Bạn đang xem bài viết Phát Triển Thị Trường Vốn Việt Nam: Cần Những Giải Pháp Xứng Tầm được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
– Ý kiến đa chiều của nhiều chuyên gia, nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp… tại Diễn đàn “Phát triển thị trường vốn – Cơ hội trong kỷ nguyên mới”, do Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức hôm nay (30/3), đã đưa ra nhiều gợi mở đáng chú ý về hướng phát triển thị trường vốn trong thập niên mới. Xin giới thiệu một số ý kiến tại Diễn đàn.
Diễn đàn “Phát triển thị trường vốn – Cơ hội trong kỷ nguyên mới” được tổ chức tại Trung tâm hội nghị Quốc tế, 35 Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội vào sáng 30/3/2023. Diễn đàn do Tạp chí Kinh tế và Dự báo tổ chức, nhằm tạo nên một sự kết nối, chia sẻ tầm nhìn và nhận diện bức tranh thị trường vốn trong kỷ nguyên mới.
Các nhà quản lý, chuyên gia, lãnh đạo doanh nghiệp đã cùng chia sẻ những đánh giá của mình về 20 năm phát triển thị trường vốn và gợi mở những giải pháp, tầm nhìn cho kỷ nguyên mới
SÁNG KIẾN TỪ DOANH NGHIỆP
“Cần quan tâm hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp yếu”
Ông Khổng Phan Đức, Chủ tịch HĐQT Công ty Quản lý quỹ Vietinbank
Ông Khổng Phan Đức, Chủ tịch HĐQT Công ty Quản lý quỹ Vietinbank
Khi định mức rủi ro của doanh nghiệp cao, thì khó tiếp cận vốn ngân hàng, nên phải tiếp cận vốn trên thị trường tài chính (phát hành cổ phiếu, trái phiếu hoặc các công cụ phái sinh). Chúng ta hay nói đến những đơn vị huy động vốn thành công trên thị trường tài chính, nhưng lại thường không quan tâm đến những doanh nghiệp vì nhiều lý do mà không còn tốt nữa nên gặp khó khăn trong huy động vốn.
Thực tiễn trong suốt quá trình phát triển, công ty không phải lúc nào cũng thuận lợi, có những lúc họ suy yếu, rơi vào tình trạng mất thanh khoản… Lúc đó họ rất khó khăn và cần vốn, cần hơn cả khi họ đang phát triển tốt. Song các quy định pháp lý dường như ít quan tâm đến nhu cầu huy động vốn của các đơn vị yếu kém này. Do đó, cần có chính sách tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp yếu, có điều kiện tài chính chưa được tốt để tiếp cận vốn trên thị trường. Khi họ không thể tiếp cận được vốn ngân hàng, thì vẫn cần có cửa khác để cho họ huy động được vốn.
“Cần phát triển mạnh ngành bảo hiểm và quản lý tài sản…”
Ông Phạm Tiến Dũng, Giám đốc phân tích, Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC)
Ông Phạm Tiến Dũng, Giám đốc phân tích, Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC)
Để thúc đẩy sự phát triển của 2 ngành này, cần nghiên cứu và cho phép triển khai một số loại hình bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hưu trí… với đặc điểm là chi phí tham gia bảo hiểm được giảm trừ khi tính thuế thu nhập cá nhân, để khuyến khích người dân tiết kiệm tham gia bảo hiểm, từ đó hỗ trợ sự phát triển của thị trường vốn.
Cơ quan quản lý TTCK cần thiết lập các quỹ nghiên cứu, cơ chế để hỗ trợ các nghiên cứu, các dự án khởi nghiệp về fintech trong lĩnh vực chứng khoán, quản lý tài sản, quản lý quỹ…
Cũng cần đổi mới chính sách theo hướng gia tăng khả năng cho các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ trong việc sở hữu, mua/bán doanh nghiệp. Thực tế phát triển cho thấy, đang có xu hướng các công ty chứng khoán, quản lý quỹ cần mua lại, hoặc liên doanh với các công ty phát triển công nghệ để tạo ra các đột phá trong cung cấp dịch vụ, sản phẩm…
“HAPACO chỉ có thể thực hiện tốt khát vọng bứt phá, nếu thị trường vốn tiếp tục phát triển…”
Ông Nguyễn Đức Hậu, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn HAPACO
Ông Nguyễn Đức Hậu, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn HAPACO
Từ khi thị trường chứng khoán (TTCK) mở ra, HAPACO và rất nhiều doanh nghiệp khác đã huy động được hàng trăm nghìn tỷ đồng vốn từ nhà đầu tư đại chúng, nên đã mở rộng đầu tư, mở rộng cổ đông, đối tác, mở rộng quy mô thị trường.
Để doanh nghiệp đại chúng hoạt động ổn định, phát triển bền vững trong bối cảnh hiện nay, đại đa số các doanh nghiệp lựa chọn song hành cả 2 kênh huy động vốn, đó là qua TTCK và qua kênh vay các ngân hàng để bảo đảm sự chủ động. Qua đó giúp doanh nghiệp tăng năng lực tài chính, bảo đảm cho các kế hoạch hoạt động sản xuất, kinh doanh, mở rộng và đầu tư phát triển trong ngắn hạn và dài hạn.
Bước sang thập niên mới, giai đoạn 2023-2030, trên nền tảng những gì HAPACO đã đạt được và nhìn thấy cơ hội tương lai còn rộng mở phía trước, Hội đồng quản trị của Tập đoàn kỳ vọng, HAPACO sẽ trở thành Tập đoàn kinh tế lớn đa ngành tầm cỡ khu vực, với việc nâng vốn điều lệ lên gần 6.600 tỷ đồng và nâng vốn chủ sở hữu trên 35.000 tỷ đồng. Tập đoàn sẽ thực hiện 5 dự án lớn trong 5 năm tới, trong đó có Dự án Xây dựng Nhà máy điện gió tại Gia Lai, công suất 100 mW; Dự án xây dựng Bệnh viện Quốc tế Green thứ hai với quy mô gấp 3 lần hiện nay; Dự án xây nhà ở xã hội cho người lao động…
HAPACO chỉ có thể thực hiện tốt khát vọng bứt phá, nếu thị trường vốn Việt Nam, nhất là TTCK vượt qua các khó khăn hiện hữu, tiếp tục phát triển, thu hút được nhiều nhà đầu tư rót vốn vào thị trường. Khi đó, các doanh nghiệp như HAPACO sẽ huy động được vốn mới, mở rộng cổ đông, mở rộng đối tác, tạo thành một sức mạnh lớn hơn, mang lại lợi ích lớn hơn cho doanh nghiệp và đất nước.
KHUYẾN NGHỊ TỪ CHUYÊN GIA
“Rất cần thị trường vốn lớn hơn nữa…”
Ông Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia
Ông Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia
Tăng trưởng tín dụng 14,4% trong vòng 10 năm qua thuộc nhóm cao nhất trong khu vực. Tăng trưởng tín dụng thực, đâu đó vẫn là 10%, cao nhất trong các nước ASEAN. Vì thế, rất cần thị trường vốn Việt Nam lớn hơn nữa để cân bằng hơn với thị trường tín dụng. Đến hết tháng 2/2023, vốn hóa thị trường cổ phiếu Việt Nam ước đạt 5.600 nghìn tỷ đồng (89% GDP 2023). Trong rổ hàng hóa, có 880 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết trên 2 Sở giao dịch chứng khoán; 909 cổ phiếu đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM. Lượng tài khoản nhà đầu tư đạt 2,8 triệu tài khoản; số tài khoản giao dịch thường xuyên ước đạt 1,6 triệu tài khoản.
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đang xây dựng Chiến lược phát triển TTCK giai đoạn 2023-2030. Dự kiến quy mô thị trường cổ phiếu đạt mức 120% GDP, thị trường trái phiếu đạt 55% GDP vào năm 2025. Số lượng nhà đầu tư trên thị trường đạt 5% dân số vào năm 2025.
