Bạn đang xem bài viết Phát Triển Bền Vững Về Kinh Tế Các Khu Công Nghiệp Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Bắc Bộ: Thực Trang Và Các Khuyến Nghị Chính Sách được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Các KCN đóng vai trò quan trọng trong việc đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, sản xuất kinh doanh, là địa chỉ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước từ đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được kể trên, việc phát triển các KCN thời gian qua còn tiềm ẩn không ít các yếu tố thiếu bền vững về kinh tế. I. Các nhân tố thiếu bền vững trong phát triển các KCN vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 1. Vị trí các KCN: 2. Tỷ lệ lấp đầy KCN Hiệu quả kinh doanh của các nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phụ thuộc rất lớn vào tỷ lệ lấp đầy KCN. Đến tháng 9/2008, tỷ lệ lấp đầy các KCN vùng KTTĐBB là khá thấp so với 2 vùng KTTĐ còn lại. Cụ thể, tỷ lệ lấp đầy các KCN vùng KTTĐBB hiện chỉ đạt 40,9%, trong khi tỷ lệ này của vùng KTTĐPN là 53,3% và vùng KTTĐMT đạt cao nhất, lên đến 67,8%. Nguyên nhân là do các KCN vùng KTTĐBB đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản khá cao. Số KCN được thành lập trong 3 năm, từ 2006 đến 2008 lên đến 30/51 KCN. 3. Quy mô diện tích các khu công nghiệp Tỷ lệ các KCN có diện tích dưới 200 ha chiếm gần 50%, tức 25/51 KCN của Vùng. Đáng chú ý là có đến 8 KCN có qui mô dưới 100 ha (4 KCN của Hà Nội, 3 KCN Hải Dương và 1 KCN Quảng Ninh). Các KCN có diện tích trên 300 ha chỉ có 15/51 khu, chiếm 29,4%, tập trung chủ yếu ở Bắc Ninh với 6 khu. Có thể thấy qui mô các KCN vùng KTTĐBB nhìn chung nhỏ hơn so với 2 vùng KTTĐ còn lại, cụ thể: số KCN có diện tích trên 300 ha của vùng Kinh tế trọng điểm Miền Nam (KTTĐPN) là 34/89 khu, chiếm 38,2% và vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung (KTTĐMT) là 4/12 khu, chiếm 33,3%. Nếu xét với qui mô hiệu quả của KCN là 200 – 300 ha đối với VKTTĐ và 300 – 400 ha với các tỉnh thì diện tích của các KCN trên địa bàn lại càng nhỏ. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả trong tổ chức bộ máy quản lý, đầu tư hạ tầng, nhất là hệ thống xử lý chất thải và khả năng liên kết của các doanh nghiệp. 4. Liên kết phát triển trong nội bộ KCN và với bên ngoài KCN ở nước ta, hoạt động liên kết kinh tế được thể hiện khá rõ ở một số KCN do các doanh nghiệp phát triển CSHT nước ngoài khai thác. Sự liên kết càng cao khi KCN có sự tham gia của các doanh nghiệp lớn có vốn ĐTNN và các doanh nghiệp đến cùng quốc gia. Tiêu biểu cho sự liên kết này ở phía Nam phải kể đến các doanh nghiệp Đài Loan ở KCN Hố Nai (Đồng Nai); còn ở vùng KTTĐBB là Canon và các doanh nghiệp vệ tinh Nhật Bản trong KCN Thăng Long; Công ty mô tô Yamaha và các doanh nghiệp vệ tinh tại KCN Nội Bài (Hà Nội) và gần đây nhất là sự xuất hiện của tập đoàn điện tử Foxconn của Đài Loan tại các KCN Bắc Ninh và Bắc Giang chắc chắn sẽ tạo ra một sức hút mạnh mẽ các doanh nghiệp nước này đến đầu tư làm doanh nghiệp hỗ trợ cho Foxconn. Các liên kết này giúp các doanh nghiệp trong KCN nâng cao hiệu quả sản xuất thông qua khả năng tiết giảm chi phí vận chuyển, kết hợp được sức mạnh hợp tác của các doanh nghiệp vì sự phát triển của mỗi công ty trong chuỗi này đều có liên hệ chặt chẽ với các công ty còn lại; các công ty vệ tinh cung cấp thiết bị tốt, sẽ góp phần nâng cao chất lượng của sản phẩm công ty mẹ, và ngược lại. 5. Trình độ công nghệ của doanh nghiệp Đóng góp nhiều nhất trong việc thay đổi công nghệ ở các KCN phải kể đến vai trò của các nhà ĐTNN. Tính đến nay, đã có trên 40 nước và khu vực lãnh thổ đầu tư vào các KCN, nhưng các nhà đầu tư đến từ các nước có trình độ công nghệ tiên tiến như: Hoa Kỳ, EU còn ít. Do vậy, tỷ lệ các dự án có hàm lượng công nghệ cao còn hạn chế. Hiện tượng này làm cho các KCN vùng KTTĐBB thời gian qua chỉ mới thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, chứ chưa thúc đẩy công cuộc hiện đại hoá nền kinh tế. Các dự án đầu tư FDI vào các KCN chủ yếu có qui mô vốn nhỏ, bình quân vốn đăng ký FDI vào một dự án hoạt động trong các KCN năm 2000 là 2,87 triệu USD; năm 2003: 3,62 triệu; năm 2005 là 5,97 triệu và năm 2008 là 15 triệu USD. Mặc dù vậy, qui mô dự án FDI bình quân của vùng KTTĐBB hiện lớn nhất cả nước, gấp 1,5 lần của vùng KTTĐPN; 2 lần của vùng KTTĐMT và gần 1,5 lần của cả nước. Trong đó, mức vốn bình quân một dự án FDI ở KCN Hà Nội là 15,8 triệu USD; của Vĩnh Phúc là 22,8 triệu USD. Điều này phần nào phản ánh trình độ công nghệ của các dự án vùng KTTĐBB đã nhỉnh hơn các vùng còn lại. Một số doanh nghiệp đầu tư công nghệ tiên tiến như các doanh nghiệp Nhật bản: Honda, Yamaha,… một số doanh nghiệp Đài Loan, Hàn Quốc cũng đầu tư công nghệ mới cho sản xuất, nhưng các công nghệ này chỉ có thể đánh giá là công nghệ tiên tiến và trung bình chứ chưa phải là công nghệ cao vì với nhiều doanh nghiệp chỉ là sự dịch chuyển công nghệ từ các nước khác, phục vụ cho 1 số qui trình đơn giản: lắp ráp, sơn tĩnh điện… Một số doanh nghiệp cũng đầu tư sử dụng công nghệ cao như Canon, To Ho, Brother… nhưng số lượng còn rất khiêm tốn. Việt Nam đã chủ trương xây dựng 2 khu công nghệ cao ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh với nhiều ưu đãi nổi trội, nhưng do nhiều yếu tố cả chủ quan và khách quan nên kết quả thu hút các ngành thuộc lĩnh vực này còn rất hạn chế. Khu công nghệ cao Hòa Lạc với tổng diện tích lên đến 549,5 ha nhưng đến thời điểm này mới hoàn thành cơ sở hạ tầng và cho 10 doanh nghiệp thuê đất với diện tích 48,3 ha, nhưng đa số vẫn chưa thể đi vào hoạt động do hạ tầng còn dở dang, một số doanh nghiệp trong số này sử dụng công nghệ cũng chưa phải là công nghệ cao. – Với các doanh nghiệp trong nước, các KCN vùng KTTĐBB đã có 619 doanh nghiệp đầu tư vào các KCN với số vốn đăng ký 47.326 tỷ đồng, trong đó 412 dự án đi vào sản xuất kinh doanh, với tổng số vốn thực hiện đạt 13.819 tỷ đồng, bằng 29,2% tổng số vốn đầu tư trong nước đăng ký đầu tư vào KCN. Nếu xét về qui mô vốn đầu tư có thể thấy các doanh nghiệp trong nước có qui mô vốn không kém nhiều doanh nghiệp FDI. Tuy nhiên, do kiến thức về công nghệ của đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật nhìn chung còn hạn chế nên công nghệ sản xuất đa phần cũng chỉ ở mức trung