Bạn đang xem bài viết Phát Triển Bền Vững Kinh Tế Tư Nhân Ở Việt Nam: Một Số Vấn Đề Đặt Ra Và Giải Pháp được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Thứ hai, 22 Tháng 6 2023 15:27
1189 Lượt xem
(LLCT) - Trong những năm qua, với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) theo hướng cởi mở, thông thoáng, nhất là từ khi có Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3-6-2023 “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, KTTN đã phát triển mạnh mẽ và đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết để kinh tế tư nhân phát triển bền vững và thực sự trở thành “động lực quan trọng” của nền kinh tế.
Từ khóa: kinh tế tư nhân, phát triển bền vững kinh tế tư nhân.
1. Thành tựu và một số vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay
Kinh tế tư nhân ở nước ta được xác định là loại hình kinh tế nằm ngoài kinh tế nhà nước (không tính kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài), gồm “kinh tế cá thể, tiểu chủ và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân”(1) dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Đến nay, loại hình KTTN ở Việt Nam khá đa dạng, từ doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tư nhân hoặc công ty cổ phần có vốn nhà nước dưới 50% (gọi chung là doanh nghiệp tư nhân – DNTN) và các hộ kinh doanh cá thể (phi nông nghiệp và nông, lâm, thủy sản).
Thứ nhất, số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh nhưng tỷ lệ ngừng hoạt động, giải thể nhiều
Mặc dù số lượng DNTN tăng nhanh qua các năm, chiếm tỷ trọng lớn (gần 97% tổng số doanh nghiệp của nền kinh tế) nhưng tỷ lệ phá sản và ngừng hoạt động cũng rất cao. Năm 2023, số DNTN đăng ký thành lập mới cao nhất trong 9 năm qua (138,1 nghìn doanh nghiệp), đồng thời số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh và giải thể, phá sản cũng khá cao: 28.700 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn (tăng 5,9% so với năm 2023); 43.700 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể (tăng 41,7%). Trong số 16.800 doanh nghiệp chính thức giải thể năm 2023 (tăng 3,2% so với năm 2023), có 15.200 doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm trên 90%; 212 doanh nghiệp có quy mô vốn trên 100 tỷ đồng, chiếm trên 1%(5). Như vậy, số doanh nghiệp giải thể, ngừng kinh doanh chiếm 64,59% tổng số doanh nghiệp thành lập mới. Thực tế này khiến các hộ kinh doanh cá thể thiếu động lực phát triển trở thành doanh nghiệp và mục tiêu một triệu doanh nghiệp năm 2023 và xa hơn là 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 khó thành hiện thực.
Thứ hai, thiếu “đầu tàu” dẫn dắt kinh tế tư nhân tham gia chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế
Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, DNTN chỉ có khoảng 1,7% có quy mô lớn, còn lại hơn 98% có quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ, trong đó các doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm 78,2%. Hầu hết các DNTN được hình thành sau thời gian tích lũy ngắn, dựa vào vốn tự có, ít được Nhà nước hỗ trợ và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực bất động sản, dịch vụ nên kinh nghiệm quản trị, mô hình phát triển, khả năng liên kết… còn nhiều hạn chế. Một số tập đoàn KTTN đã được hình thành, có quy mô khá lớn nhưng chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực tài chính, kinh doanh bất động sản, sản xuất hàng tiêu dùng. Đối với các hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp, quy mô vốn và lao động của các hộ này cũng rất thấp: 150,61 triệu đồng và 1,69 người(6). Vì vậy, KTTN nói chung, đặc biệt là DNTN Việt Nam thiếu vắng doanh nghiệp “đầu tàu” đủ mạnh dẫn dắt các doanh nghiệp tham gia chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế. Báo cáo triển vọng phát triển châu Á của Ngân hàng phát triển châu Á cho biết, mới có 21% DNTN của Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, thấp hơn so với Thái Lan (30%) và Malaysia (46%).
Thứ ba, hiệu quả hoạt động của kinh tế tư nhân chưa cao, năng suất lao động thấp nhất trong các khu vực kinh tế
Giai đoạn 2011-2023, bình quân năng suất lao động xã hội của DNTN chỉ bằng 28,59% doanh nghiệp nhà nước và 58,62% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2023, năng suất lao động của DNTN tăng lên và đạt 228,4 triệu đồng/lao động, bằng 33,68% doanh nghiệp nhà nước và 69% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài(7). Năng suất lao động của DNTN thấp đã ảnh hưởng đến năng suất lao động chung của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Tính cả hộ kinh doanh, năng suất lao động của khu vực KTTN còn thấp hơn nhiều, chỉ bằng 17% khu vực kinh tế nhà nước và bằng 14,42% khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Hiệu suất sinh lời của KTTN khá thấp. Bình quân giai đoạn 2011-2023, tỷ suất lợi nhuận trên tài sản của DNTN chỉ đạt gần 3,8%, thấp hơn mức chung của toàn bộ doanh nghiệp (gần 6%). Tương tự đối với tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (1,7% so với 3,8%) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn (1,23% so với 2,63%)(8). Tỷ suất sinh lời thấp ảnh hưởng đến khả năng tự tích lũy và mở rộng quy mô của khu vực KTTN.
Thứ tư, năng lực công nghệ, trình độ đội ngũ chủ doanh nghiệp và lao động của KTTN thấp
DNTN là loại hình tiên tiến nhất trong KTTN, song phần lớn các DNTN sử dụng công nghệ thấp, trong đó có 52% DNTN sử dụng thiết bị lạc hậu, 38% sử dụng thiết bị trung bình, chỉ có 10% sử dụng thiết bị tương đối hiện đại. Quy mô nhỏ, vốn ít nên hầu hết các DNTN chưa đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ lõi, công nghệ tiên phong, chưa quan tâm đến đổi mới sáng tạo. Đến nay, các DNTN Việt Nam chỉ dành từ 0,2%-0,3% doanh thu vào đổi mới công nghệ, trong khi đó các doanh nghiệp ở Ấn Độ dành 5%, Hàn Quốc 10%. Bên cạnh đó, trình độ đội ngũ chủ doanh nghiệp và lao động cũng rất thấp: trên 55% tổng số đội ngũ chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa có trình độ trung cấp trở xuống, trong đó, 43,3% trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông. Do đó, việc nắm bắt cơ hội cũng như thực hiện các cải cách đưa ra tầm nhìn đúng cho sự phát triển của DNTN còn hạn chế. Đội ngũ lao động trong khu vực KTTN có 75% chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật(9). Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể, lao động chủ yếu có trình độ phổ thông. Với những hạn chế này, mục tiêu thu hẹp khoảng cách công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng nhân lực và năng lực cạnh tranh của DNTN so với các nước ASEAN-4 khó thực hiện được.
Thứ năm, đóng góp của kinh tế tư nhân vào tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm và chủ yếu do khu vực phi chính thức
Mặc dù hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển KTTN từng bước được hoàn thiện; môi trường đầu tư, kinh doanh từng bước được cải thiện theo hướng thông thoáng, thuận lợi hơn, song đóng góp của KTTN vào tăng trưởng kinh tế của nước ta những năm gần đây có xu hướng giảm. Giai đoạn 2011-2023, tỷ trọng đóng góp của KTTN vào tăng trưởng kinh tế nước ta giảm, từ 39,89% năm 2011 xuống 38,25% năm 2023, giảm 1,64%. Bình quân cả giai đoạn này, KTTN đóng góp gần 39% vào tăng trưởng GDP, giảm trên 4% so với giai đoạn 2006-2010 (43% với 39%)(10). Trong đó, các DNTN chỉ đóng góp trên 8%, còn thành phần kinh tế nhỏ lẻ, phi chính thức (kinh tế cá thể) đóng góp trên 30% GDP. Điều này cho thấy, thể chế phát triển KTTN vẫn còn nhiều nút thắt, chưa tạo ra đột phá để khu vực kinh tế này phát triển, đồng thời, bản thân KTTN cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém nên chưa đóng góp tương xứng với tiềm năng, vị trí cũng như vai trò là động lực quan trọng của nền kinh tế.
Thứ sáu, việc vi phạm pháp luật và cạnh tranh không lành mạnh còn phổ biến, đại đa số DNTN chưa có thương hiệu. Tình trạng các cơ sở KTTN sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường diễn ra phổ biến. Theo số liệu của Cục Cảnh sát Môi trường, số vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất kinh doanh, trong đó chủ yếu là KTTN ngày càng gia tăng. Các năm 2011-2014 có 44.991 vụ, bình quân 11.247 vụ/năm, riêng năm 2023, có 13.929 vụ(11). Ngoài ra, tình trạng nhiều DNTN vì lợi nhuận bất chấp đạo đức kinh doanh, làm ăn chộp giật, gian lận thương mại, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế, vi phạm Luật Cạnh tranh còn phổ biến, ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh, cuộc sống người dân. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều DNTN không đảm bảo lợi ích của người lao động, có tới 50% doanh nghiệp chưa tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động và có rất nhiều doanh nghiệp nợ bảo hiểm với hàng nghìn tỷ đồng(12). Nhiều DNTN báo cáo tài chính không trung thực, nợ quá hạn ngân hàng, trốn và nợ thuế kéo dài, gây hậu quả xấu về kinh tế – xã hội và làm suy giảm lòng tin của người dân cũng như các cơ quan chức năng đối với KTTN.
2. Giải pháp phát triển bền vững kinh tế tư nhân trong thời gian tới
2.1. Nhóm giải pháp thuộc về khu vực kinh tế tư nhân
Một là, nâng cao năng lực quản trị của khu vực KTTN. Chủ DNTN, nhất là chủ các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ, các nhân sự cấp cao; chủ cơ sở kinh tế cá thể phải chủ động và tích cực trau dồi các kiến thức về kinh tế thị trường, quản trị doanh nghiệp, pháp luật trong kinh doanh, kiến thức về hội nhập; bám sát các định hướng của Đảng và Nhà nước, chủ động, nhạy bén nắm bắt cơ hội để xây dựng chiến lược kinh doanh và quản trị phù hợp với yêu cầu thị trường và nguồn lực hiện có, phòng tránh rủi ro pháp lý, liên kết sản xuất… Có như vậy, các loại hình KTTN mới có thể tồn tại, thích ứng và phát triển bền vững.
Hai là, chú trọng đầu tư đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao trình độ lao động. Đầu tư đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, qua đó, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh, năng lực cạnh tranh cho khu vực KTTN… Tuy nhiên, do đặc thù nên mỗi loại hình KTTN cần thực hiện những giải pháp khác nhau cho phù hợp:
Đối với các DNTN quy mô lớn và vừa: Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ công nghệ, nhất là công nghệ lõi, công nghệ cao vào sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, các doanh nghiệp phải tăng tỷ lệ đầu tư vào nghiên cứu và triển khai. Một mặt, các doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ và có lộ trình thích hợp thực hiện nghiên cứu và triển khai (có thể tự chủ hoặc liên doanh, liên kết với doanh nghiệp khác, tranh thủ cơ hội từ phía Nhà nước). Mặt khác, đẩy mạnh đổi mới công nghệ, hiện đại hóa trang thiết bị. Đồng thời, cần tập trung nâng cao trình độ đội ngũ lao động, nhất là đội ngũ lao động trực tiếp. Các doanh nghiệp cần đặt ra yêu cầu hay áp lực để người lao động tự học hoặc tham gia các khóa bồi dưỡng nâng cao trình độ; có cơ chế khuyến khích, thu hút cũng như tạo động lực để họ vươn lên học tập nâng cao trình độ tay nghề thông qua chế độ lương, thưởng, hoặc mời chuyên gia về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người lao động trong doanh nghiệp.
