Bạn đang xem bài viết Phát Triển Dịch Vụ Phụ Trợ Bảo Hiểm Việt Nam Phù Hợp Với Các Hiệp Định Chung được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Các chuyên gia tham dự tại hội thảo. Ảnh: T.HTại hội thảo, giới thiệu các cam kết về dịch vụ phụ trợ bảo hiểm của Việt Nam tại Hiệp định CPTPP và các hiệp định thương mại tự do, ông Phạm Tuấn Anh, Phó Vụ trưởng Vụ hợp tác quốc tế- Bộ Tài chính cho biết, đối với dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, trong quá trình đàm phán và gia nhập các khung khổ hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã cam kết nhiều nội dung.
Trong đó, cho phép cung cấp qua biên giới; cho phép tiêu dùng tại nước ngoài; cho phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm và không cam kết về di chuyển thể nhân, trừ các cám kết chung. Các cam kết này được thể hiện rõ nhất tại biểu cam kết cụ thể về dịch vụ của Việt Nam với WTO.
Về bản chất, mức độ tự do hóa của dịch vụ phụ trợ bảo hiểm trong CPTPP không có sự chênh lệch với GATT và FTA khác. Một số hiệp định khác mà Việt Nam đã ký kết và có hiệu lực như Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc; Hiệp định Thương mại Việt Nam- Cu Ba, Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Ấn Độ … không cam kết lĩnh vực dịch vụ, vì vậy không cam kết mở cửa đối với dịch vụ phụ trợ bảo hiểm.
Tuy nhiên, các nước đối tác trong các FTA này đều là thành viên của WTO nên các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài từ các nước đó cũng có quyền tiếp cận thị trường bảo hiểm giống như các nhà đầu tư nước ngoài khác.
Theo Bộ Tài chính, hiện nay hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm chưa có quy định chung điều chỉnh dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, một số dịch vụ thuộc hoạt động phụ trợ bảo hiểm đã được quy định rải rác tại pháp luật bảo hiểm.
Việt Nam mở cửa ở mức độ cao dịch vụ phụ trợ bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ phụ trợ bảo hiểm tại Việt Nam. Tuy nhiên, dịch vụ phụ trợ bảo hiểm chưa được điều chỉnh cụ thể tại Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Tại hội thảo, một số chuyên gia cũng cho rằng, hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm chưa có các quy định cụ thể, chi tiết về các dịch vụ phụ trợ bảo hiểm như dịch vụ tư vấn bảo hiểm, đánh giá rủi ro bảo hiểm, tính toán bảo hiểm, giám định tổn thất bảo hiểm…
Từ thực tế trên, Bộ Tài chính kiến nghị, cần nghiên cứu đưa vào Luật Kinh doanh Bảo hiểm sửa đổi, bổ dung về dịch vụ phụ trợ cho bảo hiểm, như: Điều kiện kinh doanh cung cấp một số dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; đảm bảo quyền thực thi các dịch vụ phụ trợ; mở rộng các dịch vụ… đảm bảo quản lý chặt chẽ, hiệu quả hoạt động này.
Ở góc độ doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tư vấn bảo hiểm, bà Nguyễn Hoàng Quyên, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Aon cho rằng, câu chuyện về rủi ro và quản lý rủi ro được Aon quản lý và chia sẻ thường xuyên với khách hàng.
Đưa ra 55 rủi ro lớn nhất đối với các công ty có phạm vi hoạt động toàn cầu mà các công ty đang phải đối diện, bà Nguyễn Hoàng Quyên cho rằng, chỉ có 25% rủi ro được bảo hiểm, số còn lại có thể bảo hiểm được một phần hoặc không thể bảo hiểm.
Theo đại diện một số công ty cung cấp dịch vụ bảo hiểm, cần bổ sung thêm quy định về dịch vụ phụ trợ bảo hiểm, bao gồm dịch vụ đánh giá rủi ro bảo hiểm cho môi giới bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm. Trong đó, môi giới bảo hiểm được thu thêm phí dịch vụ ngoài hoa hồng môi giới và không bị giới hạn tỷ lệ % trên tổng phí bảo hiểm thu xếp đối với các dịch vụ không phải là cả hợp đồng bảo hiểm.
Cùng với đó, lĩnh vực và nội dung hoạt động của các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được mở rộng, không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc tư vấn, đàm phán hợp đồng bảo hiểm…
Phát Triển Ngành Dịch Vụ: Cần Định Hướng Đúng, Giải Pháp Phù Hợp
(Báo Quảng Ngãi)- Ngành dịch vụ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất khi xảy ra đại dịch Covid-19. Nguyên nhân chính là do khách quan, nhưng vẫn có yếu tố chủ quan là khả năng thích ứng còn hạn chế. Trong giai đoạn mới, Quảng Ngãi đặt mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ gắn với những định hướng đúng để có thể phát triển nhanh và bền vững.
Trong 5 năm qua, giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng bình quân 7,28%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đến năm 2023 ước đạt khoảng 60.000 tỷ đồng, tăng bình quân 10,3%/năm. Nhiều dịch vụ có mức tăng trưởng khá, như: Vận tải, bưu chính, viễn thông; tài chính, ngân hàng.
Nhiều nhà đầu tư hiện đã triển khai dự án kinh doanh dịch vụ cảng biển tại cảng nước sâu Dung Quất. Ảnh: PV
Đặc biệt là dịch vụ phân phối, thương mại phát triển mạnh; hệ thống chợ truyền thống được đầu tư, nâng cấp. Một số siêu thị, trung tâm thương mại hiện đại được đầu tư, đi vào hoạt động, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Dịch vụ cảng biển bước đầu đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp của tỉnh. Tuy nhiên, tỉnh cũng thừa nhận rằng dịch vụ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng; quy hoạch chưa đồng bộ, thiếu liên kết. Dịch vụ vận tải biển chưa hiện đại, sức cạnh tranh hàng hóa qua cảng thấp.
Giai đoạn 2023 – 2025, Quảng Ngãi đặt mục tiêu giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng bình quân 7,5%/năm; đến năm 2025, tỷ trọng khu vực dịch vụ chiếm khoảng 29 – 30% GRDP. Theo đó, tỉnh sẽ tập trung phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có hàm lượng tri thức, công nghệ, giá trị gia tăng cao. Tiếp tục tạo môi trường đầu tư thật sự thông thoáng, hấp dẫn để khuyến khích, thu hút đầu tư, phát triển nhanh các ngành dịch vụ. Hình thành và phát triển dịch vụ logistics trên cơ sở phát huy lợi thế của cảng biển nước sâu Dung Quất. Phát triển mạnh dịch vụ thông tin và truyền thông; mở rộng phát triển dịch vụ phân phối; đầu tư phát triển mới các trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi, siêu thị mini ở các khu đô thị. Hiện đại hóa và mở rộng dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và hỗ trợ kinh doanh.
Phó trưởng Ban Quản lý KKT Dung Quất và các KCN tỉnh Đàm Minh Lễ: “Tập trung thu hút đầu tư phát triển dịch vụ cảng biển, logistics”
Giai đoạn 2023 – 2023, thu hút đầu tư của KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi dự kiến khoảng 6,6 tỷ USD, đạt 184% so với chỉ tiêu được giao. Trong đó, thu hút nhiều dự án thuộc lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là khai thác cảng tối đa công suất, hiệu quả cao, góp phần tạo ra sự phát triển vượt bậc của KKT Dung Quất. Giai đoạn 2023 – 2025, KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực, trong đó có dịch vụ cảng biển, logistics.
Theo đó, tỉnh sẽ rà soát quy hoạch chi tiết cảng Dung Quất, xây dựng và tổ chức khai thác đồng bộ các cảng biển tổng hợp, cảng chuyên dùng gắn với các dịch vụ hỗ trợ; đầu tư xây dựng, hình thành tuyến container trung chuyển quốc tế tại KKT Dung Quất. Quy hoạch các ngành dịch vụ vận tải biển; phát triển mạnh các ngành dịch vụ biển gắn với cảng biển nước sâu Dung Quất như: Đại lý tàu biển, hoa tiêu, lai dắt; vận tải hàng hóa, dịch vụ cung cấp vật tư, thiết bị hàng hải, thông tin liên lạc trên biển… Đồng thời, quy hoạch một quỹ đất thích hợp gần cảng Dung Quất để xây dựng trung tâm phân phối hàng hóa, dịch vụ hậu cần cảng, đảm bảo thuận lợi nhất và kết nối thuận tiện với mạng lưới giao thông quốc gia; kêu gọi các nhà đầu tư có tiềm lực để thực hiện đầu tư đồng bộ nhằm xây dựng trung tâm logistics hiện đại tại KKT Dung Quất, đáp ứng yêu cầu phát triển của Quảng Ngãi và Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Phó Giám đốc Sở GTVT Võ Phiến: “Đa dạng loại hình, nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải”
Những năm gần đây, dịch vụ vận tải phát triển nhanh; bình quân doanh thu tăng 14,5%/năm, lượng khách tăng11,1%/năm, lượng hàng hóa vận chuyển tăng 12,3%/năm. Các tuyến xe buýt được mở đến tất cả các huyện, thị xã. Các phương thức vận tải tăng nhanh về số lượng, nhất là vận tải đường bộ. Phương tiện vận tải gia tăng đột biến, hiện toàn tỉnh có đến gần 20.000 xe ô tô con, gần 1.000 xe khách, hơn 12.500 xe tải; tàu thủy vận tải hành khách nội địa 24 chiếc… Doanh thu từ dịch vụ vận tải hành khách rất lớn, giải quyết lao động cho hàng ngàn lao động tại địa phương. Tuy nhiên, từng lúc, từng nơi, hoạt động của loại hình dịch vụ này vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của nhân dân, chưa khai thác hết tiềm năng.
Hiện nay, ngành GTVT đang tập trung xây dựng phương hướng phát triển ngành dịch vụ, theo hướng chất lượng, cạnh tranh, tiện ích. Ngành sẽ tạo điều kiện tối đa cho tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia kinh doanh dịch vụ, nâng cao chất lượng cả giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt; tham mưu cho tỉnh về xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp, đảm bảo phát triển đúng định hướng, gia tăng giá trị cho người kinh doanh, song cũng mang lại tiện ích, an toàn thực sự cho người dân. Qua đại dịch Covid-19, dịch vụ vận tải đã bị ảnh hưởng khá nặng nề, khả năng khôi phục phải mất một thời gian dài, rất cần được tỉnh có cơ chế, chính sách quan tâm hỗ trợ.
Bí thư Huyện ủy Ba Tơ Đinh Ngọc Vỹ: “Phát triển dịch vụ phù hợp với tiềm năng, lợi thế”
Là huyện miền núi, nhưng là cửa ngõ kết nối với Tây Nguyên, nên Ba Tơ có những lợi thế nhất định so với các huyện miền núi khác. Nhiều năm qua, Ba Tơ cũng rất quan tâm đến phát triển dịch vụ, bước đầu hình thành một số trung tâm dịch vụ, thương mại. Tuy nhiên, sự phát triển cũng còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh.
Trong chiến lược phát triển những năm tiếp theo, Ba Tơ tiếp tục xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Theo đó, huyện đang tập trung xây dựng hạ tầng, đặc biệt là chỉnh trang đô thị, từng bước thu hút đầu tư lĩnh vực dịch vụ. Huyện sẽ có chính sách ưu đãi trong thu hút đầu tư vào lĩnh vực này, đảm bảo hài hòa lợi ích nhiều phía.