bình thấp. Một số doanh nghiệp đầu tư công nghệ mới nhập khẩu từ Mỹ, EU,… nhưng số lượng còn khá khiêm tốn, chủ yếu là công nghệ chắp vá và công nghệ của Trung Quốc. II. Các khuyến nghị chính sách nhằm phát triển bền vững các KCN vùng KTTĐBB 1. Nâng cao chất lượng qui hoạch KCN của Vùng Thứ nhất, việc xây dựng qui hoạch phải đi trước một bước so với yêu cầu thực tiễn. Để thực hiện điều này, công tác xây dựng qui hoạch một mặt cần được hoạch định cho những thời kỳ đủ dài để có những dự tính mang tính chất chiến lược. Phát triển các KCN của Vùng cần theo hướng chuyển bớt các KCN mới lên phía các trục Quốc lộ 21 và 18 để giảm bớt sự tập trung quá mức vào vùng Đồng bằng sông Hồng. Bên cạnh đó, có chính sách theo dõi, đánh giá chặt chẽ việc thực hiện các quan điểm qui hoạch phát triển KCN như: kiểm soát tỷ lệ sử dụng đất công nghiệp trong các KCN, xử lý nghiêm minh các KCN cố tình làm trái các qui định qui hoạch KCN của nhà nước, đặc biệt là qui định về tỷ lệ lấp đầy KCN hiện có khi mở rộng và bổ sung qui hoạch KCN mới của các địa phương theo Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của Chính phủ. Từ đó có căn cứ và lộ trình điều chỉnh qui hoạch KCN cho phù hợp với yêu cầu phát triển của từng thời kỳ. Thứ hai, qui hoạch cần dự tính vị trí đặt KCN đảm bảo tính bền vững. Việc bố trí các KCN gần các đô thị lớn và các khu dân cư tập trung thời gian qua đã thể hiện nhiều điểm bất cập (ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn giao thông,…). Do vậy, trong công tác qui hoạch phát triển KCN cần xác định rõ những vị trí có thể xây dựng các KCN cũng như những ngành nghề cụ thể được phép đầu tư vào những vị trí này. Cụ thể là vị trí đặt KCN không được ảnh hưởng tới hành lang phát triển các đô thị trong tương lai. Các KCN không nên bố trí quá gần các tuyến giao thông huyết mạch và phải đảm bảo không ảnh hưởng tiêu cực tới sự tồn tại bền vững của các nguồn tài nguyên thiên nhiên (nguồn nước, nguồn tài nguyên rừng, cảnh quan thiên nhiên, v.v..). Thứ ba, cần qui định về qui mô tối thiểu cho từng loại KCN. Việc phát triển các KCN có qui mô quá lớn hoặc nhỏ sẽ khó đảm bảo tính chất bền vững của chính KCN. Với KCN có diện tích quá lớn sẽ khó lấp đầy, gây lãng phí nguồn tài nguyên đất; còn KCN quá nhỏ thì việc đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống quản lý môi trường và các dịch vụ đi kèm sẽ gặp nhiều khó khăn và không đảm bảo hiệu quả hoạt động. Qua nghiên cứu kinh nghiệm phát triển của các quốc gia khác, kết hợp với phân tích thực tế các KCN của Vùng, tác giả cho cho rằng nên qui định qui mô tối thiểu để đưa vào qui hoạch KCN là 200 ha; đối với các địa phương không có thế mạnh trong thu hút vốn đầu tư, qui mô KCN tối đa là 500 ha. 2. Thúc đẩy liên kết, phối hợp phát triển các KCN vùng KTTĐBB Tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, ngành trung ương và các tỉnh, thành phố trong VKTTĐ trên cơ sở triển khai thực hiện Quy chế phối hợp ban hành theo quyết định 159/2007/QĐ-TTG. Theo dõi và chỉ đạo kịp thời những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Quyết định này của Thủ tướng Chính phủ. Các nội dung chủ yếu cần tập trung đẩy mạnh sự phối hợp và liên kết vùng cho phát triển bền vững các KCN là : (i) Trao đổi, cung cấp thông tin giữa các địa phương trong vùng; (ii) Xây dựng và đưa nội dung hợp tác vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm của mỗi ngành, mỗi địa phương; (iii) Hình thành và mở rộng các tổ chức hoạt động kinh tế mang tính liên kết vùng nhằm tăng quy mô, tăng khả năng cạnh tranh và chủ động tham gia hội nhập khu vực và quốc tế hình thành các trung tâm xúc tiến đầu tư quy mô vùng và tăng cường hoạt động liên kết trong lĩnh vực này. 3. Tăng cường liên kết doanh nghiệp và phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ 4. Cải thiện môi trường đầu tư trong các KCN Trước hết cần hoàn thiện môi trường pháp lý và đơn giản hoá các thủ tục hành chính, thông qua việc nhanh chóng xây dựng và thông qua luật về KCN, hoàn thiện cơ chế “một cửa tại chỗ” và coi đây là công cụ quan trọng tạo lập môi trường hành chính thuận lợi trong KCN, đồng thời ổn định các chính sách và cơ chế để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vào KCN có những tính toán chiến lược dài hạn và bền vững. Tạo điều kiện giảm thiểu chi phí kinh doanh cho các nhà đầu tư vào KCN thông qua các chính sách trực tiếp và gián tiếp như: giảm chi phí sử dụng các dịch vụ công cộng, chi phí duy tu bảo dưỡng cơ sở hạ tầng, thu chi phí theo mức độ hoạt động thực tế (tỷ lệ lấp đầy KCN, doanh thu, kim ngạch xuất khẩu,… ). Hoạt động xúc tiến đầu tư cần có sự tập trung với sự tham gia và hỗ trợ của các cơ quan nhà nước trung ương, cơ quan điều phối VKTTĐ, đặc biệt là Ban liên lạc các KCN vùng KTTĐBB thông qua việc thiết lập các kênh thông tin tập trung như: website, các chiến dịch xúc tiến đầu tư, các đoàn vận động đầu tư và liên kết chặt chẽ với các tổ chức, nhà đầu tư quốc tế. Hoạt động này cần có sự chỉ đạo tập trung bởi một cơ quan chuyên trách, được sử dụng ngân sách nhà nước để tiến hành hoạt động. Ngoài ra, việc tăng cường tham gia vào hiệp hội các KCN và khu chế xuất khu vực và thế giới cũng sẽ góp thêm cơ hội quảng bá cho các KCN của Vùng và cả nước. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, các nước trong khu vực đang triển khai mạnh mẽ các biện pháp thúc đẩy thu hút các nguồn vốn đầu tư như: Tạm hoãn áp dụng việc tăng mức lương tối thiểu, áp dụng thuế suất ưu đãi theo lĩnh vực, khu vực dưới dạng luật có giới hạn về thời gian. Trường hợp của Thái Lan, nước này cũng chia các khu vực hưởng ưu đãi đầu tư ra làm 3 khu vực và áp dụng thuế suất ưu đãi và thời gian miễm giảm thuế như Việt Nam. Tuy nhiên, cuối năm 2008 Chính phủ Thái đã quyết định áp dụng mức thuế suất ưu đãi và thời gian miễn giảm thuế ngang bằng với khu vực có mức ưu đãi cao nhất cho tất cả các khu vực, trừ khu vực 1 là Bangkok đến năm 2014. Do vậy, theo tác giả, bên cạnh việc thực hiện các gói kích cầu đầu tư bằng hỗ trợ lãi suất, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, gia hạn nộp thuế VAT,… đang áp dụng, chúng ta cũng có thể thúc đẩy thu hút đầu tư bằng cách ưu đãi có thời hạn cho các doanh nghiệp khi đầu tư vào các KCN vùng KTTĐBB như các ưu đãi vào KCN các vùng khó khăn khác trong nước.