Đối với các DNTN quy mô nhỏ, siêu nhỏ: các doanh nghiệp này năng lực tài chính hạn chế, khó tiếp cận với các nguồn lực bên ngoài nên cần tập trung nâng cao năng lực chủ động tiếp nhận chuyển giao, đổi mới công nghệ như: nâng cao trình độ lao động, chủ động tiếp nhận công nghệ mới, công nghệ cao vào sản xuất.
Đối với các hộ kinh doanh: Nguồn lực tự có hạn chế và khó tiếp cận với các nguồn lực bên ngoài nên cần chú trọng ứng dụng tiến bộ công nghệ, hợp lý hóa quy trình sản xuất, kinh doanh.
Ba là, xây dựng văn hóa kinh doanh, xây dựng thương hiệu, coi trọng chữ tín với khách hàng. Khu vực KTTN, đại diện là DNTN, các hộ kinh doanh cá thể phải có ý thức xây dựng và thực hiện văn hóa kinh doanh, xây dựng thương hiệu thể hiện qua các hành động: kinh doanh trung thực, thực hiện trách nhiệm xã hội, bảo đảm lợi ích cho người lao động, người tiêu dùng; chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm… Thực hiện nhất quán và tốt các biện pháp này sẽ giữ vững chữ tín đối với Nhà nước, cộng đồng, khách hàng, cổ đông và người lao động; tạo niềm tin cho đối tác…
2.2. Nhóm giải pháp thuộc về Nhà nước
- Quyết liệt triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết 10-NQ/TW Hội nghị Trung ương 5 khóa XII.
Tập trung xóa bỏ những rào cản, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho KTTN phát triển. Các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh thực hiện chính phủ điện tử, tiếp tục rà soát, bãi bỏ các điều kiện kinh doanh không còn phù hợp. Hỗ trợ giáo dục và đào tạo để nâng cao trình độ văn hóa, kiến thức kinh doanh cũng như năng lực quản lý của chủ doanh nghiệp, người lao động trong khu vực KTTN.
Nhà nước cần có cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập DNTN như: thu hẹp các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, giảm và đi đến xóa bỏ các giấy phép con. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động, tự nguyện chuyển đổi sang hoạt động kinh doanh theo mô hình doanh nghiệp.
Bảo đảm thực thi các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, phong trào khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Tạo môi trường, điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa này “lớn” nhanh. Đồng thời, tạo tiền đề hình thành các DNTN quy mô lớn, các tập đoàn kinh tế KTTN sở hữu hỗn hợp có tiềm lực vững mạnh, đủ sức cạnh tranh, tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp chế biến, chế tạo, điện tử.
– Tạo cơ hội và điều kiện cho KTTN khai thác, sử dụng nguồn lực quốc gia vào phát triển kinh tế.
Thực hiện quyết liệt chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng dịch chuyển từ phát triển các lĩnh vực khai thác tài nguyên, bất động sản,… sang các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ mà Việt Nam có thế mạnh. Cần tạo điều kiện cho KTTN tham gia vào quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, được hưởng các ưu đãi về lãi suất, vay vốn, đào tạo, thuê mặt bằng, thủ tục hành chính khi tham gia vào những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới.
Đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đang thực hiện chức năng “kinh doanh”. Việc cổ phần hóa, thoái vốn sẽ tạo cơ hội để KTTN khai thác, sử dụng các nguồn lực thoái lui từ khu vực kinh tế nhà nước (ngành, lĩnh vực kinh doanh, vốn, tài nguyên, nhân lực, thị trường, v.v.), từ đó, thay thế doanh nghiệp nhà nước đầu tư vào những ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm.
Phát triển kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực để nâng cao tính sẵn sàng về công nghệ cho khu vực KTTN. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng xương sống phục vụ phát triển kinh tế, như: mạng thông tin, internet, giao thông; xây dựng các trung tâm kiểm dịch, hệ thống hỗ trợ xây dựng thương hiệu và cấp chứng chỉ sản phẩm cho KTTN. Bên cạnh đó, đổi mới căn bản hệ thống giáo dục và đào tạo, gắn giáo dục – đào tạo với nhu cầu thị trường, đặc biệt chú trọng đào tạo nghề và đào tạo nhân tài.
– Công khai, minh bạch, công bằng về cơ hội, điều kiện đối với KTTN trong tiếp cận các nguồn lực (ngành, lĩnh vực kinh doanh, vốn, đất đai, tài nguyên, thị trường, các dự án, nhân lực, v.v..). Tăng tính liêm chính trong quản lý nhà nước và trong thực thi chính sách. Tăng cường giám sát và có chế tài nghiêm khắc để bảo đảm cơ hội, điều kiện đối với KTTN trong tiếp cận, sử dụng các nguồn lực và trong thực thi chính sách để phát triển bền vững KTTN và để KTTN trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế.
- Tăng cường hiệu quả công tác quản lý, kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với việc thực thi chủ trương, chính sách phát triển KTTN cũng như đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Qua đó, kịp thời phát hiện những cơ chế, chính sách, giải pháp phục vụ phát triển khu vực KTTN chưa phù hợp để điều chỉnh, nhân rộng những cơ chế, chính sách hợp lý. Kịp thời xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của KTTN.
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 3-2023
(1) Nghị quyết số: 14-NQ/TW ngày 18-3-2002 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân.
(2) Tính toán từ số liệu của Cục Đăng ký kinh doanh, các năm 2023-2023.
(3) Tổng cục Thống kê các năm 2011-2023; Cục Đăng ký kinh doanh 2023.
(4) Ban Kinh tế Trung ương (2023): Diễn đàn kinh tế tư nhân Việt Nam.
(5) Tổng cục Thống kê: Tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2023.
(6) Tổng cục Thống kê: Kết quả tổng điều tra kinh tế năm 2023, Nxb Thống kê 2023, tr.29.
(7) Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2023): Hội nghị “Cải thiện năng suất lao động quốc gia”.
(8) Tổng cục Thống kê.
(9) Vinh Chi: Doanh nghiệp lớn của Việt Nam chỉ ngang bằng doanh nghiệp nhỏ của Philippines, https://vietnamfinance.vn, ngày 23-12-2023.
(10) Tính toán từ số liệu Tổng cục Thống kê các năm.
(11) Kinh tế 2023-2023 Việt Nam và Thế giới, tr.118.
(12) Doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội: Khó xử lý – vì sao?, http: chúng tôi ngày 21-11-2023.
TS Nguyễn Thị Miền
Viện Kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Phát Triển Bền Vững Về Kinh Tế Ở Việt Nam
(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển bền vững là khái niệm không chỉ bao gồm phát triển kinh tế mà trong các quan niệm về phát triển bền vững, phát triển kinh tế là nội dung được nhắc đến như một yếu tố gây ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến quá trình phát triển. Phát triển kinh tế tác động đến xã hội trên mọi chiều cạnh, cả tích cực lẫn tiêu cực. Phát triển kinh tế bền vững
Phát triển kinh tế bền vững (PTKTBV) được hiểu là sự tăng tiến nhanh, an toàn và có chất lượng về mọi mặt của nền kinh tế (như quy mô sản lượng, sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế,…). Quá trình phát triển này đòi hỏi các chủ thể trong hệ thống kinh tế có cơ hội tiếp cận các nguồn lực và chia sẻ nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bình đẳng. Các chính sách không chỉ tập trung mang lại lợi ích cho một số ít mà phải tạo ra sự thịnh vượng cho tất cả mọi người; đồng thời, bảo đảm trong một giới hạn cho phép của hệ sinh thái, không xâm phạm những quyền cơ bản của con người.
Yêu cầu đặt ra đối với một nền kinh tế bền vững là: (1) Nền kinh tế có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có thu nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể được xem có biểu hiện phát triển bền vững về kinh tế; (2) Cơ cấu GDP cũng là tiêu chí đánh giá phát triển bền vững về kinh tế và chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt được bền vững; (3) Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá.
Chỉ tiêu để đánh giá tăng trưởng bền vững về kinh tế gồm:
– Mức độ đạt được hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cao và ổn định;
– Năng suất lao động xã hội cao, dựa trên nguồn lực lao động có thể lực và năng lực làm việc tốt;
– Mức giảm tiêu hao năng lượng để sản xuất ra một đơn vị GDP thấp;
– Chỉ số giá tiêu dùng trong tiêu chuẩn cho phép luôn ổn định;
– Cán cân vãng lai thặng dư ổn định.
Tại Việt Nam, định hướng mục tiêu PTKTBV giai đoạn 2023 – 2023 là:
– Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 – 7%/năm. Đến năm 2023 GDP bình quân đầu người đạt khoảng 3.200 – 3.500 USD.
– Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP trên 85%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 – 34% GDP.
– Bội chi ngân sách nhà nước không quá 4% GDP.
– Yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 25 – 30%.
– Năng suất lao động xã hội bình quân tăng 4 – 5%/năm.
– Tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm từ 1 – 1,5%/năm. Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2023 đạt từ 38 – 40%.
Thực trạng phát triển kinh tế của Việt NamĐánh giá theo các tiêu chí và định hướng mục tiêu PTKTBV giai đoạn 2023 – 2023 tại Việt Nam, có nhiều chỉ số cho thấy, Việt Nam cơ bản đã đạt được như về tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cũng như kiểm soát ngày càng tốt hơn về nợ công…
Trong Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) giữa kỳ năm 2023, Chính phủ Việt Nam cũng nhận định, tình hình quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến không thuận lợi, nhưng kinh tế Việt Nam vẫn duy trì đà tăng trưởng tích cực, là một trong những điểm sáng về tăng trưởng trong khu vực và thế giới. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập cao nhất trong 5 năm qua, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện và nhiều chỉ số của Việt Nam tăng mạnh, như chỉ số đổi mới sáng tạo.
Việt Nam tiếp tục khẳng định “phát triển nhanh và bền vững là chủ trương, quan điểm nhất quán và xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam”. Bên cạnh ưu tiên phát triển nhanh nhằm tránh tụt hậu, giảm khoảng cách thu nhập giữa Việt Nam và các nước đang phát triển trong khu vực là phải phát triển bền vững.