Quyền Chủ tịch UBND huyện Sơn Tây Đinh Quang Ven: “Đầu tư đồng bộ để thúc đẩy dịch vụ phát triển”
Nhiều năm nay, Sơn Tây luôn đặt ra mục tiêu từng bước phát triển dịch vụ, nhưng thực tế kết quả đạt được không cao. Nguyên nhân chính là do địa hình phức tạp, sông suối, đồi núi chia cắt trong khi kết nối với các tỉnh, khu vực lân cận chưa thuận lợi. Dịch vụ hiện tại ở Sơn Tây chủ yếu là dịch vụ thương mại, buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa khu vực đồng bằng với huyện và ngược lại. Còn kết nối giao thương với các tỉnh lân cận như Quảng Nam, Kon Tum thì chưa, vì giao thông còn hạn chế. Dịch vụ vận tải cũng có gia tăng trong thời gian gần đây, song chủ yếu là phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân theo hình thức vận tải công cộng bằng xe buýt, mỗi ngày 4 lượt. Do địa hình hiểm trở, các loại hình dịch vụ vận tải khác cũng hầu như không hoạt động.
Định hướng phát triển dịch vụ của Sơn Tây trong những năm đến vẫn tập trung chủ yếu là dịch vụ thương mại và vận tải. Theo đó, huyện sẽ tập trung quy hoạch lại khu trung tâm huyện, đảm bảo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa. Kêu gọi, tạo điều kiện thuận lợi cho tư nhân đầu tư thêm phương tiện để phát triển dịch vụ vận tải, kể cả vận tải hàng hóa. Muốn dịch vụ phát triển, Sơn Tây cần được quan tâm đầu tư phát triển đồng bộ về văn hóa, du lịch, tạo điểm nhấn, để thu hút khách tham quan, qua đó tạo đà phát triển các lĩnh vực dịch vụ ăn uống, vận tải, giải trí…
Thanh Nhị
(thực hiện)
Một Số Giải Pháp Phát Triển Dịch Vụ Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ Tại Việt Nam
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường tiềm năng của các nước Đông Nam Á. Nguồn: Internet
Tổng quan về lợi ích của dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ
Bảo hiểm phi nhân thọ (BHPNT) là loại hình bảo hiểm cung cấp các nghiệp vụ thương mại khác bên ngoài bảo hiểm nhân thọ, qua đó công ty bảo hiểm sẽ cam kết chi trả, bồi thường cho những cá nhân người mua/nhận bảo hiểm có những vấn đề tổn thất về vật chất, cơ thể, tai nạn con người.
Đặc trưng của BHPNT là một loại hình dịch vụ đặc biệt, lời cam kết bên Công ty bảo hiểm đề ra, hứa sẽ thực hiện với khách hàng. Khách hàng mua bảo hiểm và đóng phí để có thể nhận được những cam kết bồi thường lớn khi gặp vấn đề hoặc nhận lại tiền đã đóng trong tương lai.
Hợp đồng của BHPNT là hợp đồng có thời hạn, thường từ 1-2 năm hoặc ngắn hơn. Chỉ khi có rủi ro xảy ra trong thời gian bảo hiểm còn hiệu lực thì chi phí bồi thường mới được thực hiện. Phí bảo hiểm nhân thọ được tính dựa trên thời hạn bảo hiểm, phí theo năm sẽ được đóng 1 lần hoặc chia cho từng tháng, khi đến năm tiếp theo sẽ được đóng tiếp. Nếu mở rộng thêm các đặc điểm rủi ro khác trong bảo hiểm, phí bảo hiểm sẽ được tăng lên và ngược lại.
BHPNT còn là một trong những loại hình bảo hiểm mang lại rất nhiều lợi ích đặc biệt, giúp nhiều người có được những cơ hội để hỗ trợ, bù đắp những khoản phí phát sinh khi rủi ro xảy ra. Cụ thể như: Khi mua bảo hiểm nhân thọ, người được hưởng bảo hiểm sẽ nhận được những lợi ích sau: Người tham gia bảo hiểm được trợ cấp, bồi thường những thiệt hại do rủi ro bất ngờ gây ra nằm trong phạm vi bảo hiểm quy định để có thể hồi phục, ổn định, bù đắp cho những chi phí đã đóng trong thời gian mua bảo hiểm; Người tham gia có thể đóng góp một số phí tạo thành nguồn quỹ bảo hiểm lớn ngoài chi trả, bồi thường; Bảo hiểm thương mại mang lại tích lũy cho ngân sách; Bảo hiểm được dùng đề phòng ngừa những trường hợp tai nạn xảy ra, hạn chế được hậu quả và thiệt hại; Chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức để họ yên tâm trong cuộc sống, thúc đẩy phát triển kinh tế, thu hút nguồn lao động nhất định, góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp trong xã hội…
Hoạt động BHPNT tại Việt Nam trải qua nhiều thời kỳ khác nhau và bùng nổ khi thị trường được hình thành với sự xuất hiện của nhiều công ty bảo hiểm mới, bao gồm cả công ty bảo hiểm nước ngoài. Khảo sát số liệu hoạt động BHPNT tại các công ty bảo hiểm thuộc ngân hàng thương mại trong giai đoạn 2014-2023 cho thấy, hoạt động kinh doanh BHPNT đã có sự phát triển mạnh cả về quy mô lẫn số lượng doanh nghiệp BHPNT (Bảng 1, Bảng 2).
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, thị trường BHPNT Việt Nam giai đoạn này có những tồn tại gặp vướng mắc như:
Một là, năng lực tài chính và hiệu quả hoạt động kinh doanh BHPNT mặc dù có dấu hiệu khởi sắc nhưng chưa cao. Theo số liệu của Cục Quản lý giám sát bảo hiểm, năng lực tài chính (thể hiện ở các chỉ tiêu như vốn chủ sở hữu, quỹ dự phòng, tổng tài sản, ROA, ROE…) các công ty bảo hiểm thuộc ngân hàng vẫn còn rất khiêm tốn và có sự chênh lệch so với các công ty BHPNT khác. Mặt khác, trong thời gian qua, với nhiều nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm gốc chưa thực sự hiệu quả như bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và hàng hóa đã làm cho hoạt động kinh doanh BHPNT, nhất là mức tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận kinh doanh bảo hiểm gốc có xu hướng giảm xuống. Các chỉ tiêu thể hiện hiệu quả hoạt động như ROA trung bình chỉ đạt khoảng 7,0%, ROE trung bình đạt khoảng 9,0%.
Hai là, các sản phẩm dịch vụ BHPNT chưa đa dạng, phong phú. Theo thống kê, số khách hàng tham gia sử dụng các sản phẩm dịch vụ bảo hiểm chủ yếu là sản phẩm bảo hiểm ô tô, xe máy trong đó sản phẩm bảo hiểm bắt buộc chiếm tỷ trọng lớn. Nhiều sản phẩm khác chưa được khách hàng tham gia hoặc có tham gia nhưng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu khách hàng. Số lượng sản phẩm bảo hiểm còn hạn chế so với một số các công ty bảo hiểm khác. Số sản phẩm bảo hiểm của Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIC) là hơn 130 sản phẩm, của Tổng Công ty cổ phần Bảo hiểm Quân đội (MIC) là hơn 100 sản phẩm, của Tổng Công ty bảo hiểm Sài Gòn – Hà Nội (BSH) hơn 60 sản phẩm, của Công ty TNHH Một thành viên Bảo hiểm Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam (VBI) là hơn 50 sản phẩm.
Ba là, hoạt động marketing và quảng bá thương hiệu chưa phát triển. Các công ty bảo hiểm thuộc ngân hàng chưa thực sự quan tâm và đẩy mạnh đến công tác truyền thông số.
Bốn là, mạng lưới kinh doanh còn hạn chế và chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn.
Năm là, công tác quản trị rủi ro và bồi thường chưa chặt chẽ. Những năm qua, mặc dù đã có nhiều bước tiến quan trọng trong công tác kiểm tra, kiểm soát và quản trị rủi ro nhưng tỷ lệ bồi thường vẫn tăng lên, đặc biệt là ở một số nghiệp vụ như bảo hiểm con người, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm hàng hóa… Bên cạnh đó, chưa xây dựng được một khung quản lý rủi ro riêng cho mình. Điều này làm cho công tác kiểm soát và quản lý rủi ro còn có nhiều kẽ hở tạo điều kiện cho nhiều hành vi gian lận và trục lợi bảo hiểm diễn ra, làm gia tăng chi phí bồi thường và giảm hiệu quả kinh doanh của các công ty bảo hiểm thuộc ngân hàng.
Theo thống kê niên giám bảo hiểm năm 2023 (Cục Quản lý và giám sát bảo hiểm – Bộ Tài chính), mức độ thâm nhập BHPNT của các thị trường mới nổi là hơn 1% và của các thị trường phát triển ở mức 2,3%. Điều này cho thấy, còn nhiều phân khúc của thị trường BHPNT còn bỏ ngỏ.
Thứ nhất, nâng cao năng lực tài chính của các công ty bằng cách tăng quy mô vốn chủ sở hữu. Các công ty bảo hiểm cần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trực tiếp của mình để tăng lợi nhuận bổ sung vốn chủ sở hữu.
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống kênh phân phối. Hiện nay, đối với các công ty BHPNT, kênh phân phối qua cán bộ chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tuy nhiên, việc sử dụng nhiều cán bộ khai thác bảo hiểm sẽ làm giảm hiệu quả của hệ thống phân phối do sức ỳ rất lớn, chi phí cao, năng suất thấp, đồng thời gây ra sự xung đột với các kênh phân phối khác. Do đó, việc giảm dần cán bộ bán hàng, chủ yếu giữ cán bộ làm công tác đánh giá rủi ro, phục vụ bán hàng là xu hướng cần phải thực hiện quyết liệt trong thời gian tới.
Đối với hệ thống đại lý: Cần nâng cao chất lượng đại lý qua việc phát triển kỹ năng nghề nghiệp của họ, đảm bảo cho đội ngũ đại lý có trình độ chuyên sâu về sản phẩm, có đạo đức về sản phẩm để phát triển thị trường một cách lành mạnh.
Đối với kênh môi giới: Cần mở rộng quan hệ hơn nữa với các nhà môi giới bảo hiểm, việc chấp nhận bán bảo hiểm qua môi giới là một yêu cầu khách quan, bởi BHPNT là một dịch vụ cần nhiều tư vấn, nhất là các sản phẩm mang tính chất kỹ thuật cao. Mặt khác, kênh môi giới cũng có nhiều ưu điểm trong việc triển khai dịch vụ. Tại các nước ASEAN có nhiều tương đồng với thị trường Việt Nam, dịch vụ môi giới cũng rất phát triển. Điều này cho thấy, việc sử dụng môi giới sẽ là một xu thế khó đảo ngược đối với các hoạt động BHPNT. Bên cạnh hai hệ thống kênh chính là đại lý và môi giới, các kênh bảo hiểm khác cũng cần được kiện toàn và đảm bảo hiệu quả hoạt động và đa dạng hóa kênh phân phối như: Bán bảo hiểm qua ngân hàng, qua hệ thống các công ty du lịch, trường học, bưu điện… hay kênh thương mại điện tử. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc sử dụng kênh thương mại điện tử là cần thiết và quan trọng.
