Xu Hướng 6/2023 # Phát Triển Nhanh Và Bền Vững Là Quan Điểm Xuyên Suốt Trong Chiến Lược Phát Triển Kinh Tế # Top 12 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Phát Triển Nhanh Và Bền Vững Là Quan Điểm Xuyên Suốt Trong Chiến Lược Phát Triển Kinh Tế # Top 12 View

Bạn đang xem bài viết Phát Triển Nhanh Và Bền Vững Là Quan Điểm Xuyên Suốt Trong Chiến Lược Phát Triển Kinh Tế được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Thời sự – Chính trị

Phát triển nhanh và bền vững là quan điểm xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước ta

15:8′ 16/7/2010

I- Quan niệm phát triển bền vững xuất hiện từ những năm đầu thập kỷ 80 thế kỷ 20, được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 với hàm ý tổng quát là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau (1). Ðây là quá trình phải bảo đảm có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.

Ở nước ta, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã được nhận thức rất sớm và thể hiện trong nhiều chủ trương, nghị quyết của Ðảng. Ngay từ Ðại hội III năm 1960 và Ðại hội IV năm 1976, Ðảng ta đã đặt mục tiêu “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Ðại hội VII thông qua Chiến lược Phát triển kinh tế – xã hội 1991 – 2000, nhấn mạnh “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”. Ðại hội VIII nêu bài học “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Chiến lược Phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010 thông qua tại Ðại hội IX khẳng định “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Ðại hội X nêu bài học về phát triển nhanh và bền vững, trong đó ngoài các nội dung phát triển kinh tế, xã hội, môi trường còn bổ sung yêu cầu phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ và xác định mục tiêu tổng quát của Kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 là “Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển con người”. 

Như vậy, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã sớm được Ðảng và Nhà nước ta đặt ra với nội dung ngày càng hoàn thiện và đã trở thành một chủ trương nhất quán trong lãnh đạo, quản lý, điều hành tiến trình phát triển của đất nước trong nhiều thập kỷ qua. Nhà nước ta cũng đã có những cam kết mạnh mẽ về phát triển bền vững (2).

II- Trong mười năm qua, thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7,3%/năm (3), thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 1.200 USD, vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế được giữ vững, thâm hụt ngân sách và nợ quốc gia được kiểm soát trong giới hạn an toàn. Ðời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện tốt hơn. Thu nhập thực tế bình quân đầu người 10 năm qua tăng khoảng 2,3 lần. Công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt nhiều thành tựu nổi bật, được quốc tế đánh giá cao. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2 lần năm 2008. Trẻ em được quan tâm bảo vệ, chăm sóc; tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 33,8% xuống còn dưới 18%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 67 lên 72 tuổi. Cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Chỉ số phát triển con người (HDI) không ngừng tăng lên, năm 2008 là 0,733, thuộc nhóm nước trung bình cao trên thế giới. Mức hưởng thụ văn hóa, điều kiện tiếp cận thông tin của người dân được nâng lên rõ rệt. Hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng. Cùng với những kết quả to lớn trong việc xã hội hóa phát triển các lĩnh vực xã hội, ngân sách Nhà nước chi cho các lĩnh vực này không ngừng tăng lên; bảo hiểm y tế được mở rộng từ 13,4% dân số năm 2000 lên khoảng 62% năm 2010. Bình đẳng giới có nhiều tiến bộ, tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội và giữ các trọng trách trong hệ thống chính trị ngày càng cao. Năm 2008, nước ta đã hoàn thành hầu hết các Mục tiêu Thiên niên kỷ đặt ra cho năm 2015.

Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm và có mặt được cải thiện. Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng, xã hội cởi mở và đồng thuận hơn. Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Chính trị – xã hội ổn định. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi; thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo ra những tiền đề quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Bên cạnh những kết quả nêu trên, trong sự phát triển cũng còn nhiều yếu kém, bất cập. Những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn hạn chế; lãng phí, thất thoát còn nhiều; hiệu quả đầu tư thấp. Tiêu hao nguyên liệu, năng lượng còn rất lớn. Việc khai thác và sử dụng tài nguyên chưa thật hợp lý và tiết kiệm. Các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc, bội chi ngân sách, thâm hụt cán cân thương mại còn lớn, lạm phát còn cao. Môi trường sinh thái nhiều nơi bị ô nhiễm nặng.

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều bất cập, một số mặt vẫn còn bức xúc; tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; ùn tắc và tai nạn giao thông còn nghiêm trọng; tham nhũng chưa bị đẩy lùi; chất lượng giáo dục và đào tạo, nhất là đào tạo đại học và dạy nghề còn yếu kém và chậm được cải thiện; các bệnh viện bị quá tải, chất lượng dịch vụ y tế còn thấp.

3- Từ thực tiễn nêu trên, dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 nêu bài học “Ðặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển… giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng” và xác định “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”, với các nội dung chủ yếu là “Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Ðẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế – xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết; phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế – xã hội. Phải đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”.

Ðể hiện thực hóa quan điểm phát triển nhanh và bền vững, phải thực hiện đồng bộ các định hướng phát triển đã nêu trong dự thảo Chiến lược, trong đó cần tập trung thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp sau:

Một là, bằng các giải pháp và sức mạnh tổng hợp, kiên quyết giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường hòa bình và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đất nước. Ðây là điều kiện tiên quyết nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững và cũng là một lợi thế của đất nước ta. 

Hai là, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế; giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng và sự hoạt động an toàn, hiệu quả của các định chế tài chính.

Thế hệ chúng ta đã từng chứng kiến những cuộc khủng hoảng lương thực, khủng hoảng năng lượng, mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra trong các năm 2007 – 2009 và cuộc khủng hoảng nợ công ở một số nước hiện nay. Những cuộc khủng hoảng này là hậu quả của sự phát triển không bền vững, gây mất ổn định toàn cầu và tác động đến tăng trưởng của hầu hết các quốc gia, kinh tế thế giới suy giảm, thất nghiệp gia tăng, xung đột xã hội lan rộng…

Ở nước ta, cùng với những bất cập, yếu kém trong quản lý vĩ mô, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực đến sự phát triển của đất nước, lạm phát tăng cao, tốc độ tăng trưởng suy giảm, đời sống nhân dân gặp khó khăn. Kinh nghiệm quốc tế cũng như của nước ta những năm qua cho thấy giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh tài chính, kiểm soát được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn vừa là tiền đề để tăng trưởng nhanh vừa là nội dung của tăng trưởng bền vững, trở thành nhiệm vụ quan trọng nhất trong quản lý kinh tế của bất cứ quốc gia nào.

Ba là, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để bảo đảm đạt tốc độ tăng trưởng cao đồng thời nâng cao chất lượng tăng trưởng. Bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao, ổn định và không ngừng nâng cao chất lượng tăng trưởng là yếu tố quyết định nhất để phát triển nhanh và bền vững. Có đạt được tốc độ tăng trưởng cao, đất nước mới phát triển nhanh, rút ngắn khoảng cách với các nước, mới tạo được nguồn lực để phát triển các lĩnh vực xã hội, phát triển con người, đầu tư phát triển những khu vực khó khăn, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng trong nước, mở rộng hệ thống  phúc lợi và an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Với ưu thế về nguồn lực con người, chính trị xã hội ổn định, vị trí địa – kinh tế thuận lợi, lại là nước đi sau, chúng ta có điều kiện để phát triển nhanh. Mặt khác, có nâng cao chất lượng tăng trưởng mới tăng được hiệu suất sử dụng vốn và sức cạnh tranh của nền kinh tế, mới mở rộng được thị trường tiêu thụ trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trên cơ sở đó, tạo ra giá trị gia tăng lớn cho đất nước, tăng khả năng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, bảo đảm nguồn lực cho tăng trưởng cao và ổn định trong dài hạn.