Ths. Vũ Thành Hưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân
Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế Biển Bền Vững
Việt Nam là một trong những nước có lợi thế về biển, có vị trí địa lý thuận lợi nằm trên đường hàng hải quốc tế, có cảng biển sâu, có điều kiện để phát triển hàng hải, hàng không, du lịch biển, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản…Với chiều dài bờ biển 3.260km, 1 triệu km2 vùng biển kinh tế đặc quyền rộng gấp 3 lần diện tích đất liền, có vị trí địa chính trị hết sức quan trọng với hơn 3.000 hòn đảo. Cả nước có 28 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có biển (trong đó có 10 tỉnh và thành phố có hải đảo, quần đảo) với tổng diện tích 208.560km2 chiếm 41% diện tích cả nước và 41, 2 triệu dân chiếm gần một nửa dân số Việt Nam.
Xuất phát từ những tiềm năng, lợi thế của biển đảo và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ chủ quyền an ninh và môi trường biển, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) ban hành Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia mạnh từ biển, giàu lên từ biển theo hướng phát triển bền vững, phấn đấu đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP; 55-60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện thêm một bước đáng kể đời sống cho nhân dân vùng biển và ven biển.
Để thực hiện Chiến lược biển Việt Nam, từ năm 2008 Chính phủ đã ban hành và phê duyệt nhiều nghị quyết và quyết định: một số giải pháp cấp bách trong quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường biển; đề án đẩy mạnh công tác tuyên truyền và quản lý bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo; quy hoạch phát triển kinh tế đảo Việt Nam đến năm 2020; … và gần đây, ngày 6/9/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 1570/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Từ khi có nghị quyết của Đảng, quyết định của Chính phủ, các ngành, các cấp, các doanh nghiệp, … từ trung ương đến các địa phương đã xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình hành động cho từng lĩnh vực và ở trên địa bàn của mình bước đầu triển khai có những kết quả đáng khích lệ. Các đảo lớn như: Côn Đảo, Phú Quốc, Trường Sa, Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Vân Đồn, … đã được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, mạng lưới điện, thông tin liên lạc, cung cấp nước ngọt, trường học, bệnh xá, bố trí lại dân cư, tham gia vào phát triển kinh tế, nông nghiệp, du lịch, công nghiệp dầu khí có bước phát triển nhanh; bảo vệ môi trường biển đảo bước đầu được chú ý, đã có 16 khu bảo tồn biển và các vườn quốc gia ven biển và hải đảo… được thiết lập; đồng thời đảm bảo tốt công tác quốc phòng an ninh, hình thành hệ thống các khu công nghiệp, các cảng biển, cảng cá, khu du lịch từ Quảng Ninh cho đến Cà Mau…
Tính đến nay cả nước đã có 9 cảng biển và 15 khu kinh tế ven biển được thành lập với tổng diện tích mặt đất và mặt nước lên đến 662.249 ha, thu hút khoảng 700 dự án do nước ngoài và trong nước đầu tư, với tổng số vốn gần 33 tỷ USD và 330.000 tỷ đồng. Số dân cư sống ở các vùng ven biển tăng lên rất nhanh, bao gồm hàng triệu người làm nghề vận tải biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản, dịch vụ đóng sửa tàu thuyền, chế biến thủy sản, dầu khí, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, du lịch… Nhiều thị trấn, thị tứ, khu nghỉ dưỡng đã hình thành dọc theo chiều dài ven biển của đất nước.
Vùng biển và ven biển đang tập trung tới 3/4 khu du lịch tổng hợp và 10/17 khu du lịch chuyên đề. Tuy nhiên, ngành du lịch biển vẫn thiếu những sản phẩm dịch vụ biển – đảo đặc sắc có tính cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế, chưa có các khu du lịch biển tổng hợp đạt trình độ quốc tế. Đối với các lĩnh vực như chế biến sản phẩm dầu, khí, chế biến thủy, hải sản, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất muối biển công nghiệp, các dịch vụ kinh tế biển và ven biển hiện chủ yếu mới ở mức đang bắt đầu xây dựng, hình thành và quy mô còn nhỏ. Ngay như khai thác hải sản và nuôi trồng thuỷ sản nước lợ, vốn được xem là lĩnh vực kinh tế đặc trưng của biển, đảo đóng góp đáng kể vào tổng giá trị thuỷ sản xuất khẩu, tạo việc làm cho người dân, nhưng hoạt động khai thác đánh bắt xa bờ quy mô còn nhỏ lẻ. Trình độ và hoạt động khai thác tài nguyên, các lợi thế của biển và hải đảo vẫn đang ở tình trạng lạc hậu so với khu vực. Nói cách khác, Việt Nam tuy là một quốc gia biển, song đến nay, chúng ta vẫn chưa thực sự phát huy được nhiều các thế mạnh, tiềm năng của biển, đảo và vẫn chưa phải là quốc gia mạnh về biển.
