Bạn đang xem bài viết Phòng Ngừa Sự Cố Y Khoa Trong Việc Xác Định Người Bệnh Và Cải Tiến Trong Nhóm Chăm Sóc được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Phòng ngừa sự cố y khoa trong việc xác định người bệnh và cải tiến thông tin trong nhóm chăm sóc
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo thống kê của ủy ban liên hợp quốc tế về an toàn bệnh nhân, các sự cố xảy ra trong trao đổi thông tin chiếm đến 65% của tất cả sự cố. Sự sai lạc trong trao đổi thông tin thường dẫn đến giữa các nhân viên y tế (NVYT) với nhau và giữa nhân viên y tế và bệnh nhân thường dẫn đến xác định sai người bệnh. Do đó, cần cải tiến và gia tăng sự trao đổi thông tin, phòng ngừa những sai sót, sự cố y khoa trong việc xác định người bệnh và cải tiến thông tin trong nhóm chăm sóc.
NGUYÊN TẮC PHÒNG NGỪA SỰ CỐ
Quản Lý Thông Tin
Quản Lý Thông Tin bao gồm thu thập, lưu trữ, trích xuất, chuyển tải, phân tích, kiểm soát, phân phối, và sử dụng dữ liệu họăc thông tin, cả trong nội bộ cơ sở và với bên ngoài, theo đúng luật pháp và các qui định. Ngoài các thông tin bằng văn bàn và lời nói, công nghệ thông tin hỗ trợ và các dịch vụ thông tin hỗ trợ khác cũng nằm trong qui trình quản lý thông tin.
Quản lý thông tin hỗ trợ cho việc ra quyết định kịp thời và hiệu quả ở tất cả mọi cấp độ của cơ sở. Các qui trình quản lý thông tin hỗ trợ các quyêt định về mặt quản lý và thực hiện, các hoạt động cải tiến việc thực hiện, và các quyết định về chăm sóc, điều trị, và phục vụ bệnh nhân. Việc đưa ra quyết định về chuyên môn và mang tính chiến lược tuỳ thuộc vào thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm hồ sơ bệnh nhân, thông tin dựa trên kiến thức, dữ liệu/thông tin có tính so sánh, và dữ liệu/thông tin tồng thể.
Để hỗ trợ việc ra quyết định về chuyên môn, thông tin trên hồ sơ bệnh nhân phải gồm các điểm sau:
Sằn sàng để khai thác trên toàn hệ thống
Được lưu lại chính xác
Hoàn chỉnh
Được sắp xếp để trích xuất có hiệu quả các dữ liệu cần thiết
Đúng hạn
Các dữ liệu và thông tin mang tính so sánh về việc thực hiện phải sẵn sàng để ra quyết định, nếu áp dụng
Cơ sở có khả năng thu thập và tổng hợp dữ liệu và thông tin để hỗ trợ việc chăm sóc và phục vụ, gồm những việc sau: Chăm sóc cá nhân và chăm sóc nói chung, quản trị và nghịêp vụ chuyên môn, phân tích các xu hướng theo thời gian, so sánh việc thực hiện theo thời gian trong nội bộ cơ sở và với các cơ sở khác, cải tiến nghiệp vụ chuyên môn và kiểm soát nhiễm khuẩn.
Quản lý tốt thông tin đòi hỏi:
Khuyến khích trao đổi và hợp tác giữa bác sĩ và điều dưỡng hoặc các nhân viên chăm sóc khác. Tránh văn hoá theo thứ bậc
Xây dựng và khuyến khích hệ thống báo cáo không khiển trách, khuyến khích nhân viên báo cáo các tai nạn, sự ngừng hoạt động, hoặc cận-sự-cố. Có thể sử dụng những từ như tai nạn hoặc sự ngừng hoạt động thay vì lỗi, và trách nhiệm thay vì khiển trách. Cho phép báo cáo bí mật hoặc vô danh về các tai nạn y tế, cận-tai-nạn, và rủi ro trong qui trình hoặc môi trường chăm sóc.
Huấn luyện có năng lực làm việc trong môi trường đồng đội và làm theo các hệ thống và qui trình sẽ hiếm khi nào phạm sai lầm ảnh hưởng đến sự an toàn ở cấp độ cơ sở. Do đó lãnh đạo phải bảo đảm việc huấn luyện toàn diện và kịp thời cho tất cả nhân viên trong các qui trình và phương thức thao tác.
Cung cấp nguồn lực cần thiết để bảo đảm quản lý thông tin hiệu quả. Dữ liệu phải đồng bộ, kịp thời, và chính xác, và các phương thức thực hiện và các qui trình phải được lưu hồ sơ cẩn thận nhằm giảm bớt hoặc xoá bỏ những biến đổi hoàn toàn không cần thiết.
Xác định người bệnh
Các nguyên tắc chung trong xác định người bệnh:
Cần xác định một cách đáng tin cậy cá nhân đó chính là người mà ta phải chăm sóc, điều trị, và phục vụ
Cần ráp nối việc chăm sóc, điều trị, và phục vụ của người bệnh với nhau
Các nội dung cần thiết trong xác định người bệnh:
Phải có hai mẩu thông tin để nhận dạng bệnh nhân (ví dụ, tên và ngày sinh của bệnh nhân). Có thể sử dụng băng cổ tay có ghi tên và một con số riêng biệt của bệnh nhân để nhận dạng chính xác bệnh nhân (tên và con số riêng biệt là hai mẩu thông tin).
Hai công cụ nhận dạng cụ thể này phải được gắn kết trực tiếp với bệnh nhân, và cũng hai công cụ ấy phải được gắn kết trực tiếp với thuốc men, các sản phẩm về máu, các ống chứa mẫu vật lưu (chẳng hạn trên nhãn được dán vào).
Cải tiến việc trao đổi thông tin của nhân viên.
