản lý phòng máy giúp cho giáo viên và học sinh dễ dàng giao tiếp và trao đổi thông tin với nhau bằng cách quan sát nhiều màn hình làm việc của học sinh cùng lúc hay truyền tải hình ảnh từ máy giáo viên đến từng máy học sinh. Đây là biện pháp hay đã được sử dụng ở một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, hiện tại việc áp dụng các phần mềm này chưa thật sự đem lại hiệu quả cao do điều kiện bản quyền hay một số yêu cầu khác.

Để đạt hiệu quả trong mỗi tiết học trên lớp, giáo viên sử dụng triệt để mạng thông tin trên kênh hình (tranh vẽ, ảnh chụp, đồ dùng trực quan, phần mềm dạy học ….).

Sau mỗi lần thử nghiệm nên có một thời gian nhìn nhận đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm cho lần sau.

Qua phần kiểm tra đánh giá khả năng nhận thức của học sinh kết quả tương đối khả quan. Lần kiểm tra sau kết quả cao hơn lần kiểm tra trước.

2.2. Lợi ích kinh tế- xã hội

Chứng tỏ học sinh đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên tỉ lệ học sinh mắc những sai sót còn khá cao.

Phương pháp dạy học trực quan cùng với những phương pháp kĩ thuật dạy học tích cực khác giúp nâng cao chất lượng dạy và học, đưa chất lượng giáo dục đi lên. Đặc biệt trong bộ môn tin học, dạy học trực quan là rất cần thiết và đóng góp không nhỏ vào kết quả giảng dạy.

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có một số khó khăn:

-Người giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới tổ chức, hướng dẫn được tốt các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.

-Trang thiết bị nghe nhìn, phương tiện dạy học… còn nhiều hạn chế.

Trước khi đề tài thực hiện Sau khi thực hiện đề tài

-Các tài liệu, tư liệu minh họa, trình bày, tranh ảnh cần tìm hiểu sưu tầm và cập nhật thường xuyên để theo kịp thời đại.

Biểu đồ so sánh kết quả trước và sau khi thực hiện đề tài C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ I KẾT LUẬN

Qua một thời gian thực hiện ứng dụng phương pháp dạy học trực quan vào dạy học tin học lớp 6 tôi nhận thấy:

– Việc ứng dụng giúp giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh một cách tích cực và trực quan, tiết kiệm thời gian trong tiết dạy lí thuyết từ đó HS có thời gian thực hành nhiều hơn và trong quá trình thực hành học sinh nhớ kiến thức lâu hơn

– Đối với học sinh tôi nhận thấy học sinh học tập tích cực hơn, hào hứng hơn, chú ý hơn, tham gia xây dựng bài sôi nổi hơn. Đặc biệt các em ghi nhớ kiến thức lâu hơn, chất lượng đi lên rõ rệt.

2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp.

Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào các tiết dạy thể hiện chất lượng các mức như sau:

Kết quả cụ thể:

Qua thời gian nghiên cứu đề tài trong năm học bằng nhiều phương pháp khác nhau, qua dự giờ đồng nghiệp và dạy thể nghiệm. Tôi đã tìm ra một số kinh nghiệm áp dụng vào trong giảng dạy và thu được những kết quả nhất định. Trong giờ học các em chú ý hơn, tích cực hơn, đã kích thích được khả năng tư duy sáng tạo, tự tin của các em, các em nắm bài một cách chủ động không máy móc. Kết quả số học sinh giỏi, khá tăng lên, số học sinh trung bình, yếu, kém giảm đi rõ rệt.

II. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM

1.Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp.

Dạy học là một nghệ thuật. Sử dụng tốt phương pháp dạy học trực quan là con đường tốt nhất để đạt được mục đích yêu cầu tiết dạy trong đó phương tiện dùng công cụ trực quan đặc biệt có hiệu quả tốt giúp người học hiểu và nắm chắc thông tin cần thiết. Việc sử dụng dụng cụ trực quan vào quá trình dạy học là cần thiết đối với mỗi giáo viên vì nó mang lại hiệu suất, hiệu quả của giáo dục cao.

Muốn học sinh học tốt các môn học nói chung và môn Tin học nói riêng thì điều đầu tiên người giáo viên phải tạo được ở học sinh niềm say mê, hứng thú học tập bộ môn. Giờ học phải thu hút sự chú ý ham học hỏi của học sinh, tạo cho các em lòng tin vào khả năng của mình, nhiệt tình ham mê học tập.

Qua một thời gian nghiên cứu đề tài bằng nhiều phương pháp khác nhau, qua dự giờ của các đồng nghiệp, qua dạy thể nghiệm, đối chứng, tôi đã tìm ra được một số kinh nghiệm áp dụng vào trong giảng dạy và thu được những kết quả nhất định, trong giờ học các em đã chú ý hơn, tích cực hơn, đã kích thích phát huy được khả năng tư duy, tính tích cực của các em, các em nắm bài một cách chủ động không máy móc.

Việc sử dụng phương pháp trực quan vừa giúp giáo viên dễ dàng tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập, vừa giúp học sinh dễ dàng hiểu bài và khắc sâu kiến thức. Trong quá trình dạy học môn tin học hiện nay, kênh hình được coi là một công cụ, một phương tiện cho việc dạy và học môn tin học, phương pháp mà người giáo viên tin học sử dụng trong quá trình dạy học cũng phải dựa trên cơ sở kênh hình, có như vậy mới phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Do vậy, kết quả học tập cuối năm số học sinh khá giỏi tăng lên, số học sinh yếu giảm rõ rệt.

Tóm lại, việc áp dụng đề tài này đã góp phần một cách tích cực nâng cao chất lượng học tập bộ môn Tin học của học sinh.

Để áp dụng thành công đề tài này vào thực tiễn môn Tin học lớp 6, giáo viên phải thật sự hiểu rõ tầm quan trọng của phương pháp trực quan trong dạy học.

III. Khuyến nghị

Kinh nghiệm thực tiễn dạy học và kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy để nâng cao chất lượng dạy học cần có các điều kiện sau:

– Tạo không khí học tập tích cực, giáo viên phải tạo ra mỗi giờ học là một niềm vui niềm say mê trong học tập của học sinh. Giáo viên luôn tạo ra những thách thức vừa sức, tổ chức những họat động tự lực của học sinh trong từng tiết học.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

– Kết hợp nhiều phương pháp dạy học với phương pháp dạy học trực quan có nhằm gây hứng thú với học sinh và giúp học sinh chủ động nắm bắt kiến thức.

– Qua mỗi lần thử nghiệm nên có một thời gian nhìn nhận đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm cho lần sau, biết cách khai thác trí lực của học sinh theo hướng tích cực, chủ động thì việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện lỹ năng của học sinh sẽ trở nên thuận lợi và có kết quả hơn.

– Các thiết bị dạy học rất có ý nghĩa giáo viên phải luôn phát huy hết tác dụng của các thiết bị dạy học, đặc biệt là dụng cụ trực quan có như vậy mới gây được hứng thú học tập của các em. Bên cạnh mỗi tiết dạy giáo viên luôn nỗ lực chuẩn bị các đồ dùng trực quan đầy đủ phù hợp với nội dung bài dạy từ đó vậy giáo viên mới tạo được sự hứng thú bộ môn cho các em.