Giải pháp từ các chuyên gia (1) 7 giải pháp của TS. Trương Minh TuấnTheo TS. Trương Minh Tuấn, Nguyên Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Thứ trưởng Bộ Thông tin và truyền thông, để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội biển, đảo bền vững và đưa kinh tế nước ta tăng trưởng từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo, trong thời gian tới cần tập trung triển khai thực hiện một số nhóm giải pháp chủ yếu sau:
Thứ hai, cần chú trọng quy hoạch và tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách và luật pháp về lĩnh vực biển, đảo và có cơ chế phù hợp để hỗ trợ phát triển kinh tế biển, đảo. Trên cơ sở chủ trương, định hướng phát triển chung của cả nước, cần có quy hoạch tổng thể chung cũng như đối với từng khu vực, địa phương, ngành nghề phát triển. Cần tránh tình trạng “mạnh ai nấy làm” dẫn đến sự phân tán, nhỏ lẻ thiếu tập trung giữa các địa phương với cả vùng, giữa địa phương với từng ngành, mà cần có sự liên kết, phối hợp với nhau. Hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ và tổ chức thực hiện có hiệu quả sẽ góp phần quản lý tài nguyên, môi trường biển và khai thác có hiệu quả các nguồn lợi từ biển đảo cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Nhân rộng các mô hình, kinh nghiệm hay trong tổ chức sản xuất trên biển, đảo; đồng thời có biện pháp hỗ trợ ngư dân khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản, xây dựng các mô hình tổ chức sản xuất tiên tiến trên biển, đảo, phát triển du lịch kết hợp với việc triển khai các dịch vụ công ích trên biển và thiết lập quan hệ sản xuất kinh doanh giữa biển, đảo với các địa bàn khác trên bờ và trong nội địa. Mặt khác, ở mức độ phù hợp cần tăng cường hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp ngoài nước để thu hút nguồn vốn đầu tư, hình thành những dự án phát triển kinh tế liên hoàn, tăng cường trao đổi, xuất khẩu.
Thứ ba, hình thành và phát triển một số ngành mũi nhọn phù hợp với lợi thế của vùng đảo như: du lịch, dịch vụ biển, khai thác và nuôi trồng hải sản. Chuyển hướng mạnh mẽ cơ cấu sản xuất từ nghề cá gần bờ, ven đảo sang nghề cá xa bờ, gắn với bảo vệ và tái tạo nguồn lợi. Tăng cường năng lực khai thác xa bờ cho các đảo có điều kiện thuận lợi, đồng thời, khai thác tối đa các điều kiện tự nhiên thuận lợi vào nuôi trồng hải sản, dịch vụ hàng hải, dịch vụ nghề cá. Các cơ sở hạ tầng nghề cá như cảng, bến cá, dịch vụ hậu cần nghề cá, khu neo đậu tránh bão cho tàu, thuyền và hạ tầng nuôi trồng hải sản cũng cần được đầu tư xây dựng đồng bộ, có quy mô lớn. Phát triển du lịch cũng là một trong những hướng trọng điểm, mang tính đột phá trong phát triển kinh tế biển, đảo cần được đầu tư. Một số khu du lịch sinh thái biển, đảo lớn, chất lượng cao tầm cỡ khu vực và thế giới được hình thành sẽ tạo bước đột phá cho du lịch biển, đảo nói riêng và du lịch cả nước nói chung.
Thứ tư, cần tổ chức phát triển hợp lý không gian kinh tế – xã hội vùng biển và ven biển. Phát triển vùng ven biển nhằm tạo động lực lan tỏa, biến vùng ven biển thành hậu phương, hỗ trợ cho các hoạt động trên biển thông qua các trung tâm kinh tế hải đảo. Tập trung xây dựng nhanh hệ thống kết cấu hạ tầng trên các đảo và vùng ven biển, đảm bảo an sinh xã hội để người dân ra định cư lâu dài trên các đảo, vừa phát triển kinh tế, vừa góp phần bảo vệ an ninh, chủ quyền vùng biển, đảo. Dọc theo vùng ven biển phải kiến tạo các trung tâm phát triển, thậm chí hình thành nên các đô thị lớn ven biển, có bán kính ảnh hưởng rộng, có khả năng cạnh tranh với các mô hình, trung tâm phát triển lớn trong khu vực. Tạo ra các hành lang kinh tế ven biển với sự liên kết và mang sức lan tỏa rộng. Có chính sách thích hợp để hình thành các doanh nghiệp mạnh, đồng thời huy động các thành phần kinh tế trong nước và nguồn lực quốc tế để khai thác có hiệu quả các tiềm năng từ biển và hải đảo.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học công nghệ về quản lý và phát triển kinh tế biển, đảo nhằm khai thác, sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, đảo. Có biện pháp kịp thời ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, giảm thiểu tối đa sự suy thoái tài nguyên biển và hải đảo, đa dạng sinh học biển và các hệ sinh thái biển. Khẩn trương triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực, đổi mới cơ cấu nghề nghiệp, phát triển các nghề mới thích ứng với các vùng mặn hóa, hạn hán, ngập nước; áp dụng công nghệ hiện đại vào các lĩnh vực khai thác khoáng sản, dầu khí, băng cháy, đóng tàu và chế biến các sản phẩm của biển… Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo và chuyển giao công nghệ, thu hút các nguồn vốn ODA, nguồn vốn đầu tư trực tiếp của các nước.
Thứ sáu, xây dựng và mạnh dạn cho tiến hành tái cơ cấu ngành kinh tế biển, đảo, các cơ chế, chính sách nhằm phát huy quyền chủ động của các ngành, các cấp, các địa phương, có sự quản lý, tập trung của Trung ương, tạo nên bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại, theo chiều rộng và chiều sâu. Bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch phát triển ngành theo nội dung mới gắn phát triển kinh tế biển, đảo; đầu tư cơ sở hạ tầng cho các đảo, hệ thống cảng biển, đô thị ven biển, giao thông liên lạc… đồng thời thúc đẩy liên kết hợp tác giữa các ngành, các địa phương và vùng lãnh thổ, hiện đại hóa các doanh nghiệp, xây dựng các thương hiệu biển quốc gia, thu hút đầu tư có chọn lọc trực tiếp của nước ngoài và đầu tư tư nhân vào phát triển kinh tế biển, đảo.
Thứ bảy, c ần tổ chức tốt công tác tuyên truyền về biển, đảo, nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia, công tác quản lý khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, các quy định của quốc tế về bảo vệ nguồn lợi thủy sản không chỉ với cư dân biển, đảo mà còn với toàn xã hội. Có thể mở các lớp huấn luyện, tuyên truyền giáo dục cho ngư dân hiểu và chấp hành các điều khoản của các hiệp ước, công ước đã ký giữa Việt Nam và các nước khác cũng như các quy định của pháp luật để người dân nâng cao ý thức trong khai thác, hoạt động bảo vệ môi trường.