Thứ tư, đa dạng hóa sản phẩm và mở rộng mạng lưới kinh doanh theo các định hướng: Phát triển và hoàn thiện sản phẩm BHPNT theo nguyên tắc gắn quyền lợi của người tham gia bảo hiểm và công ty bảo hiểm (nguyên tắc số đông bù số ít). Phí bảo hiểm tương ứng với mức trách nhiệm bảo hiểm; cung cấp các sản phẩm bảo hiểm thỏa mãn nhu cầu khách hàng, tăng thêm quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm, mở rộng phạm vi bảo hiểm, bổ sung các quyền lợi bảo hiểm hợp lý cho các sản phẩm bảo hiểm cá nhân, tổ chức, thiết lập mức phí bảo hiểm phù hợp. Đồng thời, các doanh nghiệp bảo hiểm cần nghiên cứu phát triển các sản phẩm mới, đặc biệt là nhóm các sản phẩm tiềm năng như sản phẩm bảo hiểm cho lĩnh vực nông nghiệp; Đa dạng các sản phẩm bảo hiểm cho các lĩnh vực khác theo kịp sự phát triển của xã hội như bảo hiểm du lịch quốc tế, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm, bảo hiểm trách nhiệm cho nhà quản lý, điều hành…
Phát triển sản phẩm bảo hiểm không chỉ dừng lại ở các điều khoản hợp đồng mà cần phát triển dịch vụ hoàn chỉnh để thu hút khách hàng. Ngoài những giá trị cốt lõi của dịch vụ là đảm bảo cho các rủi ro thì các dịch vụ phụ thêm sẽ làm gia tăng giá trị cho hợp đồng bảo hiểm. Khi thiết kế sản phẩm cần lưu ý thị trường mục tiêu hiện nay mà các doanh nghiệp BHPNT cần hướng tới đó là nhóm những người có trình độ cao (từ cao đẳng trở lên). Ngoài ra, cũng cần thiết kế các sản phẩm, đơn giản, dễ hiểu để cung cấp đến nhóm người dân có trình độ dưới cao đẳng vì nhóm này tương đối đông, nhưng do trình độ dân trí chưa cao nên mức độ am hiểu về BHPNT chưa nhiều. Nếu cứ sử dụng các sản phẩm đang có sẽ không tạo sự khác biệt và cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm khác, do vậy, cần có các sản phẩm đặc thù cho nhóm đối tượng này.
Thứ năm, tăng cường quản trị rủi ro và nâng cao chất lượng bồi thường. Để thực hiện quản trị rủi ro các công ty bảo hiểm cần xây dựng một mô hình quản trị rủi ro với 3 lớp phòng vệ:
– Lớp phòng vệ thứ nhất: Áp dụng đối với tất cả các đơn vị, khối, phòng, ban. Đây là các đơn vị trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ, qua đó sẽ ngăn ngừa, phát hiện và kiểm soát rủi ro. Lớp phòng vệ này được điều hành trực tiếp bởi ban giám đốc. Trong lớp phòng vệ này cán bộ nhân viên của các công ty bảo hiểm đóng vai trò rất quan trọng, vì họ chính là những người sẽ phân tích và đánh giá quy trình rủi ro. Muốn làm được điều này, đòi hỏi các nhân viên phải có đủ kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm với công việc, có như vậy việc phát hiện và ngăn ngừa rủi ro mới được thực hiện kịp thời.
– Lớp phòng vệ thứ hai:Được thực hiện bởi khối quản trị rủi ro. Khối quản trị rủi ro sẽ có trách nhiệm giám sát mọi rủi ro trên toàn hệ thống. Lớp phòng vệ thứ hai này nhằm mục tiêu hỗ trợ lớp phòng vệ thứ nhất để xây dựng và nâng cao năng lực quản lý rủi ro. Lớp phòng vệ này được điều hành trực tiếp bởi hội đồng quản trị. Trong lớp phòng vệ này, khối quản trị rủi ro sẽ phải có ý kiến vào các quy trình nhằm đảm bảo xây dựng được một quy trình đánh giá rủi ro thực tế, chứ không chỉ xây dựng cho có nhằm đối phó kiểm tra.
– Lớp phòng vệ thứ ba:Được thực hiện bởi bộ phận kiểm toán nội bộ. Bộ phận này sẽ có trách nhiệm kiểm tra và soát xét mọi hoạt động bao gồm cả hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, hoạt động đầu tư và tái bảo hiểm. Lớp phòng vệ này được thực hiện một cách độc lập bởi ban kiểm soát.
Trong 3 lớp phòng vệ trên thì lớp phòng vệ thứ nhất là quan trọng nhất, bởi rủi ro càng phát hiện sớm và có biện pháp ngăn ngừa kịp thời thì sẽ càng giảm thiểu được tổn thất.
Bên cạnh công tác kiểm soát và quản trị rủi ro thì công tác bồi thường cũng hết sức quan trọng. Trong giai đoạn tới, các công ty bảo hiểm cần chú trọng hơn nữa vào công tác bồi thường nhằm giảm tỷ lệ bồi thường mà vẫn đảm bảo chất lượng dịch vụ bảo hiểm cung ứng. Để thực hiện tốt công tác bồi thường các công ty bảo hiểm cần kết hợp với hệ thống bảo lãnh và tư vấn.
Bên cạnh đó, các công ty bảo hiểm cũng cần áp dụng các chế tài đối với các trường hợp vi phạm quy trình, giải quyết bồi thường chậm do nguyên nhân chủ quan. Mặt khác, các công ty bảo hiểm cần ứng dụng công nghệ thông tin bằng cách thực hiện bồi thường trực tuyến, giám sát giám định thông qua phần mềm giúp cho công việc bồi thường được thực hiện nhanh chóng, giảm thiểu được tình trạng trục lợi.
Ngoài ra, các công ty bảo hiểm cũng cần xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng về giám định bồi thường và thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra giám định bồi thường tại các chi nhánh. Đặc biệt, cần tăng cường đào tạo cho các cán bộ bồi thường tại các trụ sở chính, luôn theo sát các cơ quan giám định độc lập để công tác giám định, giải quyết luôn kịp thời, đảm bảo chất lượng bồi thường được nhanh chóng nhất.
1. Báo cáo thường niên của các công ty bảo hiểm thuộc ngân hàng 2014, 2023, 2023; 2. Bộ Tài chính (2023), Thông tư số 22/2023/TT-BTC ngày 16/02/2023; 3. Niên giám thị trường bảo hiểm Việt Nam 2012-2023; 4. Quốc hội (2010), Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi năm 2010, Hà Nội.
Phát Triển Bền Vững Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam
Tốc độ tăng trưởng doanh thu phí toàn thị trường năm 2023 duy trì trên 20%
Kết thúc giai đoạn 2011-2023, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã đạt vượt mức hầu hết các chỉ tiêu trung hạn đề ra tại Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm giai đoạn 2011-2023. Cụ thể, tổng doanh thu của toàn thị trường trong giai đoạn 2011 – 2023 đạt mức tăng trưởng bình quân 16,8%/năm.
Trong đó, doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân 17,94%/năm; Doanh thu hoạt động đầu tư tăng bình quân 12,19%/năm; Tổng tài sản tăng bình quân 15,57%/năm; tổng các quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhằm sẵn sàng đáp ứng nghĩa vụ chi trả bồi thường cho khách hàng của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng bình quân 16,78%/năm.
Năm 2023, tốc độ tăng trưởng doanh thu phí của toàn thị trường bảo hiểm đạt 24,46% so với năm 2023; Tổng tài sản toàn thị trường ước đạt 240.507 tỷ đồng, tăng 18,72% so với năm 2023; Tổng đầu tư trở lại nền kinh tế ước đạt 192.896 tỷ đồng, tăng 20,14% so với năm 2023.
Các sản phẩm bảo hiểm được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp hơn 1.187 sản phẩm bảo hiểm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng của khách hàng. Nhiều loại hình sản phẩm mới, bảo hiểm vì mục tiêu an sinh xã hội đã được các doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu, triển khai như: Bảo hiểm liên kết đầu tư, bảo hiểm vi mô, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm bảo lãnh, bảo hiểm hưu trí…
Bên cạnh các kênh phân phối truyền thống, các kênh phân phối mới như bảo hiểm qua ngân hàng, bán bảo hiểm qua các đối tác kinh doanh, bán hàng trực tuyến, điện thoại…. cũng được các doanh nghiệp triển khai, giúp khách hàng tiếp cận dễ dàng hơn với các sản phẩm bảo hiểm.
Năng lực tài chính, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam được nâng cao, hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm đã xây dựng đầy đủ các quy trình nghiệp vụ theo quy định của pháp luật, từng bước chuẩn hoá các khâu trong hoạt động kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã tổ chức được hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả, đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin hiện đại phục vụ cho hoạt động kinh doanh và công tác quản trị, điều hành.
Năm 2023, tình hình kinh tế thế giới khởi sắc hơn đã có tác động tích cực đến nền kinh tế trong nước. Đồng thời, Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong bối cảnh chung đó, thị trường bảo hiểm Việt Nam tiếp tục đạt được nhiều kết quả tích cực.
Dự báo cả năm 2023, tốc độ tăng trưởng doanh thu phí của toàn thị trường sẽ được duy trì ở mức trên 20%; Tổng tài sản toàn thị trường được dự báo đạt 301.346 tỷ đồng, tăng 21,96% so với năm 2023; Tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế ước đạt 246.173 tỷ đồng, tăng 26,66% so với năm 2023.
Hoàn thiện chính sách, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển
Thị trường bảo hiểm phát triển ổn định trong những năm qua là nhờ khung khổ pháp lý trong lĩnh vực này ngày càng được hoàn thiện, góp phần tạo môi trường kinh doanh minh bạch, bình đẳng, tạo thuận lợi cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm, đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế. Trong giai đoạn 2011-2023, có 31 văn bản quy phạm pháp luật được ban hành gồm các Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Bộ Tài chính.
Những văn bản này đã được rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới tập trung vào các mục tiêu tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp bảo hiểm tăng trưởng hiệu quả, tăng cường quản trị doanh nghiệp, cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo an toàn tài chính và quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.
Năm 2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định 73/2023/NĐ-CP thay thế 4 Nghị định về kinh doanh bảo hiểm, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc của doanh nghiệp, tạo hành làng pháp lý đầy đủ, minh bạch, bình đẳng và đồng bộ, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính, khơi thông nguồn vốn trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, tạo thuận lợi cho sự phát triển của thị trường.
Nhằm thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của thị trường bảo hiểm, Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ ban hành các Nghị định về bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm vi mô, bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và Nghị định sửa đổi bổ sung Nghị định số 98/2012/NĐ-CP nhằm tạo hành lang pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp bảo hiểm triển khai các sản phẩm mới.
Khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế
Thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng thể hiện được vai trò, vị trí trong nền kinh tế – xã hội, góp phần thực hiện thành công các giải pháp chủ yếu về chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước. Thể hiện cụ thể như:
Một là, thị trường bảo hiểm là công cụ hữu ích bảo vệ tài chính cho các nhà đầu tư. Đến nay, bảo hiểm đã và đang bảo vệ cho hầu hết tất cả các loại hình tài sản của mọi thành phần và ngành nghề kinh tế với nhiều loại hình bảo hiểm đa dạng như bảo hiểm tài sản thiệt hại, bảo hiểm hàng không, bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm thủy sản….
Theo thống kê của các doanh nghiệp bảo hiểm, có khoảng 80% các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình kinh tế lớn của Nhà nước đã và đang được các doanh nghiệp bảo vệ về mặt tài chính trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm mà không cần phải sử dụng đến nguồn kinh phí hỗ trợ thiệt hại từ ngân sách nhà nước, góp phần thực hiện chính sách tài khóa.
Hai là, bảo hiểm đã và đang góp phần bổ trợ cho các chính sách an sinh xã hội. Hiện nay có gần 10 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, sức khỏe (trong đó có 6 triệu người tham gia bảo hiểm nhân thọ, 4 triệu người tham gia bảo hiểm phi nhân thọ); 12 triệu học sinh được bảo hiểm sức khỏe, tai nạn; 18 triệu lượt khách được bảo hiểm hàng không; trên 12 triệu lượt khách được bảo hiểm tai nạn đường sắt; 1.620 triệu lượt khách được bảo hiểm tai nạn hành khách vận chuyển đường bộ.