Hiện có gần 3% dân số tham gia TTCK, nên còn nhiều dư địa phát triển TTCK. Cơ hội phát triển cân bằng thị trường vốn Việt Nam là rất lớn. Tuy nhiên, còn rất nhiều thách thức trên con đường phát triển thị trường vốn. Đó là triển vọng phục hồi kinh tế còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; quy mô thị trường vẫn còn khá nhỏ so với các nước trong khu vực, thiếu tính ổn định; các sản phẩm còn ít, chưa đa dạng; tính minh bạch, chuyên nghiệp chưa cao; chế tài xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe. Hạn chế về hạ tầng dẫn đến tình trạng nghẽn lệnh, ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư. Nguy cơ bong bóng trên thị trường do lượng vốn lớn từ các nhà đầu tư mới (F0) chưa có nhiều kiến thức về TTCK đổ vào thị trường. Nền tảng nhà đầu tư chưa bền vững, tính chuyên nghiệp chưa cao…
Trong kỷ nguyên mới, để phát triển thị trường vốn cân bằng với thị trường tín dụng, cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán 2023; vận hành Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam; tiếp tục triển khai các giải pháp tái cấu trúc TTCK; chú trọng phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp hơn.
Cần đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước (DNNN) gắn với niêm yết và đăng ký giao dịch trên TTCK. Thực hiện các giải pháp nâng hạng TTCK Việt Nam lên nhóm thị trường mới nổi vào năm 2023. Nâng cao năng lực quản lý, giám sát rủi ro hệ thống; tăng tính độc lập của UBCKNN.
Đặc biệt, kỷ nguyên mới đòi hỏi những nỗ lực nâng tầm quản trị doanh nghiệp, tính chuyên nghiệp của cộng đồng nhà đầu tư và khả năng điều hành thị trường của cơ quan quản lý.
Dự báo con người và công nghệ là 2 đột phá cho sự phát triển tới đây trên thị trường vốn Việt Nam. Cụ thể là phát triển nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp nhiều hơn. Cần nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu thị trường; xây dựng và thực thi Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2030 với 2 cấu phần quan trọng là nâng hạng và chuyển đổi số. Đặc biệt, tính minh bạch, chuyên nghiệp là kim chỉ nam cho thị trường vốn phát triển lành mạnh, bền vững.
PHẢN HỒI TỪ NHÀ QUẢN LÝ, HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH
“3 nhóm giải pháp thúc đẩy DNNN tham gia thị trường vốn”
Ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp, Bộ Tài chính
Ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp, Bộ Tài chính
Phát triển thị trường vốn sẽ góp phần thúc đẩy các DNNN sớm hoàn thành quy trình quản trị công ty minh bạch, rõ ràng, đặc biệt là các công ty đại chúng có vốn nhà nước, qua đó thúc đẩy tăng khối lượng giao dịch trên thị trường, tăng tính thanh khoản cho cổ đông nhà nước.
Phát triển thị trường vốn cũng sẽ thúc đẩy các DNNN tham gia huy động vốn theo hướng giảm tỷ trọng vay tín dụng thương mại, đa dạng các hình thức huy động bổ sung vốn. Thị trường vốn là tấm gương phản chiếu kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp phải đổi mới quản trị, minh bạch thông tin, tăng cường sức cạnh tranh, chấp hành nghiêm quy định cuả pháp luật, nguyên tắc thị trường.
Để gắn sự phát triển của thị trường vốn với lộ trình tái cấu trúc DNNN giai đoạn 2023-2025 cần triển khai 3 nhóm giải pháp.
Thứ nhất, nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị và trách nhiệm của người đứng đầu. Gắn trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, ngành, chủ tịch UBND cấp tỉnh, Chủ tịch hội đồng thành viên các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước với phê duyệt phương án cơ cấu lại doanh nghiệp, tổ chức và giám sát việc triển khai thực hiện có hiệu quả phương án được duyệt.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế, khuôn khổ pháp lý về tổ chức quản lý và hoạt động của DNNN về sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn theo tinh thần Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2023 của Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN và Nghị quyết số 60/2023/QH14 của Quốc hội; xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia thống nhất, đồng bộ về doanh nghiệp và vốn, tài sản của Nhà nước.
Hoàn thiện chính sách về cổ phần hóa doanh nghiệp, trong đó:
+ Thực hiện nghiêm quy định về đăng ký lưu ký, đăng ký giao dịch, đăng ký niêm yết trên TTCK. Thí điểm một số DNNN sau cổ phần hóa đăng ký giao dịch, niêm yết trên TTCK khu vực và thế giới.
+ Các doanh nghiệp đã cổ phần hóa nhưng chưa đạt tỷ lệ vốn nhà nước theo tiêu chí phân loại DNNN, thì phải tổ chức lập kế hoạch và triển khai công tác thoái vốn theo đúng quy định của pháp luật để đảm bảo tỷ lệ nhà nước nắm giữ.
“Cần nâng cao hiệu quả của hệ thống cảnh báo sớm trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính”
TS. Nguyễn Tú Anh, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương
TS. Nguyễn Tú Anh, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương
Để thị trường vốn phát triển tích cực trong thời gian tới cần triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển TTCK và thị trường tiền tệ.
Cùng với đó là tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động kinh doanh chứng khoán; sáp nhập, mua, bán doanh nghiệp; hạn chế tình trạng nhà đầu tư thao túng thị trường và thâu tóm doanh nghiệp Việt Nam. Giám sát chặt chẽ, cảnh báo và có các biện pháp giảm thiểu rủi ro trong hoạt động phát hành và đầu tư trái phiếu doanh nghiệp. Rà soát, hoàn thiện các quy định về đăng ký phát hành trái phiếu doanh nghiệp, bảo đảm tính minh bạch, khả năng đánh giá rủi ro đầu tư trái phiếu doanh nghiệp. Khuyến khích phát triển những tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp, tin cậy. Tăng cường vai trò của quản lý nhà nước đối với giám sát việc phát hành, phân phối, cung cấp dịch vụ trái phiếu doanh nghiệp. Phát triển cơ sở hạ tầng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, nghiên cứu tổ chức thị trường giao dịch đối với trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
Đẩy nhanh cơ cấu thị trường chứng khoán theo Đề án đã được phê duyệt. Cùng với việc hoàn thiện cơ cấu bộ máy, xây dựng lại thị trường cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán phái sinh theo hướng chuyên môn hóa, tiếp tục tái cơ cấu hệ thống các định chế trung gian
Thúc đẩy triển khai kế hoạch cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước. Thực hiện kiểm tra, xử lý kịp thời các doanh nghiệp không tuân thủ quy định về niêm yết/đăng ký giao dịch sau khi cổ phần hóa.
Đẩy mạnh việc triển khai các giải pháp nâng hạng TTCK từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi theo đánh giá của MSCI và FTSE.
Đảm bảo an toàn, ổn định hệ thống giao dịch, đưa hệ thống công nghệ thông tin mới vào hoạt động đồng bộ. Đây cũng là cơ sở để tiếp tục đưa ra các sản phẩm mới vào thị trường.
Tăng cường giám sát, nâng cao hiệu qủa quản lý, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, đảm bảo kỷ cương kỷ luật của thị trường để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và hoạt động lành mạnh của doanh nghiệp.
Nghiên cứu triển khai số hóa các tài sản tài chính trên TTCK, áp dụng các công nghệ tài chính mới (Fintech); chuẩn hóa hoạt động mở tài khoản trực tuyến (e-contract); xác thực khách hàng trực tuyến (EKYC).
