Bạn đang xem bài viết Phát Triển Bền Vững Thị Trường Mua Bán Nợ Doanh Nghiệp Tại Việt Nam: Góc Nhìn Từ Công Ty Tnhh Mua Bán Nợ được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
(thitruongtaichinhtiente.vn) – Bài viết phân tích thực trạng nợ của các doanh nghiệp (DN) và thị trường mua bán nợ DN ở Việt Nam trên góc nhìn từ hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam để có cái nhìn tổng quan về thị trường nợ và hoạt động mua bán nợ DN nhằm phát triển thị trường mua bán nợ DN ở Việt Nam.
Tóm tắt: Nợ đang là một mối quan tâm lớn của các doanh nghiệp (DN) Việt Nam. Nợ có thể giúp các doanh nghiệp (DN) kinh doanh tốt hơn, tuy nhiên nó cũng có thể khiến các DN gặp nhiều khó khăn về dòng tiền và khả năng thanh khoản. Trong khi đó, thị trường mua bán nợ ở Việt Nam mới đang ở giai đoạn đầu phát triển. Bài viết phân tích thực trạng nợ của các DN và thị trường mua bán nợ DN ở Việt Nam trên góc nhìn từ hoạt động kinh doanh của Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam để có cái nhìn tổng quan về thị trường nợ và hoạt động mua bán nợ DN nhằm phát triển thị trường mua bán nợ DN ở Việt Nam.
Sustainable development of corporate debt market in Vietnam: A perspective from Vietnam Debt & Asset Trading Corporation
Abstract: Debt is a big concern of Vietnamese enterprises. Debt can help enterprises do business better, however it can also make them face many difficulties in controlling cash flow and liquidity. Meanwhile, the debt market in Vietnam is still in its early stage of development. The article analyzes current debt status of enterprises and debt market in Vietnam from the perspective of business activities of Vietnam Debt & Asset Trading Corporation to get an overview of debt market and its operations in order to develop debt market in Vietnam.
1. Thực trạng nợ của các DN ở Việt Nam
1.1. Quan điểm về nợ DN, nợ xấu và hoạt động mua bán nợ ở Việt Nam
Theo Hoàng Trần Hậu và Vũ Sỹ Cường (2015), trước hết nợ doanh nghiệp cũng là một khoản nợ, tức là một cam kết chưa được thanh toán. Doanh nghiệp phát sinh nợ phải trả khi (i) không trả cho một dịch vụ, hàng hóa hay tài sản đã được thỏa thuận trước; (ii) không trả các khoản bắt buộc theo luật quy định đầy đủ và kịp thời; (iii) đi vay tiền mặt của người cho vay hoặc phát hành trái phiếu doanh nghiệp và (iv) cam kết với ngân hàng sự bảo lãnh về khoản vay của người khác, khi người đi vay không trả tiền, ngân hàng sẽ truy đòi doanh nghiệp bảo lãnh.
Nợ doanh nghiệp: có đặc trưng đầy đủ của một khoản nợ nên phải đi kèm với nguyên tắc hoàn trả, đảm bảo khả năng thanh toán cả gốc và phần cả phần giá trị tăng thêm biểu hiện qua tiền lãi. Khi nguyên tắc này không được đáp ứng ở mức độ nhất định thì khoản nợ đó bị coi là nợ xấu. Tổng kết quan điểm về nợ xấu của một số tổ chức như Ngân hàng Thế giới, nhóm chuyên gia tư vấn Advisory Expert Group (AEG), Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS), Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) cũng như Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), Nguyễn Thu Hương (2016), đưa ra kết luận: “Nợ xấu là những khoản nợ quá hạn trả nợ trên 90 ngày và/hoặc được đánh giá là khó có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi”.
Như vậy có thể đưa ra kết luận về hoạt động mua bán nợ nói chung hay cụ thể là đối với các khoản “Nợ xấu”, thực chất là việc bên Bán nợ (chủ nợ ban đầu) chuyển “khoản nợ phải thu” của mình đối với bên Khách nợ sang cho bên Mua nợ và bên Mua nợ sẽ trở thành chủ nợ mới của bên Khách nợ.
1.2. Đặc điểm nợ của các DN tại Việt Nam
– Nợ được các DN sử dụng nhiều, đơn giản và tiềm ẩn nhiều rủi ro
Ở Việt Nam, với sự cạnh tranh gay gắt của thị trường thì hình thức mua bán chịu hàng hóa diễn ra ngày càng thường xuyên hơn. Theo thống kê với bộ dữ liệu của tác giả, các khoản phải thu khách hàng chiếm 18,68% tổng tài sản và khoản phải trả người bán chiếm 11,60% tổng tài sản. Tín dụng thương mại gần như thành quy luật chung của thị trường, người bán nhiều khi phải chấp nhận cho người mua thanh toán tiền hàng trả chậm như một hình thức khuyến mãi, cạnh tranh, thu hút người mua hàng. Do đó, các điều kiện mua hàng trả chậm tương đối đơn giản, dễ dàng và ít các điều khoản ràng buộc. Nó chủ yếu dựa trên mối quan hệ quen biết, bạn hàng, tin tưởng lẫn nhau bởi vì người Việt thường hay cả nể giúp đỡ nhau trong nhiều mối quan hệ. Tuy nhiên, đó chính là lý do làm cho nợ phát sinh nhiều rủi ro cho người bán, vì sẽ xảy ra những tình trạng quỵt nợ, nợ kéo dài giữa các DN.
– Chưa có những quy định cụ thể cho nợ
Tại Việt Nam, hình thức mua bán chịu hàng hóa đang dần trở nên quen thuộc với các DN. Trong số đó, có nhiều giao dịch chỉ được lập một văn bản thỏa thuận đơn giản về số tiền và thời gian thanh toán chậm. Do đó, chúng ít có giá trị pháp lý và khó giải quyết khi phát sinh tranh chấp hay khởi kiện.
1.3. Nợ của các DN Việt Nam từ kết quả điều tra khảo sát
1.3.1. Dữ liệu khảo sát
Mẫu được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên. Sau khi thu thập dữ liệu, tác giả loại ra những công ty có đặc thù không phù hợp với mục tiêu nghiên cứu. Cuối cùng, nhóm tác giả thu được bảng dữ liệu là báo cáo tài chính đã được kiểm toán của 326 công ty cổ phần phi tài chính niêm yết trên sở giao dịch HNX và HOSE, được cung cấp bởi Tổng cục Thống kê Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2013-2017 với khoảng 1.630 quan sát.