Những người được bảo hiểm nói trên đã có thể tự thu xếp, bảo vệ về mặt tài chính, được bảo hiểm chi trả bồi thường khi không may xảy ra tai nạn, ốm đau, mà không cần tới sự hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức xã hội đã triển khai bảo hiểm vi mô dành cho người có thu nhập thấp với doanh thu phí đạt 25,58 tỷ đồng, tổng số quyền lợi bảo hiểm chi trả là 3,9 tỷ đồng.
Ba là, bảo hiểm góp phần thực hiện các chương trình mục tiêu, nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ. Việc thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp đã được triển khai ở 20 tỉnh, thành phố và thu hút 304.017 hộ nông dân tham gia, được sự hưởng ứng cao của cả người dân và các địa phương, góp phần vào việc thực hiện chính sách tam nông của Đảng và Nhà nước. Tổng giá trị bảo hiểm của cả chương trình thí điểm là 7.747,9 tỷ đồng, tổng số tiền bồi thường bảo hiểm là 712,9 tỷ đồng.
Bốn là, bảo hiểm là kênh huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. Tính đến hết năm 2023, tổng nguồn vốn đầu tư trở lại nền kinh tế của các doanh nghiệp bảo hiểm ước đạt 194.374 tỷ đồng, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư dài hạn ổn định cho nền kinh tế.
Trong đó, tổng số tiền đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm vào trái phiếu chính phủ ước đạt gần 97.900 tỷ đồng, với 90% là trái phiếu chính phủ dài hạn, góp phần thực hiện thành công các kế hoạch phát hành trái phiếu chính phủ, ổn định kinh tế vĩ mô.
Năm là, thị trường bảo hiểm phát triển đã thúc đẩy hội nhập, hợp tác kinh tế quốc tế. Trong các hiệp định tự do hoá thương mại song phương và đa phương, lĩnh vực bảo hiểm luôn cam kết với lộ trình và mức độ mở cửa thị trường cao, tạo điều kiện thúc đẩy hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào các thị trường lớn có mức độ bảo hộ cao như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản…
Đảm bảo thị trường bảo hiểm phát triển bền vững
Sự tăng trưởng kinh tế và các chính sách hỗ trợ phát triển thị trường dịch vụ của Chính phủ trong thời gian sắp tới sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện của thị trường bảo hiểm. Mức độ thâm nhập của bảo hiểm hiện nay mới chỉ đạt 2,44% so với GDP thấp hơn so với mức trung bình của khối ASEAN (3,55%), châu Á (5,37%) và mức trung bình thế giới (6,3%). Đặc biệt, một số lĩnh vực như bảo hiểm thiên tai, bảo hiểm tài sản công, bảo hiểm xuất nhập khẩu, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe… tiềm năng của thị trường vẫn chưa được khai thác hết.
Bên cạnh những cơ hội, thị trường bảo hiểm cũng phải đối mặt với nhiều thách thức như: Nền kinh tế Việt Nam chưa thực sự ổn định; thảm họa, thiên tai xảy ra với tần suất ngày càng lớn; rủi ro bảo hiểm diễn ra nhiều, khó lường, số lượng ngày càng tăng… gây ra những ảnh hưởng bất lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Những thay đổi của cuộc Cách mạng 4.0 và xu thế hội nhập sâu rộng của kinh tế toàn cầu đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hơn nữa năng lực quản trị, hiệu quả kinh doanh và khả năng tài chính.
Phát huy kết quả đạt được của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong những năm qua, để đảm bảo sự phát triển bền vững của thị trường bảo hiểm, thời gian tới cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật: Cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm một cách tổng thể theo hướng hệ thống pháp luật mới sẽ có phạm vi điều chỉnh rộng hơn và đồng bộ hơn hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong mối liên kết với các mảng thị trường dịch vụ tài chính, đảm bảo thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế về dịch vụ bảo hiểm.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Xây dựng bộ tiêu chuẩn về đánh giá, xếp loại doanh nghiệp; ban hành các quy định về quản trị rủi ro doanh nghiệp, tiêu chuẩn, vị trí chức danh quản trị điều hành, các yêu cầu đối với hệ thống công nghệ thông tin làm cơ sở để các doanh nghiệp bảo hiểm chuẩn hóa hoạt động, nâng cao khả năng quản trị, điều hành, năng lực tài chính, chất lượng dịch vụ, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ ba, đa dạng và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối bảo hiểm, tăng cường chất lượng và tính chuyên nghiệp của đội ngũ đại lý bảo hiểm, đồng thời phát huy việc áp dụng công nghệ, kỹ thuật số vào việc giới thiệu và bán các sản phẩm bảo hiểm, tăng cường sự minh bạch và khả năng tiếp cận các sản phẩm bảo hiểm của khách hàng.
Thứ tư, đổi mới phương thức quản lý giám sát, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. Công tác quản lý, giám sát cần được đổi mới theo hướng kết hợp linh hoạt giữa quản lý, giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ, tăng cường đối thoại với doanh nghiệp.
Hoạt động quản lý giám sát chuyển dần mô hình sang quản lý giám sát dựa trên cơ sở rủi ro, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, chuyển các hoạt động quản lý, giám sát từ kiểm tra trước sang kiểm tra sau (hậu kiểm), tăng cường tính chủ động, trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động quản trị điều hành, sử dụng và quản lý nguồn vốn, phù hợp với quy mô, phạm vi và đặc thù kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Nguồn: tapchitaichinh.vn
Phát Triển Ngành Dịch Vụ Logistics Tại Việt Nam
Logistics là một ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của cả nước cũng như từng địa phương, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Nghiên cứu này trao đổi về triển vọng phát triển của ngành này cũng như đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics tại Việt Nam.
Phát triển dịch vụ logistics thành một ngành dịch vụ sẽ đem lại giá trị giá tăng cao, gắn dịch vụ logistics với phát triển sản xuất hàng hóa, xuất nhập khẩu và thương mại trong nước, phát triển hạ tầng giao thông vận tải và công nghệ thông tin… Phát triển thị trường dịch vụ logistics lành mạnh sẽ tạo cơ hội bình đẳng cho các doanh nghiệp (DN) thuộc mọi thành phần kinh tế, khuyến khích thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước phù hợp với pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Theo Hiệp hội DN dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), tốc độ phát triển của ngành logistics tại Việt Nam ở Việt Nam có khoảng những năm gần đây đạt khoảng 14%-16%, với quy mô khoảng 40-42 tỷ USD/năm. Tham gia thị trường logistics gồm khoảng 3.000 DN trong nước và khoảng 25 tập đoàn giao nhận hàng đầu thế giới kinh doanh dưới nhiều hình thức. Hiện nay, 30 DN cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam với các tên tuổi lớn như: DHL, FedEx, Maersk Logistics, APL Logistics, CJ Logistics, KMTC Logistics…
Theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hiện đứng thứ 64/160 nước về mức độ phát triển logistics và đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Với tốc độ phát triển hàng năm đạt từ 14-16%, đây là một trong những ngành dịch vụ tăng trưởng nhanh và ổn định nhất của Việt Nam trong thời gian qua.
Dự báo, đến hết năm 2023, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam ước đạt mức 300 tỷ USD, hàng container qua hệ thống cảng biển Việt Nam đạt 67,7 triệu TEU, do vậy, tiềm năng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam là rất lớn. Trong tương lai không xa, dịch vụ cung cấp logistics sẽ trở thành ngành kinh tế quan trọng, có thể đóng góp tới 15% GDP của cả nước.
Đặc biệt, thời gian gần đây đã có sự bùng nổ về thương mại điện tử và e-Logistics. Theo Cục Thương mại điện tử và kinh tế số của Bộ Công Thương, thương mại điện tử tăng trưởng 35%/năm; doanh số bán lẻ thương mại điện tử của Việt Nam trong giai đoạn 2023-2023 ước tính tăng 20%/năm và tổng doanh số bán lẻ thương mại điện tử Việt Nam dự kiến đạt 10 tỷ USD vào năm 2023. Những thay đổi trong thương mại điện tử trên thế giới và tại Việt Nam đã thúc đẩy ngành logistics Việt Nam cải thiện phương thức cung cấp dịch vụ ngày càng chuyên nghiệp và hiệu quả hơn.
Cơ hội thúc đẩy phát triển ngành logistics
Hiện nay, Việt Nam được đánh giá có nhiều cơ hội để thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ Logistics. Cụ thể, hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ, cảng hàng không, cảng biển, kho bãi, hạ tầng thương mại, trung tâm logistics không ngừng được mở rộng với quy mô lớn, rộng khắp. Cùng với đó, các dịch vụ đi kèm đã, đang đáp ứng kịp thời những yêu cầu hết sức đa dạng của thị trường. Các thủ tục, thời gian thông quan đối với hàng xuất khẩu cũng đã cải thiện đáng kể.
Năm 2023, thời gian thông quan hàng xuất khẩu là 105 giờ, hàng nhập khẩu là 132 giờ. Việt Nam cũng đang đứng thứ 39/160 nước về chỉ số hoạt động logistics và đứng thứ 3 trong ASEAN chỉ sau Singapore và Thái Lan… Những yếu tố này đã tạo điều kiện cho DN phát triển, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy xuất khẩu; hình thành nên các chuỗi cung ứng logistics toàn diện, đa dạng và ngày càng chuyên sâu hơn, góp phần quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế.
Công tác hoàn thiện quy định pháp luật thời gian qua đã được Chính phủ quan tâm. Thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam, nhất là việc thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đòi hỏi phải có những quy định phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng cho ngành Dịch vụ logistics phát triển, đẩy mạnh đầu tư trong nước và hợp tác quốc tế.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2023 phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển ngành Dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025. Trong đó, đề ra 06 mục tiêu, 60 nhiệm vụ cụ thể với nhiều giải pháp toàn diện, nhằm đưa ngành này vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước.
Ngày 30/12/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 163/2023/NĐ-CP quy định về kinh doanh dịch vụ logistics (có hiệu lực từ ngày 20/02/2023), thay thế Nghị định số 140/2007/NĐ-CP ngày 05/09/2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.
Ngày 06/07/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 27/2023/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành Kinh tế Việt Nam và đây là lần đầu tiên Việt Nam có mã ngành logistics riêng (Mã 52292: Logistics). Ngày 18/07/2023, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Chỉ thị số 21/CT-TTg về đẩy mạnh triển khai các giải pháp nhằm giảm chi phí logistics, kết nối hiệu quả hệ thống hạ tầng giao thông… Chính phủ đã thể hiện rõ cam kết hỗ trợ, kiến tạo môi trường thuận lợi, để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam.
Một số thách thức, rào cản
Ngành logistics nói chung, các DN logistics nói riêng của Việt Nam hiện còn phải đối diện với không ít thách thức, rào cản, cụ thể:
Hai là, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải còn yếu kém, không đồng bộ, chưa tạo ra hành lang vận tải đa phương thức trong khi nhu cầu trung chuyển chất lượng cao cho hàng hóa giữa các phương thức đang ngày càng lớn. Việt Nam còn thiếu các khu kho vận tập trung có vị trí chiến lược, đồng bộ với hệ thống cảng, sân bay, đường quốc lộ, cơ sở sản xuất; Mất cân đối cung cầu tại các cảng biển miền Nam.