Với thị trường tiền tệ, các chính sách của Ngân hàng Nhà nước một mặt cần duy trì môi trường lãi suất thấp, mặt khác cũng cần củng cố uy tín, độ tin cậy của Ngân hàng Nhà nước trong việc bảo vệ ổn định giá cả và điều hành chính sách tiền tệ. Việc duy trì lãi suất thấp và tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp cho phép họ giảm chi phí sản xuất, qua đó sẽ giảm áp lực lên lạm phát khi nền kinh tế đang hoạt động dưới mức sản lượng tiềm năng. Môi trường lãi suất thấp có thể giúp các ngân hàng thương mại đang thiếu vốn có điều kiện thuận lợi tăng vốn đáp ứng các yêu cầu đủ vốn theo nguyên tắc Basel II. Khi các ngân hàng thương mại đều áp dụng chung chuẩn mực quản lý rủi ro, thì mặc dù thanh khoản dư thừa nhưng tín dụng không thể ra ồ ạt (do các khoản cấp tín dụng phải đáp ứng đủ các chuẩn mực mới có thể thực hiện), do đó áp lực lên lạm phát là thấp. Tuy nhiên, môi trường lãi suất thấp sẽ khuyến khích các hoạt động đầu cơ vào thị trường bất động sản, TTCK, nên có thể tạo ra các bong bóng tài sản, tiềm ẩn bất ổn trong tương lai. Do đó, cùng với chính sách duy trì lãi suất thấp, Chính phủ cũng cần có các giải pháp đồng bộ để thực hiện kiểm soát thị trường bất động sản, tránh để thị trường phát triển quá nóng.
Sắp tới, cùng với sự phát triển của năng lực sản xuất trong nước, sự chuyển dịch của chuỗi giá trị sản xuất vào Việt Nam, cán cân vãng lai vẫn tiếp tục xu hướng thặng dư, thậm chí thặng dư lớn. Do đó áp lực lên giá VND là rất lớn, nên đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải tiếp tục mua dự trữ ngoại hối để ổn định đồng tiền, trong khi Mỹ luôn đe dọa sẽ có biện pháp đáp trả đối với những nước bị xem là thao túng tiền tệ. Cân bằng được hai áp lực này là thách thức lớn đối với Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, đây cũng là điều kiện thuận lợi để cho phép tỷ giá biến động linh hoạt hơn, chấp nhận một biên độ lên giá nhất định của đồng VND. Việc đồng VND lên giá giúp giảm nợ nước ngoài, giảm áp lực lạm phát, nhưng có tác động tiêu cực nhất định đối với hàng xuất khẩu và hàng trong nước cạnh tranh hàng nhập khẩu. Để trung hòa tác động tiêu cực này, thì việc giảm lãi suất cho vay là cần thiết. Do VND có xu hướng lên giá, nên vấn đề USD hóa tự được giải quyết và không cần thiết duy trì lãi suất VND cao hơn quá nhiều so với lãi suất USD.
Kiểm soát rủi ro trong hệ thống ngân hàng vẫn là yêu cầu then chốt đảm bảo phục hồi kinh tế bền vững. Các biện pháp áp dụng trong thông tư 01/2023/TT-NHNN cần được giám sát chặt chẽ tránh tình trạng khi các biện pháp này hết hạn áp dụng thì nợ xấu tăng vọt. Đẩy nhanh lộ trình áp dụng quy tắc Basel II trong toàn hệ thống, vì đây là công cụ then chốt nâng cao năng lực quản lý rủi ro và khả năng chống chịu thua lỗ.
Cần nâng cao hiệu quả của hệ thống cảnh báo sớm trong lĩnh vực ngân hàng và tài chính, để giúp phát hiện rủi ro tiềm ẩn từ các ngân hàng và thị trường tài chính. Từ đó, xây dựng các phương án điều hành cụ thể về cách thức phản ứng với diễn biến mới. Cùng với sớm xử lý triệt để nợ xấu, tránh nợ xấu tồn đọng kéo dài, cần có cơ chế rõ ràng nhằm xử lý các ngân hàng yếu kém…
“Động lực nâng hạng TTCK chính là các doanh nghiệp đại chúng…”
Bà Tạ Thanh Bình, Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường, UBCKNN
Bà Tạ Thanh Bình, Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường, UBCKNN
Theo bộ tiêu chí FTSE Russell (cập nhật tháng 9/2023), TTCK Việt Nam đã thỏa mãn 7/9 tiêu chí nâng hạng. Tiêu chí “Chu kỳ thanh toán-DvP” bị đánh giá “Hạn chế” do nhà đầu tư phải ký quỹ đủ tiền mặt trước khi đặt lệnh. Tiêu chí “Thanh toán – Tỷ lệ hiếm khi giao dịch thất bại” không được đánh giá, do yêu cầu thanh toán (ký quỹ trước) hiện tại dẫn tới việc khả năng giao dịch thất bại gần như không tồn tại.
Về thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài, với các quy định tại Luật Đầu tư, Nghị định hướng dẫn Luật Chứng khoán, không gian cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ được mở hơn nữa.
Ngành chứng khoán sẽ tập trung triển khai các giải pháp nâng hạng TTCK gắn với phát triển bền vững, minh bạch, trong đó một số mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm như: Tập trung nỗ lực đưa các quy định, chính sách mới của Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn vào thực tiễn, để hỗ trợ cho doanh nghiệp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; tổng kết, xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành chiến lược phát triển TTCK giai đoạn 2023 – 2030 để định hình mục tiêu, giải pháp về lộ trình phát triển TTCK – thị trường vốn về dài hạn, nhằm hiện thực mục tiêu nâng hạng TTCK.
Tuy vậy, việc nâng hạng TTCK không phải là nỗ lực của riêng ngành chứng khoán hay cơ quan quản lý TTCK. Động lực nâng hạng thị trường chính là các doanh nghiệp đại chúng. Chỉ khi doanh nghiệp minh bạch, tuân thủ kỷ luật công bố thông tin; làm quen và thực thi chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS), phát triển bền vững, sẽ là hạt nhân để phát triển nội lực TTCK, là cái gốc của nâng hạng thị trường. Cũng còn nhiều yếu tố khác cần cải thiện để phục vụ cho mục tiêu nâng hạng thị trường như: Mức độ tự do trên thị trường ngoại hối; giảm thiểu sự can thiệp hành chính của nhà nước vào hoạt động doanh nghiệp; cải thiện độ mở của thị trường đối với các nhà đầu tư nước ngoài; tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp… Đây là những công việc cần sự nỗ lực và vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành…/.
Tìm Giải Pháp Phát Triển Thị Trường Vốn, Tài Chính Việt Nam
Bên cạnh đó còn có đại diện Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á, Đại sứ Australia tại Việt Nam – ông Craig Chittick, Đại sứ Israel tại Việt Nam – ông Nadav Eshcar, Đại sứ Hàn Quốc tại Việt Nam – ông Kim Do Hyon, các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty bảo hiểm, các chuyên gia về vốn, tài chính, công nghệ… trong nước và quốc tế.
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ phát biểu tại Diễn đàn. (Ảnh: DL)
Phát biểu tại diễn đàn, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nhấn mạnh, tới thời điểm hiện tại, quy mô hệ thống tài chính Việt Nam vẫn còn ở mức khiêm tốn so với các nước trong khu vực; đặc biệt là khả năng cung ứng vốn còn hạn chế, chưa phát huy hết vai trò là kênh dẫn vốn của nền kinh tế, tỷ lệ vốn hóa từ các thị trường như bất động sản, chứng khoán… còn hạn chế. Cấu trúc thị trường trái phiếu mất cân bằng.
Cũng theo Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, tỷ trọng nguồn vốn ngắn hạn cao trong khi tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn thấp khiến nền kinh tế không đủ nguồn lực bảo đảm phát triển bền vững. Thị trường vốn vẫn phụ thuộc rất nhiều vào tín dụng ngân hàng, thị trường tín dụng phát triển thiếu tính ổn định. Hệ thống luân chuyển dòng vốn cũng chưa hiệu quả, thể hiện qua sự bất hợp lý trong việc phân bổ nguồn lực giữa các ngành kinh tế.