Xét về chỉ tiêu giám sát, đánh giá PTKTBV, cùng với việc đạt được những thành tựu về tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực, song vẫn tồn tại những bất cập cho quá trình phát triển kinh tế, nhất là tạo ra những quan ngại cho PTKTBV do chịu tác động bởi nhiều yếu tố mà điển hình như năng suất, năng lực cạnh tranh, năng lực sáng tạo và các chính sách, quy định về đầu tư, kinh doanh.
– Về chất lượng tăng trưởng: chưa có sự thống nhất giữa quy mô phát triển với chất lượng tăng trưởng. Mặc dù tăng trưởng cao nhưng nền kinh tế còn dựa nhiều vào vốn đầu tư nước ngoài và thiếu tính bền vững. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) thực chất chưa tính đúng, tính đủ những chi phí đi kèm trong quá trình sản xuất – kinh doanh và tăng trưởng. Nền kinh tế xanh (GDP xanh) chưa được sử dụng trong đo lường phát triển.
Nhiều doanh nghiệp đóng thuế thu nhập trong nhiều năm không đủ bù đắp để xử lý vấn đề môi trường họ gây ra trong 1 năm. Mỗi năm, Việt Nam thiệt hại do ô nhiễm môi trường tương đương với 5% GDP, trong khi con số này của Trung Quốc là 10%. Tuy nhiên, nếu ô nhiễm môi trường theo đà tăng tiến như hiện nay, Việt Nam có thể vượt qua Trung Quốc về ô nhiễm1. Bên cạnh đó, còn nhiều dự án đầu tư triển khai cầm chừng trong nhiều năm chưa đi vào hoạt động.
Ngoài ra, trong toàn nền kinh tế, còn có nhiều dự án lớn khác đã và đang góp phần làm tăng GDP mà không thúc đẩy quá trình phát triển. Về nguyên lý, cứ có hoạt động chi tiền cho đầu tư, dù dự án hoàn thành hay chưa đều tính vào GDP hằng năm, do đó đã làm cho quy mô GDP liên tục tăng cao, năm sau cao hơn năm trước. Điều này tạo ra khoảng cách giữa con số tăng trưởng với sự phát triển thực tế ngày càng lớn.
– Vấn đề quản lý nợ công: đây là vấn đề phổ biến ở các quốc gia do chi tiêu chính phủ vượt quá nguồn thu từ thuế. Trong chỉ tiêu đánh giá PTKTBV, chỉ số nợ công là yếu tố quan trọng. Theo đó, nợ công cần được chính phủ kiểm soát, bảo đảm ngưỡng an toàn để ổn định, phát triển kinh tế.
Các chỉ số đánh giá mức độ an toàn nợ công bao gồm:
+ Chỉ số nợ nước ngoài/GDP mặc dù vẫn nằm trong giới hạn an toàn (với mức tin cậy là 95%) thì khi nợ nước ngoài tăng thêm đồng nghĩa mức tăng trưởng GDP sẽ bị sụt giảm. Vấn đề cần phải chú ý là ngưỡng nợ công so với GDP nhằm đánh giá đúng sức chịu đựng của một nền kinh tế. Khi Nhà nước vay nợ để đầu tư phát triển, có nghĩa là, khu vực đầu tư nước ngoài sẽ có đóng góp vào quy mô GDP hằng năm và do đó, nên thận trọng trong việc đưa ra ngưỡng an toàn và phải có sự kết hợp chặt chẽ với kiểm soát chỉ tiêu nợ Chính phủ/GDP.
+ Chỉ số nợ Chính phủ/GDP trong các hạng mục đầu tư công, đầu tư từ ngân sách nhà nước luôn chiếm tỷ trọng cao, dẫn đến nợ Chính phủ/GDP luôn khá cao (bắt đầu từ năm 2023, tỷ lệ nợ Chính phủ/GDP luôn trên 50% GDP). Và mặc dù được đánh giá là thấp hơn “ngưỡng” nợ Chính phủ/GDP quy định nhưng vẫn phản ánh quy mô nợ Chính phủ quá lớn và tốc độ tăng nhanh.
+ Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ/thu ngân sách: tại Việt Nam, các áp lực trả nợ gia tăng nhanh từ sau năm 2012. Đối chiếu với quy định thì ngưỡng an toàn của chỉ tiêu này không được tuân thủ từ sau năm 2013 (luôn vượt ngưỡng 25%). Và khi một quốc gia bị thâm hụt ngân sách sẽ trở thành nước nhập khẩu ròng hàng hóa, dịch vụ và xuất khẩu ròng tài sản, kết quả là lượng tài sản trong nước được người nước ngoài nắm giữ sẽ ngày càng nhiều hơn 2. Thâm hụt ngân sách sẽ tác động đến khu vực tư nhân, khiến giảm lượng cung vốn ở khu vực tư nhân, tạo nguy cơ tăng lãi suất nội tệ. Nếu lãi suất nội tệ tăng sẽ thu hút dòng vốn quốc tế chảy vào, dẫn tới áp lực tăng giá nội tệ. Nhưng khi đồng nội tệ lên giá lại gây trở ngại cho hoạt động xuất khẩu trong nước.
Cũng cần thấy rằng, cán cân thương mại của Việt Nam những năm gần đây chủ yếu đo lường các hoạt động xuất, nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI với trọng số chiếm xấp xỉ 75%. Vì vậy, các hoạt động chi tiêu công của Chính phủ tác động không rõ ràng tới tình trạng của cán cân thương mại trong nước do các doanh nghiệp FDI hoạt động có tính chất độc lập tương đối. Đây chính là lý do giải thích tại sao thâm hụt ngân sách mang tính chất thường trực tại Việt Nam, nhưng cán cân vãng lai vẫn có sự cải thiện theo chiều hướng tích cực.
– Về năng suất lao động xã hội.
Báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho thấy, mặc dù tăng trưởng năng suất lao động đã phục hồi và tăng nhanh trong những năm gần đây, nhưng năng suất lao động của Việt Nam vẫn còn ở mức thấp so với nhiều nước ASEAN do quy mô nền kinh tế nhỏ, xuất phát điểm thấp, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực nhưng còn chậm. Do đó, để tăng trưởng GDP theo hướng tăng năng suất lao động tuy là thách thức lớn, nhưng là cần thiết để tạo ra tăng trưởng cao, bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Đặc biệt, trong bối cảnh tự do hóa thương mại và Cách mạng công nghiệp 4.0 ngày càng phát triển, vừa là cơ hội để các nước phát triển kinh tế, nhưng cũng có thể đưa đến nguy cơ làm cho một quốc gia dễ “bị bỏ lại xa hơn” các quốc gia trên thế giới nếu không có định hướng phát triển đúng và giải pháp hiệu quả. Do đó, để thúc đẩy tăng trưởng, cần phải quan tâm đến việc cải thiện năng suất lao động 3.
– Về quản lý và sử dụng tài nguyên: công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên tại Việt Nam còn nhiều yếu kém, sử dụng chưa hiệu quả, nhất là tài nguyên đất đai, tài nguyên nước, một số loại tài nguyên bị lạm dụng, khai thác quá mức dẫn đến suy thoái, cạn kiệt. Ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, nhất là tại các khu đô thị, thành phố lớn, ảnh hưởng lớn tới đời sống, sinh hoạt của người dân, trở thành vấn đề bức xúc của xã hội.
Bên cạnh đó, vẫn còn tình trạng thu hút đầu tư thiếu chọn lọc, không cân nhắc, xem xét các yếu tố, tiêu chí về môi trường. Việc triển khai nghiên cứu và ứng dụng khoa học – công nghệ gắn với yêu cầu ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường còn chậm. Công tác thanh tra, kiểm tra thực thi pháp luật về tài nguyên, bảo vệ môi trường chưa đáp ứng yêu cầu4.
Bên cạnh khai khoáng, công tác quản lý, sử dụng đất đai cũng còn nhiều yếu kém, gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế. Chính sách nhà đầu tư chiến lược tạo bất bình đẳng trong tiếp cận đất đai, tài nguyên, làm cho việc xác định giá quyền sử dụng đất không được tính đúng, tính đủ. Sự ưu tiên cho nhà đầu tư chiến lược, làm cho quyền sử dụng đất không được định giá theo thị trường, gây thất thu cho ngân sách nhà nước.
Mặt khác, các tập đoàn kinh tế lớn không chỉ hưởng lợi chủ yếu do cơ chế phân bổ nguồn lực bất bình đẳng mà còn chỉ tập trung vào khai thác, kinh doanh bất động sản, không phát triển bằng sản xuất – kinh doanh. Về nguyên lý, phát triển ngân sách bền vững là ngân sách dựa vào doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh chứ không phải khai thác tài nguyên để bán.
– Về quản lý đầu tư: vấn đề của Việt Nam hiện nay là cải thiện chất lượng và hiệu quả đầu tư nói chung, trong đó có đầu tư của ngân sách nhà nước. Điều đáng lưu ý là tình trạng thất thoát lãng phí trong đầu tư công vẫn phức tạp. Một số quá trình phân bổ vốn đầu tư chưa thực hiện đúng các quy định như: phân bổ vốn cho dự án không đáp ứng các nguyên tắc, tiêu chí và phân bổ vốn còn dàn trải, thời gian phân bổ kéo dài so với quy định.
Tình trạng nợ đọng trong xây dựng cơ bản còn chưa được xử lý triệt để. Nhiều dự án dở dang hoặc thời gian thi công kéo dài, chậm tiến độ, tăng tổng mức đầu tư gây lãng phí và thất thoát nguồn lực. Trong khi hệ thống thông tin theo dõi, giám sát các dự án đầu tư công tồn tại nhiều hạn chế. Một số bộ, ngành, địa phương chưa thực hiện nghiêm túc, đầy đủ chế độ báo cáo theo quy định pháp luật.
Ngoài ra, quản trị doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam vẫn còn khoảng cách khá xa so với thông lệ quốc tế. Điều đó cũng tạo ra những bất cập trong điều hành quản lý và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
– Chính sách thị trường: Nhà nước đã có những quy định về mở rộng, phát triển thị trường, nhưng thị trường đầu ra cho các sản phẩm sản xuất trong nước vẫn không ổn định. Tình trạng được mùa mất giá, thậm chí không bán được khá phổ biến và diễn ra nhiều năm liên tục. Thực tế, chính sách thị trường còn yếu kém, lệ thuộc nhiều vào một số thị trường, gây ảnh hưởng đến sản xuất – kinh doanh trong nước, như vấn đề nông sản và sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Thiếu các nhà máy chế biến để nâng cao giá trị nông sản. Sản phẩm sản xuất ra có tính cạnh tranh thấp, khó tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế nhanh và bền vữngMột là, cần chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, làm rõ những vấn đề lý thuyết kinh tế để cắt nghĩa rõ ràng và chỉ dẫn cụ thể cho quá trình quản lý kinh tế. Áp dụng các hình thức đo lường GDP thông qua tính toán đầy đủ lợi ích, chi phí, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Xây dựng và thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh. Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo để bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Đẩy mạnh áp dụng rộng rãi sản xuất sạch hơn để nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên quốc gia. Quá trình phát triển kinh tế phải kết hợp giữa quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Phát triển bền vững các vùng và địa phương cần tập trung ưu tiên phát triển trước các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời chú ý tới vùng kém phát triển và có điều kiện khó khăn hơn nhằm tạo ra sự phát triển cân đối.