Nợ của DN trên cơ sở khảo sát hoạt động tín dụng thương mại của DN gồm khoản phải thu khách hàng, phải trả nhà cung cấp và nợ ròng.
1.3.2. Khoản phải thu khách hàng
Tỷ lệ khoản phải thu khách hàng được xác định là tỷ lệ khoản phải thu khách hàng trên tổng tài sản của DN.
Bảng 1. Tỷ lệ khoản phải thu khách hàng của các DN
Nguồn: Tổng hợp số liệu khảo sát của nhóm tác giả
Qua bảng 1 ta thấy tỷ lệ khoản phải thu khách hàng trên tổng tài sản của các DN Việt Nam đang chiếm một tỷ lệ không nhỏ là 18,68%. Tuy nhiên, nếu so với nghiên cứu của García-Teruel and Martínez-Solano (2010) thì tỷ lệ khoản phải thu trên tổng tài sản của Việt Nam còn thấp so các nước khác, ví dụ như tỷ lệ này ở Tây Ban Nha là 39,28%, ở Hy Lạp là 36,55%, ở Pháp là 35,55%,… và thấp nhất là Phần Lan với tỷ lệ là 19,18%. Trong đó, ngành công nghệ là ngành có giá trị trung bình tỷ lệ khoản phải thu lớn nhất, chiếm 31,29% tổng tài sản. Điều này cho thấy, trong nền kinh tế hiện đại, công nghệ là một ngành đặc thù có tốc độ tăng trưởng cao, mức độ cạnh tranh trong ngành lớn, do đó buộc các DN phải mở rộng chính sách nợ nhằm thu hút khách hàng và mở rộng thị trường. Trong khi đó, hai ngành sử dụng chính sách nợ ít nhất là ngành các dịch vụ hạ tầng và ngành dịch vụ tiêu dùng với tỷ lệ khoản phải thu trên tài sản tương ứng là 11,55% và 12,86%.
Khoản phải trả người bán được xác định là tỷ lệ khoản phải trả người bán trên tổng tài sản (hay tổng nguồn vốn) của DN.
Bảng 2. Tỷ lệ khoản phải trả người bán của các DN
Nguồn: Tổng hợp số liệu khảo sát của nhóm tác giả
Trung bình khoản phải trả người bán toàn ngành chiếm 11,60% tổng nguồn vốn. Trong đó, ngành công nghệ là ngành có mức chiếm dụng vốn của nhà cung cấp lớn nhất, với tỷ lệ trung bình là 14,44% tổng nguồn vốn. Cá biệt trong ngành này có DN với tỷ lệ chiếm dụng vốn của nhà cung cấp lên tới 69,45% tổng nguồn vốn của DN. Đây cũng chính là ngành cấp nợ cho khách hàng nhiều nhất trong toàn ngành. Tuy nhiên, tỷ lệ chiếm dụng vốn của người bán ở các DN Việt Nam vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với các nước khác trên thế giới. Ví dụ như trong nghiên cứu của García-Teruel and Martínez-Solano (2010) thì tỷ lệ này ở Pháp là 28,52%, Bỉ là 27,00%, Hy Lạp là 26,70%,… trong đó, ít nhất là ở Phần Lan nhưng vẫn còn lớn hơn ở Việt Nam với tỷ lệ 13,17%. Tuy nhiên, có những ngành như y tế và hàng tiêu dùng sử dụng rất ít nguồn vốn này với tỷ lệ lần lượt là 9,39% và 9,62% tổng nguồn vốn.
1.3.3. Nợ ròng
Nợ ròng được xác định là chênh lệch giữa khoản phải thu và khoản phải trả trên tổng tài sản. Như vậy, nếu nợ ròng dương chứng tỏ DN đang bị khách hàng chiếm dụng vốn và nếu nợ ròng âm chứng tỏ DN đang chiếm dụng vốn của nhà cung cấp.
Bảng 3. Tỷ lệ nợ ròng của các DN
Nguồn: Tổng hợp số liệu khảo sát của nhóm tác giả
Nhìn chung ở Việt Nam, nợ ròng trong toàn ngành cũng như trong từng ngành đều dương, chứng tỏ hầu hết các DN đều cấp nợ cho khách hàng nhiều hơn là chiếm dụng vốn của người bán. Qua bảng 3 ta thấy nợ ròng trung bình toàn ngành là 7,08% tổng tài sản, có nghĩa là trong toàn ngành thì trung bình các DN đang cho khách hàng chiếm dụng vốn nhiều hơn là đi chiếm dụng vốn của nhà cung cấp. Riêng nhóm ngành các dịch vụ hạ tầng thì nợ ròng mang giá trị âm, tức là trung bình các DN trong ngành này chiếm dụng vốn của người bán nhiều hơn là cấp nợ cho khách hàng là 0,8% tổng tài sản. Nhưng với giá trị bé như vậy thì có thể thấy nhóm ngành các dịch vụ hạ tầng có tình hình công nợ phải thu và phải trả tương đối cân bằng nhất so với các nhóm ngành còn lại.
1.4. Đánh giá mức độ ảnh hưởng nợ của các DN
1.4.1. Vai trò của nợ đối với các DN tại Việt Nam
– Tăng nguồn vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh
Nhờ có nợ, các DN có thể tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh với thủ tục đơn giản và chi phí có thể thấp hơn so với đi vay ngân hàng, tùy thuộc vào mối quan hệ tín nhiệm giữa người bán và người mua. Như vậy, nợ giúp gia tăng nguồn vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.
– Tiết kiệm chi phí sử dụng vốn và chi phí lưu thông tiền tệ
– Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hóa
Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng DN này thừa vốn nhưng DN khác lại thiếu vốn thường xuyên diễn ra. Nhờ có vay nợ làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh được liên tục, không gián đoạn ngắt quãng khi DN bị thiếu tiền tạm thời, đồng thời nó giúp cho các DN khác tiêu thụ được hàng hóa. Điều này giúp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN.