Phó Thủ tướng mong muốn các diễn giả đánh giá “sức khỏe” các chủ thể tham gia thị trường vốn, thị trường tài chính bởi đây là điều đang khiến Chính phủ băn khoăn. Bởi lẽ, theo con số từ Tổng cục Thống kê, tính đến 31/2/2023, có đến 53% doanh nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam không có lợi nhuận. Tỷ lệ này đã có bước tiến so với những năm trước nhưng vẫn còn thiếu khả quan. Tỷ lệ 53% doanh nghiệp không có lời phải chăng là do vốn mỏng gây nên? Nhiều doanh nghiệp hiện nay hoạt động chủ yếu dựa vào vốn ngân hàng, dự án đầu tư có vốn chủ sở hữu thấp, do đó chi phí tài chính rất cao. Vậy giải pháp sắp tới là gì?
Theo ông Fiachra MacCanna, Giám đốc điều hành, Giám đốc bộ phận phân tích Công ty Chứng khoán TP. HCM (HSC), vốn dài hạn là một trong những giải pháp cho các ngân hàng cần nâng vốn, đồng thời giúp ngân hàng thương mại cung cấp các gói vay thế chấp kỳ dài hạn hơn. Việc thiếu vốn dài hạn cũng dẫn tới hạn chế nguồn mua lại cổ phần nhà nước tại doanh nghiệp.
Vốn dài hạn là một trong những giải pháp cho các ngân hàng cần nâng vốn, đồng thời giúp ngân hàng thương mại cung cấp các gói vay thế chấp kỳ dài hạn hơn. (Nguồn: VNA)
Nêu giải pháp cho vấn đề này, theo ông Fiachra MacCanna, phát triển quỹ hưu trí tư nhân là cần thiết cho việc cung cấp vốn dài hạn cho nền kinh tế bởi phần lớn đầu tư của các quỹ hưu trí tư nhân tập trung vào trái phiếu và cổ phiếu. Với thị trường vốn, chứng lưu ký không có quyền biểu quyết và cổ phần vàng sẽ là giải pháp cho nâng trần khối ngoại. Còn với thị trường trái phiếu, quỹ xếp hạng tín nhiệm là cần thiết cho việc phát triển dài hạn bởi việc phát hành trái phiếu có thể bắt buộc phải xếp hạng tín nhiệm.
Về giải pháp mở rộng thị trường vốn dài hạn cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, theo ông Ketut Kusuma, chuyên gia cao cấp về thị trường vốn Ngân hàng Thế giới, là tăng cường tính minh bạch của dữ liệu, thông tin, hiện đại hóa khung pháp lý và cơ sở hạ tầng thị trường, nâng cao năng lực giám sát. Với thị trường chứng khoán, cần lồng ghép chiến lược cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vào phát triển thị trường, hướng tới tham gia vào các chỉ số của thị trường mới nổi nhằm minh bạch hóa hơn thông tin về phân khúc và hợp nhất thị trường.
“Với thị trường trái phiếu chính phủ thì cần tiếp tục công cuộc cải cách, hướng tới tham gia vào các chỉ số của thị trường mới nổi toàn cầu” – ông Ketut Kusuma chia sẻ.
Hàn Quốc hỗ trợ Việt Nam thúc đẩy thị trường vốn đầu tư mạo hiểm
Chiều 26/10, tại Hà Nội, Lotte Accelerator (Hàn Quốc) và Vietnam Silicon Valley Accelerator (VSVA) đã chính thức công bố Hợp tác chiến lược giữa …
Chính phủ rất coi trọng phát triển thị trường vốn
Đây là khẳng định của Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình tại hội nghị “Gateway to …
Lạc quan về thị trường bất động sản nhà ở tại Việt Nam
Theo bà Regina Lim, Giám đốc Bộ phận Thị trường vốn, Công ty nghiên cứu bất động sản toàn cầu Jones Lang Lasalle (JLL), 9 …
Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Thị Trường Vốn Ở Việt Nam
Vai trò của thị trường vốn
Vai trò của thị trường vốn thể hiện ở các yếu tố sau:
Thứ nhất, thị trường vốn là một kênh huy động vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Thông qua việc phát hành và mua bán chứng khoán, dòng vốn di chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ nơi sử dụng kém hiệu quả đến nơi sử dụng có hiệu quả hơn. Thị trường vốn giúp các doanh nghiệp (DN), tổ chức kinh tế, cá nhân… có cơ hội để trở thành nhà đầu tư thực hiện nghiệp vụ đầu tư, mua bán chứng khoán và các công cụ tài chính trên thị trường để kiếm lời.
Chính phủ trung ương và địa phương có thể vay nợ các tổ chức, DN, dân cư thông qua việc phát hành trái phiếu trung và dài hạn, thực hiện các công trình hạ tầng kinh tế – xã hội, cũng như đáp ứng các nhu cầu đầu tư phát triển của trung ương/địa phương.
Thứ hai, thị trường vốn tạo tính thanh khoản cho chứng khoán và các công cụ tài chính, khi các nhà đầu tư cần tiền. Nhờ đó, họ có thể tối ưu hóa hiệu quả đồng vốn để hưởng lợi (thường lãi của các chứng khoán và công cụ tài chính cao hơn lãi tiền gửi tiết kiệm).
Thứ ba, phát triển thị trường vốn để thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài. Đây là kênh đầu tư hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. Với những thông tin công khai, minh bạch, thị trường vốn là nơi mà các nhà đầu tư nước ngoài có thể phân tích, nhận định, đánh giá “sức khỏe” của DN, ngân hàng để đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý. Họ đầu tư bằng cách mua cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường hoặc góp vốn vào DN, ngân hàng để trở thành các cổ đông chiến lược.
Thứ tư, thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán (TTCK) là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh của DN. Thông qua thị trường vốn, những nhà đầu tư có cơ sở đánh giá thực trạng và dự đoán tương lai của nền kinh tế. Cơ quan quản lý thường thông qua thị trường vốn để phân tích, dự báo, ban hành các văn bản pháp lý để điều tiết và quản lý thị trường một cách hiệu quả.
Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, phát triển thị trường vốn dễ nảy sinh những hành vi lừa đảo, giao dịch nội gián, hiện tượng đầu cơ chứng khoán, thị trường vốn ngầm…. Do đó, cần nhận thức rõ và có chính sách và biện pháp phù hợp để thị trường vốn luôn phát triển ổn định, an toàn, lành mạnh, phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực trạng thị trường vốn Việt Nam
Thị trường vốn tín dụng ngân hàng: Sau khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã quan tâm đến việc tái cấu trúc thị trường tài chính nói chung và thị trường vốn nói riêng, phù hợp với thông lệ quốc tế. Các chủ thể tham gia thị trường cũng được cải thiện về năng lực tài chính, quy mô, quản trị rủi ro, để từng bước tham gia vào chuỗi kinh tế toàn cầu. Với độ mở của nền kinh tế và thị trường vốn, đầu tư xã hội đã có sự bứt phá mạnh mẽ, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã đưa Việt Nam lên nhóm các nước có quy mô đầu tư xã hội trên GDP cao nhất thế giới.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tổng đầu tư xã hội sau 4 năm hội nhập WTO đều ở mức cao; Đầu tư ngoài nhà nước cũng tăng mạnh; Xuất nhập khẩu liên tục ghi nhận các kỷ lục mới; đưa Việt Nam thoát ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp vào năm 2011. Những động thái này đã tạo cung vốn lớn cho nền kinh tế thông qua thị trường vốn. Mặt khác, các chủ thể tham gia trên thị trường (ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, DN, các quỹ đầu tư…) cần phải tăng quy mô hoạt động, cải thiện tiềm lực tài chính, mở rộng sản xuất, áp dụng công nghệ trong kinh doanh để nâng cao năng suất lao động.