Trao Đổi là qui trình nhờ đó thông tin được trao đổi giữa các cá nhân, các khoa phòng, hoặc các cơ sở. Việc trao đổi phải đi vào mọi khía cạnh của cơ sở y tế, từ thực hiện việc chăm sóc cho đến cải tiến, dẫn đến những tiến bộ đáng kể trong chất lượng và trong việc thể hiện chức trách. Các công đoạn của qui trình trao đổi thong tin gồm có:
Trao đổi giữa nhà cung cấp dịch vụ y tế và/hoặc nhân viên y tế và bệnh nhân.
Hướng dẫn bệnh nhân và gia đình họ.
Trao đổi và hợp tác giữa các nhân viên.
Phân phối thông tin.
Làm việc theo đội ngũ đa ngành.
Các nguyên tắc chung trong cải tiến việc trao đổi thông tin của nhân viên:
Lãnh đạo bệnh viện cần thông tin cho NVYT về vai trò của cải tiến việc trao đổi thông tin đối với chất lượng và sự an toàn trong chăm sóc sức khoẻ.
Thất bại trong trao đổi thông tin phải được nhìn nhận là do lỗi hệ thống hơn là quy cho bất cứ một nhân viên cụ thể nào.
NVYT phải nắm được lợi ích của việc làm việc nhóm, sự hợp tác, và trao đổi thông tin. để có được sự trao đổi thành công trong công việc
Ngoài việc trao đổi giữa các thầy thuốc với nhau, và với các chuyên gia y tế khác, trao đổi giữa thầy thuốc với bệnh nhân và gia đình họ là rất cần thiết. . Bệnh nhân và các thành viên trong gia đình cũng cần được giáo dục về giá trị của việc trao đổi thông tin với người chăm sóc sức khoẻ cho mình.
Cơ sở y tế cần phải nắm chắc bệnh nhân là ai.
Các nội dung cần thiết để cải tiến việc trao đổi thông tin của nhân viên:
Xác định rõ ràng các phương pháp trao đổi thông tin được mong đợi. Sử dụng các tiến bộ ở nhiều lĩnh vực khác nhau để cải tiến việc trao đổi thông tin giữa các thầy thuốc. Trao đổi trực tiếp giữa các nhân viên y tế thường là cách tốt nhất để mang lại sự chăm sóc an toàn, chất lượng cao. Sử dụng tư liệu viết tay cần triển khai và thực hiện. Chú ý các tài liệu viết tay nhất thiết phải dễ đọc.
Triển khai và thực hiện các phương thức hiệu quả để liên lạc với các chuyên gia. Liên lạc nhanh chóng với các chuyên gia và cố vấn là điều rất quan trọng của cơ sở y tế để bảo vệ người bệnh khỏi những hậu quả xấu và bảo đảm điều trị được liên tục. Ví dụ, một bác sĩ cấp cứu cần liên lạc các chuyên gia như bác sĩ phẫu thuật chấn thương và bác sĩ phẫu thuật tim qua máy nhắn tin, điện thoại, hoặc các phương tiện khác để chăm sóc đúng cho bệnh nhân đang trong phòng cấp cứu với vết thương do súng đạn và cơn nhồi máu cơ tim.
Khuyến khích thắc mắc khi nhận y lệnh không rõ ràng hoặc mang tích cách cưỡng bức. Nhân viên nên được khuyến khích đặt câu hỏi và thắc mắc về những gì không rõ ràng hoặc những y lệnh không thích hợp.
BIỆN PHÁP
Cải tiến sự chính xác trong việc xác định bệnh nhân
Biện pháp 1:
Sử dụng ít nhất hai công cụ nhận dạng bệnh nhân (nhưng cả hai đều không phải là số phòng hoặc số giường của bệnh nhân) bất cứ khi nào quản lý thuốc men và các sản phẩm về máu, lấy mẫu máu và các mẫu khác để xét nghiệm, hoặc làm công tác điều trị họăc bất cứ công việc nào khác
Có thể sử dụng thông tin như tên bệnh nhân, ngày sinh bệnh nhân, hoặc mã vạch làm công cụ nhận dạng
Khi kiểm tra tên với bệnh nhân, nhân viên y tế không bao giờ nên đọc tên và yêu cầu bệnh nhân xác nhận nó. Những bệnh nhân bị nhầm lẫn hoặc rối loạn hành vi có thể đồng ý ngay cả khi đó không phải là tên của họ. Cách làm an toàn hơn là yêu cầu bệnh nhân tự nói tên của họ.
Trường hợp bệnh nhân hôn mê, thân nhân người bệnh phải xác định nhân thân cho họ. Nếu bệnh nhân hôn mê được đưa đến bệnh viện bởi công an hoặc dịch vụ cấp cứu và không có một chứng cứ nào về nhân thân, hỏi công an hoặc nhân viên cấp cứu về người bệnh, nếu có thể và cho họ số nhập viện hoặc số cấp cứu hoặc số hồ sơ.
ĐỐI VỚI CÁC PHÒNG XÉT NGHIỆM: Sử dụng ít nhất hai công cụ nhận dạng bệnh nhân (nhưng cả hai đều không là vị trí của bệnh nhân) bất cứ khi nào lấy mẫu cho phòng xét nghiệm hoặc quản lý thuốc men và các sản phẩm về máu, và sử dụng cả hai công cụ nhận dạng để dán nhãn cho các vật chứa mẫu có sự hiện diện của bệnh nhân. Các quy trình được xây dựng để vẫn giữ được tên chủ nhân của các mẫu trong suốt quá trình trước phân tích, đang phân tích, và sau phân tích.
Biện pháp 2: Ngay trước khi bắt đầu bất cứ thủ thuật xâm lấn nào, cần tiến hành qui trình làm rõ sau cùng để xác định chính xác bệnh nhân, phương pháp, vị trí, và sự sẵn sàng các hồ sơ thích hợp. Việc làm rõ này phải tiến hành ở nơi thủ thuật được thực hiện, ngay trước giây phút bắt đầu. Nhân thân bệnh nhân được tái xác định nếu bác sĩ thực hiện đã rời khỏi chỗ nằm của bệnh nhân trước khi bắt đầu thủ thuật. Đánh dấu vị trí thao tác là điều bắt buộc trừ khi bác sĩ liên tục có mặt từ lúc quyết định tiến hành phương thức cho đến khi bắt đầu thủ thuật.