Hai là, nâng cao chất lượng tăng trưởng, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các chính sách tài chính, tiền tệ. Đồng thời, tiếp tục duy trì các chính sách tăng cường thu hút FDI để ngăn chặn tác động tiêu cực từ hiệu ứng “thâm hụt kép” gây ra cho nền kinh tế do cân đối ngân sách chưa có chiều hướng cải thiện tích cực.
Ba là, thiết lập môi trường đầu tư kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, chọn lọc các nhân tố tốt cho nền kinh tế với những nhà đầu tư, kinh doanh hiệu quả, sa thải những tổ chức kinh doanh yếu kém. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư công năm 2014 để tăng cường cơ chế, chính sách quản lý đầu tư công trong cơ chế thị trường, làm rõ mục tiêu và các nguyên tắc quản lý đầu tư công, phân cấp quản lý trong đầu tư công, chính sách công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý đầu tư công, đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội trong đầu tư công… Chính sách đầu tư công cũng cần phải khắc phục những vướng mắc trong quá trình triển khai Luật Đầu tư công, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tháo gỡ những khó khăn cho các bộ, ngành và địa phương…
Tổ chức thực thi chính sách phải bảo đảm công bằng trong tiếp cận các nguồn lực và phát triển, tạo động lực sản xuất – kinh doanh. Tăng cường sự tham gia giám sát của người dân vào quản lý tài nguyên, môi trường và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong một nền kinh tế mà thị trường còn non trẻ, với nhiều quan hệ kinh tế mới phát sinh bên cạnh những chính sách lạc hậu, bất cập, cần rà soát xóa bỏ những rào cản gia nhập thị trường, bổ sung các chính sách hỗ trợ những ngành công nghiệp non trẻ. Tháo gỡ vướng mắc, khuyến khích đầu tư, nhất là đầu tư hạ tầng kinh tế – xã hội và phát triển sản xuất – kinh doanh, giảm chi phí, nâng cao năng suất lao động, chất lượng các sản phẩm. Thông qua chính sách thuế và các đòn bẩy kinh tế, khuyến khích xuất khẩu, giảm nhập siêu, bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa thiết yếu phục vụ sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, tiếp tục các chính sách tạo việc làm, giảm nghèo.
Để có nguồn thu ngân sách nhà nước bền vững và một nền kinh tế có vốn đầu tư mạnh, không lệ thuộc, cần tập trung vào phát triển khu vực tư nhân, đặc biệt cần ưu tiên , tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp tư nhân bản địa. Chính sách nên chuyển từ ưu tiên các doanh nghiệp là công ty đa quốc gia sang các doanh nghiệp nhỏ và vừa bản địa. Cho phép khu vực tư nhân chiếm tỷ trọng lớn hơn trong sản lượng quốc gia và các doanh nghiệp này cần trở thành lực lượng đóng vai trò lớn trong quá trình sản xuất. Bên cạnh đó, phát triển và hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa nội địa mở rộng thị trường quốc tế.
Năm là, nghiên cứu, đánh giá và có chính sách cụ thể cho phát triển nguồn nhân lực xã hội. Tổ chức đào tạo, nâng cao năng lực nghề nghiệp, văn hóa tổ chức, tác phong và kỷ luật lao động cho người lao động. Đồng thời, phải chú trọng đến phát triển thể chất và tinh thần cho người dân trong xã hội, xây dựng lại chính sách lương, thưởng và chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần, tạo động lực cho con người, tác động tích cực cho sự phát triển kinh tế, xã hội ổn định, lâu dài.
Sáu là, đầu tư cho phát triển khoa học – công nghệ trong nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu các lĩnh vực ngành nghề trong nội hàm của “nền kinh tế xanh”, như: sử dụng năng lượng tái tạo, công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên, tiêu hao ít năng lượng; định hướng lại đầu tư, hướng tới mức đầu tư khoảng 2% tổng chi ngân sách hằng năm cho khôi phục hệ sinh thái và bảo vệ môi trường. Dành nguồn lực để đầu tư phát triển mạnh doanh nghiệp khoa học – công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý khoa học và tranh thủ khai thác, ứng dụng công nghệ từ các quốc gia phát triển…
Tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạch định chính sách và tạo dựng “nền kinh tế xanh” ở Việt Nam, huy động các nguồn lực hỗ trợ của quốc tế, nhất là nguồn vốn đầu tư 2% GDP toàn cầu cho phát triển “kinh tế xanh”. Chú ý thiết lập các cơ chế tài chính cho phát triển rừng, biển… Tạo căn cứ pháp lý và điều kiện thuận lợi để Việt Nam cam kết và tham gia tích cực vào các hoạt động của các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, xây dựng nền sản xuất cacbon thấp, kiểm soát khí thải, bảo vệ tầng ô-zôn, đa dạng sinh học trên phạm vi khu vực và toàn cầu.
1. 80 Khu Công nghiệp Việt Nam vi phạm môi trường. https://tuoitre.vn, ngày 20/11/2023. 2. Kiểm soát chặt chẽ nợ công. http://dangcongsan.vn, ngày 30/9/2023. 3. Năng suất lao động Việt Nam thua Singapore, Malaysia, Thailan. https//vietnamnet.vn, ngày 06/8/2023. 4. Kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. http://nhandan.com.vn, ngày 29/8/2023.Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế Tư Nhân Ở Việt Nam
I.Lời mở đầu Kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân) là sản phẩm của công cuộc đổi mới, ngày càng lớn mạnh và có vị thế mới trong nền kinh tế, đang phát huy tác dụng tích cực trong sự nghiệp phát triển đất nước cùng với đà phát triển của công cuộc đổi mới. Đó cũng là một đặc điểm nổi bật trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Vai trò của thành phần kinh tế tư nhân đã được khẳng định là quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Đây là một bước phát triển mới về nhận thức lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn. Kinh tế tư nhân có vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Ngay ở các nước phát triển, sự đóng góp của kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng khá lớn trong nền kinh tế. II.Thực trạng kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay. Ở Việt Nam, từ khi đổi mới, trong các văn kiện Đại hội Đảng đã xác định có nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân được chia thành 2 thành phần: Kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Đến Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của Đảng lại xác định thành phần kinh tế tư nhân bao gồm: cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân. Vai trò của thành phần kinh tế tư nhân đã được khẳng định là quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Đây là một bước phát triển mới về nhận thức lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn. Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế trực tiếp tạo nên sự nhạy cảm về mặt kinh tế – chính trị. Do đó, việc thừa nhận vai trò của kinh tế tư nhân như hiện nay là một bước đột phá quan trọng. Nếu như những năm trước đổi mới, thành phần kinh tế tư nhân chỉ được coi là một thành phần kinh tế “tàn dư”, chỉ tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sẽ bị thu hẹp dần trong quá trình lớn lên của các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (toàn dân và tập thể), thì đến Đại hội VIII và Đại hội IX của Đảng thành phần kinh tế tư nhân mới được khẳng định sự tồn tại lâu dài “cả đến khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng”. Thực tiễn cho thấy, trong kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 thành phần kinh tế tư nhân phát triển với tốc độ cao, tỷ trọng đóng góp vào ngân sách Nhà nước lớn. Theo số liệu thống kê, công nghiệp ngoài quốc doanh (bao gồm cả kinh tế tư nhân) tuy vẫn là khu vực nhỏ nhất so với các khu vực khác, nhưng có nhịp độ tăng trưởng cao nhất: năm 2000 chiếm 24,6% trong giá trị sản xuất theo giá thực tế của toàn ngành công nghiệp, năm 2003 là 27,5%, năm 2004 tăng lên 28,5% và năm 2005 đạt trên 37% Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, hiện có hàng triệu cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ, hơn 71.000 trang trại và hơn 120.000 doanh nghiệp tư nhân. Chỉ tính trong 4 năm gần đây với 72.601 doanh nghiệp có vốn đăng ký đạt 145.000 tỷ đồng (tương đương với 9 tỷ USD), tỷ trọng đầu tư của các loại doanh nghiệp tư nhân trong tổng đầu tư xã hội đạt từ 23% đến 25%. Năm 2005 kinh tế tư nhân đóng góp khoảng hơn 37% GDP. Đối với khu vực kinh tế tư bản tư nhân việc quan niệm thế nào là bóc lột cũng cần có nhận thức mới cho phù hợp với thực tế cuộc sống. Chúng ta biết rằng, bất kỳ loại hình sản xuất, kinh doanh nào trong nền kinh tế thị trường ở nước ta cũng đều phải có lợi nhuận (trừ các doanh nghiệp công ích phi lợi nhuận). Tuy nhiên, lợi nhuận ở đây được hiểu là phần giá trị dôi ra ngoài phần giá trị tất yếu (bao gồm cả phần lao động quản lý của chủ doanh nghiệp), còn quan hệ bóc lột hay không, bóc lột nhiều hay ít là phụ thuộc vào phần dôi ra ngoài phần giá trị tất yếu của toàn bộ doanh nghiệp và phần dôi ra đó được sử dụng thế nào? Việc xác định mức độ bóc lột là vấn đề không khó khăn. Quan hệ cung cầu trên thị trường lao động, việc chấp nhận mức tiền công giữa người lao động và người sử dụng lao động (trên cơ sở bộ Luật Lao động và chính sách tiền lương của Nhà nước trong từng giai đoạn, từng lĩnh vực) có thể là thước đo về tính hợp lý của quan hệ trao đổi, có thể coi đó là mức độ chấp nhận được của tất cả các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, bao gồm cả doanh nghiệp tư bản tư nhân và doanh nghiệp tư bản tư nhân Mặt khác, cần thấy rằng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang hướng tất cả các thành phần kinh tế đều phải kinh doanh có lãi (có lợi nhuận), có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao, nhất là trên thương trường khu vực và quốc tế. Đồng thời, thông qua điều hành vĩ mô của Nhà nước để bảo đảm cho sự phân phối sản phẩm thặng dư – lợi nhuận ngày càng hợp lý hợp trên phạm vi toàn xã hội và trong từng doanh nghiệp Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, trong đó kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Khi sửa đổi Luật doanh nghiệp (năm 2000), các doanh nghiệp tư nhân đã có điều kiện thuận lợi để phát triển. Bộ luật này đã thể chế hóa quyền tự do kinh doanh của các cá nhân trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm, dỡ bỏ những rào cản về hành chính đang làm trở ngại đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp như cấp giấy phép, thủ tục, các loại phí… Tính trong giai đoạn 2000-2004, đã có 73.