Điều này đã tạo ra những cơ hội phát triển mới về phía cầu. Tuy nhiên, do thị trường vốn Việt Nam lệ thuộc lớn vào chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, khi kinh tế vĩ mô bất ổn, lạm phát tăng cao, chính sách tài chính – tiền tệ điều hành theo hướng thắt chặt để đạt mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô nên mặt bất lợi của chính sách thắt chặt đã tác động tiêu cực đến thị trường vốn. Có thể thấy rõ sự biến động thất thường của TTCK cũng như thị trường vốn tín dụng ngân hàng, những rủi ro tiềm ẩn từ nội tại các chủ thể tham gia thị trường, tình trạng sở hữu chéo giữa DN với ngân hàng, giữa ngân hàng với công ty bảo hiểm, chứng khoán, giữa các ngân hàng với nhau…
Đến nay, hệ thống ngân hàng vẫn đóng vai trò chi phối trên thị trường vốn. Thị trường cổ phiếu tuy đã được chú ý phát triển song song với tiến trình cổ phần hóa DN nhà nước (DNNN), nhưng quy mô thị trường cổ phiếu vẫn nhỏ. Mức độ vốn hóa trên thị trường (của các công ty niêm yết) so với GDP đã được cải thiện và đạt 39%/GDP vào năm 2010 nhưng lại giảm mạnh xuống còn 26% vào năm 2012 (cho dù TTCK Việt Nam vẫn được đánh giá là một trong số các nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới). Vì thế, khi tín dụng cho nền kinh tế giảm, hệ số giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế giảm (năm 2010 là 4,8 lần, năm 2012 giảm còn 1,76 lần, 9 tháng năm 2013 chỉ còn 1,2 lần), điều này đã ảnh hưởng lớn đến công việc làm của người lao động.
Mặc dù là thị trường cung cấp vốn chủ yếu cho DN nhưng do khó khăn từ nền kinh tế, khó khăn từ nội tại các DN và ngân hàng, những điểm nghẽn của nền kinh tế (nợ xấu, hàng tồn kho) không được giải quyết rốt ráo, trong khi giá vốn rất cao (lãi suất cho vay bình quân năm 2012 ở mức 13-15%/năm, năm 2013 ở mức 10 -12%/năm), quá sức chịu đựng của DN.
Tình trạng nhiều DN không tiếp cận được vốn, trong khi hàng tồn kho tăng cao (năm 2012 bình quân khoảng 28-30%; 9 tháng năm 2013 tăng bình quân 9,3%), năng lực cạnh tranh thấp, kinh doanh thua lỗ (tính đến 30/9/2013, số DN kê khai lỗ chiếm gần 66%)… dẫn đến nhiều DN phá sản, ngừng hoạt động, giải thể, kéo theo cầu về vốn giảm mạnh, khiến tăng trưởng tín dụng năm 2012 chỉ dừng lại ở con số 8,91% so với mục tiêu được
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa ra là 15-17%, 9 tháng đầu năm 2013 tăng 6,14% so với chỉ tiêu 12%/năm. Nợ xấu và tốc độ tăng nợ xấu. Điều này không có nghĩa là chất lượng nợ tốt lên mà do hệ thống ngân hàng đã cơ cấu lại nợ, chiếm khoảng 10% tổng dư nợ, sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý khoảng 3%, bán nợ xấu qua Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) khoảng 0,3%. Với những giải pháp xử lý này, nợ xấu của hệ thống ngân hàng đã giảm xuống còn 4,64%.
Thị trường chứng khoán: Mặc dù nền kinh tế vẫn còn phải đối mặt với không ít khó khăn nhưng kinh tế vĩ mô dần ổn định đã góp phần tác động tích cực hơn đến tâm lý nhà đầu tư và sự phát triển của TTCK. Kết thúc quý II/2013, thị trường cổ phiếu đã tăng khá mạnh. Chỉ số VN-Index tăng lên mức 524,5 điểm với khối lượng giao dịch lên tới hơn 94 triệu cổ phiếu, tương đương gần 1.661 tỷ đồng/phiên.
Tuy nhiên, các giao dịch trên thị trường không ổn định, dòng vốn nội có dấu hiệu chững lại do thiếu thông tin hỗ trợ đủ mạnh, trong khi đó các quỹ đầu tư ngoại có những hoạt động thoái vốn. Chỉ riêng trong tháng 6 và tháng 8/2013, khối ngoại đã bán ròng với giá trị lần lượt là 1.543 tỷ đồng và 881 tỷ đồng, dẫn đến thị trường cổ phiếu bị chững lại với nhịp giảm khá mạnh.
Như vậy, mặc dù vẫn được xem là thị trường có tốc độ tăng trưởng khá so với năm 2012 nhưng TTCK vẫn tiềm ẩn những rủi ro ngắn hạn, tính thanh khoản còn thấp. Thị trường trái phiếu DN vẫn chưa phát triển, ngân hàng vẫn là thành viên chủ chốt tham gia thị trường này. Những bất cập này đã hạn chế việc cung cấp vốn với giá cạnh tranh cho các DN.
Giải pháp phát triển thị trường vốn an toàn và hiệu quả
Thứ nhất, kiện toàn thể chế thị trường vốn: Về khung pháp lý, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống khung pháp lý điều tiết thị trường. Trên cơ sở tham chiếu thông lệ quốc tế vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để có sự điều chỉnh phù hợp, phát triển các thể chế còn đang khuyết, nhằm đảm bảo tính đồng bộ của khung pháp lý, tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia thị trường chủ động hoạt động trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, song vẫn đảm bảo các yêu cầu thận trọng, an toàn đối với khu vực tài chính, với vấn đề ổn định vĩ mô và hỗ trợ phát triển kinh tế.
Hoàn thiện chế tài xử phạt khi có vi phạm, gắn kết được lợi ích với rủi ro ở mức nhất định. Đẩy mạnh việc hợp tác, tư vấn, nghiên cứu để hoàn thiện môi trường pháp lý cho thị trường nói chung và dịch vụ nói riêng như dịch vụ uỷ thác, giao dịch các công cụ phái sinh… thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn theo chiều sâu trên cơ sở đa dạng hóa sự tham gia của các các định chế tài chính trong và ngoài nước.
Rà soát mô hình tổ chức kinh doanh vốn, chứng khoán, các tổ chức tự quản, các quỹ đầu tư; Sửa đổi Luật Chứng Khoán, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, xây dựng Luật Kiểm toán độc lập cũng như các quy định về chào bán, niêm yết, giao dịch, quản lý các giao dịch vốn… cho phù hợp với với lộ trình WTO cũng như tham gia Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) về lĩnh vực ngân hàng – chứng khoán.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện tái cấu trúc thị trường vốn gắn với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế: Cơ cấu lại TTCK đảm bảo sự phát triển đồng bộ, cân đối giữa thị trường cổ phiếu, trái phiếu, thị trường các công cụ phái sinh, từng bước nâng cao vai trò của TTCK trong huy động vốn cho đầu tư phát triển. Phát triển về quy mô và hiệu quả hoạt động của thị trường trái phiếu (chính phủ, địa phương và DN), hoàn thiện phương thức phát hành, xây dựng cơ chế khuyến khích các DN thuộc các thành phần kinh tế huy động vốn qua TTCK.
Tăng cung hàng hóa cho thị trường và cải thiện chất lượng nguồn cung thông qua việc đẩy mạnh phát hành mới, sử dụng các công cụ phái sinh để hoàn thiện cấu trúc thị trường. Xây dựng cơ chế công bố thông tin theo chuẩn mực quốc tế, áp dụng các chuẩn mực quản trị công ty, quản trị rủi ro, chuẩn hóa các quy định về giao dịch, mua bán, đăng ký, thanh toán theo thông lệ quốc tế.
Đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc DN gắn với cổ phần hóa DNNN, DN có vốn đầu tư nước ngoài, nhằm tăng số lượng và chất lượng hàng hóa cho thị trường. Đa dạng hóa các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường và đầu tư lâu dài vào TTCK Việt Nam.
Đối với thị trường vốn tín dụng ngân hàng, cần rà soát các cơ chế chính sách, tạo môi trường cho các tổ chức tín dụng hoạt động. Cụ thể: Sửa đổi, bổ sung Luật Phá sản cho phù hợp với lộ trình hội nhập; Nhanh chóng áp dụng các chuẩn mực về phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro theo thông lệ quốc tế; Rà soát vốn thực có của các ngân hàng thương mại để giám sát tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, thực hiện quản trị rủi ro theo Basel II, tiến tới Basel III…
Những văn bản này phải được điều chỉnh phù hợp với lộ trình cam kết quốc tế về lĩnh vực ngân hàng và phải tương đối ổn định để các tổ chức tín dụng chủ động và tiên liệu được những rủi ro nảy sinh khi thay đổi chính sách.