Qua quá trình thực hiện giảng dạy bản thân tôi có một số khuyến nghị sau: Đề nghị nhà trường trang bị thêm các trang thiết bị học tập (bàn, ghế, máy vi tính, …) ở phòng thực hành để học sinh có đủ điều kiện học tập tập tốt hơn.

– Sách giáo khoa và sách giáo viên lớp: 6 – NXB Giáo dục

– Các bài giảng điện tử ở các trang web: http://diendan.bachkim.vn; http://baigiang.edu.vn;

– Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Tin học THCS – NXB Giáo dục

– Tài liệu tập huấn Đổi mới phương pháp dạy học môn Tin – NXB Giáo dục

– Sách bồi dưỡng Sinh viên cao đẳng sư phạm và giáo viên THCS về đổi mới chương trình và SGK Môn Tin học – NXB Hà Nội

– Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và SGK – NXB ĐH Sư phạm

– Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS Môn Tin học – NXB giáo dục.

Phương Pháp Dạy Học Trực Quan Là Gì? Áp Dụng Như Nào?

Phương pháp giáo dục trực quan là một trong số hệ thống các phương pháp dạy học cơ bản ở rất nhiều cơ sở đào tạo. nó là phương pháp đang được áp dụng một cách phong phú. Bài viết này trung tâm gia sư Đăng Minh sẽ cho bạn hiểu hơn về phương pháp dạy học trực quan là gì? cách áp dụng nó ra sao? I. Bản Chất Phương Pháp Giáo Dục Trực Quan

Phương pháp giáo dục trực quan hay còn gọi là dạy học trực quan, có nhiều tài liệu gọi đó là trình bày trực quan. Nó PPDH có sử dụng phương tiện trực quan như các phương tiện kỹ thuật dạy học trong, trước và sau khi sử dụng các tài liệu mới hay khi ôn tập để củng cố , thậm chí là hệ thống hóa kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo.

Phương pháp dạy học trực quan được thể hiện dưới các hình thức:

Việc trình bày các thí nghiệm thực tế, các chiếu đèn, chiếu phim chiếu nhằm đem lại cái nhìn rõ nét, sinh động. Những thiết bị kỹ thuật, phim điện ảnh, video. Trình bày các mô hình đại diện cho hiện thức một cách khách quan nhất và nó cũng được lựa chọn cẩn thận để phù hợp trong môi trường sư phạm. Đó chính là cơ sở cho quá trình nhận thức và lĩnh hội bài giảng tốt hơn.

Nó còn là những minh họa trình bày bằng đồ dùng trực quan có tính chất minh họa như bản đồ, tranh ảnh, hình vẽ trên bảng ….

II. Ưu Điểm Của Phương Pháp Dạy Học Trực Quan

Phương pháp dạy học trực quan ở tiểu học và các cấp học khác đều mang lại những ưu điển lớn. Đặc biệt đó là sự tiếp thu có tiến bộ của các học sinh, giúp bài giảng thêm sôi động, hấp dẫn.

Với cách dạy học trực quan, các đồ dùng phục vụ cho việc học được đặc biệt quan tâm, nhờ đồ dùng mà các học sinh có thể nhớ nhanh, nhớ lâu và nhớ rất kỹ bài giảng. Bằng hình ảnh trực quan sống động cùng những kiến thức lịch sử sống động cho các em như đang được sống ở thời kỳ lịch sử đó. Bạn cũng biết, các hình ảnh tuy không cần sử dụng tới chữ viết cũng được lưu giữ lại vững chắc trong trí nhớ, nó chính là hình ảnh thu được từ trực quan. Chính bởi vậy, học theo phương pháp trực quan góp phần tạo nên biểu tượng về lịch sử. Bên cạnh đó, đồ dùng trong các tiết học trực quan còn giúp phát triển khả năng quan sát cũng như tư duy và trí tưởng tượng cùng khả năng ngôn ngữ của học sinh.

Phương pháp dạy học trực quan là một phương pháp học sử dụng trực quan, trực quan là nguyên tắc cơ bản của lý luận giúp học sinh có thể hình thành khái niệm dựa trên cơ sở trực tiếp quan sát các vật, đồ dùng qua minh họa bằng tranh, ảnh, video. Đồ dùng đó chính là chỗ dựa giúp học sinh hiểu bản chất của kiến thức, là một phương tiện giúp các em hình thành khái niệm, nắm vững được các quy luật của sự phát triển xã hội.

Ví dụ: Khi được học với các bức tranh có hình vẽ trên đá là hình con người sử dụng cung tân. Các em học sinh sẽ hiểu con người thời nguyên thủy đã biết và sử dụng cung tên để chuyển tư hình thức săn bắt sang săn bắn và làm thay đổi cả nền kinh tế thời bấy giờ.

III. Hạn Chế Của Phương Pháp Dạy Học Trực Quan

Tuy có nhiều ưu điểm nhưng phương pháp sử dụng đồ dùng trong giáo dục trực quan lại có những hạn chế nhất định. Những mặt hạn chế đó được kể tới như sau.

Với các hình ảnh, video, phim ảnh đều là những thứ gây chú ý những nếu không biết cách sử dụng phù hợp sẽ khiến các em học sinh phân tán, giản sự chú ý. Điều này khiến các em không nắm được vấn đề trong bài học.

Đây là phương pháp dạy học đòi hỏi nhiều thời gian và các giáo viên lại cần cân nhắc, tính toán để phù hợp với thời lượng dạy.

IV. Quy Trình Thực Hiện Phương Pháp Dạy Học Trực Quan

Để có những tiết học trực quan bổ ích cũng như hiệu quả, tạo hứng thú cho các em học sinh, giáo viên cần quan tâm tới quy trình thực hiện.

Bước tiếp theo các giáo viên treo các tranh ảnh, đồ dùng minh họa, các vật dụng thí nghiệm hay những thiết bị chúng tôi đó, giáo viên cần đưa ra định hướng quan sát cho học sinh.

Trình bày chi tiết các nội dung trong bản đồ, sơ đồ và hình ảnh, với video cần chi tiết rõ nét hơn. Với các dụng cụ thí nghiệm giáo viên tiến hành thí nghiệm và trình chiếu phim ảnh cho học sinh quan sát.

Giáo viên yêu cầu một vài học sinh trình bày lại nội dung bức hình, nội dung đoạn video hay cách thức tiến hành thí nghiệm. Từ đó các em học được những gì.

Giáo viên soạn sẵn những câu hỏi nhằm giúp các em học sinh vận dụng những gì được thấy được xem để trả lời. từ đó hiểu và nắm bài rõ hơn.

Có rất nhiều phương pháp dạy học trực quan và tùy vào mục đích ta chia các loại ra làm:

Căn cứ theo mức độ tổ chức quan sát ta có thể chia ra là quan sát có sự bố trí, sắp xếp của giáo viên hoặc quan sát tự nhiên.

Căn cứ theo cách thức quan sát ta chia làm quan sát gián tiếp và quan sát trực tiếp

Căn cứ theo phạm vi quan sát ta chia làm quan sát các khía cạnh và quan sát toàn diện.