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký mới, tăng 3,75 lần so với giai đoạn 1991-1999. Cho đến năm 2004, đã có 150.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp, với tổng số vốn điều lệ là 182.000 tỷ đồng. Từ năm 1991 đến năm 2003, tỷ trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong GDP đã tăng từ 3,1% lên 4,1%, kinh tế ngoài quốc doanh khác từ 4,4% lên 4,5%, kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống 31,2%, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 6,4% lên 14%. Từ 1/7/2006, Luật Doanh nghiệp 2005 (áp dụng chung cho cả doanh nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài) đã có hiệu lực, hứa hẹn sự lớn mạnh của các doanh nghiệp bởi sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế tư nhân bừng nở mạnh mẽ và ngày càng giữ vai trò quan trọng trong thị trường nước ta cũng như trong hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tiễn đã khẳng định: dù còn những phản ứng của tư duy giáo điều, cũ kỹ và những rào cản của bộ máy muốn níu kéo cơ chế cũ, sự lớn mạnh của khu vực kinh tế tư nhân – thể hiện ý chí của dân – là không lực luợng nào có thể cản trở. Cục diện mới của kinh tế tư nhân đã mở ra. Kinh tế tư nhân tăng nhanh, góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho xã hội, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP cũng như trong đầu tư phát triển và đang vững vàng trong cạnh tranh, hội nhập. Năm 2003, kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân) chiếm 38,96% GDP; 26,4% giá trị sản xuất công nghiệp (năm 2002); 79,9% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ; trên 2/3 hàng hóa xuất khẩu… Đến hết năm 2005, cả nước có 205.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký theo Luật Doanh nghiệp; 2,5 triệu hộ kinh doanh cá thể công thương nghiệp và dịch vụ; 13.000 trang trại và 12 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hóa, tạo ra sinh khí mới năng động, sáng tạo trước nay chưa từng có cho nền kinh tế. Trong nhiều ngành kinh tế, kinh tế tư nhân đang giữ vị trí chủ yếu trong sản xuất và xuất khẩu, như gạo, hải sản, chè, cà phê, hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ, v.v… với hiệu quả cao rõ rệt. Một tầng lớp xã hội mới, doanh nhân, đã bắt đầu hình thành, được xã hội công nhận và tôn vinh là “chiến sĩ xung kích thời bình”. Dự thảo Báo cáo Chính trị tại Đại hội X (công bố ngày 3-2-2006) nêu rõ chủ trương của Đảng đối với kinh tế tư nhân trong thời gian tới chính là sự khẳng định thực tiễn đã diễn ra trong cuộc sống. Dự thảo viết: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”; “Phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. Mọi công dân có quyền tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội, nguồn lực kinh doanh, thông tin và tiếp nhận thông tin”. Dự tháo Báo cáo còn nhấn mạnh “Xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu” và “Xóa bỏ mọi rào cản hữu hình và vô hình, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành, nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”. Việc Đại hội X cho phép “đảng viên làm kinh tế không giới hạn về quy mô” sẽ góp phần củng cố niềm tin của xã hội vào tiền đồ, triển vọng của kinh tế tư nhân. * Kinh tế tư nhân không chỉ có tiếng nói quyết định đến sức mạnh kinh tế của hầu hết các quốc gia mà còn trở thành một lực lượng kinh tế có ý nghĩa chính trị toàn cầu. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng có nghĩa là bảo tồn tính đa dạng phong phú của đời sống kinh tế, xem nó như là nguồn gốc của mọi sự phát triển. Ngày nay sở hữu tư nhân đã phát triển lên một trình độ mới về chất, quy mô sở hữu của nhiều Cty ngày càng đồ sộ và nhiều Cty tạo ra lượng tài sản có giá trị lớn hơn cả GDP của một số quốc gia. Cùng với quá trình phát triển kinh tế, nhân loại càng ngày càng sáng tạo ra nhiều loại hình sở hữu mới. Ngoài sở hữu tài sản hữu hình, người ta không chỉ sở hữu những tài sản vô hình như các nhãn hiệu hàng hóa, bí quyết công nghệ mà còn sở hữu cả không gian ảo trên mạng Internet và tài sản ảo là những bit thông tin đang tràn ngập trên mạng thông tin toàn cầu. * Sự biến đổi về chất của kinh tế tư nhân Chúng ta đang chứng kiến một thời đại các rào cản đầu tư, thương mại hàng hóa và dịch vụ dần bị dỡ bỏ, nền kinh tế thị trường mở đang tạo điều kiện dễ dàng cho kinh tế tư nhân lớn mạnh không ngừng. Trong quá trình phát triển, kinh tế tư nhân đã tồn tại dưới nhiều dạng như kinh tế cá thể, Cty và ngày nay là những Cty đa quốc gia. Sự lớn mạnh của các Cty đa quốc gia trong những năm cuối của thế kỷ XX cho thấy kinh tế tư nhân đã có sự phát triển vượt bậc với những thay đổi về chất. Các Cty đa quốc gia chính là biểu hiện của kinh tế tư nhân được quốc tế hóa, nó trở thành lực lượng hùng mạnh nhất của kinh tế tư nhân. Trong nền kinh tế thị trường mở, quốc gia nào có nền kinh tế tư nhân tham gia nhiều nhất, đầy đủ nhất và sâu sắc nhất vào nền kinh tế toàn cầu thì quốc gia đó sẽ càng có ưu thế trong cạnh tranh. Dựa trên bối cảnh và xu thế phát triển này, mỗi quốc gia cần phải có chính sách phát triển kinh tế tư nhân thích hợp của mình, trong đó, phải đặc biệt chú ý đến sự hợp tác của kinh tế tư nhân trong nước với các công ty đa quốc gia cũng như trực tiếp tham gia vào các công ty đa quốc gia. * Phương tiện hiệu quả nhất để phát triển kinh tế Vấn đề là kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước cùng song song tồn tại trong thế giới ngày nay nhưng tại sao kinh tế tư nhân lại tỏ ra năng động hơn, có sức sống hơn và phát triển mạnh mẽ hơn? Câu trả lời là kinh tế tư nhân có sự tương thích rất cao với kinh tế thị trường, đặc biệt là tính chất mở cửa thị trường ngày càng tăng, sự hợp tác và cạnh tranh quốc tế đòi hỏi các thực thể kinh tế phải rất linh hoạt và tự chủ trong hoạt động kinh doanh, điều này vốn là nhược điểm của kinh tế nhà nước. Tính cạnh tranh cao của kinh tế tư nhân không phải ngẫu nhiên mà có, nó được hình thành thông qua hàng chuỗi các vụ phá sản của các Cty, đó chính là sự chọn lọc tự nhiên trong quá trình phát triển. Về phương diện tình cảm xã hội, người ta thấy ái ngại và thương xót mỗi khi có một vụ phá sản nào đó nhưng kinh tế có quy luật riêng của nó, không phụ thuộc vào tình cảm của chúng ta. Kinh tế tư nhân đối mặt với những thử thách khắc nghiệt như vậy để phát triển cũng như mỗi cá nhân chúng ta cần trải qua những gian lao, thậm chí vấp ngã để trở nên vững vàng hơn trong cuộc sống. * Giá trị nhân văn của kinh tế tư nhân Thực tế cho thấy kinh tế tư nhân có vai trò đắc lực tạo ra sự phát triển của xã hội, tạo cho mỗi cá nhân vô số cơ hội có việc làm để khẳng định mình, để mưu cầu cuộc sống và hạnh phúc, tức là góp phần tạo ra con người với nhiều phẩm chất tốt đẹp hơn. Phát triển kinh tế, suy cho cùng không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện. Mục tiêu tối thượng của nhân loại là xã hội phát triển, con người phát triển. Có thể nói rằng kinh tế tư nhân là một phương tiện quan trọng để con người có cơ hội hoàn thiện mình trong quá trình phát triển hướng thiện của nhân loại. Con người đã sáng tạo ra và quyết định lựa chọn kinh tế tư nhân để phát triển, nhưng đồng thời kinh tế tư nhân lại là môi trường tốt để con người tự thân phát triển, con người có cơ hội tự hoàn thiện vì sự phát triển của chính nó và thông qua đó phát triển toàn xã hội. Đó chính là giá trị nhân văn chân chính của kinh tế tư nhân. * Phát triển năng lực con người Kinh tế tư nhân có cội nguồn từ cá nhân, vì vậy phát triển kinh tế tư nhân phải dựa trên nền tảng phát triển các giá trị cá nhân, phát triển năng lực cá nhân, phát triển con người. Có thể nói, không có sự phát triển năng lực cá nhân thì sẽ không có sự phát triển kinh tế tư nhân. Một trong những yếu tố cạnh tranh của một cộng đồng xã hội chính là tính đa dạng của sự sáng tạo, mà tính đa dạng của sự sáng tạo là hệ quả tất yếu của sự đa dạng của những năng lực cá nhân. Sự đa dạng của năng lực cá nhân là kết quả trực tiếp của sự tôn trọng các giá trị cá nhân. Như vậy, có thể nói lý thuyết phát triển kinh tế tư nhân bắt nguồn từ lý thuyết phát triển con người. * Phát triển các quyền cá nhân Sự phát triển xã hội gắn liền với sự phát triển ngày càng phong phú các quyền cá nhân. Sự phát triển của các quyền cá nhân đến lượt nó sẽ thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ. Không có các quyền cá nhân làm tiền đề thì không thể có các quyền của kinh tế tư nhân. Trong thực tế, hiện nay, những hiện tượng can thiệp vào đời sống cá nhân diễn ra tràn lan ở khá nhiều quốc gia. Khi chúng ta không xây dựng, không tôn trọng các quyền cá nhân, có nghĩa là các giá trị cá nhân không được pháp chế hóa, định chế hóa, hoặc chúng ta không nhận thức các quyền cá nhân như những động lực của sự phát triển cá nhân, như những không gian xã hội cần thiết cho một cá nhân phát triển thì không thể phát triển khu vực tư nhân lành mạnh được. Chừng nào một xã hội chưa tôn trọng các quyền cá nhân, kèm theo đó là sở hữu cá nhân thì xã hội đó không thể xây dựng khu vực kinh tế tư nhân một cách chuyên nghiệp được. Trong những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), đã được nhìn nhận như động lực tăng trưởng kinh tế quan trọng của Việt Nam. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) hiện đang xây dựng kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2006-2010. Kế hoạch này sẽ là một bộ phận cấu thành của kế hoạch phát triển Kinh tế – Xã hội 5 năm 2006-2010 của Chính phủ Việt Nam. Trên cơ sở bản kế hoạch này, Cục Phát triển DNNVV của Bộ KH-ĐT sẽ xây dựng một kế hoạch hành động về phát triển DNNVV bao gồm các chương trình, biện pháp trợ giúp khối doanh nghiệp này. Với bối cảnh trên, bản tin này bàn về tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân hiện nay, đưa ra một số đề xuất về chính sách nâng cao chất lượng phát triến kinh tế khu vựcViệc đăng ký thành lập doanh nghiệp đã trở nên khá dễ dàng, giúp tăng nhanh số lượng doanh nghiệp thành lập mới.Luật doanh nghiệp năm 1999 đánh dấu một mốc quan trọng trong những nỗ lực của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho khối kinh tế tư nhân phát triển. Với tinh thần chủ đạo là “doanh nghiệp được tự do kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm”, chuyển từ “cấp phép kinh doanh” sang “đăng ký kinh doanh”. Luật doanh nghiệp năm 1999 đã giúp giảm đáng kể thời gian và chi phí đăng ký thành lập doanh nghiệp. Nhờ đó, mỗi năm có thêm hàng chục ngàn doanh nghiệp được chính thức thành lập. Theo số liệu của Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp (TTTTDN) của Bộ KH-ĐT, kể từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực vào đầu năm 2000, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới cho đế cuối năm 2003 nhiều gấp hơn hai lần số lượng doanh nghiệp thành lập trong vòng 10 năm trước đó, nâng tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam lên khoảng 128.000.Số lượng doanh nghiệp thực sự đang hoạt động không nhiều như con số đăng ký. Theo điều tra của Tổng cục thống kê (TCTK), số doanh nghiệp đang hoạt động tính đến thời điểm cuối năm 2002 là 62.908, cuối năm 2003 là 72.010, tức là khoảng 55% so với số doanh nghiệp đã đăng ký. Trong một nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, việc dừng kinh doanh cũng như việc đăng ký kinh doanh mới là hiện tượng bình thường của quá trình phát triển khi mà các doanh nghiệp phản ứng với thay đổi liên tục của môi trường bên ngoài, ví dụ như cơ hội thị trường mới, các khó khăn mới xuất hiện v.v. Vì vậy, hiện tượng số lượng doanh nghiệp còn hoạt động ít hơn số lượng doanh nghiệp đã đăng ký thành lập là một điều dễ hiểu và ở một mức độ nào đó phản ánh sự năng động của khối doanh nghiệp tư nhân. Ở các nước phát triển thuộc tổ chức OECD, tỷ lệ doanh nghiệp còn hoạt động sau 2 năm vào khoảng 60-70% và sau 7 năm thì chỉ còn là 40-50%. Tuy nhiên, hệ thống đăng ký doanh nghiệp hiện nay của Việt Nam chưa cung cấp được thông tin đầy đủ về những doanh nghiệp đã dừng hoạt động hay thay đổi và lý do thay đổi. Theo kết quả nghiên cứu gần đây của MPDF, nguyên nhân giải thích sự chênh lệch giữa số liệu của cơ quan phụ trách đăng ký doanh nghiệp và TCTK là doanh nghiệp giải thể và dừng hoạt động thì hầu như không được ghi nhận trong hệ thống đăng ký doanh nghiệp của TTTTDN; nhiều doanh nghiệp đăng ký thành lập không phải là doanh nghiệp thành lập mới mà là chi nhánh hoặc công ty con của một doanh nghiệp khác và một số doanh nghiệp có thể đăng ký nhằm phục vụ những mục đích cá nhân hay mục đích đặc biệt của riêng doanh nghiệp (ví dụ như được mua quyển “hóa đơn đỏ” VAT). Hiểu rõ hơn những nguyên nhân này sẽ giúp Nhà nước có được các chính sách quản lý và hỗ trợ doanh nghiệp thiết thực hơn. Các doanh nghiệp đang hoạt động chưa phát triển mạnh về chất do còn nhiều khó khăn trong hoạt động sau đăng ký. Trong khi việc thành lập doanh nghiệp đã dễ dàng hơn nhiều, thì hoạt động kinh doanh cũng như cơ hội đầu tư mở rộng sản xuất của doanh nghiệp tư nhân sau đăng ký vẫn còn bị nhiều cản trở. Tuy khối doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô đầu tư sản xuất nói chung còn tương đối nhỏ. Một doanh nghiệp tư nhân bình quân chỉ có 31 lao động, 4 tỷ đồng vốn – thấp hơn đáng kể so với con số 421 lao động và 167 tỷ đồng vốn của doanh nghiệp nhà nước và 299 lao động. 134 tỷ đồng vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Quy mô vốn có hạn đã hạn chế khả năng trang bị công nghệ tiên tiến của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, với mức đầu tư trung bình cho tài sản cố định trên một lao động chỉ có 43 triệu đồng so với 137 triệu đồng đối với doanh nghiệp nhà nước và 247 triệu đồng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp tư nhân không thể tham gia vào những dự án lớn từ ngân sách nhà nước cũng như khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế do quy mô quá nhỏ và năng lực hạn chế. Trong nhiều trường hợp, tốc độ phát triển của các công ty tư nhân bị hạn chế bởi một số yếu tố của môi trường kinh doanh. Đó là những cản trở trong việc tiếp cận các nguồn lực thiết yếu bên ngoài như đất đai, vốn đầu tư và các hạn chế do một số quy định có tính kiểm soát còn cứng nhắc, đặc biệt trong lĩnh vực thuế . III.Các giải pháp để phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam Để phát triển mạnh mẽ hơn nữa kinh tế tư nhân đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, có hai loại việc sau đây cần được chú trọng. Một là, về mặt Nhà nước. Trước hết là xóa bỏ những thể chế, chính sách còn thể hiện sự phân biệt đối xử giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân, giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân. Trong thự
Một Số Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế Biển Bền Vững
Kinh tế biển phát triển chưa xứng tầm
Việt Nam là một trong những nước có lợi thế về biển, có vị trí địa lý thuận lợi nằm trên đường hàng hải quốc tế, có cảng biển sâu, có điều kiện để phát triển hàng hải, hàng không, du lịch biển, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản…Với chiều dài bờ biển 3.260 km, 1 triệu km2 vùng biển kinh tế đặc quyền rộng gấp 3 lần diện tích đất liền, có vị trí địa chính trị hết sức quan trọng với hơn 3.000 hòn đảo. Cả nước có 28 tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương có biển (trong đó có 10 tỉnh và thành phố có hải đảo, quần đảo) với tổng diện tích 208.560 km2 chiếm 41% diện tích cả nước và 41,2 triệu dân chiếm gần một nửa dân số Việt Nam.
Xuất phát từ những tiềm năng, lợi thế của biển đảo và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ chủ quyền an ninh và môi trường biển, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2023 với mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia mạnh từ biển, giàu lên từ biển theo hướng phát triển bền vững, phấn đấu đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP; 55-60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện thêm một bước đáng kể đời sống cho nhân dân vùng biển và ven biển.
Để thực hiện Chiến lược biển Việt Nam, từ năm 2008 Chính phủ đã ban hành và phê duyệt nhiều nghị quyết và quyết định trong chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển. Các ngành, các cấp, các doanh nghiệp đã xây dựng chiến lược, quy hoạch, chương trình hành động cho từng lĩnh vực và ở trên địa bàn của mình bước đầu triển khai có những kết quả đáng khích lệ. Các đảo lớn như: Côn Đảo, Phú Quốc, Trường Sa, Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Vân Đồn… đã được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, mạng lưới điện, thông tin liên lạc, cung cấp nước ngọt, trường học, bệnh xá, bố trí lại dân cư, tham gia vào phát triển kinh tế, nông nghiệp, du lịch, công nghiệp dầu khí có bước phát triển nhanh; đồng thời, đảm bảo tốt công tác quốc phòng an ninh, hình thành hệ thống các khu công nghiệp, các cảng biển, cảng cá, khu du lịch từ Quảng Ninh cho đến Cà Mau…
Tuy nhiên, có thể đánh giá một cách tổng thể, sự phát triển của kinh tế biển, đảo ở nước ta chưa xứng tầm với các điều kiện và lợi thế sẵn có. Quy mô kinh tế biển của Việt Nam chỉ đạt khoảng hơn 10 tỷ USD, trong khi sản lượng kinh tế biển của thế giới ước 1.300 tỷ USD. Theo ước tính, quy mô kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển Việt Nam bình quân đạt khoảng 47- 48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế “thuần biển” mới đạt khoảng 20-22% tổng GDP cả nước. Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo tuy đã được quan tâm đầu tư mới nhưng còn yếu kém. Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún, mạng lưới tàu thuyền còn lạc hậu…
Các cảng biển, mạng lưới vận tải đường không ở các vùng ven biển và trên một số đảo còn nhỏ bé, chưa đáp ứng được nhu cầu. Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học – công nghệ biển, đào tạo nhân lực cho kinh tế biển, các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo thời thiết, thiên tai, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn… còn nhỏ bé, trang bị thô sơ. Ngành Du lịch biển vẫn thiếu những sản phẩm dịch vụ biển, đảo đặc sắc có tính cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế, chưa có các khu du lịch biển tổng hợp đạt trình độ quốc tế. Trình độ và hoạt động khai thác tài nguyên, các lợi thế của biển và hải đảo vẫn đang ở tình trạng lạc hậu so với khu vực. Nói cách khác, Việt Nam tuy là một quốc gia biển, song đến nay, chúng ta vẫn chưa thực sự phát huy được nhiều thế mạnh, tiềm năng của biển, đảo và vẫn chưa phải là quốc gia mạnh về biển.
Giải pháp phát triển kinh tế biển bền vững
Chiến lược biển Việt Nam chỉ rõ, đến năm 2023 kinh tế biển đóng góp khoảng 53-55% GDP, 55-60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển. Trong tương lai gần, ngành Kinh tế biển sẽ giữ vai trò chủ yếu để đảm bảo cho nhu cầu đời sống của nhân dân, đảm bảo cho dân tộc ta giàu mạnh và phát triển. Do đó, cần nhìn nhận kinh tế biển, đảo một cách toàn diện, phát triển kinh tế biển, đảo theo hướng bền vững, bảo đảm quyền lợi lâu dài của đất nước theo hướng phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia giàu mạnh về biển, đảo, bảo đảm vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển.
Để phát triển kinh tế biển bền vững, nhiều chuyên gia cho rằng cần tập trung vào một số nhóm giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về chiến lược phát triển kinh tế biển gắn với phòng ngừa, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, xem đây là ba mặt của một vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau.