Ba vấn đề sau đây cần được xác định:
Người bệnh chính xác
Phương pháp chính xác
Vị trí thủ thuật chính xác
Tất cả thành viên của nhóm thực hiện phải tham gia vào qui trình làm rõ cuối cùng. Tất cả hoạt động trong phòng phải ngưng lại để mọi người tham gia. Mọi việc sẽ không được bắt đầu cho đến khi bất cứ và tất cả các câu hỏi và vấn đề đều được giải quyết. Việc thực hiện phải được đọc to lên, chính xác như trên văn bản đồng ý thực hiện. Ví dụ, tại cuộc phẫu thuật, tất cả các bước kế tiếp trong một ca có nhiều bước, tất cả mọi hoạt động phải ngưng lại, và một thành viên được chỉ định, chẳng hạn một y tá vòng ngoài sẽ đọc to cách thức tiến hành và vị trí thực hiện thao tác.
Phải có chính sách cho việc làm rõ sau cùng và phải theo dõi đôn đốc việc tuân thủ chính sách này, bảo đảm tất cả thành viên đều theo đúng đường lối và xác định đúng các lĩnh vực cải tiến.
Biện pháp 3: Đưa bệnh nhân tham gia vào trao đổi thông tin.
Yêu cầu bệnh nhân nhắc nhở nhân viên y tế xác định nhân thân cho họ. Có thể yêu cầu cho bệnh nhân tham gia vào việc đánh dấu vị trí như một phần của qui trình trước khi thực hiện thủ thuật.
Cải tiến hiệu quà trao đổi thông tin giữa nhân viên y tế
Biện pháp 1: Không khuyến khích lệnh miệng. Khi không thể tránh khỏi lệnh miệng:
Nhân viên nhận lệnh miệng phải viết ra và đọc lại đúng nguyên văn cho người bác sĩ đã ra lệnh nghe. Người bác sĩ này sau đó xác nhận bằng miệng rằng lệnh đó là chính xác. Yêu cầu này áp dụng cho tất cả mọi y lệnh bằng miệng, không riêng cho y lệnh cấp thuốc.
Đối với mệnh lệnh bằng miệng hoặc qua điện thoại về các kết quả xét nghiêm quan trọng, làm rõ mệnh lệnh đầy đủ hoặc kết quả xét nghiệm bằng cách yêu cầu nhân viên nhận lệnh “đọc lại” mệnh lệnh đầy đủ hoặc kết quả xét nghiệm. Tại phòng mổ hoặc phòng cấp cứu, điều dưỡng chuyên viên gây mê viết ra y lệnh và đọc lại cho người ra lệnh nghe. Người ra lệnh sau đó có thể xác nhận y lệnh bằng miệng. Để làm rõ hơn, người xử lý lệnh đó có thể đọc to lên trước khi thực hiện và một lần nữa nhận lời xác nhận từ người ra lệnh. Trong trường hợp khẩn cấp, việc “lập đi lập lại” vẫn phải được thực hiện.
Những người nhận y lệnh cấp thuốc cần phải lập lại tên thuốc và liều lượng cho người ra y lệnh và yêu cầu hoặc tự làm việc đánh vần, dùng các cách trợ giúp như “B như trong quả bóng” , “M như trong Mary”. Tất cả con số phải được đánh vần, ví dụ, “21” phải được đọc là “hai một” để tránh nhầm lẫn
Khi có thể, nhờ một người thư hai nghe mệnh lệnh qua điện thoại để làm rõ sụ chính xác.
Ghi lại lệnh miệng trực tiếp vào hồ sơ của người bệnh
Biện pháp 2: Truyền đạt thông tin rõ ràng
Tránh dùng chữ viết tắt. Ví dụ, “1v/3l/n” phải được viết rõ là “ngày 3 lần, mỗi lần 1 viên”.
Viết mục đích của thuốc trên y lệnh. Thông tin này có thể giúp dược sĩ kiểm tra y lệnh cho liều lượng và thời hạn thích hợp. Thông tin này cũng hạn chế sự nhầm lẫn tiềm ẩn của những loại thuốc trông giống nhau và nghe giống nhau.
Y lệnh phải bao gồm tên thuốc, liều lượng, hàm lượng, số lần, lộ trình, khối lượng, và thời hạn.
Có thể dùng các tờ đơn thuốc được in sẵn để nhân viên kiểm tra các ô có ghi y lệnh. Các mẫu đơn này làm giảm bớt thời gian viết y lệnh, xoá bỏ việc giải thích sai khi đọc các lệnh viết tay, tránh được nhầm lẫn và lỗi chính tả.
Cung cấp tên khoa học và tên thương mại của tất cả các nhãn hiệu thuốc. Tất cả thuốc được phát theo đơn phải phải được dán nhãn một cách an toàn và hợp lý với một phương pháp chuẩn hoá trong một cách-thức-sẵn-sàng-để-quản lý nhất, nhằm hạn chế tối đa các sai sót. Các loại thuốc cho theo y lệnh phải có cả tên khoa học lẫn tên thương mại, nếu tên thương mại khác với tên khoa học. Các chuyên viên khảo sát sẽ thẩm định xem tên thuốc trên y lệnh, nhãn dán trên thuốc, và sổ theo dõi của điều dưỡng có giống nhau không. Việc cung cấp cả hai loại tên thuốc bảo đảm sự nhất quán trong sổ sách và giúp ngăn ngừa việc giải thích sai y lệnh.
Cung cấp cho bệnh nhân các thông tin bằng văn bản về thuốc, gồm cả tên khoa học và tên thương mại. Xác nhận các thuốc mà bệnh nhân thắc mắc hoặc không nhận ra.
Xoá những từ viết tắt bị cấm trong tờ y lệnh in sẵn và trong các mẫu đơn khác.