Căn cứ theo thời gian ta chia quan sát dài hạn và ngắn hạn.

V. Một Số Lưu Ý Khi Dạy Học Theo Phương Pháp Trực Quan

Các giáo viên khi đưa hình ảnh, phim truyện lên cần chú ý đảm bảo hướng quan sát cho tất cả các học sinh.

Mỗi dụng cụ, đồ dùng thí nghiệm, video trực quan lại có phương pháp, cách thức quan sát thích hợp. Giáo viên phải tìm hiểu để đưa ra phương pháp phù hợp nhất.

Tùy vào mỗi bài học sẽ cần đồ dùng trực quan khác nhau. Có những bài học cần video, bởi vậy, các giáo viên phải là người lựa chọn dụng cụ thích hợp nhằm giúp các em có hứng thú quan sát. Nếu mang tính chuyên nghiệp, các giáo viên phải xây dựng hệ thống dụng cụ cho trực quan theo từng bài học.

Luôn tìm cách phát huy tính tích cực của học sinh với các đồ dùng học trực quan. Các em phải được sờ, nắm, quan sát kỹ lưỡng.

Tuy các đồ dùng như tranh ảnh, phim rất cần thiết cho mỗi bài học, nhưng lời nói, thuyết trình của giáo viên cũng vô cùng quan trọng đặc biệt trong các môn như Địa lý, công nghệ, sinh học ở cấp bậc THPT. Giáo viên phải rèn luyện, nâng cao nghiệp vụ của mình để thực hiện tốt công việc của mình.

Tìm cách khai thác tối đa kiến thức trong các đồ dùng trực quan, phương pháp dạy học trực quan ở mầm non khác với tiểu học. Các giáo viên phải tùy vào trình độ để đặt câu hỏi phù hợp.

Các giáo viên cũng cần chú ý tới các đồ dùng trực quan nhỏ khi dùng với từng học sinh, hay trong việc tự học ở nhà. Các giáo viên phải hướng dẫn kỹ lưỡng cho các em, liên hệ với phụ huynh để phụ huynh cùng thực hiện và hướng dẫn các em. Các em cũng phải tìm hiểu kỹ lưỡng, hoàn thành đầy đủ bài tập, câu hỏi.

Qua bài viết, các giáo viên, phụ huynh đã hiểu được lợi ích cũng như cách tiến hình buổi học trực quan hiệu quả. Cũng cần tùy thuộc vào điều kiện, cơ sở vật chất từng nơi để áp dụng riêng biệt.

.

Skkn Áp Dụng Phương Pháp Dạy Học Trực Quan Để Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Môn Tin Học Lớp 6

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI: “ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC QUAN ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC LỚP 6″

A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài. Thực hiện Nghị quyết 40/2000/NQ-QH của Quốc hội và chỉ thị số 14/2001 CTTTg của thủ tướng chính phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Đến nay việc đổi mới giáo dục phổ thông đã trở thành nền nếp sâu rộng từ đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, phương pháp dạy học, đặc biệt là chú trọng đến đối tượng dạy học. Phần lớn giáo viên đứng lớp đã thích nghi với chương trình, phương pháp mới nhất là sử dụng, khai thác triệt để tác dụng thiết bị thực hành, của trang thiết bị, phương tiện dạy học như bảng phụ, tranh ảnh, thiết bị thí nghiệm – thực hành, máy chiếu qua đầu, máy chiếu đa chức năng, ….. Xuất phát từ cuộc vận động ứng dụng đẩy mạnh công nghệ thông tin vào dạy học của Bộ giáo dục, Sở giáo dục, Phòng giáo dục và ban lãnh đạo nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Đặc biệt là bộ môn Tin học nói chung và bộ môn tin học lớp 6 nói riêng việc sử dụng công nghệ thông tin là rất cần thiết Do hạn chế về nhiều mặt cơ sở vật chất, trang thiết bị, trình độ giáo viên… mà đôi khi phương pháp dạy học đã không tận dụng hết những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, để truyền tải nhiều thông tin cho người học một cách trực quan nên chất lượng dạy và học có mặt hạn chế. Sự thành công của một tiết dạy ngoài phương pháp dạy của giáo viên và cách học của học sinh, còn cần sự có mặt của đồ dùng dạy học. Chính vì cậy mà bản thân tôi luôn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, trao đổi với đồng nghiệp và ứng dụng. Trong qúa trình tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi và ứng dụng đó bản thân tôi đã tìm ra một số giải pháp hữu ích góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất lượng bộ môn Tin học lớp 6. Bằng những kinh nghiệm rút ra sau nhiều năm giảng dạy ở trường phổ thông tôi đã mạnh dạn viết đề tài ”Áp dụng phương pháp dạy học trực quan để nâng cao chất lượng dạy học môn Tin học lớp 6” .

B. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN. Việc đổi mới chương trình sách giáo khoa đặt trọng tâm vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Chỉ có đổi mới căn bản phương pháp dạy học và chúng ta có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới hướng tới nền kinh tế tri thức. Trong vài thập kỷ gần đây, đã có sự bùng nổ về thông tin hay gọi là thời đại thông tin. Cùng với việc sáng tạo ra hệ thống công cụ mới, con người cũng đã tập trung trí tuệ từng bước xây dựng ngành khoa học tương ứng để đáp ứng những yêu cầu khai thác tài nguyên thông tin. Trong bối cảnh đó, ngành Tin học được hình thành và phát triển thành một ngành khoa học độc lập với các nội dung, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu riêng và ngày càng có nhiều ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người. Tin học được đưa vào nhà trường, vào giáo dục của nước ta nhằm giúp học sinh chúng ta theo kịp với trình độ phát triển của khu vực và thế giới. Đưa Tin học vào nhà trường nói chung và THCS nói riêng là một việc làm cần thiết để các em làm quen và tiếp cận với công nghệ khoa học tiên tiến. Hoạt động nhận thức của con người là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Đối với học sinh lớp 6 khi học bộ môn Tin học này không thể làm trái với nguyên lý nhận thức đó. Việc dạy tin học trong nhà trường hiện nay đối với nước ta không phải là dễ, vì Tin học nó gắn liền với một công cụ riêng của môn học là máy tính. “Tin học là ngành khoa học nghiên cứu các quá trình có tính chất thuật toán nhằm mô tả biến đổi thông tin. Là khoa học dựa trên máy tính điện tử nghiên cứu cấu trúc, các tính chất chung của thông tin, các quy luật và phương pháp thu thập, lưu trữ, tìm kiếm thông tin, xử lý thông tin một cách tự động chính xác qua công cụ là máy tính

điện tử”. Vậy làm thế nào để cho học sinh dễ hiểu một cách nhanh chóng chính xác và có kỹ năng thực hành là một nhiệm vụ rất quan trọng của người giáo viên dạy Tin học hiện nay. Để giảng dạy tốt bộ môn Tin học có chất lượng, đạt kết cao thì người thầy giáo ngoài tin thông về bộ môn Tin học, cần nắm chắc phương pháp dạy học trực quan. Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học mà từ các hình ảnh, hoạt động trực quan đến tư duy trừu tượng hay còn gọi trực quan hoá thông tin thông qua các công cụ trực quan. II. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động độc lập để học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu cầu chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính nhưng khi soạn giáo án, giáo viên phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện trên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng tranh luận sôi nổi của học sinh. Để làm được điều này thì đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm lành nghề mới tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên. Khó khăn lớn nhất hiện nay ở các trường học khi áp dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy vẫn là trang thiết bị nghe nhìn, phương tiện dạy học… còn nhiều thiếu thốn và bất cập. Trường THCS Lãng Ngâm chưa có phòng học bộ môn, phòng học máy tính chưa đạt chuẩn về cả số lượng lẫn chất lượng. Để áp dụng phương pháp này vào dạy Tin học thì đòi hỏi phải có đèn chiếu (máy chiếu qua đầu – Over head) hay đèn chiếu (Projecter), máy vi tính đó là chưa kể đến việc nếu áp dụng đồng loạt thì mỗi lớp cũng đều phải được trang bị.