Thực tế cũng cho thấy, việc kết nối các phương thức vận tải chưa hiệu quả; chưa phát huy tốt các nguồn lực về hạ tầng, con người, thị trường nội địa và khu vực; các trung tâm logistics đóng vai trò kết nối Việt Nam với quốc tế chưa được đầu tư, xây dựng… dẫn đến chi phí logistics còn cao, chiếm 25% GDP (so với các nước phát triển chỉ từ 9 đến 15%) trong đó, chi phí vận tải chiếm 30 đến 40% giá thành sản phẩm (tỷ lệ này là 15% ở các quốc gia khác). Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh dịch vụ, hàng hóa của các DN Việt Nam, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
Ba là, hoạt động của chính các DN logistics còn nhiều hạn chế cả về quy mô hoạt động, vốn, nguồn nhân lực… Các DN cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam hầu hết là những DN nhỏ và vừa, hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics còn manh mún, thiếu kinh nghiệm và chuyên nghiệp, cung cấp các dịch vụ cơ bản, hoặc cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ, cạnh tranh về giá là chủ yếu, ít giá trị gia tăng, thường chỉ đóng vai trò là nhà thầu phụ hay đại lý cho các công ty nước ngoài gồm: Dịch vụ logistics chủ yếu mà các DN kinh doanh logistics Việt Nam cung ứng cho khách hàng là dịch vụ kho bãi, vận tải hàng hóa, giao nhận hàng hóa, bốc xếp, dịch vụ phân loại, đóng gói bao bì, lưu kho… còn các dịch vụ khác trong chuỗi dịch vụ logistics mặc dù có một số DN cung ứng nhưng số lượng không nhiều và chưa được quan tâm phát triển. Bên cạnh đó, còn thiếu sự kết nối giữa DN xuất khẩu và DN logistics do thói quen nhập khẩu CIF và xuất khẩu theo FOB. Khả năng cạnh tranh của các DN nội địa cũng còn thấp so với DN ngoại.
Bốn là, nguồn nhân lực phục vụ cho dịch vụ logistics chưa qua đào tạo bài bản còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng yêu cầu, đặc biệt thiếu các chuyên viên logistics giỏi có năng lực ứng dụng và triển khai tại các DN nghiệp. Trong số các DN nội địa hiện nay, có tới 93 – 95% người lao động không được đào tạo bài bản, chủ yếu làm dịch vụ ở các chuỗi cung ứng nhỏ như: Giao nhận, kho bãi, xử lý vận đơn…
Giải pháp phát triển ngành logistics
Theo Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025, Việt Nam phấn đấu tỷ trọng đóng góp của ngành Dịch vụ logistics vào GDP đạt 8%-10%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 15%-20%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50%-60%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 16%-20% GDP, xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) trên thế giới đạt thứ 50 trở lên. Với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một đầu mối logistics của khu vực, trong thời gian tới cần tập trung triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch vụ logistics. Theo đó, sửa đổi một số quy định, bổ sung về dịch vụ logistics tại Luật Thương mại, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động logistics. Sửa đổi, ban hành mới các chính sách, pháp luật điều chỉnh dịch vụ logistics, vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới. Bao quát toàn diện các dịch vụ logistics, nội luật hóa các cam kết quốc tế về logistics…
Hai là, ban hành các chính sách hỗ trợ thúc đẩy ngành Dịch vụ logistics phát triển. Theo đó, xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển dịch vụ logistics tại địa phương hiệu quả, phù hợp với đặc điểm kinh tế – xã hội của từng địa phương. Hỗ trợ DN dịch vụ logistics, đặc biệt là các DN nhỏ và vừa, thuận lợi trong việc tiếp cận các nguồn vốn trong và ngoài nước, phát triển thị trường, đào tạo, tiếp cận thông tin.
Ba là, hoàn thiện kết cấu hạ tầng logistics, bằng việc tiếp tục rà soát các quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo tính đồng bộ của hạ tầng giao thông và dịch vụ vận tải với mục tiêu phát triển ngành Dịch vụ logistics. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch, cơ cấu sản xuất địa phương gắn với phát triển hạ tầng và dịch vụ logistics, đảm bảo các quy hoạch, kế hoạch về giao thông, vận tải phù hợp với các chiến lược, quy hoạch về sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xuất nhập khẩu, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương, gắn kết quy hoạch về trung tâm logistics, cảng cạn, kho ngoại quan trong một tổng thể thống nhất. Tăng lưu lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường biển, đường thủy nội địa, đường sắt và đường hàng không. Phát triển hệ thống vận chuyển nhằm đáp ứng xu thế phát triển của thương mại điện tử, trong đó chú trọng đến giao hàng chặng cuối.
Ba là, nâng cao năng lực DN và chất lượng dịch vụ. Cần có cách thức hỗ trợ giúp các DN Việt Nam hiểu rõ và nhận thức đúng về quy trình cung cấp các dịch vụ logistics, đặc biệt là trong quá trình vận tải; Đào tạo có hệ thống nguồn nhân lực có kinh nghiệm và được trang bị đầy đủ những kiến thức chuyên môn, am hiểu luật pháp trong nước và quốc tế. Khuyến khích DN trong một số ngành (dệt may, da giày, đồ gỗ, nông sản, cơ khí – chế tạo…) áp dụng mô hình quản trị chuỗi cung ứng tiên tiến trong quá trình sản xuất, kinh doanh, trong đó chú trọng triển khai các hoạt động logistics trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin và các công nghệ mới trong logistics.
Về phía DN, ngoài nguồn nhân lực cần được nâng cao trình độ ngoại ngữ công nghệ để đáp ứng với việc hội nhập các DN cần đầu tư cơ sở vật chất, nâng cấp và mở rộng hệ thống kho bãi, các trang thiết bị bốc xếp, vận chuyển chuyên dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác; Liên doanh, liên kết với các DN trong và ngoài nước để kết nối, mở rộng mạng lưới dịch vụ trong cả nước và trên thế giới để tạo đầu ra thị trường ngoài nước và nâng cao khả năng chuyên môn của cán bộ để từ đó nâng cao tính cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh.
Thông qua các hoạt động này nhằm nâng cao năng lực DN, khuyến khích, hướng dẫn DN trong một số ngành áp dụng mô hình quản trị chuỗi cung ứng tiên tiến trong quá trình sản xuất, kinh doanh, trong đó chú trọng triển khai các hoạt động logistics trên nền tảng công nghệ thông tin và các công nghệ mới trong logistics.
Bốn là, phát triển thị trường dịch vụ logistics. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho dịch vụ logistics thông qua việc đăng cai, tổ chức các hội thảo, hội chợ, triển lãm quốc tế về logistics. Tổ chức các đoàn nghiên cứu ra nước ngoài và mời các đoàn DN nước ngoài vào Việt Nam trao đổi cơ hội đầu tư, hợp tác về phát triển dịch vụ logistics. Đẩy mạnh tuyên truyền cho các DN sản xuất, xuất nhập khẩu và thương mại nội địa về việc sử dụng dịch vụ logistics thuê ngoài theo hướng chuyên môn hóa, phân công lao động hợp lý trong chuỗi cung ứng.
Đặc biệt, tập trung cải thiện cơ sở hạ tầng logistics gắn với thương mại điện tử, kết hợp logistics với thương mại điện tử theo xu hướng phát triển trên thế giới và khu vực. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực cho cả DN lẫn cơ quan quản lý để phục vụ sự phát triển nhanh chóng của dịch vụ logistics.
Năm là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực logistics. Tiếp tục mở rộng kết nối hạ tầng logistics với các nước trong khu vực ASEAN, Đông Bắc Á và các khu vực khác trên thế giới nhằm phát huy tác dụng của vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới và quá cảnh. Xây dựng công trình giao thông, kho bãi, trung tâm logistics trên các tuyến đường, hành lang kết nối các cảng của Việt Nam với Lào, Campuchia, Thái Lan và Nam Trung Quốc.
Đẩy mạnh phát triển loại hình vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới, nhất là đối với hàng hóa quá cảnh. Hình thành các trung tâm logistics ở nước ngoài làm đầu cầu, tập kết và phân phối hàng hóa Việt Nam đến các thị trường quốc tế. Tăng cường liên kết với các hiệp hội và DN dịch vụ logistics khu vực ASEAN và trên thế giới. Vận động thu hút đầu tư xây dựng trung tâm logistics để thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam với thị trường toàn cầu, nhằm hình thành các trung tâm logistics ở nước ngoài làm đầu cầu, tập kết và phân phối hàng hóa Việt Nam đến các thị trường quốc tế.
Hướng Phát Triển Dịch Vụ “Mobile Banking” Cho Các Ngân Hàng Việt Nam
Theo hãng nghiên cứu thị trường IDC, năm 2023 là năm có số lượng lô hàng điện thoại thông minh cung ứng ra thị trường nhiều nhất (1,43 tỷ chiếc, tăng 10,1% so với năm 2014).