– Khuyến khích sản xuất kinh doanh
Theo mẫu nghiên cứu, các DN Việt Nam trung bình đang chiếm dụng vốn của nhà cung cấp khoảng 11,60% tổng vốn kinh doanh. Số vốn này có thể tạo động lực khuyến khích các DN sản xuất kinh doanh và tạo ra nhiều cơ hội kiếm lời. Hơn nữa, các DN còn có khả năng được hưởng một khoản lợi từ chiết khấu nếu thanh toán sớm theo thời gian quy định. Bên cạnh đó, DN cung ứng nợ cũng bán được hàng để tiếp tục chu kỳ sản xuất kinh doanh mới, giảm chi phí bảo quản lưu kho và tạo động lực sản xuất kinh doanh.
1.4.2. Ảnh hưởng của nợ
– Ảnh hưởng đối với DN có nợ tồn đọng
áp lực của một DN có nợ tồn đọng là vô cùng to lớn do các khoản nợ sẽ tạo ra những chi phí không mong đợi, sẽ ăn mòn dần vốn của DN và có khả năng dẫn đến nguy cơ phá sản.
– Ảnh hưởng đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng
Nếu DN bị đối tác nợ nhiều thì sẽ có khả năng gia tăng nợ đối với các TCTD. Một tác động lớn đối với TCTD khi có nợ là làm giảm hiệu quả tín dụng và làm tăng chi phí cho TCTD. Nợ tăng cao có thể dẫn đến tình trạng thua lỗ và giảm lòng tin của người gửi tiền, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của TCTD.
– Ảnh hưởng đối với nền kinh tế
Mối quan hệ giữa ngân hàng – khách hàng – nền kinh tế là hết sức chặt chẽ. Nợ phát sinh do khách hàng, DN sản xuất kinh doanh (SXKD) kém hiệu quả sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế do vốn ứ đọng, SXKD đình trệ. Sự phá sản của DN, đặc biệt là hệ thống ngân hàng sẽ tạo ra một cú sốc lớn đối với cả nền kinh tế. Thất nghiệp, bất ổn về an ninh, mất nguồn thu từ thuế hay thiếu sản phẩm đều là các yếu tố làm giảm GDP, làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế so với các nước khác.
2. Thực trạng phát triển thị trường mua bán nợ của các DN Việt Nam
2.1. Thực trạng cơ sở pháp lý và cơ sở hạ tầng
– Thực trạng cơ sở pháp lý
Thị trường mua bán nợ tại Việt Nam chỉ mới bao gồm thị trường mua bán các loại trái phiếu sau khi đã phát hành và thị trường mua bán các khoản nợ khác giữa các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Hiện nay, chưa có văn bản pháp luật quy định về hoạt động mua bán các sản phẩm phức tạp hơn của thị trường mua bán nợ như các công cụ phái sinh tín dụng và chứng khoán hoá. Trên thực tế, các loại hàng hoá này cũng chưa xuất hiện trên thị trường mua bán nợ tại Việt Nam.
– Thực trạng cơ sở hạ tầng
Việt Nam chưa xây dựng được khung pháp lý đủ mạnh có tính răn đe trong việc yêu cầu các DN minh bạch trong cung cấp thông tin và cũng chưa có khung pháp lý trong việc bảo vệ nhà đầu tư.
2.2. Thực trạng cấu trúc thị trường mua bán nợ
Hình 1. Chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ ở Việt Nam
– Hàng hóa trên thị trường mua bán nợ: Bao gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu DN.
– Hình thức mua bán nợ: Bao gồm mua bán nợ thông qua đấu giá, mua bán nợ bằng cách thương lượng, đàm phán, mua bán nợ bằng trái phiếu đặc biệt, mua bán nợ theo giá trị thị trường, mua bán nợ theo chỉ định của cấp có thẩm quyền và mua bán nợ thông qua hoạt động mua bán sáp nhập (M&A).
2.3. Thực trạng các tổ chức hỗ trợ
– Bên môi giới, tư vấn và cung cấp dịch vụ sàn giao dịch nợ
– Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và thẩm định giá
Nghị định số 88/2014/NĐ-CP quy định về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm. Hơn nữa, theo Quyết định 517/QĐ-TTg ban hành ngày 17/4/2015 phê duyệt quy hoạch phát triển dịch vụ xếp hạng tín nhiệm đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ, việc phát hành trái phiếu DN sẽ phải qua xếp hạng tín nhiệm kể từ năm 2020. Ngoài ra, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 101/2005/NĐ-CP về thẩm định giá và Bộ Tài chính đã ban hành được bộ 12 tiêu chuẩn thẩm định giá.
Tuy nhiên, theo thống kê của ADB (2016), Việt Nam chưa có các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và định giá có uy tín. Điều này gây khó khăn trong việc định giá các khoản nợ và nợ xấu trong quá trình mua bán nợ, cũng làm hạn chế sự phát triển của thị trường trái phiếu DN do chưa có các “điểm chuẩn” (benchmark) nhất định để nhà đầu tư và DN phát hành trái phiếu xác định mức giá trái phiếu phù hợp.
2.4. Thực trạng các tổ chức quản lý, giám sát thị trường mua bán nợ của các TCTD ở Việt Nam
– Trách nhiệm của Bộ Tài chính
+ Chịu trách nhiệm trước Chính phủ về quản lý nhà nước đối với DN kinh doanh dịch vụ mua bán nợ.
+ Thực hiện quản lý, kiểm tra, thanh tra, giám sát theo thẩm quyền hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ.
– Trách nhiệm của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
+ Thực hiện kiểm tra, thanh tra việc chấp hành quy định của pháp luật về hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ trên địa bàn tỉnh, thành phố và xử lý vi phạm theo thẩm quyền đối với những hành vi vi phạm hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ.
+ Báo cáo Bộ Tài chính về tình hình kinh doanh dịch vụ mua bán nợ trên địa bàn tỉnh, thành phố theo định kỳ, đột xuất.
– Trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh
+ Tiếp nhận, xử lý hồ sơ đăng ký DN, đăng ký thay đổi nội dung Giấy chứng nhận đăng ký DN đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ.
+ Báo cáo ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về tình hình cấp, bổ sung Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ theo định kỳ, đột xuất.
– Trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước
Phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát theo thẩm quyền hoạt động kinh doanh dịch vụ mua bán nợ theo quy định của Nghị định 69/2016 đối với công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại.