Tin học là một môn học mới được đưa vào giảng dạy tại trường THCS Lãng Ngâm từ năm 2005 đến nay chậm hơn so với các trường vùng đô thị đặc biệt là các em lớp 6 vừa mới tiếp xúc với bộ môn mới đầu tiên mặc dù các em rất thích máy tính nhưng là để chơi các trò chơi trên máy chứ chưa ý thức được tầm quan trọng của bộ môn nên chất lượng học tập còn hạn chế. Đây là bộ môn đặc trưng muốn đạt chất lượng cao đòi hỏi các em phải tiếp xúc với máy tính nhiều nhưng thời lượng mỗi tuần chỉ có 2 tiết trên lớp thì các em chưa thể thực hành hết các kiến thức đã học mà nếu có thực hành hết thì sẽ chóng quên. Trong giờ thực hành các em phải ngồi theo nhóm: 3 – 4 em/1 máy. Bên cạnh đó do hoàn cảnh kinh tế còn khó khăn gia đình không có điều kiện để mua máy tính cho con em học, theo thống kê của giáo viên dạy thì mỗi lới chỉ được 3 đến 4 em là gia đình có máy vi tính. Một thực tế khác là ý thức học tập của một số học sinh không cao, không hứng thú trong học tập, lười hoạt động, không tích cực tự giác, ý thức tự học, tự rèn luyện yếu. Qua điều tra những tiết học đầu tiên về cả lí thuyết và thực hành tôi tiến hành đã thu được kết quả như sau: Lớp 6A

0

23

quên và chưa vận dụng vào thực hành được nếu không có sự hướng dẫn của giáo viên. Từ thực tế trên và bản thân tôi là một giáo viên dạy bộ môn Tin học luôn suy nghĩa phải đưa ra những giải pháp như thế nào để các em nắm lí thuyết chắc hơn nhớ lâu hơn và vận dụng vào thực hành tốt hơn. Sau một thời gian suy nghĩ tiến hành thực nghiệm tôi đã thu được những kết quả rất tốt sau đây tôi xin đề ra một số giải pháp sử dụng các dụng cụ trực quan trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tin học lớp 6 III. GIẢI PHÁP. 1. Trực quan hoá thông tin dạy học. Trực quan hoá thông tin dạy học là một quá trình thông qua đó người học tri giác các tài liệu học tập dưới dạng các biểu trưng hình ảnh, âm thanh, mô hình, vật thật,… với sự hỗ trợ của dụng cụ trực quan. Dụng cụ trực quan được sử dụng trong môi trường học tập như trong dạy học, giáo dục qua vệ tinh dựa trên cơ sở máy tính,… dụng cụ trực quan có thể được sử dụng hiệu quả để giảng dạy các sự kiện, các chỉ dẫn, các quá trình và các khái niệm trừu tượng mà chúng thường khó nhớ, khó hiểu. Các mục tiêu dạy học có thể thực hiện tốt nếu biết phát huy thông qua công cụ trực quan. Có thể nói dụng cụ trực quan có nhiều thuận lợi hơn hẳn so với dạy học bằng ngôn ngữ: Chứa nhiều thông tin và tổ chức thuận lợi các thông tin trong cùng một vị trí, làm đơn giản các khái niệm, làm sáng tỏ các chi tiết của một khái niệm dựa trên ngôn ngữ trừu tượng. Đặc biệt là tranh ảnh trực quan làm tăng sự nhớ trong học tập đây là một trong những mục tiêu hàng đầu của giáo dục. Từ những ưu điểm trên, tôi nhận thấy nếu áp dụng vào dạy học nhờ dụng cụ trực quan là đèn chiếu, tranh ảnh, biểu tượng…. vào dạy Tin học có hiệu quả rất cao.

Muốn sử dụng phương pháp dạy học này thành công thì việc đầu tiên người thầy phải làm là thiết kế các thông điệp trực quan đòi hỏi nhiều sức lực và trí lực nhưng lại là công việc đem lại nhiều lợi ích. Việc thiết kế các tài liệu dạy học trực quan mới có thể tạo nên sự thay đổi, và khi người học chú ý sẽ cho nhiều điều bổ ích. Người thiết kế

phải quan tâm tới khía cạnh giảng dạy, tính trực giác và đặc biệt quan tâm tới những kĩ năng học tập của học sinh trong nghiên cứu và thực hành. Người giáo viên phải biết phân tích chọn lựa các loại hình trực quan sao cho phù hợp với nội dung bài học. a. Dạy học trực quan bằng biểu trưng ngôn ngữ. Biểu trưng ngôn ngữ được tạo ra từ chữ viết dưới dạng một từ đơn lẽ hoặc câu hoàn chỉnh dùng đặt tên đối tượng, định nghĩa, mô tả đối tượng. Thường khi dạy các bài học lý thuyết tôi thường sử dụng loại biểu trưng trực quan bằng ngôn ngữ. Ví dụ: Dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” tôi chiếu sơ đồ cấu trúc chung của máy tính điện tử lên màn hình rồi yêu cầu học sinh quan sát và cho biết máy tính điện tự gồm những phần nào. Sau đó giáo viên chỉ vào từng đối tượng trên sơ đồ và giới thiệu lần lượt các khái niệm của các thành phần trong cấu trúc máy tính.

cở chữ màu chữ đường gạch chân màu đường gạch chân các hiệu ứng khung hiển thị

? Hãy nêu tên các biểu tượng trên và tính năng của các biểu tượng * Dạy bài “Định dạng văn bản” ngoài việc định dạng văn bản bằng menu lệnh giáo viên cần cho học sinh định dạng văn bản thông qua các biểu tượng sau.

Hs nhìn vào biểu tượng và nêu chức năng của các biểu trượng từ đó các em nắm chắc hơn kiến thức lí thuyết để vận dụng vào làm thực hành tốt hơn. * Dạy bài “Trình bày trang văn bản và in” ngoài việc dùng lệnh in, xem văn bản bằng menu lệnh thì có thể in, xem văn bản thông qua các biểu tượng sau.