Biện pháp 4: Đo lường, đánh giá kết quả và giá trị xét nghiệm quan trọng để cải tiến sự đúng giờ trong việc báo cáo, và trong tiếp nhận
Báo cáo và tiếp nhận các kết quả và giá trị xét nghiệm quan trọng đúng thời điểm chính
Tất cả các giá trị được xác định là quan trọng bởi phòng xét nghiệm đều được báo cáo trực tiếp cho nhân viên chịu trách nhiệm. Nếu nhân viên chịu trách nhiệm không có mặt ở đó trong thời gian làm việc, cần có cơ chế để báo cáo các thông tin quan trọng cho nhân viên trực.
Xây dựng chính sách cho: (1) khung thời gian mong muốn cho việc báo cáo; (2) ai có thể nhận các thông số quan trọng, và (3) một cơ chế báo cáo thay thế.
MỘT SỐ TÌNH HUỐNG
Ví dụ 1: Điều dưỡng ở khoa phẫu thuật nhận máu tại ngân hàng máu. “Cho nhân bịch máu của bn Lan”. Vào thời điểm đó, có hai bịch máu của hai khoa khác nhau, nhưng đều cùng tên Lan. Nhân viên ngân hàng máu đưa bịch máu của bn Lan khoa khác. Điều dưỡng nhận về. BS thử phán ứng chéo có thấy hơi có ngưng tụ nhưng cho là không vấn đề gi và cho truyền. Bệnh nhân nhận được máu không đúng với mình; phản ứng truyền máu xảy ra và bệnh nhân tử vong.
Ví dụ 2: Một BS trực cấp cứu đang chuẩn bị ra về thì được yêu cầu xem bn cuối cùng . Bn 18 tuổi, theo người nhà nghĩ là uống paracetamol quá liều vì thấy l5 thuốc hết. Bn đang được điều trị tâm lý và khẳng định chỉ uống vài viên cách nhập viện 10 giờ. BS giải thích không cần súc rửa dạ dày và XN kiểm tra paracetamol and salicylate. XN báo qua điện thoại lả salicylate âm tính. Khi nói đến paracetamol, kỹ thuật viên nói “2” rồi ngừng một chút tiếp tục nói “1,3” . Điều dưỡng nghe máy ghi là 2.13. BS nhận KQ và so trên biểu đồ thấy thấp hơn mức độ bình thường nên không xử trí gì. KQ thật sự là 213. Hai ngày sau bn bị suy gan và tử vong 10 ngày sau đó
Sự Cố Y Khoa
Bs Dương Chí Lực – Khoa Ngoại TH
Người bệnh là đối tượng phục vụ của các cơ sở y tế, có nơi còn gọi là “khách hàng”. Cho dù gọi bằng cài gì đi chăng nữa thì mục đích cuối cùng vẫn là sự phục hồi về sức khỏe, nếu không thể thì cũng phải hạn chế các cơn đau và kéo dài sự sống.
Trong thế kỷ 21, cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, trong lĩnh vực y tế cũng đã có những bước đột phá về các phương tiện chẩn đoán và điều trị, giúp “lộ diện” nhiều căn bệnh mà trước đây chưa thể phát hiện ra, giúp điều trị hiệu quả hơn và thời gian phục hồi được rút ngắn một cách đáng kể.
Các cơ sở y tế hay nói riêng là các bệnh viện, bên cạnh các thành quả về công tác khám và chữa bệnh thì đều có nguy cơ tiềm ẩn nhiều yếu tố thuận lợi để xảy ra các sự cố y khoa ngoài mong muốn. Theo nhiều nghiên cứu thì các yếu tố thuận lợi sau đây đã được nhận dạng:
Thứ nhất, tình trạng thiếu Bác sỹ chuyên môn, khiến một người phải đảm nhận nhiều ca bệnh, thêm vào đó là áp lực đối với các bác sỹ khi buộc phải ra những quyết định nhanh chóng đối với các trường hợp khẩn cấp, thậm chí là y lệnh miệng;
Thứ hai, tình trạng quá tải ngày càng trầm trọng trong hầu hết các cơ sở y tế;
Thứ ba, đang tồn tại rào cản thông tin giữa người bệnh, nhân viên y tế và nhà quản lý, đó là sự xa cách, thiếu gần gũi khiến người bệnh cảm thấy lạc lõng, hoang mang và luôn mong muốn tìm người quen để giúp đỡ
Thứ tư, trang thiết bị chưa được đồng bộ, có những bệnh viện có sự đầu tư đáng kể với các phương tiện chẩn đoán hiện đại (MRI, cắt lớp xoắn ốc, nhũ ảnh, .v.v…) nhưng lại quên đi đầu tư vào những cái đơn giản như máy hút, bộ dụng cụ nội khí quản, bộ hồi sức sơ sinh, hộp cấp cứu lưu động .v.v… hoặc trang bị không đồng đều giữa các khoa.
Thứ năm, sử dụng những phương pháp chẩn đoán và điều trị có mức an toàn hẹp, ví dụ có cơ sở khám chữa bệnh chưa có bác sỹ siêu âm, chưa có kháng sinh đồ, điều trị còn mang tính kinh nghiệm, thiếu dựa vào chứng cứ hay nguyên nhân cụ thể.
Thứ sáu, đó là vấn đề sự ảnh hưởng quá nhiều vào yếu tố thị trường, gây xao lãng, thiếu tập trung vào công tác chuyên môn, sự thiếu quan tâm đến người bệnh, giao tiếp kém, gây mất niềm tin đối với người bệnh, tất cả điều đó đều tạo điều kiện thuận lợi cho các sự cố y khoa xảy ra.