3. Đánh giá chung về phát triển bền vững thị trường mua bán nợ DN ở Việt Nam
Khi nợ được coi là một loại hàng hóa và hoạt động mua bán nợ đã được đề cập tới trong các văn bản luật chính thức thì khái niệm “thị trường mua bán nợ” hoặc “thị trường mua bán nợ xấu” vẫn chưa được các văn bản luật của Việt Nam đề cập tới. Theo Nguyễn Thu Hương (2016), “Thị trường mua bán nợ xấu là nơi mua bán các khoản nợ xấu, hàng hóa giao dịch trên thị trường mua bán nợ xấu là các khoản nợ xấu dưới dạng tài sản nợ hoặc các khoản nợ xấu được chứng khoán hóa”.
PGS.TS Đào Văn Hùng từng nhận định ở Việt Nam hiện nay, thị trường nợ của doanh nghiệp vẫn chủ yếu là thị trường sơ cấp, tức là các khoản nợ đi từ Chủ nợ ban đầu tới tay các công ty mua nợ, đặc biệt là Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam (DATC) mà chưa có nhiều sự mua đi bán lại tại thị trường thứ cấp do sự hạn chế về đối tượng tham gia, sự phát triển của thị trường, các tổ chức định giá uy tín.
Phương thức mua bán nợ của DATC
Biểu đồ 1. Tổng hợp kết quả kinh doanh của DATC giai đoạn 2011- đầu 2017
Đvt: tỷ đồng
Quan điểm của DATC về tái cấu trúc thông qua mua bán nợ
Một trong những phương thức xử lý nợ xấu của DATC đó chính là tái cấu trúc toàn diện bao gồm 3 lĩnh vực để lập ra một kế hoạch kinh doanh tổng thế: (i) tái cấu trúc tài chính, (ii) tái cấu trúc hoạt động và (iii) tái cấu trúc quản trị và điều hành. Theo DATC: “tái cơ cấu DN khách nợ thông qua hoạt động mua bán nợ là việc DATC mua nợ từ các chủ nợ của DN, sau đó giúp DN xử lý các tồn tại yếu kém trong hoạt động sản xuất kinh doanh, làm cho DN có điều kiện để hoạt động và phát triển có hiệu quả, từ đó tạo nguồn trả nợ cho các chủ nợ”.
Các hình thức để xử lý bao gồm: tổ chức đòi nợ trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức tài chính trung gian; hoặc tiến hành bán nợ và tài sản tồn đọng bằng các hình thức thỏa thuận, đấu thầu, đấu giá; sử dụng nợ đã mua để góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh. Hoán đổi nợ thành vốn cổ phần để đảm bảo quyền sở hữu của Nhà nước và giảm đòn bẩy nợ của các doanh nghiệp, ngoài ra còn tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khi góp vốn vào DN.
Hình 1. Quy trình tái cấu trúc thông qua mua bán nợ của DATC
Xử lý nợ xấu DN thông qua tái cấu trúc của DATC là một quy trình phức tạp đòi hỏi sự tương tác ít nhất 3 bên DATC (bên Mua nợ), bên Chủ nợ và bên Khách nợ (công ty con nợ). Khi ấy, DATC cùng một lúc đóng 2 vai trò vừa là Chủ nợ mới của bên Khách nợ, vừa là cổ đông tiềm năng của DN đó. Hiện nay, DATC đã xây dựng bài bản, chi tiết quy trình tái cấu trúc thông qua mua bán nợ.
– ADB (2016), Báo cáo thường niên, ADB.
– Bộ Tài chính (2004), Thông tư 39/2004/TT-BTC của về việc hướng dẫn trình tự, thủ tục và xử lý tài chính đối với hoạt động mua, bán, bàn giao, tiếp nhận, xử lý nợ và tài sản tồn đọng của DN, ban hành ngày 11tháng 5 năm 2004.
– Chính phủ (2001), Nghị định số 32/2001/NĐ-CP Hướng dẫn chi tiết thi hành pháp lệnh thương phiếu, ban hành ngày 5 tháng 7 năm 2001.
– Chính phủ (2005), Nghị định số 101/2005/NĐ-CP về thẩm định giá, ban hành ngày 03 tháng 8 năm 2005
– Chính phủ (2014), Nghị định số 88/2014/NĐ-CP quy định về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm, ngày 26 tháng 09 năm 2014
– Chính phủ (2016), Nghị định số 69/2016/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ, ban hành ngày 1 tháng 7 năm 2016.
– García-Teruel, P. J. and Martínez-Solano, P. (2010), ‘Determinants of trade credit: A comparative study of European SMEs’, International Small Business Journal, số 28(3), tr. 215–233.
– Hoàng Trần Hậu và Vũ Sỹ Cường (2015), “Chuyên đề 24: Thị trường mua bán nợ– thực trạng và triển vọng phát triển ở Việt Nam”, truy cập ngày 7/12/2017, http://www.daotaomof.vn/bvct/chi-tiet/369/chuyen-de-24-thi-truong-mua-ban-no-thuc-trang-va-trien-vong-phat-trien-o-viet-nam.html.
– Nguyễn Thu Hương (2016), Luận án Tiến sĩ kinh tế Học viện Tài chính, “Phát triển thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam”.
– Thời báo Tài chính Việt Nam (2017), Chứng khoán hóa nợ xấu để phát triển thị trường mua bán nợ, truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019, từ http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/tien-te-bao-hiem/2017-11-29/chung-khoan-hoa-no-xau-de-phat-trien-thi-truong-mua-ban-no-50963.aspx
– Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 517/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch phát triển dịch vụ xếp hạng tín nhiệm đến 2020 và tầm nhìn đến 2030, ban hành ngày 17 tháng 04 năm 2015.
– Ủy ban thường vụ quốc hội (1999), Pháp lệnh số 17/1999/PL-UBTVQH10 về thương phiếu, ban hành ngày 24 tháng 12 năm 1999.