Các biểu tượng chương trình

Thanh công việc

d. Kết hợp các loại hình trực quan. Giữa các loại hình trực quan, người thiết kế có thể kết hợp đa dạng các loại biểu trưng trực quan ngôn ngữ, hình ảnh, đồ hoạ với nhau. Đối với hầu hết học sinh ba loại này bao gồm nhiều mức độ khác nhau rất có ích trong học tập. Ví dụ: Khi dạy bài “Máy tính và phần mềm máy tính” ta có thể sử dụng kết hợp giữa biểu trưng hình ảnh và biểu trưng ngôn ngữ.

Giáo viên yêu cầu: – Quan sát hình ảnh và cho biết ở hình trên đâu là thiết bị xuất, nhập,. .. * Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”, “Định dạng văn bản”… ta có thể sử dụng kết hợp cả ba hình thức trực quan

Thanh Menu bar

Thước ngang Thanh Tool bar

Thanh Formating

Thướ c dọc Than h * Dạy bài “Định cuộn dạng văn bản” ta chiếu hình ảnh sau và kết hợp cho học sinh Than thực hiện định dạng phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ… trên máy tính thì học sinh dể tiếp h Draw thu bài và ghi nhớ lâu hơn. ing

3. Xây dựng các kĩ năng, thực hành a. Kĩ năng nhận biết tính năng các loại biểu tượng. Sau một tiết học tôi thường củng cố lại cho học sinh những cái vừa học bằng các dạng bài tập trắc nghiệm giúp học sinh nắm lại bài, học sinh có thể phân biệt được lệnh, các biểu tượng và nắm ý nghĩa của các biểu tượng. Ví dụ: Dạy bài “Làm quen với soạn thảo văn bản”: Nối các ý của cột A, B, C, D sao cho hợp lý. A

B

C

Ctrl + O

File Open

Ctrl + N

File Save

Ctrl + S

File Exit

Alt + F4

File New

D Tạo tập tin văn bản mới Đóng tập tin văn bản Mở văn bản đã có

Lưu văn bản * Khi dạy bài “Chỉnh sửa văn bản”: Dùng các từ, cụm từ điền vào chổ trống cho phù hợp. (1) Edit Copy

(5) Ctrl + V

(8)

(2) Edit Cut

(6) Ctrl + C

(9)

(3) Edit Paste (7) Ctrl + X (4) Delete Các bước sao chép khối

(10)

Để cho học sinh có hứng thú học tập, tạo kích thích tìm tòi, đồng thời góp phần thư giản cho các em thì trước khi kết thúc tiết học (5-10 phút) tôi thường tổ chức cho các em chơi một số trò chơi như: Solitaire, Spider Solitaire, Freecell… hay cho học sinh vẽ hình tự do bằng chương trình Paint mà qua các chương trình này học sinh được hình thành các kĩ năng sử dụng chuột, các thao tác với chuột. Với các giải pháp thực hiện nói trên nên năm học 2010-2011 hai lớp 6A, 6B trường THCS Lãng Ngâm đã đạt được kết quả đáng khả quan.

C. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

1. Kết qủa Qua một thời gian ngắn thực hiện ứng dụng các dụng cụ trực quan vào dạy học tin học lớp 6 tôi nhận thấy: – Việc ứng dụng giúp Giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh một cách tích cực và trực quan, tiết kiệm thời gian trong tiết dạy lí thuyết từ đó HS có thời gian thực hành nhiều hơn và trong quá trình thực hành học sinh nhớ kiến thức lâu hơn – Đối với học sinh tôi nhận thấy học sinh học tập tích cực hơn, hào hứng hơn, chú ý hơn, tham gia xây dựng bài sôi nổi hơn. Đặc biệt các em ghi nhớ kiến thức lâu hơn, chất lượng đi lên rõ rệt. Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào các tiết dạy thể hiện chất lượng các mứt như sau. Cụ thể: * Về mức độ tiếp thu lý thuyết: Tổng số 6A 23 6B 23 Cộng 46 Lớp

Qua kết quả trên thể hiện rõ việc sử cải tiến phương pháp dạy học trong các bài giảng tin học đã có hiệu quả, chất lượng mũi nhọn và đại trà khá vững chắc học sinh đã chủ động trong các thao tác thực hành cụ thể là: So sánh với khảo sát đầu năm + Số em hiểu bài biết vận dụng kiến thức kĩ năng trình bày bài lí thuyết tăng 15.3% + Số em đạt trung bình tăng 13.1 % + Số em chưa hiểu bài, vận dụng yếu giảm 28.3 % + Số lượng học sinh kém không còn * Về kĩ năng thực hành: Lớp Tổng sốThực hành

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Phương Pháp Dạy Học Trực Quan Và Việc Vận Dụng Kênh Hình Trong Dạy Học Địa Lý 6 Trường Thcs