Thứ bảy, đó là vấn đề vốn là thuộc tính của ngành y tế như: đặc điểm, cơ địa đáp ứng của người bệnh, đặc điểm của kỹ thuật luôn là con dao hai lưỡi, bên cạnh đó phải kể đến xác suất may rủi trong thực hành y khoa .v.v…
Thứ tám, đây là lỗi hệ thống: do khâu tổ chức chưa phân bố nguồn lực thích hợp, nơi thừa nơi thiếu. Việc xử lý các sự cố đang còn gặp nhiều vấn đề như: đang tồn tại “văn hóa buộc tội”, xem tai biến như là lỗi cá nhân mà không xem xét hệ thống, khiến người thầy thuốc thường không mạnh dạn báo cáo các sự cố, để từ đó rút kinh nghiệm trong toàn bộ hệ thống. Hoặc giữa các cơ sở y tế cũng chưa thật sự trao đổi thông tin, chia sẻ các sự cố y khoa cho nhau.
Thứ chín, đây thuộc về lỗi cá nhân: một bộ phận các nhân viên y tế trẻ còn thiếu kinh nghiệm, chưa được huấn luyện đầy đủ, hoặc có chuyên môn tốt nhưng trong thực hành y khoa thì còn thiếu tính kỷ luật, không tuân thủ các quy trình cũng như các quy định về an toàn người bệnh.
Nắm bắt được các nguyên nhân trên, các nhà quản lý cũng như các thầy thuốc tập trung tìm các giải pháp khắc phục dựa vào nguyên nhân. Ngoài ra, các giải pháp mang tính kinh nghiệm cũng xin phép được chia sẻ như sau:
Thiết kế các công việc đảm bảo an toàn cho người bệnh vì khả năng của thầy thuốc luôn luôn có giới hạn, đó là sự chuyên môn hóa, tránh để thầy thuốc làm trái với chuyên khoa của mình. Mặt khác cũng hạn chế tình trạng một người đảm nhiệm quá nhiều người bệnh.
Tránh dựa vào trí nhớ: giải pháp này thuộc về các thầy thuốc, phải luôn có sách, hoặc các phác đồ bỏ túi, khi đứng trước các trường hợp nên mở ra xem, phải giũ bỏ các tự ti, lòng tự trọng, và phải luôn luôn “chiến thắng bản thân mình”.
Sử dụng chức năng cưỡng ép: đó là làm việc có trình tự, có dây chuyền, nếu không thực hiện bước này của quy trình thì sẽ không thực hiện được bước tiếp theo: ví dụ, nếu chưa đo lấy sinh hiệu người bệnh thì sẽ không thực hiện được việc khám bệnh .v.v…
Đơn giản hóa và chuẩn hóa các quy trình: các bệnh viện nên xây dựng các phác đồ điều trị một cách chuẩn mực nhưng phải đơn giản hóa, tránh phức tạp rườm rà khiến mọi người khó nhớ.
Xây dựng hệ thống khó mắc lỗi: tăng cường hệ thống nhắc nhở (giấy dán tường, dán vào dụng cụ …) thay thế cho việc sử dụng trí nhớ, hệ thống tránh nhầm lẫn trong sử dụng các máy móc hỗ trợ hô hấp, tim mạch, hoặc sử dụng các bảng kiểm trong phẫu thuật, hệ thống báo lỗi trong kê đơn (phần mềm kê đơn) .v.v…
Huấn luyện và tổ chức cho các nhân viên y tế các kỹ năng làm việc nhóm một cách hiệu quả.
Khuyến khích báo các các sai sót nhằm phòng ngừa chính nó trong tương lai.
Để cho người bệnh cùng tham gia vào lựa chọn cũng như thiết kế các quy trình anh toàn trong chẩn đoán và điều trị: thực hiện tính tập trung dân chủ, tạo niềm tin và chia sẻ ở người bệnh.
Người thầy thuốc phải chủ động dự báo trước các tình huống có thể xảy ra.
Phải chủ động thiết lập kế hoạch phục hồi khi có tình huống xảy ra: tránh sự lúng túng, không thống nhất trong nội bộ.
Khoa Ngoại Tiêu hóa mà chúng tôi đang công tác là một khoa luôn có nguy cơ đối diện với các rủi ro trong y khoa, với số lượng công việc chuyên môn ngày càng nhiều, nhân lực còn thiếu và trang thiết bị vẫn còn hạn chế. Đứng trước hoàn cảnh đó, tập thể cán bộ nhân viên trong khoa đều nỗ lực hết mình, không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, thiết lập các quy trình làm việc, có chế độ giám sát thường xuyên: giám sát của lãnh đạo, giám sát lẫn nhau để phòng tránh các sự cố đáng tiếc, đặc biệt là Khoa cũng đã tạo ra nhiều bảng kiểm trong mọi thao tác để đảm bảo quy trình được thực thi một cách có trách nhiệm và hiệu quả cao.
Phòng Ngừa Và Chăm Sóc Trẻ Suy Dinh Dưỡng
Tình trạng suy dinh dưỡng thường gặp ở các bé dưới 5 tuổi, nhất là lứa tuổi từ 6 đến 24 tháng tuổi, là giai đoạn chuyển từ bú mẹ sang ăn thức ăn bổ sung. Theo số liệu từ Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) có đến 45% trường hợp trẻ em dưới 5 tuổi tử vong do suy dinh dưỡng gây ra.
Biếng ăn, không cung cấp đủ dưỡng chất có thể dẫn đến suy dinh dưỡng (Ảnh nguồn internet)
Suy dinh dưỡng là tình trạng thiếu hụt năng lượng và các chất dinh dưỡng làm ảnh hưởng đến quá trình sống, hoạt động và tăng trưởng bình thường của cơ thể trẻ được phân loại làm 3 thể:
Thể nhẹ cân: do tình trạng thiếu dinh dưỡng dẫn đến cân nặng thấp hơn so với mức tiêu chuẩn của trẻ cùng tuổi và giới, được xác định khi cân nặng thấp hơn với mức tiêu chuẩn của trẻ cùng tuổi và giới (dưới -2SD). Thể nhẹ cân phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài cũng như tình trạng thiếu dinh dưỡng tại thời điểm đánh giá.