(2) Tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng trên đảoTiến sĩ Trần Văn, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội cho biết, theo Quy hoạch phát triển kinh tế đảo Việt Nam đến năm 2020, kinh tế đảo sẽ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 14-15%/năm. Để đạt được mục tiêu trên, nước ta sẽ hình thành và phát triển một số ngành mũi nhọn phù hợp với lợi thế của vùng đảo như: Du lịch, dịch vụ biển, khai thác và nuôi trồng hải sản. Chúng ta sẽ chuyển hướng mạnh mẽ cơ cấu sản xuất từ nghề cá gần bờ, ven đảo sang nghề cá xa bờ, gắn với bảo vệ và tái tạo nguồn lợi. Tăng cường năng lực khai thác xa bờ cho các đảo có điều kiện thuận lợi, đồng thời, khai thác tối đa các điều kiện tự nhiên thuận lợi vào nuôi trồng hải sản. Các cơ sở hạ tầng nghề cá như cảng, bến cá, dịch vụ hậu cần nghề cá, khu neo đậu tránh bão cho tàu, thuyền và hạ tầng nuôi trồng hải sản cũng sẽ được đầu tư xây dựng đồng bộ. Phát triển du lịch cũng được coi là hướng trọng điểm, mang tính đột phá trong phát triển kinh tế đảo trong những năm tới. Một số khu du lịch sinh thái biển, đảo lớn, chất lượng cao tầm cỡ khu vực và thế giới sẽ được hình thành, tạo bước đột phá cho du lịch biển, đảo nói riêng và du lịch cả nước nói chung.
Từ nay đến năm 2020, chúng ta sẽ tập trung xây dựng nhanh hệ thống kết cấu hạ tầng trên các đảo, coi đây là khâu đột phá chính để thu hút đầu tư và khuyến khích dân ra định cư lâu dài trên các đảo, vừa phát triển kinh tế, vừa góp phần bảo vệ an ninh chủ quyền vùng biển, đảo. Chúng ta phấn đấu đến khi đó, tất cả các huyện đảo, xã đảo và các đảo quan trọng khác về cơ bản đều có hệ thống đường giao thông hoàn chỉnh phục vụ phát triển kinh tế và quốc phòng, an ninh. Hệ thống cấp điện, cấp, thoát nước, hạ tầng thông tin-truyền thông cũng được đầu tư, nâng cấp.
Trong những năm vừa qua, Nhà nước luôn ưu tiên đầu tư cho biển, đảo trong tổng chi ngân sách Nhà nước, thể hiện sự cố gắng lớn của Nhà nước. Nhờ sự đầu tư tập trung của Nhà nước nên đã phần nào đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế biển, đảo. Các công trình được đầu tư đã và đang phát huy tốt hiệu quả. Tuy nhiên, nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế biển, đảo từ nay đến năm 2020 cần hàng trăm nghìn tỷ đồng, trong đó từ nguồn ngân sách khoảng 60%, còn lại là các nguồn vốn xã hội.
Việc tổ chức đời sống, sản xuất của người dân trên các đảo đóng vai trò quan trọng nhất trong phát triển kinh tế biển, đảo. Các công trình phục vụ hoạt động kinh tế như: Cầu tàu, âu tàu, kho xăng dầu, cơ sở sửa chữa tàu, thuyền, tồn trữ và cung cấp nước ngọt, kho lạnh, cấp đông bảo quản hải sản, cung ứng nước đá, cung ứng vật tư nghề cá, trạm y tế,… cần được tiếp tục đầu tư. Từ nhiều năm nay, bà con ngư dân khi ghé các đảo đã được cung ứng xăng, dầu, nước ngọt, chăm sóc y tế, sửa chữa tàu, thuyền, ngư cụ. Các chương trình đầu tư cho biển, đảo cần được tiếp tục đẩy mạnh bằng các nguồn vốn ngân sách với yêu cầu từng bước hiện đại hóa, đưa tiến bộ khoa học, công nghệ mới nhất vào các công trình, dự án, bảo đảm các công trình bền vững, đạt hiệu suất, hiệu quả cao nhất.
Bên cạnh đó, cần tổ chức tốt việc tuyên truyền về biển, đảo, công tác quản lý khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, các quy định của quốc tế về bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Có thể mở các lớp huấn luyện, tuyên truyền giáo dục cho ngư dân hiểu và chấp hành các điều khoản của các hiệp ước, công ước đã ký giữa Việt Nam và các nước khác, tham gia phát hiện sự xâm phạm của tàu, thuyền nước ngoài. Nhân rộng các mô hình, kinh nghiệm hay trong tổ chức sản xuất trên biển. Các biện pháp hỗ trợ khai thác hải sản như: Cung ứng xăng, dầu trên biển, trang thiết bị thông tin hàng hải và khai thác hải sản lắp đặt trên tàu cá, đào tạo thuyền trưởng, máy trưởng, thuyền viên, cho vay vốn ưu đãi, xây dựng các mô hình tổ chức sản xuất tiên tiến trên biển, hỗ trợ nuôi trồng hải sản trên vùng biển, lồng nuôi, con giống hải sản, hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân làm dịch vụ trên biển, các dịch vụ công ích trên biển,… cần sớm được nghiên cứu, tổ chức thực hiện.
Hiện nay, kinh tế biển không chỉ đơn thuần là đánh bắt hải sản, vận tải biển, du lịch biển mà đã mở rộng sang lĩnh vực khai thác tài nguyên biển, năng lượng biển, bảo vệ và cân bằng môi trường sinh thái biển, phòng chống thiên tai, giảm nhẹ tác động biến đổi khí hậu do hiệu ứng nhà kính. Do đó, cần sớm nghiên cứu, phát hiện các lợi thế so sánh, phát huy thế mạnh của đất nước trong phát triển kinh tế biển. Đã đến lúc chúng ta phải nhìn nhận kinh tế biển, đảo một cách toàn diện, phát triển kinh tế biển, đảo theo hướng bền vững, bảo đảm quyền lợi lâu dài của đất nước theo hướng phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia giàu mạnh về biển, đảo, bảo đảm vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển.
(3) 6 nhóm giải pháp của chủ yếu để phát triển kinh tế biển bền vữngTheo TS. Hồ Văn Hoành, Phó Chủ tịch Hội Khoa học phát triển nguồn nhân lực, nhân tài Việt Nam để phát triển kinh tế biển bền vững, cần tập trung vào 6 nhóm giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về chiến lược phát triển kinh tế biển gắn với phòng ngừa, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo, xem đây là ba mặt của một vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau. Đồng thời đề nghị Đảng, Nhà nước chỉ đạo tiến hành sơ kết việc thực hiện Nghị quyết lần thứ 4 (khóa X) và các quyết định của Chính phủ về phát triển kinh tế biển từ năm 2008 đến nay.