ộng của con người trên trái đất. Bước đầu giúp các em hình thành thé giới quan khoa học , có tư tưởng, tình cảm đúng đắn và làm quen với việc vận dụng kiến thức địa lý đã học vào thực tiễn cuộc sống sao cho phù hợp với môi trường xung quanh và thực tế Đất nước .Để đáp ứng được mục đích trên, người giáo viên cần phải biết vận dụng phương pháp dạy học trực quan làm nòng cốt . Thông qua việc sử dụng trực quan , học sinh được quan sát và có thể nhìn nhận vấn đề một cách rõ ràng ,dễ hiểu , khơi dậy hứng thú học tập cho học sinh, phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo, tự lĩnh hội kiến thức của học sinh. Phương pháp dạy học trực quan rất đa dạng, phong phú, vì vậy người giáo viên phải biết vận dụng sáng tạo, hợp lý từng phương pháp trực quan khác nhau vào những bài học cụ thể nhằm dạt kết quả dạy học cao nhất, đáp ứng mục tiêu giáo dục hiện nay . Từ việc không đồng tình với những quan điểm chủ quan của học sinh về môn học ,bản thân tôi thấy mình cần có trách nhiệm xác đinh cho học sinh hiểu mục đích, tác dụng của môn học đối với cuộc sống nói chung và đối với cuộc sống nói riêng.Tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu về phương pháp dạy học trực quan và việc vận dụmg kênh hình trong dạy học Địa lý 6 ở trường THCS . II/ Mục đích , phạm vi , đối tương nghiên cứu : 1/ mục đích nghiên cứu : - Tìm hiểu về phương pháp dạy học trực quan để nhằm tận dụng tối đa và sử dụng có hiệu quả các thiết bị dạy học của bộ môn . - Vận dụng việc khai thác kênh hình để kiểm tra kiến thức và rèn luyện kỉ năng, tạo thông tin hai chiều . - Thông qua học tập môn Địa lý để tạo ra con người mới, năng động, có khả năng thích ứng với xã hội, hòa nhập với xu thế phát triển của xã hội . 2/ Đối tượng nghiên cứu : áp dụng đối với học sinh THCS nói chung . Người thực hiện là giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn tại trường THCS Hiệp Cát 3/ Nhiệm vụ nghiên cứu : Tìm hiểu về cơ sở lý luận của phương pháp dạy học trực quan . Sử dụng kênh hình vào khai thác thông tin hai chiều tạo nhiều tình huống cụ thể đưa học sinh vào làm chủ thể hoạt động, tạo tình cảm yêu mến bộ môn, đáp ứng yêu cầu đổi mới của sách giáo khoa . Giải pháp khắc phục và ý kiến đề xuất . Phần nội dung phương pháp I/ Nôi dung : Tìm hiểu phương pháp dạy học trực quan . Việc sử dụng kênh hình trong dạy học địa lý 6 tại trường THCS, đặc biệt việc sử dụng sơ đồ, hình vẽ vào việc kiểm tra kiến thức . II/ Quá trình thực hiện : 1/ cơ sở lý luận : Đất nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ từ một nền kinh tế nông nghiệp nay chuyển sang nền kinh tế Công nghiệp. Đẩy mạnh quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Trước sự phát triển đó đòi hỏi nghành Giáo dục- Đào tạo phải đổi mới phương pháp dạy học nhằm mục đích đào tạo con người mới, năng động sáng tạo, những chủ nhân khoa học tương lai của đất nước, phù hợp xu thế phát triển đi lên của đất nước . Mục tiêu của Giáo dục Việt Nam là " Hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực của công dân Việt Nam, tự chủ, năng động, sáng tạo có kiến thức văn hóa, khoa học công nghệ, có kĩ năng nghề nghiệp, có sức khỏe, có niềm tin và lòng tự hào dân tộc, có ý chí vươn lên, có khả năng tự học, tự rèn, biết vận dụng lý thuyết vào thực tiễn cuộc sống đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa ". Để đạt được mục tiêu đó, ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường học sinh phải luyện khả năng suy nghĩ, hoạt động một cách tự chủ, năng động và sáng tạo.Từng bước áp dụng phương tiện dạy học tiên tiến hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo thời gian tự học và tự nghiên cứu cho học sinh . 2/ Cơ sở thực tiễn : 2.1/Tìm hiểu phương pháp dạy học trực quan : 2.1.1/ Khái niệm : -Phương pháp dạy học trưch quan là phương pháp sử dụng các phương pháp trực quan trước,trong và sau khi lĩnh hội kiến thức,tài liệu học tập mới. Sử dụng các phương tiện trực quan nhằm gợi mở và hướng dẫn học sinh khai thác các nguồn tri thức và phát triển các năng lực tư duy,sáng tạo cho học sinh . 2.1.2/ Vai trò của phương pháp dạy học trực quan : 2.1.3/ Các phương pháp trong phương pháp dạy học trực quan : - Phương pháp sử dụng bản đồ . - Phương pháp sử dụng tranh ảnh, hình vẽ . -Các phương pháp khác . 2.2/ Định hướng về việc sử dụng phương tiện dạy học trực quan trong dạy học địa lý . Các thiết bị dạy học Địa lý vừa là nguồn cung cấp kiến thức, vừa là phương tiện minh họa cho bài học, là nguồn kiến thức khi nó được sử dụng để khai thác kiến thức Địa lý, là phương tiện minh họa khi nó được sử dụng để minh họa nội dung đã được thông báo trước đó . Tính trực quan trong phương tiện dạy học tạo cho học sinh có sự tin tưởng vào tính chân thực của sự vật được quan sát. Tuy nhiên bất kì sự tri giác thực sự nào cũng không thể diễn ra ngoài điều kiện tư duy tích cực. Nói một cách khác trong dạy học sử dụng các phương tiện trực quan thì ở bất cứ hoạt động tri giác nào cũng thống nhất với tư duy trìu tượng. Việc giảng dạy bằng phương tiện trực quan sẽ dẫn tới khái quát hóa, quy nạp . Như vậy, phương tiện trực quan trong dạy học có một chức năng quan trọng : Đó là làm chổ dựa cho hoạt động tư duy, phát triển tư duy, phát triển trí tuệ. Phương tiện dạy học là một nguồn kiến thức quan trọng mà trong dạy học lấy học sinh làm trung tâm, người học dưới sự tổ chức, chỉ đạo của giáo viên khai thác tìm hiểu, từ đó những tri thức cần thiết phục vụ cho việc nhận thức các mối quan hệ, các khái niệm các quy luật Địa lý. Sử dụng các phương tiện dạy học địa lý , yêu cầu giáo viên phải rèn luyện cho học sinh các kĩ năng khai thác tri thức từ nguồn tri thức khác nhau như bản đồ, bảng thống kê, các số liệu, lát cắt, sơ đồ hình vẽ, sách giáo khoa và các phương tiện khác. Chính nhờ vào các kĩ năng đó, học sinh có thể độc lập làm việc với các nguồn tri thức khác nhau để nhận thức nội dung học tập . Như vậy, trong dạy học địa lý còn chú ý nhiều hơn đến chức năng , nguồn kiến thức của các thiết bị dạy học, đồng thời cũng tạo điều kiện để học sinh làm việc với phương tiện này . 2.3/ Thực trạng dạy và học trực quan ở trường THCS . 