Ðể tăng trưởng cao, đạt tốc độ bình quân 7 – 8%/năm, phải tháo gỡ mọi cản trở về thể chế và thủ tục hành chính, giải phóng và phát triển mạnh lực lượng sản xuất gắn với nâng cao trình độ khoa học, công nghệ. Phải tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế tư nhân – thành phần có tốc độ tăng trưởng cao nhất và tạo nhiều việc làm nhất. Mặt khác, phải đổi mới, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, để doanh nghiệp nhà nước trở thành công cụ quan trọng trong việc thực hiện chính sách cơ cấu và định hướng tổ chức thị trường. Phải thực hiện đa sở hữu, công khai minh bạch, nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp và quan trọng hơn là đặt doanh nghiệp nhà nước vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong cơ chế thị trường. Chỉ có như vậy mới nâng cao được hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước và sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước mới không chèn lấn các nguồn lực để phát triển khu vực tư nhân – một động lực chủ yếu của tăng trưởng.

Nâng cao hiệu quả đầu tư công là một yếu tố quan trọng bảo đảm chất lượng tăng trưởng. Trong mười năm tới, cần tập trung hơn nữa đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, từng bước hiện đại, tạo điều kiện cho kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững. Hoàn thiện cơ chế giám sát và tăng cường công tác giám sát đầu tư. Kiên quyết và có biện pháp mạnh mẽ chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí trong đầu tư.

Cùng với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải cách hành chính, cần phát huy có hiệu quả chức năng kiến tạo phát triển của nhà nước, nhất là trong thời kỳ đầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, thể hiện trong việc đề ra chính sách cơ cấu và định hướng phát triển vùng đúng đắn.

Bốn là, phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, yếu tố làm nên giá trị ổn định, lâu bền của một quốc gia, hình thành bản sắc riêng có của một dân tộc. Văn hóa làm nên nguồn lực xã hội to lớn, thấm sâu vào quá trình phát triển. Sự phát triển của một thời đại ở bất kỳ quốc gia nào đều có dấu ấn khai sáng của văn hóa. Trên nền tảng văn hóa, con người không chỉ giải quyết mối quan hệ với đồng loại, ứng xử với môi trường thiên nhiên trong đời sống hiện tại mà còn giải quyết mối quan hệ với các thế hệ tương lai trong quá trình phát triển. Với ý nghĩa này, văn hóa không chỉ là kết quả của phát triển nhanh, bền vững mà còn là yếu tố tạo nên sự phát triển nhanh, bền vững. Phải đặt yêu cầu phát triển văn hóa ngang tầm và hài hòa với phát triển kinh tế. Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển.

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là nội dung rất quan trọng của phát triển bền vững. Ðây còn là tiêu chí thể hiện bản chất của chế độ ta. Sự bất bình đẳng và phân hóa giàu nghèo ở mức cao tạo nên xung đột xã hội ở không ít các quốc gia trên thế giới, làm suy giảm tăng trưởng. Vì vậy, Ðảng ta chủ trương phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Chúng ta sẽ tập trung hơn cho công cuộc xóa đói giảm nghèo, đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để thực hiện giảm nghèo bền vững. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, đồng thời hạn chế phân hóa giàu nghèo, chủ yếu thông qua chính sách điều tiết thu nhập, phát triển hệ thống phúc lợi xã hội và an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân phối trong các doanh nghiệp, chính sách tiền lương, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

Tập trung sức phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là đào tạo đại học và dạy nghề để có nguồn nhân lực chất lượng cao, cơ cấu hợp lý nhằm đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Tập trung chỉ đạo kiên quyết, đồng bộ và huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị để bảo đảm đạt được những chuyển biến rõ rệt, vững chắc trong công tác phòng chống tham nhũng, tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông.

Năm là, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ rộng rãi, nhất là dân chủ trực tiếp, xây dựng xã hội đồng thuận, cởi mở.