Bài đăng trên Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 16/2020
Nhiệm Vụ, Cơ Chế Hoạt Động Công Ty Mua Bán Nợ Việt Nam
Trong đó, DATC có chức năng, nhiệm vụ hỗ trợ tái cơ cấu, sắp xếp chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thông qua hoạt động tiếp nhận, mua, xử lý nợ và tài sản; mua, xử lý các khoản nợ và tài sản trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc: Bảo toàn và phát triển vốn nhà nước đầu tư tại DATC; ưu tiên tập trung nguồn lực của DATC để hỗ trợ tái cơ cấu, sắp xếp chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thông qua hoạt động tiếp nhận, mua, xử lý nợ và tài sản; tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động mua, bán, xử lý nợ và tài sản theo cơ chế thị trường.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cơ quan đại diện chủ sở hữu giao.
Ngành nghề kinh doanh chính của DATC là tiếp nhận, xử lý nợ và tài sản. Cụ thể, tiếp nhận nợ tài sản theo quy định của pháp luật về chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, bao gồm cả đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện cổ phần hóa theo quy định của Chính phủ để xử lý theo quy định tại Nghị định này.
Tiếp nhận theo chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, gồm: nợ phải thu và các tài sản (bao gồm cả các tài sản tồn đọng, các tài sản gắn với xử lý nợ theo quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ) để tiếp tục đầu tư khai thác hoặc xử lý, thu hồi vốn cho Nhà nước theo quy định tại Nghị định này.
Bên cạnh đó, DATC mua, xử lý nợ và tài sản gồm:
+ Quản lý, sử dụng chủ yếu nguồn lực tài chính của công ty để thực hiện mua, xử lý các khoản nợ và tài sản (bao gồm cả các dự án cần hỗ trợ xử lý nợ để tiếp tục đầu tư, khai thác) theo chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
+ Mua, xử lý các khoản nợ và tài sản của các tổ chức, cá nhân không trùng lắp với mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC).
Ngoài ra, ngành nghề kinh doanh chính của DATC là tái cơ cấu doanh nghiệp thông qua hoạt động mua, bán, xử lý nợ.
Nhà nước là chủ sở hữu của DATC. Chính phủ thống nhất thực hiện quyền, nghĩa vụ chủ sở hữu nhà nước đối với DATC. Bộ Tài chính thực hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước theo phân công, phân cấp của Chính phủ.
Hội đồng thành viên DATC thực hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với DATC theo quy định của pháp luật và Điều lệ của DATC.
Mua Bán Nợ Là Gì? Một Số Điều Kiện Đối Với Doanh Nghiệp Thực Hiện Hoạt Động Mua Bán Nợ ?
Thuật ngữ nợ chính phủ được sử dụng khá phổ biến trong các thống kê tài chính quốc gia và thống kê của các tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế hoặc Ngân hàng Thế giới. Trong thống kê của các tổ chức tài chính quốc tế, nợ chính phủ là tổng các khoản vay nợ trong và ngoài nước của chính phủ. Theo cách hiểu này, nợ chính phủ là số dư về nghĩa vụ trả nợ cả gốc và lãi tại một thời điểm đối với các khoản vay trong nước và vay nước ngoài của chính phủ.
Theo thông lệ quốc tế, nợ của ngân hàng trung ương không được xếp vào nợ của chính phủ mà được tổng hợp vào nợ của khu vực công. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước là một cơ quan của Chính phủ, nên các khoản vay nợ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được tổng hợp vào nợ của Chính phủ.
Ở nước ta, để thực hiện chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế, Chính phủ phải gắn một phần trách nhiệm của mình đối với một số khoản nợ của các chủ thể kinh tế khác, chẳng hạn của các tổ chức công, như Quỹ Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhà nước và nợ của khu vực tư có bảo lãnh của Chính phủ.
Nợ nước ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ nợ hiện hành (không bao gồm nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay nước ngoài của quốc gia. Nợ nước ngoài còn có thể định nghĩa là khoản vay của quốc gia đối với những chủ nợ cư trú ngoài phạm vi quốc gia (bao gồm cả những khoản nợ trong nước do người không cư trú tại quốc gia đó nắm giữ).
Đối với khoản nợ mà Chính phủ, các tổ chức trong nước vay Chính phủ, vay các tổ chức và cá nhân nước ngoài có thể được xác định khá chính xác. Đối với khoản nợ của các chủ nợ không cư trú ở nội địa thì rất khó tổng hợp đầy đủ và chính xác. Bởi vì các khoản nợ này có thể được thực hiện bằng đồng nội tệ hoặc ngoại tệ ngay trên thị trường nội địa, tiêu thức để xác định đó là khoản nợ nước ngoài dựa trên cơ sở chủ nợ là người cư trú ở nước ngoài. Vấn đề này thường được biết đến dưới một tên gọi khác là đầu tư gián tiếp của nước ngoài qua con đường phổ biến nhất là thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư nước ngoài mua trái phiếu chính phủ trên thị trường chứng khoán Việt Nam thì được tổng hợp vào khoản nợ nước ngoài của Việt Nam.
Để bảo đảm an toàn nợ của quốc gia và nợ của chính phủ, các nước thường sử dụng các tiêu chí sau đây làm giới hạn vay và trả nợ: Thứ nhất, giới hạn nợ quốc gia không vượt quá 50% – 60% GDP hoặc không vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu. Thứ hai, dịch vụ trả nợ quốc gia không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả nợ của chính phủ không vượt quá 10% chi ngân sách.
2 – Tác động của nợ chính phủ đến điều hành vĩ mô nền kinh tế
Có hai quan điểm chính về tác động của nợ chính phủ đến điều hành vĩ mô nền kinh tế như sau:
Quan điểm khác lại cho rằng, biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính phủ không kích thích chi tiêu ngay cả trong ngắn hạn, vì không làm tăng thu nhập thường xuyên của các cá nhân, mà nó chỉ làm dịch chuyển thuế từ hiện tại sang tương lai. Hai quan điểm nói trên tuy khác nhau nhưng cùng xuất phát từ hành vi của người tiêu dùng và do vậy khi áp dụng cần nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng.
Về hiệu suất của tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng kinh tế, trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, trong dài hạn, một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì: a) nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng trong nước giảm sút; b) nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì, trên góc độ nền kinh tế là một tổng thể, chính phủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thế nhưng tăng thuế có thể làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội. Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng công cụ nợ để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao.
Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng để kích cầu thì phát hành trái phiếu chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu để huy động người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền kinh tế cũng tăng.