2.3.1/ Về phía giáo viên : Nhìn chung việc sử dụng dụng cụ trực quan đã được đưa vào thực hiện ở hầu hết ở các trường, đặc biệt từ khi đổi mới sách giáo khoa đến nay, ở một số trường đã đưa ra mượn đồ dùng daỵ học và căn cứ vào sổ kí mượn để làm điều kiện xếp loại công chức, buộc giáo viên phải mượn thiết bị dạy học để dạy. Tuy nhiên không phải trường nào cũng làm được như vậy và việc sử dụng đã thực sự có chất lượng . Chúng ta cần nhìn thẳng vào vấn đề : Hầu hết các giáo viên có mượn dụng cụ trực quan, nhưng chưa thường xuyên, sử dụng còn qua loa, nên vai trò và chức năng của dụng cụ trực quan bị hạn chế rất nhiều mà chương trình lớp 6,7 dụng cụ trực quan là yếu tố quyết định trong dạy học địa lý. Vì những lý do trên nên kết quả dạy và học của 4 năm thực hiện cải cách dạy học theo phương pháp mới vẫn chưa cao . Đối với trường THCS Hiệp Cát những năm trước do tình hình chung nên dụng cụ trực quan còn thiếu , giáo viên đôi khi chuẩn bị không kịp nên chỉ chuẩn bị được những dụng cụ đơn giản, vì vậy kết quả dạy và học còn chưa cao. Từ tháng 9/2002 đến nay đã được đổi mới phương pháp, các dụng cụ trực quan cũng được cung cấp nhiều hơn nên việc dạy và học cũng có những thuận lợi đáng kể. Hiện nay chất lượng Dạy và Học được nâng lên một bước. 2.3.1/ Về phiá học sinh : Do quan niệm đây là bộ môn phụ nên học sinh chưa đầu tư thời gian thích đáng cho việc học tập bộ môn. Phần vì kiến thức Địa lý khá trìu tượng, nhiều mối quan hệ tự nhiên - xã hôị rất phức tạp, bản chất là một môn học rất khô khan nên học sinh ít thích học . Hầu hết các em học mang tính chất đối phó, học địa lý nhưng chưa hiểu để làm gì, ứng dụng vào lĩnh vực nào của cuộc sống.Nói như vậy có nghĩa là học sinh chưa hiểu được vai trò, vị trí, tầm quan trọng của bộ môn phần vì giáo viên có lẽ chưa tạo được tình cảm yêu mến bộ môn cho các em, phần vì nhiều phụ huynh cũng có cùng quan niệm với các em Vì những lý do trên nên kết quả học tập môn địa lý nhìn chung còn chưa cao . 2.4/ Giải pháp khắc phục : Như vậy việc chuẩn bị của giáo viên ở nhà là rất quan trọng, giáo viên phải nghiên cứu thật kỹ nội dung bài dạy để sáng tạo cho mình những dụng cụ trực quan phù hợp sinh động nhất. Đối với những dụng cụ trực quan đã có sẵn chúng ta cần khai thác trịêt để lượng kiến thức cho phép trong dụng cụ trực quan đó phát huy vai trò của dụng cụ trực quan của kênh hình và kênh chữ trong một bài học,chú trọng vào chất lượng dạy và học,lựa chọn phương pháp phù hợp cần kết hợp giữa khai thác,kiểm tra và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. III.việc sử dụng kênh hình trong dạy học môn địa lí 6 trường trung học cơ sở. Một số vấn đề trong dạy học địa lí 6. Đối với chương trình địa lí 6 được biên soạn theo tinh thần cung cấp các tình huống, thông tin đã được lựa chọn.Vậy giáo viên phải tổ chức học tập, phân tích, tổng hợp và xử lí thông tin, tạo điều kiện cho học sinh trong quá trình học tập vừa tiếp nhận được kiến thức vừa rèn luyện các kỹ năng và nắm được phương pháp học tập tạo điều kiện tự khám phá, tự phát hiện, tự tìm đến với kiến thức mới, phát huy tính tích cực, độc lập của học sinh. Những tranh ảnh, hình vẽ trong sách giáo khoa không đơn thuần chỉ là minh họa cho bài giảng mà chúng còn gắn bó hữu cơ với bài học là một phần không thể thiếu được trong nội dung bài học. Ví dụ: Bài 1 "Vị trí, hình dạng, kích thước của Trái đất . Phần 1:Vị trí của Trái đất trong hệ Mặt trời. Nếu chỉ đơn thuần khai thác kênh chữ thì cả giáo viên và học sinh sẽ vô tình bỏ qua vị trí của Trái đất trong hệ Mặt trời.Như vậy phần quan trọng nhất trong mục(I) sẽ bị bỏ qua.Trong phần này kênh hình đã thể hiện đầy đủ nội dung cơ bản của mục(I).Chỉ bằng một câu hỏi:Quan sát H1 em hãy kể tên 9 hành tinh trong hệ Mặt trời và cho biết Trái đất nằm ở vị trí thứ mấy trong hệ Mặt trời tính theo thứ tự xa dần Mặt trời ? Học sinh sẽ quan sát H1 và dễ dàng trả lời được yêu cầu của giáo viên,sau đó giáo viên có thể tổng kết mục(I)như sau: Trái đất là một trong 9 hành tinh của hệ Mặt trời. Trái đất đứng vị trí thứ 3 tính theo thứ tự xa dần Mặt trời. Như vậy,việc sử dụng kênh hình phải được giáo viên sử dụng tối đa,triệt để,để khai thác kiến thức. Từ thực tế trên thì công việc chuẩn bị bài giảng ở nhà của giáo viên là tối quan trọng, mang tính khoa học cao, hình vẽ, sơ đồ, lược đồ phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ quan sát, câu hỏi phải gãy gọn, hàm ý rõ ràng, kích thích sự tìm tòi, hứng thú học tập của học sinh.Giáo viên không chỉ đơn thuần dạy bằng những thiết bị có sẵn, mà còn phải sáng tạo ra những hình vẽ đơn giản, sưu tầm tranh ảnh, minh họa tổ chức hoạt động có hiệu quả, phù hợp với đối tượng học sinh. Khi dạy giáo viên cần tận dụng việc khai thác kiến thức kết hợp kiểm tra kiến thức và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. 2. Một số ví dụ cụ thể. Ví dụ 1 : Bài 8 : Sự chuyển động trái đất quanh mặt trời . *Phần 1 : Sự chuyển động của trái đất quanh mặt trời . Sự chuyển động của trái đất quanh mặt trời Sự vận động của Trái đất quanh Mặt trời và các mùa ở Bắc bán cầu : Khai thác kiến thức : Quan sát hình trên hãy cho biết : - Hướng chuyển động của trái đất quanh mặt trời ? Độ nghiêng và hướng nghiêng của trục trái đất ở các vị trí : Xuân phân, Hạ chí , Thu phân và Đông chí , *Phần 2: Hiện tượng các mùa . Quan sát hình trên cho biết : -Trong ngày 21 tháng 3 nữa cầu nào ngã về phía mặt trời ? Nữa cầu đó là mùa gì ? ( Xuân, Hạ, Thu, Đông ). -Trong ngày 23 tháng 9 nữa cầu nào ngã về phía mặt trời ? Nữa cầu chếch xa mặt trời có mùa gì ? - Trái đất hướng cả hai nữa cầu Bắc và Nam về phía mặt trời như nhau vào các ngày nào ? - Khi đó ánh sáng mặt trời chiếu thẳng góc vào nơi nào trên bề mặt trái đất ? + Kiểm tra kiến thức : Sự chuyển động của trái đất quanh mặt trời Sự chuyển động của Trái đất quanh Mặt trời và các mùa ở Bắc bán cầu Điền vào hình vẽ : Trục trái đất , hướng chuyển động quanh trục của Trái đất ở cả 4 vị trí , ngày tháng và vị trí của các ngày Xuân phân , Thu phân , Đông chí , Hạ chí ? Hướng chuyển động của trái đất quanh mặt trời ? ở vị trí khác nhau thì mỗi nữa cầu có mùa gì ? Các mùa ở nữa cầu Bắc ở các vị trí Xuân phân và Thu phân ? ( Giáo viên có thể tổ chức chơi trò chơi hoặc ghép ô chữ ). Ví dụ 2 : Bài 10 : Cấu tạo bên trong của trái đất . Phần 1 : Cấu tạo bên trong của trái đất .