Thực hiện dân chủ là một thành tố của phát triển bền vững, được Ðảng ta nêu rõ tại Ðại hội Ðảng lần thứ X, nhằm hoàn thiện, làm phong phú thêm nội dung phát triển bền vững. Ðiều này xuất phát từ luận điểm rất quan trọng: con người vừa là mục tiêu vừa là chủ thể của phát triển. Nguồn lực con người là lợi thế cạnh tranh dài hạn, là yếu tố quyết định sự phát triển của một quốc gia. Thực hành dân chủ rộng rãi sẽ phát huy khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, đóng góp vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Dân chủ càng cao thì đồng thuận xã hội càng sâu, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng được củng cố vững chắc.

Ðể phát huy dân chủ, làm cho dân chủ trở thành nguồn lực phát triển, phải bảo đảm hai điều kiện: (1) tạo cơ hội cho mọi người được học tập, xây dựng xã hội học tập nhằm nâng cao dân trí; (2) thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thông qua các thiết chế bảo đảm dân chủ trong mọi mặt của đời sống xã hội, mở rộng dân chủ trực tiếp. Dân chủ phải gắn với kỷ luật, kỷ cương.

Có thể nói nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường đi liền với bảo đảm phúc lợi – an sinh xã hội và dân chủ xã hội chủ nghĩa là 3 trụ cột chính trong tiến trình phát triển của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Trong đó, dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực. Cả 3 trụ cột này phải mạnh và có sự phát triển tương thích, đồng bộ. Một trụ cột yếu sẽ cản trở sự vận động của các trụ cột khác và ảnh hưởng đến sự phát triển chung.

Sáu là, tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường.

Bảo vệ và cải thiện môi trường là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững. Môi trường bị ô nhiễm, tài nguyên bị cạn kiệt, rừng bị tàn phá, đất bị xói mòn và tình trạng sa mạc hóa, biến đổi khí hậu, nguy cơ nước biển dâng… làm thu hẹp không gian sinh tồn của con người chẳng những tác động tiêu cực đến cuộc sống hiện tại mà còn đe dọa sự phát triển của các thế hệ tương lai.

Ðối với nước ta, tình trạng ô nhiễm môi trường và những nguy cơ do biến đổi khí hậu và nước biển dâng là những thách thức to lớn. Vì vậy, phát triển kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường; chủ động đối phó với hiểm họa nước biển dâng; sử dụng công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, phát triển kinh tế xanh là nội dung có tác động mạnh nhất đến phát triển bền vững, phải được thể hiện trong toàn bộ kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của cả nước cũng như trong từng lĩnh vực, ở từng địa phương, đơn vị.

Thực hiện có hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững  đòi hỏi phải tạo được sự chuyển biến có tính cách mạng, thấu suốt về nhận thức, đổi mới mạnh mẽ về tư duy, quán triệt trong mọi chính sách, quy hoạch, kế hoạch, dự án và chương trình hành động; tổ chức thực hiện quyết liệt ở tất cả các ngành, các cấp với sự đồng thuận tham gia của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp và mọi người dân trong cả nước.

Chúng ta tin tưởng vững chắc rằng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với sự điều hành có hiệu quả của Nhà nước, sự phấn đấu nỗ lực của toàn dân, toàn quân, nhất định đất nước ta sẽ bước vào một thời kỳ mới phát triển nhanh và bền vững.

NGUYỄN TẤN DŨNG

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ  

(1) Báo cáo Brundtland của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED).

(2) Quyết định số 153 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam; thành lập hội đồng phát triển bền vững quốc gia, xây dựng đề án thực hiện chương trình nghị sự 21 và các mục tiêu thiên niên kỷ và nhiều văn bản khác.

(3) Dự kiến năm 2010 GDP tăng trưởng đạt 6,5% thì bình quân 10 năm 2001-2010 đạt 7,27%.