Hai là, xây dựng đề án tái cơ cấu ngành kinh tế biển, các cơ chế, chính sách nhằm phát huy quyền chủ động của các ngành, các cấp, các địa phương và vùng lãnh thổ, có sự quản lý, tập trung của trung ương, tạo nên bước đột phá về tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại, theo chiều rộng và chiều sâu. Bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch phát triển ngành theo nội dung mới gắn phát triển kinh tế biển với phòng ngừa thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo trên tất cả các lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng tuyến đảo, hệ thống cảng biển, đô thị ven biển, các ngành dầu khí, đóng tàu, giao thông, du lịch, khai thác nuôi trồng thủy hải sản, … đồng thời thúc đẩy liên kết hợp tác giữa các ngành, các địa phương và vùng lãnh thổ, hiện đại hóa các doanh nghiệp, các hợp tác xã, xây dựng các thương hiệu biển quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài và đầu tư tư nhân vào phát triển kinh tế biển…
Ba là, khẩn trương xây dựng chiến lược thích ứng cho sinh kế ven biển, bảo vệ môi trường sinh thái, xác định và tiếp cận cho từng lĩnh vực như: Vận tải biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản, trồng trọt, chăn nuôi, … có sự tham gia của đại diện các cơ quan ở địa phương, các chuyên gia kỹ thuật, các tổ chức quần chúng, các hộ gia đình, lập bản đồ về các mối hiểm nguy, kế hoạch lưu giữ nước ngọt, áp dụng cách tiếp cận vùng để quản lý tài nguyên thiên nhiên ven biển dựa trên cộng đồng. Huy động cộng đồng tham gia vào việc kiên cố hóa đê điều, khôi phục và phát triển rừng phòng hộ ven biển tạo hành lang bảo vệ đê biển, ngăn ngừa nước biển dâng và nước mặn lấn sâu vào đồng ruộng. Tổ chức các tổ đoàn kết, hợp tác xã vận tải trên biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy hải sản, … để có điều kiện hỗ trợ nhau trong sản xuất ứng phó với bão tố, sóng thần…
Bốn là, tăng cường đầu tư xây dựng mới và củng cố hệ thống đê biển vững chắc, kiện toàn hệ thống thông tin truyền thông, hệ thống cảnh báo sớm sóng thần và dự báo thời tiết, phát triển hệ thống rừng và rừng ngập mặn, trước mắt triển khai sớm hệ thống đê biển ở vùng thấp và vùng ngập nước. Ưu tiên giải quyết di dời cơ sở hạ tầng, dân cư ở những vùng có nguy cơ ngập nước, bổ sung lực lượng lao động có chất lượng cho huyện đảo và quần đảo.
Năm là, khẩn trương triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực: tuyển chọn, lai tạo giống cây lương thực, cây công nghiệp, giống nuôi thủy, hải sản, … Đổi mới cơ cấu nghề nghiệp, phát triển các nghề mới thích ứng với các vùng mặn hóa, hạn hán, ngập nước; áp dụng công nghệ mới hiện đại vào các lĩnh vực khai thác khoáng sản, dầu khí, băng cháy, đóng tàu và chế biến các sản phẩm của biển,… Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo và chuyển giao công nghệ, thu hút các nguồn vốn ODA, nguồn vốn đầu tư trực tiếp của các nước…
Sáu là, gấp rút đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nghiên cứu quản lý các ngành kinh tế biển và cộng đồng cư dân ven biển không những có trình độ chuyên môn mà còn có kỹ năng ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo, phấn đấu đến năm 2020 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 80%. Đồng thời đề nghị Chính phủ giao cho các ngành chức năng đưa nội dung giáo dục về kinh tế biển, biến đổi khí hậu, bảo vệ chủ quyền biển đảo và chương trình giảng dạy ở các cấp học phổ thông, trung cấp, cao đẳng, đại học thuộc hệ chính quy về không chính quy.
Trong tương lai gần, ngành kinh tế biển sẽ giữ vai trò chủ yếu để đảm bảo cho nhu cầu đời sống của nhân dân, đảm bảo cho dân tộc ta giàu mạnh và phát triển.
Chính Sách Tài Chính Thúc Đẩy Tăng Trưởng Kinh Tế Nhanh Và Bền Vững
Diễn đàn Tài chính Việt Nam 2019 có sự tham gia của khoảng 300 đại biểu là đại diện lãnh đạo các cơ quan chính phủ, cơ quan trung ương; các bộ, ngành; các tổ chức quốc tế (Cơ quan Hợp tác kỹ thuật của Đức, Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á…); các cơ quan nghiên cứu, viện khoa học và trường đại học; các chuyên gia, nhà khoa học…
Còn nhiều thách thức trong cơ cấu lại nền kinh tế
Phát biểu tại diễn đàn, Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn cho biết, diễn đàn diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động. Nhiều chuyên gia trên giới nhận định còn nhiều khó khăn, thách thức, dự báo trong 5 – 10 năm tới có dấu hiệu suy giảm, một bộ phận rơi vào khủng hoảng.
“Dự báo năm 2021 – 2022 kinh tế suy giảm dưới 2% thay vì 3,6% như dự báo trước đó, quan trọng hơn, đó là suy giảm có tính chu kỳ, mang tính quy luật, dư địa hạn hẹp về lãi suất, thuế, thị trường… Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm như vậy, khoa học công nghệ đang là yếu tố thúc đẩy sự phục hồi phát triển. Đó là bối cảnh để hoạch định chính sách cho tương lai” – Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn nói.
Theo Thứ trưởng, trong bối cảnh hiện nay, đổi mới mô hình tăng trưởng, thay đổi cơ cấu nền kinh tế, thực hiện cơ cấu lại nền tài chính quốc gia 10 năm qua đã đạt được kết quả bước đầu nhưng những thách thức, khó khăn còn rất lớn. Điều đó, thể hiện ở điểm mặc dù tăng trưởng đạt được ở mức độ 6,35% cho giai đoạn 5 năm qua. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng và đổi mới mô hình cơ cấu của nền kinh tế còn hạn chế và còn nhiều thách thức.
Thách thức lớn nhất đó là cơ cấu nền kinh tế và năng suất lao động trong nền kinh tế. Theo dự báo khả năng đến năm 2028 – 2030, Việt Nam sẽ ra khỏi cơ cấu dân số vàng và không còn điều kiện phát triển trên cơ sở diện rộng cũng như nguồn lực cho sự phát triển.
“Do vậy, cần phải bàn về thách thức này. Với cơ cấu dân số vàng kết thúc vào năm 2028 và với năng suất lao động như hiện nay, tích luỹ tài sản đạt 27% GDP nếu không có quan điểm mục tiêu giải pháp phù hợp để phát triển nhanh và bền vững, đạt mức độ là nước phát triển trung bình cao trước năm 2028 thì chúng ta không còn cơ hội” – Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn chỉ ra bất cập.
Phân tích từ các con số, Thứ trưởng nêu: Nhìn cơ cấu kinh tế từ góc độ ngân sách cho thấy, mặc dù đã đưa ra mục tiêu phấn đấu nhưng 10 năm qua khu vực kinh tế tư nhân chưa trở thành động lực của nền kinh tế. Tuy nhiên, khu vực này đóng góp vào thu ngân sách cao gấp 1,8 lần so với doanh nghiệp nhà nước, cao hơn 1,5 lần khu vực doanh nghiệp FDI.