Mặt khác, thông qua vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trường theo hướng tạo môi trường lành mạnh cho các ngân hàng hoạt động theo luật, không bao cấp cho ngân hàng (cả ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước và NHTM cổ phần), nhưng cũng không nên tạo ra những rủi ro bằng cơ chế chính sách hay các mệnh lệnh hành chính; kết hợp giữa giám sát tuân thủ và giám sát theo rủi ro, có chế tài đủ mạnh để bảo đảm cho các ngân hàng tham gia thị trường tuân thủ “luật chơi” đã quy định.
Thứ ba, tăng cường năng lực hoạt động của các tổ chức tham gia thị trường vốn: Tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán để có tiềm lực tài chính mạnh, uy tín, trình độ nghiệp vụ cao, quản trị hiện đại, hoạt động lành mạnh, bảo đảm tính thanh khoản và tính an toàn hệ thống, đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và khu vực; Tiếp tục phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò của các Hiệp hội nghề nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ tài chính và thị trường vốn.
Về tái cấu trúc hệ thống ngân hàng: Đối với các NHTM cổ phần yếu kém, sau khi tái cấu trúc phải có sự chuyển biến mới về chất (vốn, trình độ quản trị, công nghệ thông tin, mức độ an toàn vốn, tính minh bạch). Đối với các NHTM nhà nước, tiếp tục giảm tỷ trọng phần vốn nhà nước ở mức hợp lý, nâng tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài tại mỗi ngân hàng tùy theo quy mô và phạm vi hoạt động của từng ngân hàng; Giảm sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động ngân hàng, buộc các ngân hàng phải minh bạch trong kinh doanh.
Bên cạnh đó, cần hình thành và phát triển các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và cung cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm cho thị trường vốn. Sự phát triển của thị trường vốn khiến cả cơ hội đầu tư và rủi ro đầu tư đều tăng lên. Nhà đầu tư có nhiều cơ hội lựa chọn hơn nhằm thu lợi cao hơn từ khoản đầu tư này, song rủi ro trong đầu tư cũng tăng lên vì họ không hiểu hết những chủ thể sử dụng vốn của mình.
Do đó, để biết được mức độ rủi ro của mỗi khoản đầu tư, cần có hoạt động xếp hạng tín nhiệm mức độ rủi ro của các khoản đầu tư (chủ yếu là các khoản vay nợ) trên thị trường vốn. Những thông tin về chỉ số tín nhiệm của các DN, các ngành trong nền kinh tế sẽ giúp các nhà đầu tư có định hướng tốt hơn mỗi khi ra quyết định đầu tư.
Thứ tư, về công khai thông tin trên thị trường: Để có một thị trường vốn hiệu quả, thì một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu là xây dựng cơ chế công khai thông tin.Trên thị trường vốn, mọi hoạt động đều được thể chế hóa bằng các quy định của pháp luật, quy chế, điều lệ về thị trường nhằm tạo ra một thị trường trung thực, trật tự và có hiệu quả, đồng thời, tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư, bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư.
Thị trường vốn phát triển, đòi hỏi phải quan tâm đến tính minh bạch của thị trường, tạo dựng được lòng tin để thu hút những chủ thể cung cấp vốn và những chủ thể có nhu cầu sử dụng vốn tham gia thị trường, làm cho thị trường có thể phát huy tối đa vai trò của nó.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả kiểm soát vốn: Để đạt được những mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững, Việt Nam cần có một lượng lớn vốn đầu tư tăng thêm mỗi năm. Tuy nhiên, khi dòng vốn vào không được kiểm soát, sử dụng không hiệu quả, thì bất ổn tài chính sẽ nảy sinh. Vì vậy, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách để đối phó với dòng chảy vốn trong giai đoạn đầu hội nhập.
Kinh nghiệm của một số nước trong việc kết hợp các chính sách để đối phó với dòng chảy vốn, thường là công khai các biện pháp kiểm soát vốn và lộ trình thay đổi nếu có để các nhà đầu tư nắm bắt và có phản ứng thích hợp. Kiểm soát vốn một khi được kết hợp với những chính sách khác sẽ làm thay đổi cấu trúc của dòng vốn chảy vào theo hướng khuyến khích các dòng vốn đầu tư dài hạn, hạn chế dòng tiền nóng mang tính đầu cơ ngắn hạn, từ đó giảm thiểu được rủi ro “đảo ngược dòng vốn” gây khủng hoảng.
Phát Triển Thị Trường Vốn: Năm Trụ Cột Cần Tập Trung
Thị trường trái phiếu Chính phủ đã có sự tham gia của đa dạng các nhà đầu tư
Ngân hàng – thị trường vốn: Song hành và bổ sung cho nhau
Cả lý thuyết kinh tế và các thực chứng ở các quốc gia đều cho thấy tăng trưởng kinh tế luôn song hành với sự phát triển của các thị trường tài chính. Mối tương quan đó cũng thể hiện rõ trong suốt hơn 2 thập kỷ qua ở Việt Nam khi tăng trưởng kinh tế cao luôn song hành với tỷ lệ tín dụng tăng mạnh (từ mức chỉ 17% GDP năm 1996 lên khoảng trên 130% GDP hiện nay). Thị trường tài chính ngày càng phát triển nhưng một điểm dễ nhận thấy là vẫn chủ yếu tập trung ở kênh tín dụng ngân hàng. Các thị trường và công cụ khác như trái phiếu, cổ phiếu… tuy tỷ trọng đã tăng nhanh trong những năm qua nhưng vẫn rất nhỏ bé so với các quốc gia phát triển hơn.
Ông Alaweed Altabani – chuyên gia trưởng ngành tài chính của WB cho rằng, trong khi nguồn cung và cơ cấu tín dụng dài hạn của khu vực ngân hàng bị hạn chế (nguyên nhân chủ yếu do tính chất ngắn hạn của nguồn huy động khi trên 80% là tiền gửi từ một năm trở xuống), hay các nguồn vốn vay ưu đãi không còn khi Việt Nam đã “tốt nghiệp ODA” thì việc phát triển các thị trường vốn là giải pháp tốt để huy động vốn cho những dự án dài hạn và rủi ro hơn thông qua sử dụng các công cụ nợ và cổ phiếu. Áp lực và gánh nặng cung ứng vốn cho nền kinh tế – vốn dựa chủ yếu vào tín dụng – nhờ đó sẽ giảm bớt.
“Hiện Việt Nam đang thiếu thị trường huy động tài chính dài hạn”, ông Alaweed Altabani nói. Thị trường vốn ở Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh trong những năm gần đây nhưng giá trị vốn hóa của thị trường cổ phiếu và trái phiếu vẫn rất thấp so với nhiều quốc gia trong khu vực ASEAN.
Nếu có chiến lược và các giải pháp triển khai tốt, khu vực ngân hàng và các thị trường vốn sẽ bổ sung cho nhau. Trong đó khu vực ngân hàng chuyên sâu hơn về các cơ chế cố định, mang tính chuẩn hóa, dựa vào thế chấp để huy động vốn cho các hoạt động đầu tư kinh doanh truyền thống và ngắn hạn hơn, còn thị trường vốn chuyên sâu theo cơ chế hợp đồng được thiết kế phù hợp theo hoàn cảnh và hầu hết không có đảm bảo. Khả năng chia sẻ lợi nhuận (thị trường cổ phiếu) và chuyển nhượng tài sản (thanh khoản trên thị trường thứ cấp) khiến cho các thị trường vốn trở nên hấp dẫn hơn với các NĐT chấp nhận rủi ro ở mức cao hơn.