(Nguồn: Báo Nhân Dân)

Chuyển Đổi Số Là Giải Pháp Quan Trọng Để Phát Triển Nhanh Và Bền Vững

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu chỉ đạo Hội nghị. ( Ảnh: TTXVN )

Các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh; Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thiện Nhân cùng Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Nên cùng dự hội nghị.

Chuyển đổi số trước tiên là chuyển đổi nhận thức, tư duy

Phát biểu chỉ đạo, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cho rằng hội nghị thể hiện quyết tâm mạnh mẽ, tinh thần khẩn trương, quyết liệt của Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Ngoại giao và kiều bào đóng góp vào việc thực hiện hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XI, cũng như những chủ trương, đường lối phát triển đất nước trong giai đoạn mới sẽ được thông qua tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh nhấn mạnh, đất nước ta đang đứng trước những vận hội mới để bứt phá, phát triển nhanh, bền vững. Việt Nam bước vào giai đoạn chiến lược mới – giai đoạn đổi mới toàn diện, chủ động tham gia cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Việt Nam coi chuyển đổi số là một giải pháp quan trọng để phát triển nhanh hơn, bền vững hơn để hướng đến năm 2030 trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ, mô hình mới; đến năm 2045, Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dịch vụ thông minh, trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thuộc nhóm dẫn đầu khu vực Châu Á, có năng suất lao động cao, có đủ năng lực làm chủ, áp dụng công nghệ hiện đại trong tất cả các lĩnh vực kinh tế – xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh.

Thể chế là động lực của chuyển đổi số, cần phải đi trước, vì thế cần trao đổi sâu, đưa ra khuyến nghị để hoàn thiện, kiến tạo thể chế theo hướng khuyến khích, sẵn sàng chấp nhận giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh số, thúc đẩy phương thức quản lý mới đối với những mối quan hệ mới phát sinh.

Bên cạnh đó, cần chuẩn bị nguồn nhân lực để phát triển nền kinh tế số, xã hội số, không ai bị bỏ lại phía sau; giải quyết vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực là điểm nghẽn cản trở tiến trình chuyển đổi số của nước ta – Phó Thủ tướng lưu ý.

Đánh giá cao vai trò của Thành phố Hồ Chí Minh với tư cách đầu tàu kinh tế, là nơi hoạt động kinh tế năng động nhất, và cũng là trung tâm lớn về khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo của cả nước, Phó Thủ tướng đề nghị Hội nghị đóng góp ý kiến để Thành phố Hồ Chí Minh đi đầu trong thực hiện mô hình tăng trưởng mới dựa trên tri thức, tận dụng các cơ hội của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển mạnh kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn; tin tưởng góp sức của kiều bào, Thành phố Hồ Chí Minh và cả nước sẽ vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tận dụng tốt thời cơ để vươn lên mạnh mẽ, phát triển phồn vinh.

Trao đổi cùng các đại biểu tham dự hội nghị, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thiện Nhân cho rằng, hướng tới thực hiện hiệu quả mục tiêu chuyển đổi số, cần tiến hành số hóa tài nguyên, dữ liệu cho các doanh nghiệp, Chính phủ, trong đó cần áp dụng giải pháp yêu cầu cung cấp dịch vụ giải pháp số hóa, xây dựng dữ liệu chung cho các doanh nghiệp cùng ngành nghề có đặc điểm, cấu trúc hoạt động chung.

Giải pháp số hóa tổng quát từng nhóm doanh nghiệp, nhóm đơn vị đặc thù để giảm thiểu chi phí cho doanh nghiệp mà vẫn đạt được hiệu quả cao trong chuyển đổi số.

Để nâng cao hiệu quả hỗ trợ tài chính cho hoạt động số hóa, các ngân hàng cần phối hợp nghiên cứu xây dựng cơ chế hỗ trợ tài chính số hóa theo từng nhóm ngành nghề để giảm thiểu các rủy ro, giảm chi phí tài chính.