I- Lý luận cơ bản về Mobile Banking 1. Khái niệm Mobile Banking là dịch vụ ngân hàng hiện đại, cho phép khách hàng sử dụng điện thoại di động để thực hiện các giao dịch với ngân hàng. Đây là hình thức thanh toán trực tuyến qua điện thoại di động (khách hàng không cần phải đến ngân hàng mà vẫn có thể tiếp cận mọi dịch vụ 24/7 và ở tất cả mọi nơi). Phương thức này được ra đời nhằm giải quyết nhu cầu thanh toán các giao dịch có giá trị nhỏ hoặc những dịch vụ tự động không có người phục vụ. Để trở thành thành viên, khách hàng cần cung cấp: số điện thoại di động, tài khoản cá nhân dùng trong thanh toán. Sau đó, khách hàng sẽ được cung cấp một mã số định danh (ID). Nó giúp cho việc cung cấp thông tin khách hàng khi thanh toán nhanh chóng, chính xác và đơn giản hơn. Ngoài ra, khách hàng còn được nhận một mã số cá nhân (PIN) để khách hàng xác nhận giao dịch thanh toán khi nhà cung cấp dịch vụ yêu cầu. 2. Các dịch vụ cơ bản của Mobile Banking – Quản lý tài khoản: tạo, hủy, thay đổi và kiểm tra trạng thái tài khoản thông qua điện thoại di động. – Cân đối tài khoản: kiểm tra cân đối cho một hay nhiều tài khoản. – Chuyển khoản: thực hiện chuyển khoản giữa các tài khoản trong cùng hệ thống hoặc giữa các ngân hàng khác nhau. – Thanh toán dịch vụ: thanh toán hóa đơn điện, nước, điện thoại, bảo hiểm… – Mua bán: thanh toán các giao dịch mua bán hàng hóa thông thường thay cho tiền mặt hoặc thẻ tín dụng. – Xem thông tin: tỷ giá, chứng khoán, số dư, phát sinh giao dịch… – Nạp tiền: nạp tiền cho các thẻ tín dụng, cho điện thoại di động… – Giao dịch chứng khoán: đặt lệnh mua, bán chứng khoán. – Giao dịch tài chính: thực hiện mua bán kim loại quý, ngoại tệ… 3. Các loại hình thái của Mobile Banking Trong quá trình phát triển của mình, Mobile Banking có những hình thái chính sau: Short Message Service (SMS), Mobile Web và Mobile Client Applications. Mỗi hình thái đều có điểm mạnh và điểm yếu riêng, được các ngân hàng áp dụng dựa vào đặc trưng và chiến lược riêng của mỗi ngân hàng. – Short Message Service (SMS): Đây là loại hình mà hầu hết các ngân hàng đều sử dụng, công nghệ này vừa tiện lợi và chi phí để áp dụng cũng rẻ hơn so với những công nghệ khác. Một người sử dụng dịch vụ này có thể nhắn tin dạng SMS để kiểm tra số dư trong tài khoản, trả tiền điện, nước, chuyển khoản… Ưu điểm: dễ sử dụng; dạng tin nhắn phổ biến hay sử dụng với người dùng; hoạt động trên tất cả các mạng; phù hợp, chi phí rẻ với người dùng; không đòi hỏi thiết lập phần mềm; cho phép ngân hàng cung cấp các thông tin thực tới người dùng; có thể lưu trữ nội dung tin nhắn mà không cần kết nối mạng. Nhược điểm: chỉ có dạng văn bản thông thường (text-only) và giới hạn trong 140-160 ký tự 1 tin nhắn; không hỗ trợ môi trường bảo mật, không hỗ trợ các ứng dụng đa phương tiện. – Mobile Web: cho phép việc truy cập web thông qua điện thoại cầm tay với màn hình to, rộng và độ phân giải cao thông qua Wireless Application Protocol (WAP). Điều này giúp cho người dùng thực hiện các nhu cầu, giao dịch của mình thông qua web. Ưu điểm: người dùng quen với việc truy cập Internet thì sẽ thích thú hơn và sử dụng được các ứng dụng đa phương tiện; cho phép người dùng cuối thực hiện các ứng dụng kết hợp; kết nối bảo mật được thực hiện trên hầu hết các trình duyệt Mobile. Nhược điểm: nhiều thiết bị cầm tay không tương thích; hạn chế về tốc độ và băng thông, trình duyệt; không làm việc được khi không có Internet (off-line). – Mobile Client Applications: Đây là công nghệ mà hầu hết các ngân hàng hàng đầu thế giới đang sử dụng vì tính an toàn, bảo mật và khả năng làm việc liên tục của nó. Công nghệ này sẽ cài trên mỗi máy điện thoại 1 phần mềm riêng biệt của nó giúp cho khách hàng có thể giao dịch với ngân hàng 24/24 thông qua đường sóng điện thoại Ưu điểm: cung cấp nhiều dịch vụ đa phương tiện; có khả năng làm việc ngay cả khi không kết nối mạng internet; độ bảo mật cao với những ứng dụng riêng; đảm bảo thông tin khách hàng khi thiết bị cầm tay bị mất hoặc ăn trộm. Nhược điểm: đòi hỏi máy phải có hệ điều hành phù hợp; sự khác biệt giữa các hệ điều hành và các loại máy điện thoại sẽ là cản trở lớn cho việc hỗ trợ công nghệ này. 4. Lợi ích của Mobile Banking Đối với khách hàng – Với Mobile Banking, khách hàng có thể chuyển khoản, thanh toán các chi phí của mình mọi lúc, mọi nơi. Bạn không phải tìm xem ngân hàng có đặt máy ATM đâu đó xung quanh nơi bạn đang đứng không, thay vào đó bạn chỉ việc soạn tin nhắn số tiền và tài khoản cần gửi, chọn “gửi” là có thể hoàn tất một giao dịch. Ngoài dịch vụ chuyển khoản, với chiếc điện thoại di động bạn còn có thể truy vấn rất nhiều thông tin hữu ích từ ngân hàng từ quản lý tài khoản đến thực hiện thanh toán các giao dịch trực tuyến. – Nhanh chóng, thuận tiện: Mobile Banking giúp khách hàng có thể liên lạc với ngân hàng một cách nhanh chóng, thuận tiện để thực hiện một số nghiệp vụ ngân hàng tại bất kỳ thời điểm nào (24 giờ mỗi ngày, 7 ngày một tuần) và ở bất cứ nơi đâu. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các khách hàng có ít thời gian để đi đến văn phòng trực tiếp giao dịch với ngân hàng, các khách hàng nhỏ và vừa, khách hàng cá nhân có số lượng giao dịch với ngân hàng không nhiều, số tiền mỗi lần giao dịch không lớn. Đây là lợi ích mà các giao dịch kiểu ngân hàng truyền thống khó có thể đạt được với tốc độ nhanh, chính xác so với ngân hàng điện tử nói chung và dịch vụ Mobile Banking nói riêng. – An toàn: với Mobile Banking tính bảo mật không chỉ thể hiện ở mật khẩu của khách hàng mà còn ở cả mã PIN của điện thoại, khi mất mật khẩu hoặc điện thoại khách hàng không phải quá lo lắng, vì chỉ khi có cả hai cái mật khẩu truy cập và mã PIN điện thoại, người khác mới có khả năng thực hiện các giao dịch Mobile Banking. An toàn của người sử dụng càng được nâng cao hơn với các công nghệ kết hợp như công nghệ xác thực mạnh (one time password) hay áp dụng công nghệ Mobile Client Application. Đối với ngân hàng – Triển khai Mobile Banking, ngân hàng sẽ có rất nhiều lợi ích. Trước hết, ngân hàng mang đến một kênh giao dịch tuyệt vời cho khách hàng của mình, làm họ hài lòng hơn. Đây là điều rất quan trọng trong lúc các Ngân hàng đưa ra nhiều động thái làm tăng sự thỏa mãn của khách hàng để tăng sức cạnh tranh với các đối thủ của mình. – Với Mobile Banking, mỗi chiếc điện thoại di động có thể thực hiện các chức năng gần như một chiếc ATM. ATM sẽ hữu dụng hơn chiếc di động chỉ khi việc sử dụng tiền mặt vẫn được sử dụng để thanh toán. Vậy trong một tương lai không xa, nhắc đến chiếc di động là chúng ta nhắc đến một chiếc ATM. Triển khai sớm Mobile Banking, ngân hàng sẽ tiết kiệm được hàng tỉ đồng trong việc xây dựng mạng lưới ATM. – Ngoài ra, trên hệ thống SMS 2 chiều, ngân hàng không những chỉ đáp ứng những truy vấn thông tin của khách hàng mà còn có thể chủ động đưa đến cho khách hàng của mình những thông điệp một cách trực tiếp và nhanh chóng. Thông tin về dịch vụ mới của ngân hàng, chính sách tỉ giá, thay đổi về lãi suất,… thông tin các sự kiện, hoạt động của ngân hàng hay cả những lời chúc gửi tới khách hàng nhân dịp đặc biệt. – Tiết kiệm chi phí, tăng thu nhập: (i) Phí giao dịch Mobile Banking được đánh giá là ở mức rất thấp so với giao dịch truyền thống từ đó góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng. Số liệu về phí giao dịch ngân hàng khảo sát ở Mỹ đã minh chứng cho điều đó; (ii) Chỉ số “chi phí đầu tư cho việc phục vụ một khách hàng” của hệ thống Mobile Banking chỉ dưới 1$ – nghĩa là hiệu quả cao hơn gấp nhiều lần so với việc mở một chi nhánh hay đầu tư hệ thống Call Center. Chỉ số “chi phí đầu tư cho việc phục vụ một khách hàng” tương ứng khi mở một chi nhánh và khi xây dựng hệ thống Call Center là khoảng 500$ và 5$. Trong thời đại “nhanh sống, chậm chết” này, thời gian từ lúc thai nghén ý tưởng cho đến lúc đưa sản phẩm ra thị trường cũng là một chỉ số cần được ngân hàng quan tâm; (iii) Bằng Mobile Banking khách hàng có thể tìm hiểu thông tin, giao dịch thường xuyên hơn, cập nhật hơn, mà do vậy làm giảm chi phí bán hàng và tiếp thị. – Mở rộng phạm vi hoạt động, tăng khả năng cạnh tranh: Mobile Banking là một giải pháp của ngân hàng để nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Điều quan trọng hơn là Mobile Banking còn giúp ngân hàng thực hiện chiến lược “toàn cầu hóa” mà không cần mở thêm chi nhánh ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Mobile Banking cũng là công cụ quảng bá, khuyếch trương thương hiệu của ngân hàng một cách sinh động, hiệu quả. – Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: xét về mặt kinh doanh, Mobile Banking sẽ giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng. Thông qua các dịch vụ Mobile Banking, các lệnh chi trả, nhờ thu của khách hàng được thực hiện nhanh chóng, tạo điều kiện chu chuyển nhanh vốn tiền tệ, trao đổi tiền – hàng. Qua đó đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tiền tệ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. – Tăng khả năng chăm sóc và thu hút khách hàng: Chính tiện ích từ công nghệ ứng dụng, từ phần mềm, từ nhà cung cấp dịch vụ mạng, Mobile Banking đã thu hút và giữ khách hàng sử dụng, quan hệ giao dịch với ngân hàng, trở thành khách hàng truyền thống của ngân hàng. Với mô hình ngân hàng hiện đại, kinh doanh đa năng nên khả năng phát triển, cung ứng các dịch vụ cho nhiều đối tượng khách hàng, nhiều lĩnh vực kinh doanh của Mobile Banking là rất cao. – Một hệ thống Mobile Banking tốt không chỉ mang lại lợi nhuận cao, chi phí thấp cho ngân hàng mà còn cần phải thỏa mãn được cả lợi ích của khách hàng, đó mới là cơ sở cho sự phát triển lâu dài và bền vững không chỉ của dịch vụ Mobile Banking mà bất kỳ dịch vụ nào của ngân hàng. 5. Rủi ro khi sử dụng Mobile Banking – Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì tội phạm công nghệ cũng không ngừng gia tăng, ảnh hưởng của nó cực kỳ lớn đặc biệt là khi nó không chỉ đơn thuần dừng ở mức kỹ thuật mà mục đích lớn hơn là về mặt kinh tế, xã hội. Một số rủi ro chính khách hàng Mobile Banking phải đối mặt khi sử dụng: – Cloning: sao chép thông tin xác nhận (identify) từ điện thoại này qua điện thoại khác, bằng cách này kẻ lừa đảo có thể giả dạng khách hàng