Thứ trưởng khẳng định: “Những con số đó minh chứng cho thách thức trong tái cơ cấu nền kinh tế. Về tài chính – ngân sách, bên cạnh kết quả đạt được như tỷ lệ động viên ngân sách khoảng 23 – 24% GDP đạt mục tiêu đề ra, thì cơ cấu động viên còn chưa bền vững. Nợ công đã được kiểm soát ở tầm vĩ mô toàn quốc, địa phương và ở cả nghĩa vụ nợ dự phòng của Nhà nước, tuy nhiên, vẫn còn ở mức độ cao. Tính đến hết năm 2018 nợ công ở mức 57,5% GDP. Trong cơ cấu chi ngân sách, chi thường xuyên dù đã giảm từ 66% xuống còn 62% nhưng vẫn còn cao; thặng dư thu chi cho đầu tư phát triển còn thấp hơn trong khu vực”.
Trong quản lý tài chính công, để thúc đẩy phát triển kinh tế, thách thức lớn nhất hiện nay đó là quản lý, quản trị tài chính công, đặc biệt là quản trị đầu tư công. Vừa qua, Ban Kinh tế Trung ương và IMF đã đánh giá hiệu quả quản lý sử dụng đầu tư công ở Việt Nam đã chỉ ra rằng đây là điểm nghẽn lớn trong quản lý tài chính công và điều này có thể làm suy giảm hiệu quả sử dụng tài chính công, đầu tư công.
Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn khẳng định: Để phát triển nhanh và bền vững, quan điểm của Bộ Tài chính đó là phát triển phải trên cơ sở hiệu quả, bền vững, bao trùm. Với quan điểm đó phát triển chính sách tài chính – ngân sách phải đảm bảo thúc đẩy các vấn đề xã hội, trọng yếu là xóa đói giảm nghèo, đảm bảo dịch vụ công cần thiết với chất lượng đạt yêu cầu của khu vực và quốc tế.
Để đạt được mục tiêu đó, chính sách tài chính không thể không nhắc tới đó là phát triển nhưng phải đi liền giải quyết môi trường, đảm bảo sự bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu mà Việt Nam được đánh giá là 1 trong 10 quốc gia bị ảnh hưởng lớn nhất của biến đổi khí hậu.
Giải bài toán về tài chính – ngân sách thúc đẩy tăng trưởng
Với yêu cầu và mục tiêu phát triển trong trung hạn 2020 – 2020 và dài hạn 2020 – 2030, nếu không phát triển được ở mức độ 7 – 7,5% trong 10 năm tới thì không còn cơ hội để phát triển.
Diễn đàn có sự tham dự của đông đảo các nhà quản lý, nhà khoa học. Ảnh: T.T
Do đó, Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn mong muốn tại diễn đàn, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cùng đánh giá lại thực trạng hiện nay của chính sách tài chính của Việt Nam, từ đó chỉ ra được những thách thức tồn tại của chính sách đó.
Thứ trưởng mong muốn tại diễn đàn này sẽ có những kiến nghị, đóng góp về 7 vấn đề lớn, đó là:
Thứ hai, cần có những giải pháp để thực hiện mục tiêu phát triển khu vực kinh tế tư nhân, với yêu cầu khu vực này không chỉ đóng góp 10% trong GDP mà phải từ 20 – 25%; phấn đấu trong 10 năm tới, có 6 – 10 doanh nghiệp tư nhân trong top 500 doanh nghiệp của thế giới. Có như vậy mới đưa khu vực doanh nghiệp tư nhân trở thành trụ cột, đưa nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững.
Thứ ba, cần có đánh giá để sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính công, đẩy mạnh đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Theo số liệu, việc sắp xếp lại, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp chưa thực chất, số lượng doanh nghiệp sắp xếp lại rất lớn lên đến 90%, nhưng số lượng quy mô vốn thoái mới được 10%.
Thứ tư, mục tiêu phát triển thị trường vốn, phải giải quyết các vấn đề bất cập, như: Thị trường chứng khoán dường như phát triển khá nhưng trái phiếu doanh nghiệp dường như quá nhỏ bé, trên 9% so với GDP, nhỏ so với dư nợ tín dụng (132%); trong đó còn nhiều tranh luận về cơ cấu của 9% này (cho sản xuất, dịch vụ, đổi mới sáng tạo…). Huy động nguồn lực của kinh tế tư nhân trong hợp tác công tư, đầu tư phát triển hạ tầng đạt nhiều kết quả nhưng vẫn còn nhiều tồn tại.
Thứ năm, chúng ta đang sống trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, vậy giải pháp về tài chính – ngân sách phải làm gì, để thúc đẩy phát triển lĩnh vực này; những đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực, sử dụng ngân sách đầu tư cho giáo dục; sử dụng nguồn lực của xã hội để thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo…
Thứ sáu, còn nhiều quan điểm đưa ra, trong chiến lược 10 năm tới, phải chăng là phát triển đô thị; nếu thống nhất quan điểm đó, thì giải pháp về tài chính – ngân sách phải sửa đổi những nội dung gì để thúc đẩy tăng trưởng, có quy hoạch phù hợp với chiến lược để đô thị thực sự trở thành động lực trong 10 năm tới.
Thứ bảy, cơ chế chính sách tài chính – ngân sách phải thay đổi gì để góp phần thúc đẩy nâng cao năng suất lao động của nền kinh tế Việt Nam trên cơ sở thay đổi cơ cấu lại nền kinh tế.
Thứ trưởng Đỗ Hoàng Anh Tuấn bày tỏ mong muốn, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu cùng đánh giá thực trạng, chỉ ra bất cập của chính sách tài chính – ngân sách trong yêu cầu tác động của nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Bộ Tài chính mong muốn nhận được các đóng góp về giải pháp không chỉ trong trung hạn mà cả trong dài hạn 10 năm tới./.
Làng Nghề Tìm Hướng Phát Triển Kinh Tế Bền Vững
Nỗi lo mai một
Hiện nay cả nước có trên 5.400 làng nghề và làng có nghề, trong đó có khoảng gần 2.000 làng nghề truyền thống, với 115 nghề truyền thống đã được công nhận, thu hút khoảng 11 triệu lao động tham gia. Trong hơn 30 năm đổi mới kinh tế làng nghề đã có nhiều đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển của đất nước. Làng nghề còn là nơi lưu truyền nghề truyền thống, là nơi lưu giữ những nét văn hóa độc đáo, là một điểm đến của du lịch.
Khẳng định những đóng góp của các làng nghề, đồng chí Nguyễn Văn Bình – Trưởng Ban Kinh tế Trung ương phát biểu: “Các làng nghề đã giúp nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của người dân nông thôn; bảo tồn và phát huy được bản sắc văn hóa của dân tộc; góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn”.