Về vấn đề phát triển kinh tế tuần hoàn, các doanh nghiệp, từng ngành cần nghiên cứu lại quy trình sản xuất kinh doanh, cơ chế vận hành của hoạt động quản lý, dịch vụ để từ đó đưa ra giải pháp sáng tạo phù hợp với chu trình kinh tế tuần hoàn.

Thay mặt lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh qua các thời kỳ, đồng chí Nguyễn Thiện Nhân cảm ơn đồng bào, kiều bào đã nỗ lực, tâm huyết đóng góp trí lực, tài lực vào sự nghiệp xây dựng, phát triển Thành phố và Tổ quốc; bày tỏ tin tưởng, với nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân Thành phố cùng sự tham gia tâm huyết của kiều bào trên toàn thế giới, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục tiến nhanh, bền vững, xứng đáng với sự tin yêu của nhân dân cả nước.

Tại hội nghị, các đại biểu nhất trí đại dịch COVID-19 tác động sâu rộng đến mọi mặt đời sống xã hội thế giới, tạo ra những khó khăn, thách thức đối với Việt Nam nhưng cũng tạo ra cơ hội cho sự đổi mới, sáng tạo, đặc biệt là hoạt động chuyển đổi số, áp dụng ứng dụng khoa học công nghệ trong phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Nguồn: chúng tôi

Tìm Giải Pháp Để Phát Triển Nhanh Và Bền Vững

Diễn đàn doanh nghiệp VBF 2019:

Chủ động thu hút đầu tư nước ngoài

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) là một cơ chế đối thoại liên tục và chặt chẽ giữa Chính phủ Việt Nam với cộng đồng các doanh nghiệp trong nước và quốc tế, nhằm cải thiện các điều kiện kinh doanh cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của khối doanh nghiệp tư nhân, thuận lợi hóa môi trường đầu tư, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế bền vững của Việt Nam.

Năm nay, 107 vấn đề được lựa chọn gồm cả những vấn đề mới phát sinh trong năm và không ít vấn đề được nhắc lại từ các VBF trước.

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, bất chấp những biến động với nhiều khó khăn, thách thức của năm 2019, nhưng với sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp và sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời, hiệu quả của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, kinh tế Việt Nam tiếp tục đạt được những kết quả ấn tượng trên nhiều lĩnh vực quan trọng. Điều này có phần đóng góp không nhỏ của cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ tương lai, dự án xanh, quản trị hiện đại, hàm lượng giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

Do đó, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, các bộ, ngành mong muốn lắng nghe những đề xuất của cộng đồng doanh nghiệp trong việc thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, thu hút và sử dụng có hiệu quả hơn dòng vốn đầu tư nước ngoài trong bối cảnh các nhà đầu tư, các tập đoàn đa quốc gia đang cơ cấu lại nguồn vốn đầu tư.

“Những ý kiến đóng góp của các doanh nghiệp sẽ giúp Chính phủ hoàn thiện hơn vai trò “kiến tạo” của mình đồng thời cải thiện tốt hơn môi trường đầu tư”, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Chính sách cần ổn định hơn

Cũng tại VBF lần này, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đánh giá, thời gian qua, Chính phủ đã hỗ trợ doanh nghiệp không chỉ qua những tuyên ngôn như “Chính phủ hành động, kiến tạo” hay “lấy doanh nghiệp làm đối tượng phục vụ” mà đã trở thành các hành động cụ thể trong các chính sách kinh tế được ban hành và thực thi thời gian qua.

Đưa ra một số kiến nghị nhằm thúc đẩy cải thiện môi trường kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp, Chủ tịch VCCI cho rằng, các cơ quan nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh việc đơn giản hoá các thủ tục hậu đăng ký doanh nghiệp… Biện pháp đơn giản hoá phù hợp nhất vẫn là liên thông hoặc kết hợp các thủ tục hành chính để các doanh nghiệp có thể làm nhiều thủ tục cùng một lúc. Ngoài ra, có thể bãi bỏ một số thủ tục không cần thiết như lệ phí môn bài, con dấu doanh nghiệp.