( hình vẽ ) Cấu tạo bên trong của trái đất Khai thác kiến thức : Dựa vào hình trên hãy trình bày cấu tạo bên trong của Trái đất ? Dựa vào bảng SGK trình bày từng đặc điểm cụ thể ? Kiểm tra kiến thức : *Rèn luyện kĩ năng : Quan sát , đọc , trình bày các đối tượng Địa lý trên hình vẽ ? Ví dụ 3 : Bài 20 : Hơi nước trong không khí , Mưa. Phần 1 : Mưa và sự phân bố lượng mưa trên Trái đất . Khai thác kiến thức : Để minh họa phần này Giáo viên nên tự minh họa bằng hình vẽ sáng tạo Biểu đồ lượng mưa ở Thành phố Hồ Chớ Minh . Dựa vào hình a : Nhận xét lượng mưa qua biểu đồ ? b-Bản đồ phân bố lượng mưa trên thế giới . Quan sát hình b và cho biết : Những khu vực có lượng mưa trung bình năm trên 2000mm ? Những khu vực có lượng mưa trung bình năm dưới 2000mm ? Nhận xét về sự phân bố lượng mưa trên thế giới ? Kiểm tra kiến thức : Sử dụng hình a và b để kiểm tra kiến thức và đặt câu hỏi , nêu nhận xét ? Rèn luyện kĩ năng : Quan sát, đọc, phân tích các mối liên hệ Địa lý, làm quen với số liệu, kĩ năng trình bày kiến thức bằng bản đồ, biểu đồ, hình vẽ. IV / Kết quả thực nghiệm và ý kiến đề xuất : 1/ Kết quả thưc nghiệm : Trải qua quá trình dạy học ở trường THCS kết quả cho thấy : Về kiến thức : Thông qua quan sát mô hình, hình vẽ, lược đồ, bản đồ và vận dụng các mô hình, hình vẽ để chuyển hóa thành trò chơi, học sinh lĩnh hội kiến thức nhanh hơn, tiếp nhận thông tin địa lý nhẹ nhàng hơn, kiến thức nắm được vững vàng hơn và buớc đầu học sinh yêu thích học tập bộ môn hơn, giờ học sôi nổi hơn . Về mặt kĩ năng học sinh đã sử dụng tương đối thành thạo các kĩ năng địa lý như : Quan sát, mô tả, phân tích, nhận xét và trình bày các đối tượng địa lý, biết lập những sơ đồ đơn giản, biết vận dụng kiến thức đã học để tìm hiểu thiên nhiên môi trường xung quanh, bổ sung kiến thức địa lý cho mình.Giải thích được các hiện tuợng tự nhiên đơn giản và vận dụng vào thực tế đời sống sản xuất tại địa phương . Rèn luyện cho học sinh khả năng thu thập, xử lý, tổng hợp thông tin địa lý . Về thái độ tình cảm : Học sinh yêu thích học tập bộ môn, yêu mến thiên nhiên, từ đó có ý thức bảo vệ thiên nhiên môi trường. có niềm tin vào khả năng của con người để chinh phục tự nhiên, cải tạo tự nhiên để phục vụ cuộc sống.Từ đó các em có ý thức bảo vệ môi trường xung quanh "Xanh - Sạch - Đẹp " môi trường sống trong lành. Giữ gìn vệ sinh trường, lớp, có ý thức chăm sóc và bảo vệ cảnh quan trường học . 2/ Đề xuất ý kiến : Trong điều kiện đổi mới phương pháp dạy học hiện nay việc sử dụng đồ dùng dạy học là không thể thiếu. Các thiết bị dạy học cần được cung cấp đầy đủ, đồng bộ.Tạo điều kiện cho Giáo viên có nhiều thời gian vào việc nghiên cứu các tài liệu khác phục vụ việc giảng dạy tốt hơn . Về phía giáo viên cũng cần đề cao vai trò dạy học trực quan , sử dụng đồ dùng dạy học thường xuyên, nghiêm túc, triệt để, sáng tạo nhằm đưa chất lượng Dạy - Học ngày một cao hơn . Phần kết luận I/ Kết luận : Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp dạy học tích cực, cơ bản nhất trong dạy học địa lý . Nhằm phát huy tính tích cực , chủ động sáng tạo, tạo hứng thú học tập địa lý, nắm được phương pháp học tập môn Địa lý. Học sinh có thể tự khai thác, tìm tòi kiến thức để bổ sung cho nguồn tri thức Địa lý của mình thêm phong phú, tạo nên những năng lực cần thiết để sau này học sinh trở thành người lao động sáng tạo, năng động, hòa nhập với nhịp sống hiện nay . Việc sử dụng kênh hình trong dạy học địa lý 6 là một vấn đề quan trọng nhất trong dạy học địa lý, vì chương trình địa lý 6 mang tính cung cấp thông tin, thông qua các hình vẽ, sơ đồ và một số lược đồ đơn giản . Kênh hình trong dạy học địa lý 6 khá hoàn chỉnh, mang nhiều lượng kiến thức cơ bản của bài học, có mối quan hệ hữu cơ với bài học. Như vậy kênh hình sách giáo khoa Địa lý 6 phải được sử dụng tối đa để hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức . Tóm lại : Phương pháp dạy học trực quan trong địa lý và việc sử dụng kênh hình trong dạy học Địa lý 6 là phương pháp tối ưu cho giáo viên. Đòi hỏi giáo viên phải vận dụng sáng tạo vào từng chương, từng bài, từng tiết học sao cho phù hợp nhằm phát huy ưu thế của phương pháp này và nâng cao tính khoa học trong dạy học Địa lý . II/ Lời tác giả : Trên đõy là những ý kiến chủ quan của cá nhân tôi từ thực tiễn giảng dạy. Chắc còn nhiều thiếu sót, nhiều điểm chưa hợp lý, câu từ còn chưa thuyết phục. Rất mong được đồng nghiệp đóng góp ý kiến, cùng xây dựng một phương pháp dạy học hoàn thiện hơn, phù hợp thực tế địa phương hơn nữa. Mục đích nhằm nâng cao chất lượng Dạy - Học bộ môn trong nhà trường THCS với yêu cầu phát triển của sự nghiệp Giáo dục và của đất nước . Xin chân thành cảm ơn ! Phần mở đầu I/ Lý do chọn đề tài . II/ Mục đích, phạm vi, đối tượng nghiên cứu . 1/ Mục đích . 2/ Đối tượng nghiên cứu . 3/ Nhiệm vụ nghiên cứu . Phần nội dung , phương pháp . I/ Nội dung . II/ Quá trình thực hiện . 1/ Cơ sở lý luận . 2/ Cơ sở thực tiễn . 2.1Tìm hiểu và phương pháp dạy học trực quan . 2.1.1. Khái niệm . 2.1.2.Vai trò của phương pháp dạy học trực quan . 2.2.Định hướng về việc sử dụng phương tiện dạy học trực quan trong dạy học Địa lý 2.3.Thực trạng dạy học trực quan ở trường THCS . 2.3.1.Về phía Giáo viên . 2.3.2Về phía học sinh . 2.4. Giải pháp khắc phục . III/ Việc sử dụng kênh hình trong dạy học Địa lý 6 tại trường THCS . 1/ Một số vấn đề trong dạy học Địa lý 6 . 2/ Một số ví dụ cụ thể . IV/ Kết quả thực nghiệm và ý kiến đề xuất Kết quả thực nghiệm . ý kiến đề xuất . Phần kết luận 1/ Kết luận . 2/ Lời tác giả tài liệu nghiên cứu . 1/ Lý luận dạy học địa lý phần đại cương . Nguyễn Dược. 2/ Lý luận dạy học địa lý phần cụ thể . Phan Huy Xu và Mai Phú Thanh. 3/ Một số kết quả nghiên cứu khoa học phần cụ thể . Nguyễn Ngọc Quang . 4/ Lý luận dạy học của trường phổ thông . ĐANILÔP- MA và XCATKIN .MM 5/ Sách giáo khoa Địa Lý 6. 6/ Sách giáo viên Địa Lý 6 7/ Các tài liệu khác .

Cập nhật thông tin chi tiết về Phương Pháp Dạy Học Trực Quan trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!