thực hiện các giao dịch. Riêng đối với Mobile Banking, Cloning có thể cho phép hacker truy cập vô tài khoản của khách hàng ở ngân hàng. – Hijacking: kẻ tấn công có thể kiểm soát giao dịch giữa hai thực thể, giả dạng làm 1 trong 2 thực thể đó. Tương tự Cloning, hacker có thể sử dụng Hijacking để truy cập vô tài khoản của khách hàng. – Malicious Code: một thể loại giống như Virus, Worm hoặc có thể là malware được cài vào thiết bị cầm tay, từ đó hacker có thể lấy thông tin về bất kỳ giao dịch nào của khách hàng khi sử dụng Mobile Banking. – Man-in-the-Middle-Attack: một cách thức tấn công dựa vào sự hoạt động của các giao thức (protocol), kẻ tấn công đứng ở vị trí giữa người gửi thông tin và người xác nhận và có thể đọc, thêm vào hoặc chỉnh sửa thông tin mà khách hàng hay ngân hàng không hề biết. – Phishing: một hình thức ăn cắp thông tin nhạy cảm của khách hàng, làm khách hàng tiết lộ thông tin, giả mạo một người hoặc tổ chức để khiến cho người khác tiết lộ thông tin của họ thông qua malware từ email hoặc truy cập những website yêu cầu cung cấp thông tin cá nhân. – Pharming: chương trình virus xâm nhập vào máy của khách hàng, chiếm quyền điều khiển trình duyệt web. Khi khách hàng nhập thông tin vào một trang web chính thống sẽ bị chuyển đến một trang web giả mạo mà không thể nhận ra. Những thông tin nhập vào trang web đó sẽ bị chiếm dụng. – SMiShing: viết rút gọn của “SMS Phishing”, kẻ tấn công sử dụng SMS nhằm mục đích ăn cắp thông tin cá nhân khách hàng. – Spoofing: là kiểu tấn công mà kẻ lừa đảo gửi đi những gói thông tin (packet) từ một nguồn (source) hợp pháp. – Vishing: viết rút gọn của “Voice and Phishing”, một dạng tấn công mà khách hàng lộ thông tin cá nhân thông qua các cuộc gọi. 6. Hướng triển khai xây dựng hệ thống Mobile Banking – Khi xây dựng Mobile Banking, ngân hàng cần quyết định đi theo một trong hai hướng. Thứ nhất là tự xây dựng toàn bộ hệ thống Mobile Banking, và thứ hai là kết hợp với một đối tác chuyên nghiệp đã có sẵn hạ tầng viễn thông. Theo hướng thứ nhất – tự xây dựng: theo cách này, ngân hàng sẽ gặp phải khá nhiều khó khăn: – Xây dựng hạ tầng viễn thông: việc kết nối với các mạng di động là công việc đòi hỏi phải có đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực viễn thông để hoàn thành tất cả các công đoạn: kết nối đường truyền, thử nghiệm dịch vụ, tính cước. Công việc này không chỉ đòi hỏi tính chính xác, chuyên nghiệp mà cũng là công việc rất mất thời gian. – Chi phí thiết bị và phí duy trì hệ thống: (i) Phí thiết bị: Để xây dựng một hạ tầng viễn thông, ngân hàng sẽ phải bỏ tiền để mua tất cả những thiết bị đắt tiền như: máy chủ, thiết bị định tuyến, bộ chuyển đổi tín hiệu và những thiết bị khác. (ii) Phí duy trì hệ thống: ngoài những khoản phí cố định hàng tháng cho các công ty truyền dẫn, phí thuê đầu số cho các mạng di động, ngân hàng còn phải trả tiền để duy trì đội ngũ chuyên gia, nhân viên kỹ thuật quản lý hệ thống, bảo trì hệ thống, trang thiết bị hỗ trợ giúp hệ thống hoạt động thông suốt, chính xác 24/24. Đây cũng là khoản chi phí không nhỏ. – Thực tế đã có một số ngân hàng tự triển khai Mobile Banking như Ngân hàng TMCP Hàng hải (MSB), VPBank. Trong quá trình triển khai đã gặp khá nhiều khó khăn vì thiếu các chuyên gia về lĩnh vực viễn thông, thời gian kết nối với các mạng di động kéo dài. Cuối cùng, do các dịch vụ Mobile Banking nghèo nàn trên nền công nghệ kém đã không thu hút được khách hàng, dẫn đến không bù đắp được khoản đầu tư vào Mobile Banking. Theo hướng thứ hai – kết hợp với một đối tác chuyên nghiệp đã có sẵn hạ tầng viễn thông, ngân hàng sẽ được lợi nhiều mặt: Giải pháp Mobile Banking tốt hơn, các đối tác thứ ba hiểu rõ các nghiệp vụ ngân hàng, cam kết bảo mật tuyệt đối, hỗ trợ ngân hàng tốt nhất và xử lý sự cố nhanh nhất; Triển khai nhanh hơn: hạ tầng của các đối tác thứ ba đã sẵn sàng kết nối với ngân hàng. Chi phí thấp hơn: Mobile Banking triển khai trên hạ tầng ổn định sẵn có, các đối tác thứ ba sẽ lo toàn bộ chi phí quản trị và duy trì hệ thống, phí đường truyền kết nối tới các mạng di động. 7. Xu hướng sử dụng Mobile Banking trên thế giới Theo thống kê của Carlisle & Grallagher Consulting Group: trên thế giới, thời gian trung bình 01 người sử dụng smart phone là 02 giờ/ngày; 58% người ở Châu Âu và Mỹ đã mua sắm qua Smartphone và Tablet; 26% người dùng truy cập Mobile Banking từ 4 lần/tuần trở lên. Các dịch vụ tài chính và kinh doanh được sử dụng trên Mobile đã tăng từ 10% năm 2013 lên 13% năm 2014; 34% giao dịch bán lẻ toàn cầu được thực hiện trên Mobile. Theo báo cáo Mobile Banking năm 2023 của KPMG, kênh Mobile giúp tiết kiệm đến 43 lần so với một chi nhánh, 13 lần so với call center, 13 lần so với ATM và 2 lần so với kênh online (tức Internet Banking). Hơn nữa, các thiết bị di động này cũng là vật sở hữu của từng cá nhân. Với những ngân hàng bán lẻ, việc phát triển kênh giao dịch trên nền tảng di động cá nhân chắc chắn là cần thiết và là chuyện phải làm. Chính vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi thấy kênh Mobile Banking phát triển như vũ bão trên thế giới trong thời gian qua, mặc dù ra đời sau Internet Banking và là kênh tăng trưởng mạnh mẽ nhất trong số các kênh giao dịch phổ biến của ngân hàng. Theo khảo sát của tờ The Economist, có đến 82% ngân hàng bán lẻ trên thế giới đồng ý rằng trong 5 năm tới các thiết bị di động sẽ trở thành kênh giao dịch chính cho những người trẻ, là khách hàng tiềm năng của các ngân hàng. Thực tế, tại các nước phát triển như Mỹ, Canada, Australia… số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ Mobile Banking nhiều hơn hẳn so với Internet Banking và giao dịch trực tiếp tại ngân hàng. Theo nghiên cứu của Juniper Research, trong 5 năm tới, số lượng người dùng Mobile Banking trên toàn cầu sẽ tăng hơn 2 lần, từ 800 triệu người dùng hiện nay lên 1,75 tỷ người dùng vào năm 2023. Nguyên do chính của sự tăng trưởng này là tỷ lệ người sử dụng điện thoại smartphone ngày càng tăng (quá dễ dàng để sở hữu 1 chiếu điện thoại smartphone với đầy đủ tính năng mà giá thì không hề đắt) và phương thức thanh toán thương mại điện tử ngày càng trở nên phổ biến trên toàn thế giới. – Dễ dàng sử dụng và đa dạng tính năng là những yếu tố tiên quyết ảnh hưởng đến quyết định việc sử dụng Mobile Banking đối với những người sử dụng Mobile Banking trên thế giới (theo nghiên cứu của Carlisle & Grallagher Consulting Group). Điều này, đòi hỏi các ngân hàng trên thế giới nói chung và tại Việt Nam đặc biệt lưu ý đến những yếu tố này khi phát triển dịch vụ Mobile Banking. (Bảng 1)
Bảng 1: Các yếu tố và mức độ ảnh hưởng đến quyết định sử dụng Mobile Banking Tiêu chí Ít quan tâm Trung bình Quan tâm Dễ dàng sử dụng, đăng ký 4% 26% 72% Thanh toán dễ dàng hơn 7% 30% 65% Đa dạng tính năng 4% 32% 65% Hiểu biết tính năng dịch vụ 5% 36% 59% Thói quen sử dụng Mobile 8% 41% 53% Tính an toàn/ bảo mật 17% 38% 50% Thiết bị Mobile lớn hơn (Phablet) 11% 43% 46%
Nguồn: Carlisle & Grallagher Consulting Group
II- Thực trạng tại Việt Nam 1. Tiềm năng thị trường Mobile Banking tại Việt Nam – (i) Theo báo cáo thương mại điện tử năm 2023 của Bộ Công thương: Việt Nam có 97% doanh nghiệp chấp nhận cho khách hàng thanh toán bằng phương thức chuyển khoản qua ngân hàng, 16% doanh nghiệp chấp nhận thanh toán bằng thẻ thanh toán, số lượng doanh nghiệp sử dụng ứng dụng bán hàng trên thiết bị di động tăng từ 11% năm 2014 lên 18% năm 2023. – (ii) Cũng theo khảo sát của Bộ Công thương năm 2023 về tham gia thương mại điện tử trên nền tảng di động trong cộng đồng với 467 người tiêu dùng tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh; trong đó có 57% người tham gia khảo sát là nữ và 43% là nam thì thu được kết quả như sau: 47% người tham gia khảo sát có độ tuổi từ 26 – 35 tuổi, 29% người tham gia khảo sát có độ tuổi từ 18 – 25 tuổi. Trên 55 tuổi chiếm tỷ lệ 6% số người tham gia khảo sát. 93% người tham gia khảo sát cho biết có sở hữu ít nhất một thiết bị di động thông minh (điện thoại thông minh, máy tính bảng, đồng hồ thông minh). Trong số đó, 95% sở hữu các loại điện thoại thông minh, 34% sở hữu máy tính bảng. Từ 6 giờ – 8 giờ là khoảng thời gian người tiêu dùng truy cập Internet bằng các thiết bị di động cao nhất chiếm 59%. 27% người tiêu dùng tham gia khảo sát cho biết đã từng đặt hàng thông qua thiết bị di động. 47% người tiêu dùng sử dụng thiết bị di động để mua sắm trực tuyến lựa chọn hình thức thanh toán bằng thẻ (ATM/thẻ quốc tế), 41% từng thanh toán bằng tin nhắn hoặc thẻ cào điện thoại. – (iii) Còn theo khảo sát của Vnexpress: nếu phân theo số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ Mobile Banking tại từng ngân hàng theo nhóm: trên 50.000 người, từ 20.000 đến 50.000 người, từ 5.000 đến 20.000 người và dưới 5.000 người, thì theo biểu đồ cho thấy: có 52% ngân hàng có trên 20.000 khách hàng sử dụng dịch vụ Mobile Banking, trong đó có 38% ngân hàng tại Việt Nam có trên 50.000 khách hàng sử dụng dịch vụ Mobile Banking, đây là tỷ lệ lớn nhất trong 04 nhóm khách hàng sử dụng dịch vụ Mobile Banking, điều này chứng tỏ các ngân hàng rất tích cực trong đẩy mạnh triển khai dịch vụ này. (Biểu đồ 1)
Biểu đổ 1: Tỷ lệ ngân hàng có khách hàng sử dụng Mobile Banking (Đơn vị: %)
Nguồn: Vnexpress (tính đến 30.06.2014)