Điều này tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu vực tư nhân, khiến họ giảm đầu tư… Tóm lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng tổng cầu, song mức tăng không lớn, vì những tác động phụ của nó lại làm giảm tổng cầu.
3 – Đánh giá về nợ chính phủ hiện nay ở Việt Nam
Tình hình vay nợ của Việt Nam hiện nay được Ủy ban Kinh tế Quốc hội (Tại phiên họp sáng ngày 2-10-2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tình hình kinh tế – xã hội năm 2009 và dự kiến kế hoạch phát triển năm 2010) đã chỉ ra 8 hạn chế, trong đó nhấn mạnh đến vấn đề nợ chính phủ tăng mạnh (năm 2008 chiếm khoảng 36,5% GDP; năm 2009 ước lên đến 40% GDP; năm 2010 dự kiến khoảng 44% GDP).
a – Liệu nợ công có bảo đảm trong ngưỡng an toàn? Phó Chủ nhiệm ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội, ông Trịnh Huy Quách cho biết, quan điểm về ngưỡng an toàn trong tỷ lệ nợ công so với GDP cũng khác nhau. Theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế, tỷ lệ hợp lý với trường hợp các nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP, nhưng trên thực tế, ở nhiều nước tỷ lệ này lên đến trên 80% GDP.
4 – Những vấn đề đặt ra khi hoạch định chính sách vay nợ và quản lý nợ chính phủ ở Việt Nam hiện nay
Theo chúng tôi, không phải vì vấn đề nợ chính phủ hiện nay chưa có gì đáng lo ngại, mà chủ quan trong việc vay và sử dụng kém hiệu quả. Vẫn còn nhiều ý kiến trong giới khoa học tỏ ra quan ngại về nguy cơ tiệm cận ngưỡng bất ổn. Trong thời điểm hiện tại, để có thể đánh giá một cách khoa học về tình hình nợ chính phủ hiện nay của Việt Nam nhằm đề ra những giải pháp đúng đắn và kịp thời bảo đảm nợ chính phủ ở mức an toàn, thiết nghĩ cần lưu ý đến những vấn đề sau:
Một là, về chính sách vay nợ và trả nợ của Chính phủ.
Để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước và mở rộng đầu tư phát triển kinh tế, nhiều nước trên thế giới đã có chính sách huy động vốn trong nước và vay nợ nước ngoài một cách triệt để và có hiệu quả, kể cả các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản và các nước đang phát triển như Trung Quốc, Xin-ga-po, Thái Lan, Phi-lip-pin… Khi hoạch định chính sách vay nợ, các nước đều chú ý đến những vấn đề sau:
– Căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, kế hoạch ngân sách nhà nước hằng năm, nhu cầu chi tiêu và đầu tư của nhà nước, yêu cầu và nhiệm vụ của nhà nước trong từng thời kỳ. Nhà nước dự kiến mức huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn hướng vào các đối tượng ở trong và ngoài nước bằng những hình thức huy động vốn thích hợp và có chính sách lãi suất căn cứ vào mặt bằng lãi suất thị trường. Chính sách vay nợ của nhà nước phải lành mạnh hóa nền tài chính tiền tệ quốc gia, góp phần ổn định giá trị đồng nội tệ; mở rộng các hoạt động đầu tư theo định hướng của nhà nước và nâng cao hiệu quả đầu tư; góp phần kiến tạo một thị trường tài chính năng động.
– Tiên lượng trước các vấn đề có thể nảy sinh khi tính toán nợ chính phủ. Đó là:
a) Lạm phát chi tiêu thâm hụt ngân sách. Khi tính toán nợ chính phủ thường không lượng hóa được ảnh hưởng của yếu tố lạm phát trong chi tiêu của chính phủ, chỉ tính các khoản trả lãi vay theo lãi suất danh nghĩa, nhưng đáng lẽ ra chỉ tiêu này chỉ nên tính theo lãi suất thực tế. Do lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân sách đã bị phóng đại. Trong những thời kỳ lạm phát ở mức cao và nợ chính phủ lớn thì ảnh hưởng của yếu tố này rất lớn;
b) Tài sản đầu tư. Nhiều nhà kinh tế cho rằng, khi tính toán nợ chính phủ cần phải trừ đi tổng giá trị của tài sản chính phủ. Thực ra điều này cũng đơn giản như khi xử lý tài sản của cá nhân. Khi một cá nhân vay tiền để mua nhà thì không thể tính anh ta đã thâm hụt ngân sách bằng số tiền đã vay, mà phải trừ đi giá trị của căn nhà. Tuy nhiên, khi tính toán theo phương pháp này thường gặp phải vấn đề là những gì nên coi là tài sản của chính phủ và tính toán giá trị của chúng như thế nào, ví dụ, đường quốc lộ, kho vũ khí hay chi tiêu cho giáo dục…;
c) Các khoản nợ tiềm tàng. Nhiều nhà kinh tế lập luận rằng tính toán nợ chính phủ đã bỏ qua các khoản nợ tiềm tàng như tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm xã hội, mà chính phủ sẽ phải chi trả cho người lao động hay các khoản mà chính phủ sẽ phải chi trả khi đứng ra bảo đảm cho các khoản vay của người có thu nhập thấp, mà trong tương lai họ có thể không có khả năng thanh toán…
Hai là, sớm hoàn thiện việc xây dựng và ban hành Luật Quản lý nợ công.
Hiện nay, dự thảo về Luật Quản lý nợ công đã được ban hành với 8 chương và 55 điều. Tuy nhiên, để nội dung của Luật được hoàn thiện, theo chúng tôi, cần làm rõ và bổ sung những nội dung sau:
– Về phạm vi điều chỉnh, để bảo đảm tính thống nhất và tính bao quát của Luật, nên đưa doanh nghiệp nhà nước thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này (Điều 1).
– Về tính cụ thể của dự án Luật, Dự thảo Luật còn nhiều quy định chung chung, mang tính luật khung, ví dụ như những quy định ở Điều 26, 27, 29, 33, 41, 46 và một số điều khác. Có khoảng 14 điều giao cho Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ quy định, mà lẽ ra chúng ta phải quy định rõ trong Luật để thực hiện.