Thể thấp còi: do tình trạng chậm tăng trưởng kéo dài dẫn đến trẻ không đạt được chiều cao cần có của một đứa trẻ cùng tuổi ở quần thể tham khảo, được xác định khi chiều cao thấp hơn với mức tiêu chuẩn của trẻ cùng tuổi và giới (dưới -2SD). Thể còi cọc phản ánh tình trạng chậm phát triển mạn tính, kéo dài từ trong quá khứ, có thể bắt đầu sớm từ giai đoạn bào thai do mẹ bị thiếu dinh dưỡng.
Thể gày còm: khi chỉ tiêu cân nặng theo chiều cao của trẻ tụt xuống thấp đáng kể so với trị số nên có ở quần thể tham khảo, được xác định khi cân nặng theo chiều cao thấp hơn với mức tiêu chuẩn của trẻ cùng tuổi và giới (dưới -2SD). Thể gầy còm phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng cấp tính do tình trạng không lên cân hoặc đang tụt cân.
Nguyên nhân chính dẫn đến suy dinh dưỡng ở trẻ nhỏ:
Cung cấp không đủ dinh dưỡng: Trẻ biếng ăn, cung cấp không đủ lương thực, thực phẩm, chế độ ăn nghèo nàn, cách chế biến không phù hợp dẫn đến thiếu năng lượng và dưỡng chất.
Tăng tiêu hao năng lượng: Trẻ bệnh nhất là bệnh kéo dài, rối loạn tiêu hóa hấp thu, nhiễm ký sinh trùng đường ruột, thất thoát chất dinh dưỡng do bệnh lý.
Cách nhận biết suy dinh dưỡng ở trẻ em:
Nên cân và đo chiều cao cho bé hàng tháng, đối chiếu với biểu đồ tăng trưởng chuẩn. Với trẻ dưới 2 tuổi, nên cân đo hàng tháng, còn với trẻ trên 2 tuổi, 3 tháng nên cân đo các chỉ số cho trẻ 1 lần. Khi trẻ đứng cân liên tục trong vòng 3 tháng, tức là đường biểu diễn cân nặng đi theo hướng nằm ngang hoặc đi xuống là dấu hiệu suy dinh dưỡng ở trẻ em.
Với các trường hợp không có điều kiện cân đo cho con hàng tháng thì cần quan sát biểu hiện của trẻ để nhận biết kịp thời trẻ suy dinh dưỡng. Khi thấy trẻ nhỏ hơn so với những đứa trẻ cùng tuổi, ăn ít, không ngon miệng, da nhợt nhạt, chân tay nhão, thậm chí teo cơ, ngủ nhiều, ủ rũ, kém linh hoạt thì cần đưa trẻ đến chuyên khoa dinh dưỡng khám để xác định trẻ có suy dinh dưỡng không và có những can thiệp kịp thời.
Tuy nhiên, không nên thấy trẻ nhỏ hơn con người khác mà vội càng kết luận con bị suy dinh dưỡng và ép con ăn thật nhiều, khiến trẻ sợ hãi. Đây chỉ là một trong những dấu hiệu suy dinh dưỡng ở trẻ em, cần đưa trẻ đi khám dinh dưỡng để xác định rõ hơn.
Ảnh hưởng của suy dinh dưỡng đến trẻ nhỏ:
Suy yếu hệ miễn dịch: Suy dinh dưỡng do thiếu vi chất (kẽm, sắt và vitamin) sẽ làm cho hệ thống miễn dịch dần yếu đi. Lúc này, trẻ sẽ có nguy cơ bị nhiễm trùng nhiều hơn bao giờ hết. Đây cũng là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ em.
Gây chậm phát triển thể chất và trí tuệ ở trẻ: Nếu bị nhiễm trùng đường tiêu hóa đồng thời với suy dinh dưỡng, cơ thể trẻ sẽ không thể hấp thụ được các chất dinh dưỡng có trong thực phẩm. Từ đó gây chậm phát triển thể chất và trí tuệ ở trẻ.
Làm xuất hiện các vấn đề về sức khỏe: Thiếu các vi chất khiến sức khỏe của trẻ ngày càng tồi tệ hơn. Ví dụ, thiếu vitamin A gây ảnh hưởng xấu đến thị giác của trẻ; trong khi đó, thiếu protein và kẽm còn ảnh hưởng đến sự phát triển của xương…
Các vấn đề khác: Còi cọc, trí nhớ kém, không có khả năng giải quyết vấn đề ảnh hưởng đến kỹ năng xã hội, rối loạn tiêu hóa, lâu lành vết thương…
Cần chăm sóc trẻ hợp lý nhất là trẻ suy dinh dưỡng (Ảnh nguồn internet)
Chăm sóc trẻ bị suy dinh dưỡng:
Vệ sinh ăn uống: Cho trẻ ăn chín uống sôi, thức ăn nấu xong cho trẻ ăn ngay, không cho trẻ ăn ở những nơi bụi bặm, đường xá, công trường xây dựng vì đó là nguồn lây nhiều bệnh như tiêu chảy, ngộ độc thức ăn.
Vệ sinh cá nhân: Mẹ thường xuyên tắm rửa, vệ sinh thân thể cho trẻ, xây dựng cho trẻ thói quen giữ gìn răng miệng sạch sẽ, không ăn nhiều đồ ngọt để tránh các bệnh sâu răng, viêm lợi, tạo thói quen rửa tay trước khi ăn và sau khi đi đại tiện, cắt móng tay cho trẻ. Không để trẻ lê la dưới đất bẩn. Không cho trẻ mút tay, không quệt tay bẩn lên mặt, không đưa đồ vật, đồ chơi bẩn lên miệng để tránh các bệnh giun sán.
Khích lệ trẻ: Thường xuyên động viên, khuyến khích trẻ, tạo cảm giác vui vẻ trong bữa ăn. Mẹ có thể cho trẻ ăn cùng gia đình, khi mọi người ăn uống, nói chuyện vui vẻ sẽ tạo cho trẻ sự thích thú với bữa ăn. Mẹ tuyệt đối không nên quát mắng, dọa nạt hay đánh đập bắt trẻ ăn, vì khi này sẽ tạo nên áp lực tâm lý, khiến trẻ ngày càng sợ ăn, dẫn đến suy dinh dưỡng ở trẻ nặng hơn.