Về kiểm soát tham nhũng và giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp, ông Lộc cho rằng cần tiếp tục chú trọng giải quyết cấn đề tham nhũng vặt khi làm thủ tục hành chính và thanh tra kiểm tra.

Chủ tịch VCCI cũng đề xuất, nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng cần được cải thiện trong tiếp cận đất đai bằng cách hiện thực hoá chủ trương đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư sử dụng đất trong Luật Đầu tư. Công tác đấu thầu, đấu giá để phân bổ các nguồn lực như tài nguyên, hợp đồng, cơ hội kinh doanh cần được mở rộng hoặc tiếp tục được thực hiện một cách minh bạch hơn.

Cũng nêu kiến nghị lên Chính phủ, bà Amanda Rasmussen, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham) cho rằng, xây dựng một khung pháp lý công bằng, minh bạch, ổn định và hiệu quả mà trong đó coi trọng sự đổi mới sẽ giúp Việt Nam tiếp tục thu hút, duy trì và phát triển thương mại và đầu tư chất lượng cao.

Ngoài ra, bà Amanda Rasmussen đề xuất, chính sách thuế cần ổn định và công bằng hơn, đẩy mạnh hiện đại hóa hải quan, loại bỏ rào cản kỹ thuật thương mại, cấp quyền sử dụng đất nhanh và minh bạch…

Đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam cho rằng, để tăng cường thu hút các cơ sở sản xuất ở nước ngoài và tạo nên những bước phát triển bền vững trong lĩnh vực sản xuất, cần khuyến khích và thúc đẩy sự phát triển các doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Tuy nhiên, Phó Thủ tướng cho rằng sẽ có nhiều thách thức trong mục tiêu phát triển nhanh và bền vững. Do đó, Chính phủ và các bộ, ngành sẽ tiếp tục tiếp thu để hoàn chỉnh các quy định pháp luật, cải thiện thủ tục hành chính, thuận lợi hoá quan hệ đầu tư tạo môi trường thuận lợi cho huy động các nguồn đầu tư cho phát triển. Tạo hạ tầng đồng bộ, nâng cao sức cạnh tranh, chú trọng phát triển giáo dục và khoa học công nghệ.

Bên cạnh đó, các bộ, ngành cũng sẽ triển khai các chủ trương tạo điều kiện cho doanh nghiệp các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cùng phát triển. Thực hiện Nghị quyết về định hướng phát triển thể chế cho đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Coi môi trường pháp lý, hạ tầng và nhân lực là ba nhân tố cho đầu tư phát triển.

Đặc biệt, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã đề nghị các nhà đầu tư nước ngoài chủ động kết nối doanh nghiệp trong nước để chỉ dẫn doanh nghiệp trong nước phát triển công nghiệp phụ trợ, gắn kết với các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam để các doanh nghiệp này có cơ hội tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cùng với doanh nghiệp FDI.

7 Giải Pháp Cho Phát Triển Kinh Tế Bền Vững

Phát biểu tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam ( VBF) giữa kỳ năm 2019, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nhận định tình hình quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến không thuận lợi so với những năm trước đây.

Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì đà tăng trưởng tích cực, là một trong những điểm sáng về tăng trưởng trong khu vực và thế giới.

Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập cao nhất trong 5 năm qua, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện và nhiều chỉ số của Việt Nam tăng mạnh như chỉ số đổi mới sáng tạo.

Mặc dù vậy, nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức xuất phát chủ yếu từ những yếu kém nội tại như năng suất, năng lực cạnh tranh, năng lực sáng tạo cũng như những bất cập từ quy định về đầu tư, kinh doanh.

Trong bối cảnh đó, Phó Thủ tướng khẳng định phát triển nhanh và bền vững là chủ trương, quan điểm nhất quán và xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam.