– Về cơ quan quản lý nhà nước đối với việc vay và trả nợ, khoản 2, Điều 15 và Điều 29 của dự thảo Luật cần quy định rõ về cơ quan quản lý nhà nước đối với việc vay trả nợ của các doanh nghiệp, cơ quan có trách nhiệm điều hành hạn mức vay thương mại hằng năm của các doanh nghiệp. Nên tập trung đầu mối quản lý nợ công và có thể đổi mới từ chỗ Ngân hàng Nhà nước quản lý nợ của WB và ADB thành Bộ Tài chính quản lý toàn bộ kể cả vốn ODA, các khoản nợ vì như thế sẽ phù hợp với bối cảnh mới hiện nay.
– Về việc hoàn trả vốn vay, hiện chưa có quy định rõ về việc bàn giao nợ vay đối với các đối tượng vay nợ, đặc biệt ở chính quyền địa phương khi người quản lý hết nhiệm kỳ.
Ví dụ, những nguồn vốn vay được sử dụng kém hiệu quả, vỡ nợ thì liệu người kế nhiệm có dám nhận việc trả nợ này hay không? Vì vậy đề nghị đưa vào luật để quy trách nhiệm khoản nợ sẽ giao cho ai và được thực hiện như thế nào.
– Về các quy định nợ của chính quyền địa phương, hiện cũng chưa cụ thể, cần phải có quy định rõ hơn. Chẳng hạn, chính quyền địa phương không có khả năng trả nợ hoặc trả nợ chậm so với yêu cầu sẽ được xử lý như thế nào, xử lý chính quyền địa phương là xử lý ai? Chủ tịch tỉnh hay tập thể nào? Khi địa phương không có đủ khả năng trả nợ thì Chính phủ có bảo lãnh cho chính quyền địa phương hay không và bảo lãnh trong những điều kiện nào?
– Về quản lý nợ địa phương, cần nghiên cứu quy định về trường hợp chính quyền địa phương sử dụng nguồn vốn vay không hiệu quả. Ví dụ, do thiên tai hay những yếu tố nào đó gây ra làm cho họ không đủ khả năng để chi trả, thì Luật phải quy định như thế nào? hoặc nếu những địa phương làm mất cân đối, sử dụng vốn vay sai mục đích thì làm cách nào xử lý chính quyền địa phương này, Chính phủ có bảo lãnh hay không?
– Về quy định đối với vốn vay của nước ngoài, nếu theo Quy định tại Điều 43 Dự thảo Luật quy định đối với vốn vay của nước ngoài, thì đối với những địa phương nghèo, không có khả năng, có nguồn thu ngân sách yếu, thu không đủ chi sẽ rất khó có sức cạnh tranh với các tỉnh giàu để tranh thủ được nguồn vốn vay. Đồng thời, còn rất dễ xảy ra tiêu cực trong vấn đề “chạy dự án”, “chạy nguồn vốn đầu tư”, gây thiệt thòi cho các tỉnh nghèo, nhất là khi “năng lực ngoại giao” yếu. Điều này dễ làm cho tệ nạn “xin – cho” trỗi dậy.
– Về đối tượng bảo lãnh, đề nghị nên xem lại đối tượng bảo lãnh và nên có quy định hạn chế, trong trường hợp nào thì Nhà nước bảo lãnh, làm như vậy thì hiệu quả của việc vay nợ công sẽ tốt hơn. Về việc này, Quỹ Tích lũy của Bộ Tài chính có các số liệu rất đầy đủ. Trong thời gian vừa qua, Quỹ này đã trả nợ như thế nào, thay mặt các tổ chức trả nợ như thế nào, chúng ta khoanh vùng lại để làm sao hạn chế đối tượng được Nhà nước bảo lãnh.
– Về trách nhiệm của các cơ quan cho vay và người vay lại, đề nghị nên quy định rõ trách nhiệm của cơ quan cho vay lại tại Điều 29, khoản 4, điểm c để các cơ quan cho vay thấy rõ trách nhiệm và các nhiệm vụ buộc phải thực hiện. Đặc biệt là nhiệm vụ thẩm định năng lực, khả năng thực hiện và thanh toán của bên vay, nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra việc sử dụng nguồn vốn, các giải pháp khẩn cấp để thu hồi khoản cho vay. Đề nghị bổ sung một khoản tại Điều 52 để đưa việc quản lý, sử dụng vốn vay không có hiệu quả vào các hành vi vi phạm pháp luật, cụ thể là: Quản lý việc sử dụng vốn vay nợ không đúng quy định, thiếu trách nhiệm, để tổ chức sử dụng vốn vay sai mục đích, gây thất thoát, lãng phí nguồn vốn vay. Đồng thời, đề nghị quy định chi tiết hơn về trách nhiệm của tổ chức, cơ quan vay lại trong việc sử dụng vốn vay lại tại Điều 29 khoản 5, đặc biệt là trách nhiệm hoàn trả vốn vay của bên vay lại. Ngoài ra, cần thể hiện lại Điều 52, khoản 3 như sau: “không trả hoặc trì hoãn việc trả các khoản vay đến hạn mà không có lý do được bên cho vay chấp thuận”.
– Việc công bố công khai các thông tin về tình hình vay nợ. Dự thảo Luật hiện còn chung chung, chưa thể hiện rõ những vấn đề như thời gian công bố công khai, nội dung các thông tin công bố công khai gồm những vấn đề gì, chính quyền địa phương có phải công bố công khai tình hình vay nợ không? Để tránh tính hình thức, thì nên sửa Điều 50 theo hướng bổ sung quy định trách nhiệm của ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện công khai thông tin về nợ công của địa phương.
– Về công tác thanh tra, kiểm tra và hiệu quả của nguồn vốn, cần thận trọng khi quyết định thông qua luật này, bảo đảm cho việc vay nợ và trả nợ được nghiêm túc./.
Luật Minh Khuê (biên tập)
Luật Sư Tư Vấn Mua Bán, Sáp Nhập Doanh Nghiệp (M&Amp;A) Tại Việt Nam
Mua bán, sáp nhập trong ( Mergers & Acquisitions) là hoạt động giành quyền kiểm soát doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp thông qua việc sở hữu một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp đó. Hơn nữa, M&A còn được xem là con đường nhanh nhất để các doanh nghiệp nước ngoài thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Ngoài việc chính sách và pháp luật hiện hành của Việt Nam ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động góp vốn, mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài thì thị trường Việt Nam cũng được cho là một nơi có nhiều tiềm năng để các nhà đầu tư rót vốn vào và mở rộng quy mô kinh doanh.