Và “luật chơi” cần được quan tâm hơn nữa vì kinh nghiệm cho thấy minh bạch và cạnh tranh là điều kiện cần để đảm bảo thị trường vốn thực hiện hiệu quả vai trò cung cấp nguồn tài chính dài hạn. Trong đó, các cấp có thẩm quyền cần cân đối giữa bảo vệ NĐT và duy trì lòng tin của NĐT về định hướng phát triển thị trường, đồng thời cho phép linh hoạt hơn nữa trong quá trình đầu tư và huy động vốn”, ông Alaweed Altabani đề xuất.
Chính phủ nên là nhà phát hành trái phiếu lớn
Trong báo cáo “Điểm lại” mới nhất vừa công bố, WB cũng dành một phần đáng kể để đánh giá tầm quan trọng của phát triển thị trường vốn ở Việt Nam và đề xuất các trụ cột cần cải cách. Trong đó, hoàn thiện khung khổ quy phạm pháp luật được nhấn mạnh mạnh nhất bởi một hệ thống pháp luật đầy đủ và ổn định cùng với hạ tầng thị trường hiệu quả là những nền tảng để các thành viên thị trường yên tâm tham gia.
Hiện nay đang có những quy định như yêu cầu phải chuẩn bị vốn trước và xác nhận trước khi giao dịch… gây tốn kém cho các thành viên thị trường và làm hạn chế thanh khoản, làm tăng chi phí, cản trở giao dịch và đầu tư. Nếu Việt Nam muốn được nâng cấp trở thành thị trường mới nổi trong các chỉ số về cổ phiếu và trái phiếu toàn cầu thì những quy định này cần phải được bãi bỏ.
Bên cạnh đó, cải thiện cơ chế thị trường, quản trị DN và đánh giá định mức tín nhiệm cũng cần được tập trung. Đồng thời là phát triển các sản phẩm sáng tạo để đáp ứng nhu cầu của thị trường. WB đã gợi ý các công cụ mới để huy động vốn cho khu vực kinh tế thực (như cho các dự án hạ tầng và nhà ở) có thể là trái phiếu dự án, quỹ đầu tư hạ tầng… Để thúc đẩy hình thành thêm các cơ hội đầu tư, luật pháp và quy định cần tạo điều kiện, các thủ tục phát hành cần thuận lợi hơn để khuyến khích DN phát hành sản phẩm mới và phù hợp, tạo đủ chiều sâu và bề rộng của thị trường.
Mở rộng mạng lưới NĐT cũng là yếu tố quan trọng để phát triển các thị trường vốn, qua đó không chỉ giúp duy trì tăng trưởng thị trường, mà còn giúp tăng thanh khoản và giảm biến động. Các giải pháp có thể tiến hành như mở rộng cơ chế đầu tư cho Bảo hiểm xã hội – NĐT lớn nhất trên thị trường Trái phiếu Chính phủ hiện nay; tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư vào thị trường vốn của các DN bảo hiểm nhân thọ; tiếp tục xây dựng các quy định để hướng dẫn và thúc đẩy sự phát triển của các quỹ hưu trí tư nhân và quỹ tương hỗ; cải thiện chương trình phát hành theo mốc chuẩn và xác định quy mô mục tiêu để phát hành theo mốc chuẩn ở mức cao hơn để thu hút sự tham gia của NĐT nước ngoài…
Cuối cùng, cần tăng cường vai trò của Chính phủ trong phát triển các nguồn huy động tài chính dài hạn. Bên cạnh vai trò quản lý Nhà nước Chính phủ cũng là tổ chức phát hành trái phiếu lớn. Kinh nghiệm ở các thị trường mới nổi cho thấy, Chính phủ có thể gây ảnh hưởng đến đường cong lợi suất của trái phiếu bằng cách kéo dài trục kỳ hạn. Cách làm này sẽ khuyến khích các DN phát hành, thông qua hình thành giá tham chiếu dựa trên đường cong lợi suất. Chính phủ cũng có thể tác động đến khối lượng thanh khoản trên thị trường bằng cách cam kết về phát hành trong khả năng dự liệu sao cho các NĐT tiềm năng có thể lập kế hoạch đầu tư từ sớm.
Và một trong những vấn đề cần cải thiện thêm là phát triển đường cong lợi suất thông qua nâng quy mô của trái phiếu mốc chuẩn và rút gọn số lượng công cụ. Bên cạnh đó, cần khuyến khích sử dụng các công cụ tự bảo hiểm rủi ro trên thị trường (như tự bảo hiểm tỷ giá, lãi suất). Các công cụ tự bảo hiểm nếu được phát triển sẽ khuyến khích các NĐT nước ngoài tham gia ngày càng tăng.
Các cấp có thẩm quyền cũng cần cân nhắc hình thành lãi suất tham chiếu ngắn hạn đáng tin cậy hơn để hoàn tất đường cong lợi suất từ phân khúc ngắn hạn đến phân khúc dài hạn. Điều này sẽ giúp cải thiện việc định giá cho các công cụ có lãi suất thả nổi và tạo ra mốc neo vững chắc cho các công cụ có kỳ hạn dài hơn. Việc có được mốc lãi suất ngắn hạn đáng tin cậy cũng là cách để nâng cao hiệu quả định giá các công cụ tự bảo hiểm qua đó giúp cho thanh khoản thị trường tốt hơn.
Những Giải Pháp Cho Phát Triển Đô Thị Tại Việt Nam
Bên cạnh việc xây dựng một hệ sinh thái toàn diện cho khu đô thị, các yếu tố về vị trí, hạ tầng, ước định quy mô, xây dựng dịch vụ tiện ích và ứng dụng công nghệ là những tiêu chí được các chuyên gia đề cao trong phát triển đô thị tại Việt Nam.
Với tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam từ mức 21,7% năm 1999 lên 35,7% năm 2023 (bình quân tăng khoảng 0,8 điểm %/năm); tỷ lệ tăng dân số đô thị trung bình hàng năm từ 2-3,4%, Việt Nam đang rất cần phát triển các khu đô thị quy mô để phục vụ nhu cầu lưu trú của người dân. Tuy nhiên hiện nay, thực trạng phát triển đô thị tại Việt Nam đang tồn tại nhiều bất cập .
Ông Nguyễn Đỗ Dũng – Giám đốc điều hành EnCity chỉ ra, không ít dự án khu đô thị mới ở Việt Nam được đầu tư hàng tỷ đô la nhưng sau nhiều năm vẫn chỉ là những không gian trống, không có cư dân sinh sống, gây lãng phí nguồn lực đất đai, tiền đầu tư của Nhà nước. Về đặc trưng, việc quy hoạch đô thị rất khác so với việc thi công một công trình nhà ở hay hạ tầng. Nếu không được tính toán kỹ lưỡng, bài bản, việc phát triển các khu đô thị mới rất khó thành công.
Ông Dũng nhìn nhận, nguyên nhân khiến hầu hết các đô thị hiện nay quy hoạch thất bại là do dòng tiền. Các đô thị lớn với quy hoạch được điều chỉnh linh hoạt đòi hỏi một nguồn tiền lớn rót xuống tiên tục. Trong khi đó, ở nước ta các đô thị thường được xây dựng trong thời gian dài, gần như khó có thể đáp ứng được nguồn vốn để xây dựng, nhất là trong các thời điểm thị trường gặp khủng hoảng khiến dự án bị đóng băng rất lâu.
Bên cạnh việc triển khai xây dựng, thách thức lớn đối với việc phát triển đô thị mới còn là chuyện phải thu hút cư dân và xây dựng một cộng đồng sống tốt, xây dựng một hệ thống hạ tầng giao thông linh hoạt, tạo thuận lợi kết nối vùng, đa dạng hoạt động kinh tế và linh hoạt trong vận hành. Điều này đòi hỏi không chỉ tầm nhìn hoạch định lâu dài mà còn phải có nguồn vốn đầu tư lớn.
góc chúng tôi Ảnh: Báo Xây dựng
Bàn về giải pháp phát triển các đô thị hiện nay, giám đốc điều hành EnCity cho rằng, trước hết là chủ đầu tư cần lựa chọn vị trí phát triển tốt, có liên kết vùng thuận lợi. Một khu đô thị cần sở hữu vị trí chiến lược với tiềm năng phát triển mở rộng, lâu dài, kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ. Các chủ đầu tư không chỉ tận dụng lợi thế giao thông sẵn có mà cần chủ động đầu tư phát triển giao thông hạ tầng cho chính dự án của mình. Điều này sẽ giúp thay đổi quan niệm về khoảng cách, đem lại sự thuận tiện và an toàn cho cư dân, giảm áp lực giao thông lên tuyến đường của thành phố.