Khi trẻ ốm, đặc biệt là khi bị tiêu chảy hoặc viêm đường hô hấp cần biết cách xử trí ban đầu tại nhà. Ngoài việc điều trị bằng thuốc, cần coi trọng việc chăm sóc và nuôi dưỡng thích hợp để giúp trẻ mau khỏi bệnh và chóng hồi phục. Nếu trẻ bị nhiễm khuẩn, mẹ không được cho con sử dụng kháng sinh tùy tiện mà cần theo chỉ dẫn của bác sĩ.
Chế độ ăn cho trẻ bị suy dinh dưỡng:
Với trẻ bị suy dinh dưỡng, nên cho trẻ ăn nhiều bữa trong ngày, mỗi bữa một ít để bảo đảm số lượng thức ăn cần thiết cho trẻ, đồng thời phải cung cấp năng lượng cao hơn trẻ bình thường. Chế độ ăn của trẻ nên được cân đối giữa các nhóm chất:
Tăng lượng protein: Suy dinh dưỡng ở trẻ em cần phải tăng lượng protein hơn nhu cầu bình thường để nhanh chóng phục hồi tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Nguyên tắc xây dựng chế độ ăn: Tăng dần lượng calo/kg từ 90-150 Kcalo/kg/ngày, và tăng dần lượng protein từ 2g/kg lên 5-7 g/kg/ngày. Nên dùng các loại thực phẩm có nguồn gốc động vật như: trứng, thịt, sữa, cá, tôm, cua… hoặc có thể dùng các protein có nguồn gốc thực vật như đậu, đỗ, lạc, vừng.
Tăng dầu mỡ: Dầu mỡ cung cấp năng lượng cho trẻ gấp đôi chất bột và chất đạm. Vì vậy, trong bữa ăn hàng ngày của trẻ bị suy dinh dưỡng, mẹ nên tăng lượng dầu mỡ.
Ngoài ra, cần bổ sung một số vi chất dinh dưỡng (vitamin và muối khoáng) để bé nhanh chóng phục hồi tình trạng dinh dưỡng, ăn tốt và làm sao để bé tăng cân.
Bổ sung các dưỡng chất cần thiết để phòng ngừa suy dinh dưỡng ở trẻ (Ảnh nguồn internet)
Phòng ngừa suy dinh dưỡng ở trẻ:
Cho trẻ bú mẹ ngay sau sinh, bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu: Sữa mẹ luôn là thức ăn đầu đời hoàn hảo nhất cho trẻ sơ sinh và là thức ăn tốt, đựoc trẻ chấp nhận trong giai đọan sau. Sữa mẹ, ngoài cung cấp chất dinh dưỡng còn cung cấp các yếu tố chống lại bệnh tật, bảo vệ trẻ khỏi các bệnh lý nhiễm trùng.
Chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ bằng bữa ăn hợp lý: Tập cho trẻ ăn dặm khi bắt đầu 6 tháng tuổi. Cho trẻ ăn đầy đủ 4 nhóm chất dinh dưỡng (bột đường, đạm, béo), không kiêng khem, và có thể duy trì sữa mẹ trong thời gian dưới 2 tuổi. Nếu không có sữa mẹ đủ, lựa chọn loại sữa thay thế phù hợp.
Vệ sinh an toàn thực phẩm: Là vấn đề quan trọng hàng đầu trong việc bảo vệ trẻ tránh các bệnh nhiễm trùng đường ruột, giun sán… Chọn lựa thực phẩm tươi cho trẻ, tránh bảo quản dài ngày trừ trường hợp có tủ cấp đông đúng quy cách, hạn chế cho trẻ dùng các thực phẩm chế biến sẵn, đóng hộp, nấu nướng thức ăn chín kỹ.
Vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân cho trẻ và người chăm sóc trẻ.
Theo dõi biểu đồ tăng trưởng cho trẻ hàng tháng: Nhằm phát hiện sớm tình trạng suy dinh dưỡng hoặc các nguy cơ nếu có và can thiệp sớm.
Ngừa và trị bệnh: Điều trị triệt để các bệnh lý nhiễm trùng hô hấp, tiêu chảy… không lạm dụng kháng sinh mà chỉ dùng kháng sinh đúng chỉ định, đủ liều, đủ thời gian, chăm sóc dinh duỡng tích cực trong thời gian bệnh và phục hồi dinh dưỡng sau thời gian bệnh.
Uống thuốc tẩy giun định kỳ mỗi 6 tháng cho trẻ từ 2 tuổi.
Khuyến khích bé tập thể dục thường xuyên. Tập thể dục sẽ giúp cho quá trình trao đổi chất trong cơ thể diễn ra bình thường và bài tiết chất độc không mong muốn ra khỏi cơ thể. Nếu trẻ không thích tập thể dục, bạn có thể tổ chức một số trò chơi vui nhộn hoặc đưa bé đi bơi, đạp xe.
Suy dinh dưỡng ở trẻ em hoàn toàn có thể phòng ngừa và khắc phục bằng cách cải thiện chế độ ăn hàng ngày. Tuy nhiên, chỉ nên cung cấp đủ các dưỡng chất phù hợp theo tình trạng của trẻ để tránh gây ra hiện tượng béo phì hoặc các bệnh lý do dư thừa chất khác.
Nguồn: Hoàng Yến – https://suckhoequangninh.vn
Chăm Sóc Trong Gia Đình Cho Người Cao Tuổi
Người chăm sóc gia đình đóng một vai trò quan trọng trong việc làm giảm và có thể ngăn ngừa thể chế hóa bệnh nhân cao tuổi bị bệnh mạn tính. Mặc dù hàng xóm và bạn bè có thể giúp đỡ, khoảng 80% sự giúp đỡ trong nhà (thể chất, tình cảm, xã hội, kinh tế) được cung cấp bởi người chăm sóc gia đình. Khi bệnh nhân suy nhược nhẹ hoặc trung bình, vợ / chồng hoặc con trưởng thành thường chăm sóc, nhưng khi bệnh nhân bị suy nhược nghiêm trọng, vợ / chồng (thường là vợ) có nhiều khả năng là người chăm sóc. Khoảng 34 triệu người Mỹ, hơn 10% dân số Mỹ ước tính đã từng là người chăm sóc không có lương cho người từ 50 tuổi trở lên trong năm 2015.