Nghệ nhân truyền nghề đồng cho thế hệ trẻ tại làng nghề Đại Bái
Nhưng kinh tế làng nghề cũng bộc lộ nhiều vấn đề từ quy hoạch, đất đai, ô nhiễm môi trường. Nhiều làng nghề đang mai một, nhiều làng nghề đang ô nhiễm, nhiều làng nghề đầu ra sản phẩm bấp bênh… Điển hình như làng nghề gỗ Đồng Kỵ – một địa danh được nhiều nước trong khu vực biết đến nhưng đến nay, nhiều doanh nghiệp, nhiều hộ sản xuất đã đóng cửa, một số đã chuyển nghề, một số thì hoạt động cầm chừng, ông Vũ Văn Quý, Giám đốc Công ty TNHH đồ gỗ mỹ nghệ Hưng Long (Đồng Kỵ) cho biết. Đồng Kỵ cũng như nhiều làng nghề khác đang đối diện với môi trường ô nhiễm. Theo Hiệp hội Làng nghề Việt Nam có đến 46% số làng nghề trong diện điều tra có môi trường bị ô nhiễm nặng đối với không khí, nước, đất hoặc cả 3 dạng trên và có đến 27% số làng nghề bị ô nhiễm dạng vừa.
Sinh ra và lớn lên từ làng nghề truyền thống đúc đồng Đại Bái, ông Nguyễn Văn Sơn, Giám đốc Công ty TNHH Công nghệ Hoàng Anh rất thấu hiểu áp lực tồn tại của các làng nghề. “Ngày nay, muốn chấn hưng và phát triển làng nghề một cách chuyên nghiệp, khiến cho cả thế giới biết đến thương hiệu “Đồng Đại Bái”, thì ngoài các yếu tố bí truyền, không còn con đường nào khác là phải áp dụng khoa học kỹ thuật cao, có tri thức và đặc biệt là bản lĩnh kinh doanh trên thương trường”, Giám đốc Nguyễn Văn Sơn phát biểu. Nhưng áp dụng khoa học công nghệ chính là khó khăn lớn của các làng nghề, do đa số làng nghề sản xuất với hình thức nhỏ lẻ, thiếu vốn, thiếu thông tin thị trường lại không biết tìm công nghệ ở đâu… và thiếu cả nhân lực.
Công nghệ đang phát triển nhanh chóng, áp lực cạnh tranh với hàng nước ngoài ngày một gay gắt nhưng làng nghề khó khăn trong tiếp cận khoa học công nghệ. “Do hạn chế về công nghệ và kỹ thuật sản xuất nên các các làng nghề vẫn sử dụng chủ yếu là lao động thủ công ở hầu hết các công đoạn, kể cả các công đoạn nặng nhọc và độc hại nhất”, TS.Dương Đình Giám – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, Chính sách công nghiệp cho biết.
Doanh nghiệp tư nhân – động lực chính của làng nghề
Để giải quyết tình trạng của làng nghề, trước hết, chính quyền các tỉnh cần sớm quy hoạch lại làng nghề, xây dựng các cụm công nghiệp, cụm làng nghề để tạo mặt bằng sản xuất. Bên cạnh đó là cần chính sách hỗ trợ đào tạo nhân lực, chính sách hỗ trợ các làng nghề quảng bá sản phẩm, hỗ trợ làng nghề tiếp cận với khoa học kỹ thuật mới… Theo TS. Giám: “việc quy hoạch không gian sản xuất gắn với bảo vệ môi trường là một trong những giải pháp thu được hiệu quả đáng kể. Tuy nhiên, hiện nay việc quy hoạch các làng nghề còn hạn chế về số lượng do thiếu sự đồng bộ, công tác quản lý còn chồng chéo, phân định chưa rõ ràng giữa trách nhiệm của các bộ”.
Góp thêm ý kiến để hoàn thiện chính sách cho làng nghề phát triển bền vững, ông Mẫn Ngọc Anh – Chủ tịch Tập đoàn Hanaka nói: Sự phát triển bền vững làng nghề phụ thuộc các chính sách hỗ trợ, nhất là về quy hoạch và mặt bằng kinh doanh, về cơ sở hạ tầng và công nghệ bảo vệ, xử lý môi trường; vốn và về phát triển thương hiệu, ổn định đầu ra; gắn với quy hoạch và chiến lược tổng thể xây dựng nông thôn mới…
Hanaka đang đầu tư xây dựng cụm công nghiệp làng nghề ở Bắc Ninh để góp phần đưa việc phát triển kinh tế làng nghề trở nên quy củ, chuyên nghiệp, sản xuất xanh, thân thiện với môi trường. Theo ông Mẫn Ngọc Anh cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn nói chung và các làng nghề nói riêng hiện nay khá yếu kém. Hệ thống chăm sóc sức khỏe, giao thông, vệ sinh môi trường, dịch vụ nhiều nơi chưa đảm bảo, gây khó khăn cho sự phát triển kinh tế và ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Ông Mẫn Ngọc Anh hy vọng thời gian tới, khu vực nông thôn sẽ được đầu tư hơn về cơ sở hạ tầng để giảm dần khoảng cách với thành thị, có thể theo hình thức BT ưu đãi để huy động nguồn lực xã hội hoá. “Nếu có ưu đãi về chính sách thì những doanh nghiệp đầu tư cụm công nghiệp làng nghề như chúng tôi có thể tham gia vào xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng trung tâm y tế, trường học hiện đại, kết nối giao thông giữa làng nghề với trung tâm sản xuất công nghiệp lớn”, Chủ tịch Hanaka phát biểu.
Ở góc nhìn của ông Vũ Văn Quý, muốn duy trì được những làng nghề truyền thống thì Nhà nước cần đảm bảo sự ổn định lâu dài của chính sách, để doanh nghiệp tại làng nghề yên tâm bỏ vốn đầu tư mà không còn phải băn khoăn, trăn trở, lo lắng. Chính quyền địa phương nên coi doanh nghiệp tư nhân tại làng nghề là một động lực chính để phát triển kinh tế tại địa phương, khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ vì các loại hình này có vai trò quan trọng trong tạo việc làm, tăng thu nhập cho địa phương và xã hội.
Và theo đồng chí Nguyễn Văn Bình, trước hết, các hiệp hội và các cơ quan quản lý cần hỗ trợ các cá nhân, doanh nghiệp tại các ngành nghề, làng nghề ở nông thôn nắm bắt được các cơ chế chính sách và Pháp luật của Nhà nước. Chính quyền các địa phương cần quan tâm lắng nghe, chỉ đạo để phát triển kinh tế làng nghề lành mạnh; quan tâm phát triển kinh tế hợp tác để liên kết trong sản xuất giúp giải quyết các khó khăn của nhân dân. Các cơ quan quản lý cần tách biệt giữa ngành nghề ở nông thôn với các làng nghề truyền thống để từ đó hoạch định lại, có cơ chế chính sách để giúp nhân dân định hình được hướng đi phù hợp.
Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Triển Bền Vững Về Kinh Tế Các Khu Công Nghiệp Vùng Kinh Tế Trọng Điểm Bắc Bộ: Thực Trang Và Các Khuyến Nghị Chính Sách trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!