Ngoài ra, trước khi quy hoạch phát triển khu đô thị, chủ đầu tư cần ước định quy mô dự án: không quá lớn để phù hợp với khả năng tiêu thụ của thị trường, không quá nhỏ để cung cấp tiện ích cộng đồng; có chiến lược phân kỳ phát triển sản phẩm. Nếu không có chiến lược phân kỳ thì sản phẩm thì lượng căn hộ phát triển quá lớn, khiến thị trường khó hấp thụ được. Trong khi đó, việc phát triển các phân khu dự án có quy mô phù hợp với tiện ích đồng bộ sẽ rất hấp dẫn và thu hút khách hàng, đảm bảo dòng tiền cho dự án. Mỗi giai đoạn dự án nên có quy mô trung bình 70 ha với quy mô dân số 15.000-20.000 người, thực hiện cuốn chiếu trong thời gian 5 năm và phát triển từ ngoài vào trong để tạo quy mô dân số cho hoạt động thương mại ở lõi.
Bên cạnh đó, việc đa dạng các sản phẩm nhà ở, đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng khác nhau, tạo ra hệ sinh thái dịch vụ và việc làm tại chỗ, tập trung hoá tiện ích xã hội thành những khu có diện tích lớn để có thể xây dựng công trình có tiêu chuẩn cao và dễ thu hút đầu tư, sẽ giúp giảm rủi ro thị trường. Trong đó, quan trọng nhất vẫn là tạo ra các dịch vụ tốt cho cư dân.
Một phần tuyến đường Lê Văn Lương, Hà Nội với các cao ốc chen chúc nhau. Ảnh: Enternews
Đồng quan điểm trên, ông Nguyễn Đức Quang – Phó Tổng Giám đốc Kinh doanh và tiếp thị Vinhomes cho rằng, trong phát triển các khu đô thị, việc chủ động xây dựng một chuỗi hệ sinh thái sẽ giúp gia tăng giá trị các sản phẩm bất động sản, mang lại chất lượng sống tối ưu. Một hệ sinh thái hoàn hảo bao gồm hệ thống tiện ích khép kín và đồng bộ, từ trường học, cơ sở y tế tới các sân thể thao, khu vui chơi, trung tâm thương mại, cửa hàng, ẩm thực… xoay quanh trục bất động sản.
Bên cạnh đó, các chủ đầu tư cũng cần chủ động tạo ra chuỗi giá trị mềm, làm gia tăng giá trị cho các sản phẩm bất động sản theo thời gian. Giá trị mềm chính là dịch vụ quản lý đô thị chuyên nghiệp và tận tâm, hệ thống an ninh, an toàn, PCCC đảm bảo và các hoạt động gắn kết cộng đồng thân thiện, văn minh.
Nhiều chuyên gia đầu ngành cũng đánh giá cao việc ứng dụng công nghệ vào phát triển lĩnh vực bất động sản. Ông Yoon Young Kim – Tổng Giám đốc Schneider Electric Việt Nam nhìn nhận, xu hướng ứng dụng công nghệ vào phát triển nhà ở sẽ gia tăng mạnh mẽ tại Việt Nam trong tương lai, không chỉ là ứng dụng vào trong thiết kế nhà mà có thể tác động đến cách vận hành quản lý chung cư/tòa nhà như quản lý thông tin dân cư; thông tin hóa đơn điện, nước, dịch vụ hàng tháng; phản hồi của dân cư về cơ sở vật chất, tiện ích, dịch vụ; tích hợp hệ thống quản lý đậu xe thông minh; hệ thống báo cháy thông qua điện thoại…
Nếu 10 năm trước, phát triển nhà ở chỉ tập trung vào sử dụng các thiết bị dùng dây cáp kết nối, màn hình cảm biến cố định và remote cầm tay thì đến nay, các biệt thự và căn hộ cao cấp đã dùng công nghệ mới như Zigbee Wireless, máy tính bảng, điện thoại thông minh, giọng nói… quy mô và thị phần lĩnh vực nhà thông minh sẽ đạt gần 53,45 tỷ USD vào năm 2023.
Khoảng 82% nhân viên và tổ chức môi giới bất động sản nghĩ rằng nhà thông minh hỗ trợ họ bán bất động sản dễ dàng hơn. Điều này hoàn toàn có cơ sở để nhận định, chỉ 2-3 năm sau sẽ có thêm hàng ngàn căn hộ thông minh tại chúng tôi của các thương hiệu lớn như Vinhomes, Sơn Kim hay Novaland.
(Theo Tuổi trẻ online)
Thị Trường Vốn Là Gì? Thực Trạng Thị Trường Vốn Tại Việt Nam
Ai là người có thể tham gia vào thị trường vốn? Đó là các tổ chức tài chính với vị thế là bên cho vay và các đơn vị kinh doanh, tập đoàn là vị thế của người đi vay. Thị trường vốn sẽ cung ứng vốn dài hạn và vốn sở hữu tài chính cho Chính phủ cũng như là các doanh nghiệp.
2. Các công cụ trong thị trường là gì?
Nó bao gồm: Cổ phiếu, trái phiếu công ty, vay thương mại, vay thế chấp, vay tiêu dùng hoặc chứng khoán chính phủ và chứng khoán các cơ quan thuộc chính phủ.
Dựa trên hàng hóa
Thị trường cổ phiếu: Đây là thị trường – nơi mà các bên thực hiện các giao dịch mua bán, trao đổi các giấy tờ xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông.
Thị trường trái phiếu: Hàng hóa được mua bán trong thị trường này là trái phiếu.
Dựa vào sự luân chuyển vốn
Thị trường sơ cấp: Ngân hàng đảm nhiệm việc bảo lãnh phát hành chứng khoán, từ đó đảm bảo nguồn vốn trung và dài hạn.
Thị trường thứ cấp: Tại đây, các nhà đầu tư được khuyến khích mua bán lại chứng khoán giúp nâng cao tính thanh khoản cho các chứng khoản được giao dịch.
5. Thị trường vốn tại Việt Nam
Ưu điểm
Tại Việt Nam thì các ngân hàng nắm giữ tỷ trọng lớn nhất trên thị trường vốn, tiếp nối theo là trái phiếu và cổ phiếu. Ngân hàng cung cấp nguồn vốn cho nền kinh tế chủ yếu thông qua các hoạt động tín dụng.
Thị trường vốn những năm gần đây đã có sự dịch chuyển cơ cấu từ khu vực các tổ chức tín dụng sang thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán, theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, đang trở thành một kênh huy động vốn mạnh mẽ cho nền kinh tế Việt Nam và đang càng ngày càng vững chắc và hoàn thiện về cơ cấu. Các doanh nghiệp nhà nước đang có xu hướng cổ phần hóa để mở rộng được cơ hội đầu tư lớn hơn từ các nhà đầu tư bên ngoài.
Việt Nam được dự đoán sẽ phát triển mạnh thị trường vốn và sẽ có những kế hoạch tối ưu để có thể đẩy mạnh cổ phần hóa và thoái hóa vốn nhà nước của Chính phủ.
Như vậy bài viết đã cung cấp cho bạn một số thông tin cơ bản về thị trường vốn là gì và những kiến thức xung quanh nó. Thêm vào đó, thị trường vốn tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận được những tăng trưởng nhất định của kênh cung cấp vốn quan trọng này đối với nền kinh tế.
Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Triển Thị Trường Vốn Việt Nam: Cần Những Giải Pháp Xứng Tầm trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!