Số lượng và loại hình chăm sóc do các thành viên trong gia đình cung cấp phụ thuộc vào nguồn lực kinh tế, cấu trúc gia đình, chất lượng mối quan hệ và các yêu cầu khác về thời gian và năng lượng của các thành viên trong gia đình. Chăm sóc trong gia đình bao gồm sự trợ giúp tối thiểu (ví dụ như kiểm tra định kỳ) để xây dựng chăm sóc toàn thời gian. Trung bình, việc chăm sóc gia đình cho người cao tuổi mất khoảng 24 giờ mỗi tuần, và khoảng 20% là hơn 40 giờ một tuần. Người chăm sóc người cao tuổi báo cáo rằng 63% người bệnh của họ có tình trạng thể chất lâu dài và 29% bị suy giảm nhận thức.
Mặc dù xã hội có xu hướng xem các thành viên trong gia đình có trách nhiệm chăm sóc cho nhau, nhưng bị hạn chế của nghĩa vụ người con và người kết hôn khác nhau giữa các nền văn hoá, gia đình và thành viên gia đình cá nhân. Sự sẵn sàng của các thành viên trong gia đình để chăm sóc có thể được hỗ trợ bởi các dịch vụ hỗ trợ (ví dụ trợ giúp kỹ thuật trong việc học các kỹ năng mới, dịch vụ tư vấn, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tâm thần gia đình) và các dịch vụ bổ sung (ví dụ như chăm sóc cá nhân (trợ giúp chăm sóc, cho ăn và mặc quần áo) , chăm sóc sức khoẻ tại nhà, trung tâm chăm sóc người cao tuổi ban ngày, các chương trình thực đơn bữa ăn). Các dịch vụ bổ sung có thể được cung cấp theo lịch trình thường quy hoặc là chăm sóc thay thế cho một vài giờ hoặc nhiều ngày.
Sự thay đổi về nhân khẩu học và các giá trị xã hội đã làm giảm số lượng các thành viên trong gia đình có sẵn để chăm sóc cho người già bị suy yếu do:
Gia tăng tuổi thọ: Do đó, dân số của người già đã tăng lên. Vì vậy, con cái của họ, những người chăm sóc tiềm năng, cũng có thể là người già.
Trì hoãn việc sinh con: Cùng với sự tăng tuổi thọ, việc trì hoãn này đã tạo ra một thế hệ kẹp giữa của những người chăm sóc, những người sẽ chăm sóc đồng thời cho con cái và cha mẹ của họ.
Tăng tính di động của xã hội Hoa Kỳ và tỷ lệ ly hôn gia tăng: Kết quả là các gia đình có nhiều khả năng bị tách biệt về mặt địa lý, và mối quan hệ gia đình phức tạp hơn. Tuy nhiên, 80% số người ≥ 65 tuổi được chăm sóc trong vòng 20 phút như chăm sóc một đứa trẻ.
Ngày càng có nhiều phụ nữ trong lực lượng lao động: Trước đây, phụ nữ có thể đã chăm sóc cha mẹ già, nhưng nhu cầu công việc có thể làm giảm hoặc loại bỏ khả năng của họ để làm như vậy.
Số người cao tuổi phụ thuộc và bệnh nặng tăng lên.
Những yếu tố này dự đoán nhu cầu về dịch vụ chăm sóc sức khoẻ gia đình ngày càng tăng do người khác không phải là thành viên gia đình, bạn bè và hàng xóm cung cấp.
Tác động
Mặc dù chăm sóc có thể rất bổ ích, nó cũng có thể có những tác động tiêu cực. Người chăm sóc gia đình có thể bị căng thẳng đáng kể (gọi là gánh nặng chăm sóc) và các vấn đề về sức khoẻ, sự cô đơn, mệt mỏi và thất vọng, đôi khi dẫn đến cảm giác bất lực và kiệt sức (người chăm sóc) hoặc lạm dụng người cao tuổi.
Việc chăm sóc cũng có thể trở thành gánh nặng tài chính. Các cặp vợ chồng trong đó một người quan tâm chăm sóc cho người kia có xu hướng giảm và không cân xứng.
Người chăm sóc thường có thể được đảm bảo hoặc tìm hiểu thông tin hữu ích hoặc các biện pháp chăm sóc từ bác sĩ, y tá, nhân viên xã hội, hoặc quản lý các ca chăm sóc. Những người chăm sóc cũng có thể thực hiện các biện pháp sau đây để chuẩn bị cho việc chăm sóc và để tránh kiệt sức:
Tham gia các hoạt động theo nhu cầu về thể chất, tình cảm, giải trí, tinh thần và tài chính của chính họ
Khi thích hợp, cần có cầu giúp đỡ về chăm sóc hoặc hỗ trợ từ các thành viên khác trong gia đình và bạn bè
Điều tra các nhóm bên ngoài có thể hỗ trợ tâm lý (ví dụ như các nhóm hỗ trợ) hoặc giúp đỡ về chăm sóc (ví dụ như tư vấn, chăm sóc sức khoẻ tại nhà, chăm sóc người cao tuổi ban ngày, các chương trình ăn uống, chăm sóc nghỉ ngơi)
Nếu người thân yêu của họ là kháng cự hoặc khó khăn, đừng nghĩ đó là việc cá nhân
Cập nhật thông tin chi tiết về Phòng Ngừa Sự Cố Y Khoa Trong Việc Xác Định Người Bệnh Và Cải Tiến Trong Nhóm Chăm Sóc trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!