Trước hết là ưu tiên phát triển nhanh để tránh tụt hậu, giảm khoảng cách thu nhập giữa Việt Nam và các nước đang phát triển trong khu vực, đồng thời phải phát triển bền vững.

“Đây là điều kiện đủ để đảm bảo cho Việt Nam phát triển trong thời gian tới”, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nhấn mạnh.

Phát triển bền vững trước hết phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển, giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, thực hiện các mục tiêu vì con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Cùng với đó, phải đảm bảo việc nâng cao chất lượng tăng trưởng, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các chính sách tài chính tiền tệ.

Phát triển bền vững công nghiệp với cơ cấu ngành nghề công nghệ, thiết bị đảm bảo nguyên tắc thân thiện với môi trường, tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm, xây dựng nền công nghiệp xanh, ưu tiên phát triển các ngành công nghệ, các sản phẩm thân thiện với môi trường.

Việt Nam cũng cần từng bước phát triển nhanh nền công nghiệp môi trường, thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu, vật liệu, năng lượng, nước.

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng chỉ ra các nhóm giải pháp để thực hiện các mục tiêu trên.

Trước hết, giữ vững môi trường vĩ mô, ổn định chính trị xã hội. “Đây là nhân tố quyết định để huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển và cũng là một nhân tố cho phát triển bền vững”.

Thứ hai, tập trung tái cấu trúc nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng một cách hợp lý nhằm nâng cao năng lực, năng suất, chất lượng, hiệu quả, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Trong đó, tập trung vào tài cơ cấu đầu tư, đặc biệt là đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp với doanh nghiệp Nhà nước là chủ yếu; tái cơ cấu hệ thống tài chính ngân hàng, các ngành nghề lĩnh vực, tập trung phát triển các ngành công nghiệp cốt lõi gắn với phát triển công nghiệp hỗ trợ để nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Theo Phó thủ tướng, cần lấy thị trường thế giới và thị trường khu vực làm mục tiêu để phát triển các sản phẩm công nghiệp Việt Nam.

Bên cạnh đó, tập trung tái cấu trúc ngành năng lượng, tái cơ cấu ngành, sản phẩm gắn với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, phát triển đô thị xanh, thông minh.

Thứ ba, ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đường bộ, hạ tầng giao thông, hạ tầng y tế, giáo dục, hạ tầng đô thị nhằm nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Thứ tư, chú trọng đến giáo dục đào tạo, coi giáo dục đào tạo và phát triển khoa học công nghệ là quốc sách để Việt Nam tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

“Coi đây là là nhân tố quyết định cho sự phát triển và nhân tố cho tăng trưởng bền vững, đặc biệt là trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nhấn mạnh.

Thứ năm, hoàn thiện thể chế theo hướng tạo môi trường minh bạch hơn, cạnh tranh hơn, thông thoáng hơn để huy động các nguồn lực cho đầu tư cả trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển.

Đồng thời tập trung cải cách thủ tục hành chính để giảm chi phí cho doanh nghiệp và người dân, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư và sản xuất của doanh nghiệp.

Thứ sáu, tập trung phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp là trung tâm; tăng cường vai trò nghiên cứu của các trường đại học; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ các chương trình khoa học trọng điểm, các nghiên cứu cấp bộ và hoạt động của các viện nghiên cứu Nhà nước; khuyến khích thành lập các viện nghiên cứu tư nhân, nhất là trong lĩnh vực khoa học, công nghệ.

Thứ bảy, Việt Nam tiếp tục tích cực thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, tích cực hội nhập quốc tế, đặc biệt là việc tham gia tích cực vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cả song phương và đa phương với những khu vực phát triển của thế giới.

“Đây là môi trường rất tốt để thúc đẩy Việt Nam đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững. Phát triển bền vững là mục tiêu và cũng là động lực cho quá trình phát triển”, Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng khẳng định.

Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Triển Nhanh Và Bền Vững Là Quan Điểm Xuyên Suốt Trong Chiến Lược Phát Triển Kinh Tế trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!