Về cơ bản, có bốn phương thức để tiến hành M&A, đó là sáp nhập; hợp nhất hai hay nhiều công ty với nhau; mua lại một phần hoặc toàn bộ cổ phần của một công ty và mua lại một phần hoặc toàn bộ tài sản của một công ty. Tuy nhiên trên thực tế, không có một công thức chung hay một quy trình cụ thể nào cho việc tiến hành các vụ sáp nhập và mua lại doanh nghiệp ( M&A), nhưng các doanh nghiệp có thể tự chủ động chuẩn bị các điều kiện, tuân thủ các cách làm đúng hướng để hoàn tất một thương vụ M&A suôn sẻ và thành công.
Để có thể lựa chọn phương thức M&A phù hợp với mục tiêu của mình, các doanh nghiệp tham gia ( bên mua và bên bán) cần xem xét nhiều yếu tố, như xác định mục tiêu chiến lược và tiềm lực tài chính của bên mua hoặc doanh nghiệp thâu tóm; loại hình, quy mô, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp; triển vọng của thị trường; môi trường kinh doanh hiện tại, các rào cản và rủi ro tiềm ẩn nhằm chuẩn bị phương án giải trình, khắc phục trước khi tiến hành thương vụ M&A…
Trường hợp, nếu như bên bán hoặc doanh nghiệp bị thâu tóm có quy mô nhỏ và vừa, thì bên mua hoặc doanh nghiệp thâu tóm có thể mua lại toàn bộ cổ phần hoặc tài sản hiện có của bên bán. Đây là phương thức M&A thường gặp ở các thị trường mới, còn non trẻ, tính minh bạch còn chưa được cao. Còn trong trường hợp, nếu bên bán có quy mô lớn thì bên mua có thể thực hiện chiến thuật thâm nhập từng phần thông qua việc trở thành cổ đông, thành viên góp vốn hoặc đối tác chiến lược. Đây là một phương thức khá phổ biến mà các tập đoàn nước ngoài thường áp dụng đối với các tập đoàn, tổng công ty lớn của Việt Nam. Điều này còn phản ánh sự thận trọng, kỹ lưỡng của các nhà đầu tư nước ngoài đối với thị trường M&A tại Việt Nam, một thị trường tiềm năng, dồi dào, nhưng cũng còn không ít rủi ro về pháp lý.
Luật sư tư vấn mua bán, sáp nhập doanh nghiệp, giải pháp thành công cho một thương vụ M&A…
Đầu tiên, cần lựa chọn bên bán ( doanh nghiệp bị thâu tóm) phù hợp để tiến hành quy trình M&A. Sự phù hợp không chỉ về quy mô, lĩnh vực hoạt động, mà còn bao gồm cả sự tương đồng về văn hoá doanh nghiệp, cấu trúc quản lý, nhân sự,… Có như vậy, các bên mua ( doanh nghiệp thâu tóm) mới tìm được tiếng nói chung khi tiến hành quy trình M&A cũng như sẽ đem lại sự thành công cho doanh nghiệp cả hai bên thời kỳ hậu M&A;
Thứ hai là, phải xác định mục đích của M&A rõ ràng. Không ít trường hợp các bên tham gia M&A với những mục tiêu rất cụ thể như mở rộng thị trường trong thời gian ngắn, thâu tóm đối thủ hoặc các dự án đầu tư… Đó là những cái nhìn chưa chính xác và trọn vẹn về M&A. Khi một doanh nghiệp muốn thâu tóm một doanh nghiệp khác, việc này không nhằm hướng tới một mục đích cụ thể nào, mà đó chính là một công cụ hoặc một bước đệm để giúp cho các doanh nghiệp có thể đạt được những mục tiêu phát triển kinh doanh của mình;
Thứ ba là, cần phải xác định đúng giá trị của bên bán hoặc doanh nghiệp bị thâu tóm. Giá trị của doanh nghiệp không chỉ phản ánh qua bảng cân đối tài sản, mà còn bao gồm những giá trị tiềm năng như đội ngũ nhân sự, hay tính pháp lý của thương hiệu… Việc xác định đúng giá trị tiềm năng của bên bán ( doanh nghiệp bị thâu tóm) sẽ cho thấy giá trị của thương vụ M&A, tính khả thi và khả năng thành công về mặt tài chính;
Thứ tư là, phải nhận diện các rào cản và rủi ro tiềm ẩn thông qua quá trình thẩm định chi tiết. Mỗi thương vụ M&A đều có những rủi ro tiềm ẩn cả về tài chính, thương mại và tình trạng pháp lý. Do vậy, các doanh nghiệp tham gia cần nhận diện, lường trước những rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải trong quá trình tiến hành đàm phán, thực hiện và trong giai đoạn hậu M&A, từ đó đề ra những biện pháp khắc phục, những phương án phòng ngừa và xử lý kịp thời;
Tóm lại, các doanh nghiệp tham gia cần hoạch định một chiến lược kỹ lưỡng gồm các bước cụ thể cho từng thương vụ M&A, trong đó đề ra phương thức, lộ trình và phân công nhân sự thực hiện một cách rõ ràng. Sau khi được phê duyệt, thì các doanh nghiệp tham gia phải tổ chức triển khai thực hiện có bài bản và tuân thủ đúng chiến lược đã hoạch định.
Tin chắc rằng khách hàng được hưởng nhiều lợi ích từ nguồn kiến thức sâu rộng mà đội ngũ luật sư cao cấp của Chúng tôi tập trung vào. Tuỳ vào tình huống cụ thể mà Chúng tôi sẽ đưa ra các giải pháp mang tính thực tiễn cao nhất cho khách hàng. Quý khách hàng chưa rõ, cần hỗ trợ vui lòng liên hệ Công ty Luật TNHH Giải Pháp Việt.
Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Triển Bền Vững Thị Trường Mua Bán Nợ Doanh Nghiệp Tại Việt Nam: Góc Nhìn Từ Công Ty Tnhh Mua Bán Nợ trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!