Từ 03 yếu tố trên có thể kết luận rằng: khách hàng sử dụng Mobile Banking tại Việt Nam là những khách hàng trẻ từ 35 tuổi trở xuống và tốc độ sử dụng di động trong việc thanh toán và mua sắm ngày càng tăng, đây là một tiềm năng to lớn cho việc phát triển Mobile Banking tại Việt Nam. 2. Công nghệ triển khai Mobile Banking tại Việt Nam Nắm bắt xu hướng thị trường và tầm quan trọng của ứng dụng Mobile Banking trong tương lai, các ngân hàng đã không ngừng đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật mạng, xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại,… để đảm bảo hoạt động dịch vụ luôn nhanh chóng, thông suốt. Với tiêu chí đó, đến nay đã có thêm nhiều ngân hàng đã đầu tư công nghệ và giới thiệu ứng dụng Mobile Banking. Có thể kể đến vài cái tên như: BIDV, TPBank; MB; VIB, Vietcombank, OceanBank, Vietinbank, Agribank; Eximbank, MaritimeBank, SHB, NamABank… Ở Việt Nam, công nghệ và thiết bị di động đang liên tục được cập nhật và sử dụng tương ứng như ở nước ngoài. Ra đời vào khoảng năm 2010, đến nay, đã có hơn 45 ngân hàng triển khai dịch vụ Mobile Banking (trong khi Internet Banking là 42 ngân hàng). Các dịch vụ của Mobile Banking phát triển nhanh chóng tại Việt Nam, 45 ngân hàng triển khai SMS Banking; 25 ngân hàng triển khai dịch vụ Mobile Application và 13 ngân hàng triển khai dịch vụ Sim Toolkits. Đặc biệt, sự phát triển của kênh giao dịch mới này gặp 2 yếu tố hỗ trợ quan trọng: (i) Thứ nhất là lượng thiết bị di động, bao gồm cả điện thoại và máy tính bảng gia tăng lên rất nhanh trong vài năm trở lại đây; (ii) Thứ hai, chính là hệ thống kết nối internet không dây (từ 3G của các nhà mạng) cho phép người dân giữ các thiết bị của mình trực tuyến 24/24, miễn là nơi đó có sóng viễn thông. Theo đánh giá của các chuyên gia, các tính năng của ứng dụng Mobile Banking được ngân hàng phát triển dựa trên nhu cầu của người Việt, từ nhu cầu cơ bản như chuyển tiền, nạp tiền điện thoại trả trước, tra cứu lãi suất, tỷ giá ngoại tệ, … đến các nhu cầu đặc biệt hơn như gửi tiết kiệm trực tuyến, thanh toán hóa đơn. Ngoài ra, khách hàng được miễn phí hoàn toàn khi chuyển khoản trong cùng hệ thống và mức phí cho các giao dịch chuyển khoản khác đang khá ưu đãi, tối thiểu chỉ dao động quanh mức từ 3000 – 5000 đồng/giao dịch. Bên cạnh việc tiết kiệm chi phí, Mobile Banking được đánh giá là giúp người tiêu dùng tiết kiệm được một quỹ thời gian đáng kể khi mọi giao dịch thông qua các ứng dụng mới đều được hoàn thành chỉ trong khoảng 01 phút. Các tiện ích mới, đơn giản và thuận tiện đã thu hút nhiều khách hàng giao dịch. Theo Smartlink, tốc độ tăng trung bình lượng khách hàng giao dịch qua Mobile Banking hàng năm là khoảng 20 – 30%. 3. Một số khó khăn trong phát triển Mobile Banking tại Việt Nam Thói quen sử dụng tiền mặt – Thanh toán bằng tiền mặt từ lâu đã trở thành thói quen của người dân Việt Nam, theo thống kê của Báo cáo thương mại điện tử năm 2023: có đến 92% thanh toán dùng tiền mặt khi tham gia dịch vụ thương mại điện tử, trong khi sử dụng dịch vụ Mobile Banking để thanh toán chỉ chiếm 0,5% và thực tế cho thấy phương thức thanh toán này còn tồn tại nhiều nhược điểm. Chưa đa dạng tính năng và tiện ích (Bảng 2)
Bảng 2: Tình hình triển khai các tính năng dịch vụ Mobile banking (Đơn vị: %) Stt Tên tính năng Tính năng chi tiết Tỷ lệ ngân hàng triển khai 1 Tính năng cơ bản · Tra cứu thông tin/Xem số dư; · Chuyển tiền; · Gửi tiết kiệm; · Thanh toán tiền vay; · Thanh toán hóa đơn. 80% 2 Tính năng nâng cao · Chuyển tiền định kỳ/tương lai; · Cá thể hóa người dùng;
· Alert
20%
(Nguồn: Vietcombank thống kê năm 2023) Theo thống kê hiện nay, đa phần các ngân hàng tại Việt Nam triển khai dịch vụ Mobile Banking thì có đến 80% các ngân hàng triển khai các tính năng cơ bản và 20% ngân hàng triển khai tính năng nâng cao. Ngoài ra, khả năng kết nối thanh toán qua di động (mobile payment) giữa 03 đơn vị là ngân hàng, công ty viễn thông và các nhà cung cấp dịch vụ chưa đa dạng và có tính hệ thống; hiện nay mới chỉ chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp lớn có thế mạnh về thanh toán trực tuyến; – Việc đăng ký sử dụng dịch vụ Mobile Banking chủ yếu được thực hiện tại các phòng giao dịch chi nhánh nên chưa tạo được sự thuận lợi cho khách hàng khi tiến hành đăng ký sử dụng dịch vụ đặc biệt đối với khách hàng ở xa, muốn đăng ký sử dụng dịch vụ trong thời gian ngắn. III- Một số giải pháp Thứ nhất, cần tập trung vào phân khúc khách hàng Gen Y Khách hàng Gen Y là những người sinh từ năm 1982 đến năm trước 2000. Họ chiếm hơn 25% tổng dân số toàn cầu, và số lượng phân bố từng khu vực cũng chiếm tỷ trọng lớn, cụ thể: Châu Á là 18%, Châu Phi là 20%, Bắc Mỹ 15%, Châu Đại Dương 16%, Châu Mỹ La tinh 18%. Thế hệ này đang dần hình thành nên một thị trường rộng lớn và 10 năm tới họ sẽ là động lực chính của tăng trưởng kinh tế toàn cầu từ tiêu dùng, dịch vụ tài chính, tiết kiệm, đầu tư… Những đặc điểm chính của khách hàng Gen Y trong ngân hàng: (i) Họ thích kiếm tiền. Cứ 6 trong 10 Gen Y được khảo sát đã trả lời tiền là rất quan trọng đối với cuộc sống. Đấy là động lực để họ lao động hăng say và sử dụng nhiều dịch vụ tài chính đi kèm. (ii) Họ thích năng lực online trong mọi giao dịch của ngân hàng. Gen Y thích sử dụng ngân hàng online hơn là ngân hàng truyền thống. Thống kê cho thấy, 89% Gen Y đều sử dụng ngân hàng online, đồng thời họ thích hơn khi được mở tài khoản ngân hàng online (khoảng 30% Gen Y đã thử mở tài khoản vãng lãi trực tuyến, 35% nằm trong độ tuổi từ 18 đến 24). (iii) Họ rất am hiểu về công nghệ. Phần lớn Gen Y đều sở hữu máy tính cá nhân và điện thoại thông minh, đồng thời họ sử dụng phần lớn thời gian để gửi tin nhắn, chat, xem video, lướt mạng xã hội, blogs… Theo nghiên cứu của Lemon Tree Marketing Group về sự kết nối internet, sử dụng mạng xã hội, email: 75% Gen Y có thông tin cá nhân trên mạng xã hội; 83% Gen Y đi ngủ mang theo smartphone. (iv) Có nhiều dấu hiệu cho thấy mức độ tin tưởng của Gen Y vào ngân hàng cao hơn so với các thế hệ trước đó. Khoảng 46% thế hệ Gen Y tin tưởng vào hệ thống ngân hàng so với 33% của thế hệ lớn hơn, đây là tín hiệu tốt tương quan với tỷ lệ giới thiệu và sử dụng dịch vụ tài chính trong tương lai. (v) Họ ít khi hài lòng với tổ chức tài chính họ đang giao dịch. Chỉ 38% Gen Y rất hài lòng với ngân hàng của họ, có thể so sánh với sự hài lòng của 40% Gen X (1965 – 1980) và 50% Baby boomers (1946 – 1964). (vi) Họ thích sự thông báo thường xuyên. Gen Y thích thường xuyên nhận mọi thông báo bằng email và SMS, khoảng 38% Gen Y yêu cầu thông báo bằng các phương tiện truyền tin hiện đại để nhắc nhở các khoản nợ chưa trả hoặc nợ đã thanh toán. Khách hàng Gen Y tại Việt Nam có số lượng là 33,8 triệu người và họ cũng có những đặc điểm tương tự như khách hàng Gen Y trên thế giới như: Độ tuổi: từ 15 đến 34 tuổi; Đặc điểm chi tiêu: thực phẩm (26%), thời trang (13%), thông tin liên lạc và công nghệ (13%), giải trí (12%)…; Đặc trưng riêng biệt: am hiểu công nghệ, thích kết nối thông qua mạng xã hội, chi tiêu trước – tiết kiệm sau (chi tiêu thông qua cửa hàng trực tuyến ngày càng nhiều), cần sự giúp đỡ thường xuyên về tư vấn tài chính, tin tưởng hơn về các thương hiệu ngân hàng hiện tại… Nếu phân bổ theo độ tuổi sở hữu smartphone thì 81% ở tuổi 18 – 29, 68% tuổi 30 – 49, 40% ở tuổi 50 – 64, và 11% tuổi 65 trở lên. Từ những phân tích trên cho thấy các ngân hàng phải suy ngẫm lại tầm quan trọng của một thế hệ mới (đầy tiềm năng và rộng lớn) khi phát triển dịch vụ Mobile banking. Thứ hai, để bắt kịp xu thế phát triển với tốc độ chóng mặt của điện thoại di động và khả năng cập nhật công nghệ cao của giới trẻ, dịch vụ Mobile Banking cần cung cấp nhiều dòng ứng dụng tương thích với các dòng điện thoại và thiết bị di động phổ biến hiện nay như iPad, iPhone, Android phone, Android tablet; điện thoại sử dụng hệ điều hành Java giúp khách hàng thuận tiện và dễ dàng cài đặt khi đăng ký sử dụng dịch vụ Mobile Banking. Thứ ba, ngoài những tính năng cơ bản của Mobile Banking, các ngân hàng cần lưu tâm đến giá trị trải nghiệm và gia tăng tiện ích cho khách hàng. Đây sẽ là “chìa khóa vàng” để khai thác dịch vụ Mobile Banking một cách tối ưu. Bởi theo phân tích của Varoli Corporation, 52% người dùng điện thoại thông minh và máy tính bảng đã tải về ứng dụng Mobile Banking, khoảng 40% nói rằng họ đã nghĩ đến việc xóa các ứng dụng này. Và sự không hài lòng về ứng dụng thậm chí còn cao hơn ở phân khúc khách hàng Gen Y. – Với cách tiếp cận mới này và từ phân tích trên, các ứng dụng Mobile Banking không chỉ cung cấp các chức năng cơ bản về tài chính như: chuyển tiền nhanh 24/7; chuyển khoản; quản lý danh sách người thụ hưởng; nạp tiền điện thoại; mà còn cung cấp các tiện ích phi tài chính như: tra cứu thông tin ATM, chi nhánh; tự động định vị vị trí của khách hàng và hướng dẫn đoạn đường gần nhất đến các điểm giao dịch, ATM, điểm khuyến mãi…), giải trí (dự đoán bóng đá, game, đọc tin tức…); hiển thị lãi suất tiền gửi, tỷ giá ngay cả khi khách hàng không kết nối internet; lọc thông minh lịch sử giao dịch theo từng tuần, từng tháng… và đặc biệt là tính năng trao đổi thông tin, chia sẻ hình ảnh, âm thanh, chat trực tuyến trên nền công nghệ OTT (giải pháp truyền thông dữ liệu trên nền tảng internet). Ở khía cạnh này, ứng dụng đã thoát ra khỏi những khuôn khổ của một sản phẩm ngân hàng điện tử thông thường. – Cùng với đó các ngân hàng cần mở rộng hợp tác với đa dạng các nhà cung cấp dịch vụ để triển khai thanh toán trên Mobile Banking, Mobile Payment và cho phép khách hàng đăng ký dịch vụ Mobile Banking trên các kênh điện tử như: Internet Banking, Phone Banking, USSD, DigitalBranches…hay ngay tại các cửa hàng có hợp tác với ngân hàng. Thứ tư, có thể nói, Mobile Banking không còn là hướng đi mới và chuyện đưa các tiện ích mới lên cũng là chuyện nằm trong tầm tay của các ngân hàng. Tuy nhiên, cái mà các ngân hàng cần vượt qua là giải quyết tâm lý lo ngại về tính bảo mật của ứng dụng và gia tăng sự tự tin khi giao dịch của khách hàng. Đó là 2 rào cản lớn nhất theo khảo sát của KPMG với các ngân hàng bán lẻ trên thế giới. – Để tăng tính bảo mật của dịch vụ Mobile Banking thì trong quá trình giao dịch: các tin nhắn cần được mã hóa kết hợp với việc sử dụng các biện pháp bảo mật khác như nhập thêm định danh PIN hay mã xác nhận dùng một lần OTP – One-time password. Thêm vào đó, giao dịch này vẫn có thể kèm theo biện pháp bảo mật khác như ma trận mật khẩu (Matrix – Password). Ngoài ra, trong thời gian tới, các ngân hàng cần tiếp tục cho ra mắt tiện ích mới trên Mobile Banking dựa trên nền tảng công nghệ OTT. – Đồng thời, để gia tăng sự tự tin khi giao dịch qua Mobile Banking, các ngân hàng cần nâng cấp hệ thống công nghệ, tự động xử lý các lỗi trong giao dịch và nâng cao chất lượng hỗ trợ khách hàng qua hệ thống Trung tâm liên lạc.
ThS. Vũ Hồng Thanh
ThS. Vũ Duy Linh Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số 11-2023
Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Triển Dịch Vụ Phụ Trợ Bảo Hiểm Việt Nam Phù Hợp Với Các Hiệp Định Chung trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!