Hai là, khẩn trương xây dựng đề án tái cơ cấu ngành kinh tế biển, các cơ chế, chính sách nhằm phát huy quyền chủ động của các ngành, các cấp, các địa phương và vùng lãnh thổ, có sự quản lý, tập trung của Trung ương, tạo nên bước đột phá về tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại, theo chiều rộng và chiều sâu. Bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch phát triển ngành theo nội dung mới gắn phát triển kinh tế biển với phòng ngừa thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo trên tất cả các lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng tuyến đảo, hệ thống cảng biển, đô thị ven biển, các ngành dầu khí, đóng tàu, giao thông, du lịch, khai thác nuôi trồng thủy hải sản… Đồng thời, thúc đẩy liên kết hợp tác giữa các ngành, các địa phương và vùng lãnh thổ, hiện đại hóa các doanh nghiệp, các hợp tác xã, xây dựng các thương hiệu biển quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài và đầu tư tư nhân vào phát triển kinh tế biển…
Ba là, khẩn trương xây dựng chiến lược thích ứng cho sinh kế ven biển, bảo vệ môi trường sinh thái, xác định và tiếp cận cho từng lĩnh vực như: Vận tải biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản, trồng trọt, chăn nuôi… có sự tham gia của đại diện các cơ quan ở địa phương, các chuyên gia kỹ thuật, các tổ chức quần chúng, các hộ gia đình, lập bản đồ về các mối hiểm nguy, kế hoạch lưu giữ nước ngọt, áp dụng cách tiếp cận vùng để quản lý tài nguyên thiên nhiên ven biển dựa trên cộng đồng. Huy động cộng đồng tham gia vào việc kiên cố hóa đê điều, khôi phục và phát triển rừng phòng hộ ven biển tạo hành lang bảo vệ đê biển, ngăn ngừa nước biển dâng và nước mặn lấn sâu vào đồng ruộng. Tổ chức các tổ đoàn kết, hợp tác xã vận tải trên biển, đánh bắt cá, nuôi trồng thủy hải sản… để có điều kiện hỗ trợ nhau trong sản xuất ứng phó với bão tố, sóng thần…
Bốn là, tăng cường đầu tư xây dựng mới và củng cố hệ thống đê biển vững chắc, kiện toàn hệ thống thông tin truyền thông, hệ thống cảnh báo sớm sóng thần và dự báo thời tiết, phát triển hệ thống rừng và rừng ngập mặn, trước mắt triển khai sớm hệ thống đê biển ở vùng thấp và vùng ngập nước. Ưu tiên giải quyết di dời cơ sở hạ tầng, dân cư ở những vùng có nguy cơ ngập nước, bổ sung lực lượng lao động có chất lượng cho huyện đảo và quần đảo.
Năm là, khẩn trương triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực: Tuyển chọn, lai tạo giống cây lương thực, cây công nghiệp, giống nuôi thủy, hải sản… Đổi mới cơ cấu nghề nghiệp, phát triển các nghề mới thích ứng với các vùng mặn hóa, hạn hán, ngập nước; áp dụng công nghệ mới hiện đại vào các lĩnh vực khai thác khoáng sản, dầu khí, băng cháy, đóng tàu và chế biến các sản phẩm của biển… Tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo và chuyển giao công nghệ, thu hút các nguồn vốn ODA, nguồn vốn đầu tư trực tiếp của các nước…
Sáu là, gấp rút đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nghiên cứu quản lý các ngành Kinh tế biển và cộng đồng cư dân ven biển không những có trình độ chuyên môn mà còn có kỹ năng ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền biển đảo, phấn đấu đến năm 2023 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 80%. Đồng thời, Chính phủ nên giao cho các ngành chức năng đưa nội dung giáo dục về kinh tế biển, biến đổi khí hậu, bảo vệ chủ quyền biển, đảo và chương trình giảng dạy ở các cấp học phổ thông, trung cấp, cao đẳng, đại học thuộc hệ chính quy về không chính quy.
Đề Tài Vai Trò Và Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế Tư Nhân Ở Việt Nam Hiện Nay
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN 3 1. Bản chất của kinh tế tư nhân 3 2. Tính tất yếu tồn tại kinh tế tư nhân ở Việt Nam 4 3. Vai trò của kinh tế tư nhân 8 II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN 13 1. Thực trạng phát triển 13 2. Nguyên nhân 18 III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN 19 1. Những thuận lợi và khó khăn trong phát triển kinh tế tư nhân 19 2. Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân 22 2.a Các vấn đề kinh tế vĩ mô 22 2.b Các vấn đề kinh tế vi mô 27 IV. KẾT LUẬN 29 LỜI MỞ ĐẦU Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay,đặc biệt là vấn đề hội nhập nền kinh tế thế giới đã và đang đặt ra những cơ hội cũng như những thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam.Việt Nam đã và đang có những bước tiến vững chắc trong việc phát triển nền kinh tế thị trường địng hướng xã hội chủ nghĩa,hội nhập cùng thế giới bằng việc phát huy nội lực đồng thời tranh thủ các nguồn lực bên ngoài thông qua việc phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế.Trong đó phải kể đến sự đóng góp quan trọng của thành phần kinh tế tư nhân trong việc phát triển nền kinh tế. Hội nghị lần thứ 5 ban chấp hành trung ương khóa IX khẳng định: “kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân.Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa”. Vậy trong việc phát triển kinh tế Việt Nam thành phần kinh tế tư nhân đã có vai trò như thế nào? Hay tại sao Việt Nam lại phải phát triển kinh tế tư nhân trong khi chúng ta muôn hướng tới một xã hội xã hội chủ nghĩa nơi sở hữu tư liệu sản xuất là của tập thể.Việc xác định đúng vai trò của kinh tế tư nhân và con đường đúng đắn cho sự phát triển của thành phần kinh tế này là việc làm cấp thiết hiện nay, bởi vì hiện nay toàn cầu hóa là một xu thế phát triển tất yếu trong tiến trình phát triển của nhân loại, chúng ta không muốn bị cuốn vào vòng xoáy dó một cách thụ động thì chúng ta phải biết phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế trong đó có thành phần kinh tế tư nhân, nó là một mắt xích quan trọng trong việc nối kết nền kinh tế thị trường Việt Nam với nền kinh tế thị trường thế giới. Vì vậy em xin làm rõ về vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam và thực trạng phát triển của thành phần kinh tế này trong thời gian qua cũng như xin đưa ra một số ý kiến về giải pháp phát triển thành phần kinh tế này. vai trß vµ gi¶i ph¸p ph¸t triÓn kinh tÕ t nh©n ë viÖt nam hiÖn nay I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN 1. BẢN CHẤT CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN: Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ lên chủ mghĩa xã hội, việc đổi mới đường lối phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua đã đem lại cho chúng ta những bước tiến vượt bậc. Chúng ta chấp nhận mở cửa hội nhập với thế giới, xây dựng đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy nội lực đồng thời tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Việc xây dựng đường lối phát triển kinh tế như vậy là sự phù hợp với thực tế khách quan hiện nay ( phù hợp với điều kiện thực tế của kinh tế Việt Nam hiện nay và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra như một điều tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử) vì vậy đã mang lại cho chúng ta những thành tựu đáng kể. Trong kết quả chúng ta có hôm nay phải kể đến sự đóng góp ngày càng quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam của khu vực kinh tế tư nhân nhất là sau khi có sự đổi mới đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Kinh tế tư nhân là một loại hình Kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, gắn liền với lao động cá nhân người chủ sở hữu và lao động làm thuê. Kinh tế tư nhân ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Như vậy bản chất của lọai hình kinh tế này đó là dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Người sở hữu tư liệu sản xuất là người chủ và họ luôn có xu hướng tối đa hóa lợi ích mà mình thu được vì vậy họ phải bóc lột sức lao động của công nhân làm thuê. Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì chế tạo ra giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của nó. Thật vậy giá trị thặng dư, phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động của công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản – quan hệ bóc lột lao động làm thuê. Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động mỗi nhà tư bản, cũng như toàn bộ xã hội tư bản. Các nhà tư bản luôn được bộ máy chính quyền tư bản bảo vệ lợi ích nên họ đã tìm đủ mọi cách để bóc lột giá trị thặng dư như tăng cường độ lao động, kéo dài thời gian lao động, tăng năng suất lao động… Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sỏ hữu,quản lí, phân phối để thích nghi với điều kiện mới nhưng về bản chất thì không thay đổi. Nhà nước tư bản hiện nay tuy có tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế xã hội nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản. Xét trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay thì kinh tế tư nhân chịu sự kiểm soát quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa nên không còn hoàn toàn giống như kinh tế tư nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Khái niệm kinh tế tư bản tư nhân chỉ xuất hiện gắn liền với sự hình thành và phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quá trình đổi mới ở nước ta với sự xuất hiện và phát triển các loại hình doanh nghiệp của tư nhân không đồng nghĩa với sự xuất hiện trở lại của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản. Các loại hình doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp ở nước ta, được hình thành và phát triển trong điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, được nhà nứơc khuyến khích và bảo vệ không hoàn toàn do quy luật giá trị thặng dư chi phối. Hơn nữa các loại hình doanh nghiệp của tư nhân và đội ngũ doanh nhân ở nước ta được hình thành và phát triển trong điều kiện mới, không hàm chứa tính chất giai cấp hay bản chất tư bản như dưới xã hội tư bản điều này được chứng minh là đã có rất nhiều doanh nhân là đảng viên. Các doanh nghiệp của tư nhân nước ta đại diện cho một lực lựơng sản xuất mới, là một trong những động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân… 2.TÍNH TẤT YẾU TỒN TẠI KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: * Quan điểm về kinh tế tư nhân của Đảng trước khi đổi mới (1986) Kinh tế tư nhân là đối tượng chính phải cải tạo, xóa bỏ. Vì kinh tế tư nhân luôn đồng nghĩa với làm ăn cá thể bóc lột, tự phát lên con đường chủ nghĩa tư bản, vì thế kinh tế tư nhân không thể là một chủ thể kinh tế để xây dựng chr nghĩa xã hội. Sau cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta thì Đảng và Nhà nước đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ(cá thể, thợ thủ công, tiểu thương…) và sở hữu tư nhân của giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam. Đối với sở hữu tư nhân của những ngừơi sản xuất nhỏ thì Nhà nước cải tạo bằng con đường vận động thuyết phục để đưa họ vào làm ăn tập thể. Còn đối với sở hữu tư nhân của giai cấp tư sản dân tộc thì Nhà nước phân làm hai đối tựơng, một đối tượng đó là các nhà tư sản dân tộc nhưng có công với cách mạng và kháng chiến thì Nhà nước cải tạo hòa bình bằng cách chuộc lại hay chưng mua rồi sau đó chuyển thành sở hữu Nhà nước (sau đó vận động họ kết hợp với nhà nước để kinh doanh hình thành các xí nghiệp công tư hợp doanh) Đối với nhà tư sản làm tay sai cho đế quốc phong kiến thì Nhà nước cải tạo bằng cách quốc hữu hóa hay tịch thu toàn bộ tài sản biến thành sở hữu Nhà nước. Tuy nhiên trong giai đoạn này ngay cả ở trong nghiệp là nơi diễn ra quá trình xóa bỏ tư nhân mạnh nhất nhưng sở hữu tư nhân vẩn còn tồn tại,trong thời gian này những ngừơi không vào tập thể hợp tác xã, làm ăn cá thể, tiểu thương… thường không được coi trọng, bị phân biệt trong nhiều việc. * Từ sau đại hội VI kinh tế tư nhân được thừa nhận tồn tại khách quan lâu dài có lợi cho quốc kế dân sinh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị lần thứ 5 BCH trung ương khóa IX khẳng định: ” Kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên trong thời kỳ hiện nay về mặt tâm lý vẫn còn nhiều người nghi ngờ về tầm quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân, họ vẫn giữ quan niệm cũ trước đổi mới cho rằng không nên phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tư nhân đi liền với sự bóc lột của tư bản, kinh tế tư nhân là một rào cản trong con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Điều này đã tạo nên tâm lý lo ngại cho một bộ phận không nhỏ trong xã hội và tạo thành một rào cản về mặt tâm lý trong việc xây dựng phát triển kinh tế tư nhân theo đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước. Việc Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một việc làm đúng đắn, thể hiện tầm nhìn sâu, rộng, xuyên suốt của Đảng. Việc xây dựng đường lối chủ trương của Đảng đã gắn với thực tế, xuất phát từ thực tế phù hợp với điều kiện và tình hình phát triển của Việt Nam. Xuất phát từ thực tế thì nhà nước ta đã khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong gần 20 trở lại đây vì sự tồn tại phát triển của kinh tế tư nhân hay phát triển nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là một sự tất yếu khách quan xuất phát từ những lý do sau: Thứ nhất: phù hợp với thực trạng của lực lượng sản xuất phát triển chưa đồng đều ở Việt Nam. Đặc điểm to lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là điểm xuất phát rất thấp, sản xuất nhỏ là phổ biến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta còn rất thấp kém và do đó sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn còn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi vậy trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chẳng những không cần phải xóa bỏ mà còn cần được tạo mọi điều kiện để phát triển. Trình độ lực lượng sản xuất của chúng ta không những còn rất thấp kém mà còn phát triển không đồng đều có nhiều trình độ khác nhau do đó trong nền kinh tế tồn tại nhiều loại hình sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất dẫn đến tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Trong lịch sử mỗi phương thức sản xuất có một loại hình sở hữu tư liệu sản xuất đặc trưng nhưng điều đó không có nghĩa là mỗi phương thức sản xuất chỉ có một hình thức sở hữu tư liệu sản xuất mà có thể có nhiều loại hình sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau cùng tồn tại. Sự xuất hiện của các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất do tính chất và trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất quy định, lực lượng sản xuất không ngừng vận động biến đổi làm cho quan hệ sản xuất cũng không ngừng vận động biến đổi, tương ứng với mỗi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do vậy sự chủ quan nóng vội duy ý chí trong việc xóa bỏ sở hữu tư nhân, xác lập sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất đều trái với yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phải trả giá. Điều này đã được thực tế ở Việt Nam trong những năm sau khi giành độc lập đến 1986 chứng minh. việc xóa bỏ vội vàng sở hũu tư nhân, phát triển kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã làm cho kinh tế Việt Nam trì trệ, lâm vào khủng hoảng, lạm phát tăng cao…Vì vậy từ một nền sản xuất nhỏ với nhiều loại hình sở hữu không thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội thông qua việc xóa bỏ chế độ tư hưu ngay. Thứ hai: trong quá trình phát triển do điều kiện lịch sử đã để lại nhiều thành phần kinh tế như thành phần kinh tế tư nhân, thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ, thành phần kinh tế tự nhiên của đồng bào dân tộc ở dẻo cao phía bắc và tây nguyên… mà chúng ta không thể cải biến nhanh được. Hơn nữa sau nhiều năm cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới mới đã xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế mới: thàh phần kinh tế Nhà nước,thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản nhà nước… các thành phần kinh tế này tồn tại khách quan và có quan hệ với nhau. Thứ ba: phát triển kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với xu thế phát triển kinh tế khách quan của thời đại ngày nay, thời đại các nước hướng về phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, đây là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, nó tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Việc phát triển kinh tế thị trường sẽ giúp Việt Nam có những cơ hội to lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế trong quá trình hội nhập với thế giới. Chúng ta đang đàm phán để được gia nhập tổ chức WTO vì vậy nếu chúng ta không phát triển thị trường thì chúng ta sẽ không thể cạnh tranh được với các nước trên thế giới, dẫn tới việc lạc hậu, bị cuốn theo vòng xoáy của toàn cầu hóa. Thứ tư: phát triển kinh tế nhiều thành phần phù hợp với lòng mong muốn thiết tha của người dân Việt Nam là được đem hết tài năng, sức lực để lao động làm giàu cho đất nước và cho cả bản thân mình, làm cho cuộc sống ngày càng ấm no hạnh phúc. Thứ năm: phát triển kinh tế nhiều thành phần cho phép khai thác có hiệu quả nhất các tiềm năng hiện có và đang còn tiềm ẩn trong nước, có thể tranh thủ tốt nhất sự giúp đỡ từ bên ngoài nhằm phát triển kinh tế hướng vào mục tiêu tăng trưởng nhanh và hiện đại hóa. Chỉ có phát triển nhiều thành phần kinh tế chúng ta mới có khả năng huy động mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật, tiềm năng về con người, mới có thể áp dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế và xây dựng đất nước. Thứ sáu: phát triển kinh tế nhiều thành phần mới có khả năng giải quyết được vấn đề việc làm của chúng ta. Nước ta còn có lực lượng lao động dồi dào (hơn 40 triệu lao động) cần cù thông minh, song số người chưa có việc làm hay thiếu việc làm còn nhiều, vừa lãng phí sức lao động, vừa gây ra những khó khăn lớn về kinh tế xã hội ( thất nghiệp, tệ nạn…) Trong khi khả năng thu hút lao động của khu vực kinh tế nhà nước không nhiều thì việc khai thác, tận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế khác là một trong những giải pháp quan trọng để tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Từ những lý do phân tích như trên chúng ta có thể thấy việc Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước là việc làm hết sức đúng đắn phù hợp với thực tế, mong muốn của người dân và lựa chọn đúng con đường phát triển giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. 3. VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN: Hội nghị lần thứ 5 BCH trung ương khóa IX đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa…” Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của kinh tế tư nhân đã được Đảng khẳng định và trên thực tế khu vực kinh tế tư nhân cũng đã và đang thể hiện được vai trò của mình trong nền kinh tế, và ngày càng có những đóng góp quan trọng trong nền kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân đang thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. * Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp vào tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước GDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tổng sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung tăng ổn định trong những năm gần đây. Nhịp độ tăng trưởng năm 1997 là 12,89%; năm 1998 là 12,74%; năm 1999: 7,5%; năm 2000: 12,55% và chiếm tỷ trọng tương đối ổn định trong GDP, tuy năm 2000 có giảm chút ít so với năm 1996 (từ28,45% năm 1996 còn 26,87% năm 2000). Tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế tư nhân trong tổng GDP giảm đi chút ít do sự tham gia và đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngòai. Bảng đóng góp GDP của khu vực kinh tế tư nhân: Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Tổng GDP toàn quốc Tỷ đ 272.036 313.623 361.017 399.943 444.140 chúng tôi vưc tư nhân – 77.481 87.475 98.625 106.029 119.337 % trong GDP toàn quốc % 28.48 27.89 27.32 26.51 26.87 2. hộ kinh doanh cá thể Tỷ đ 57.879 65.555 73.321 78.054 87.604 Tỷ trọng hộ trong GDP % 21.28 20.9 20.31 19.52 19.72 Tỷ trọng hộ trong khu Vực kinh tế tư nhân – 74.7 74.94 74.34 73.62 73.41 3. Doanh nghiệp tư nhân Tỷ đ 19.602 21.920 25.304 27.975 31.733 Tỷ trọng trong GDP % 7.21 6.99 7.01 6.99 7.14 Tỷ trọng trong khu vực Tư nhân % 25.3 25.06 25.66 26.38 26.59 Nguồn:Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng,giải pháp phát triển kinh tế tư nhân. Ban kinh tế trung ương ngày 26-11-2001 Trong 4 năm (2000-2003) tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân trong công nghiệp đạt mức 20% năm. Trong nông nghiệp kinh tế tư nhân đã có đóng góp đáng kể trong trồng trọt chăn nuôi và đặc biệt là trong các ngành chế biến và xuất khẩu. Nhờ sự phát triển của kinh tế tư nhân, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có sự chuyển dịch quan trọng theo hướng sản xuất hàng hóa, đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH khu vực nông nghiệp nông thôn. * Đóng góp về xuất khẩu và tăng nguồn thu ngân sách: Theo số liệu thống kê của bộ thương mại, đến năm 2002 khu vực kinh tế tư nhân trong nước đóng góp khoảng 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, kinh tế tư nhân là nguồn lực chủ yếu phát triển các mặt hàng mới, số lượng hàng hóa tham gia xuất khẩu ngày càng tăng, mở rộng thị trường xuất khẩu. Xuất khẩu trực tiếp của khu vực kinh tế tư nhân đến nay đã tăng khá, 9 tháng đầu năm 2001 đạt 2.189.330.000 USD, trong đó các công ty cổ phần đạt 361.759.900 USD, công ty trách nhiệm hữu hạn đạt 1.606.489.900 USD, công ty tư nhân đạt 211.900.000 USD(số liệu của tổng cục hải quan) Các doanh nghiệp tư nhân đã tham gia tích cực vào xuất nhập khẩu trực tiếp, đến năm 2000 số doanh nghiệp tư nhân tham gia xuất khẩu trực tiếp tăng lên 16.200 doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu về một số mặt hàng quan trọng( sản phẩm thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến…), đã có một số doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD / năm, ở một số địa phương kinh tế tư nhân là khu vực đóng góp chủ yếu về xuất khẩu ( Hà Giang: 60%,Bình Thuận 45%, Quảng Ngãi 34% ).Vì thế khu vực ngòai quốc doanhtrong nước từ chổ chỉ chiếm 11% giá trị xuất khẩu vào năm 1997 thì đến quý I-2002 dã tăng lên khoảng 31% ( Thời báo kinh tế Việt Nam số 66 ngày 3-6-2002 ). Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân đã trở thành nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà nước và có xu hướng ngày càng tăng, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên hơn 7% năm 2002.Nhiều địa phương mức đóng góp của doanh nghiệp dân doanh chiếm trên 20% nguồn thu ngân sách địa phương ( Bình Định 33% Tiền Giang 24%…). Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. * Kinh tế tư nhân có đóng góp rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư xã hội phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Trong 10 năm gần đây vốn đầu tư cho khu vực tư nhân tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 1999 tổng vốn đầu tư khu vực kinh tế tư nhân đạt 31.542 t
Vai Trò Và Các Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế Tư Nhân Ở Việt Nam
phát triển kinh tế, tạo việc làm, huy động các nguồn lực xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội . Qua đó khu vực kinh tế tư nhân khẳng định vị trí vững chắc của mình trong nền kinh tế. Hiến pháp 1992 xác định : “Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không hạn chế về quy mô hoạt động tronh những ngành, nghề có lợi cho quốc tế dân sinh. Kinh tế kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển (Điều 21) Đại hội Đảng ix xác định : ” Thực hiện nhất quán cơ sở phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo quản lý đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế tư nhân định hướng XHCN cùng phát triển lâu dài, hợp tài và cạnh tranh lành mạnh : trong đó nền kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” (Văn kiện Đại hôị Đảng ix) Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, kinh tế tư nhân còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém như : quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp, sức cạnh tranh yếu, tình trạng trốn thuế, gian lận thương mại, kinh doanh trái pháp luật trong khu vực kinh tế tư nhân. Mặc dù Đảng và nhà nước có đường lối, chính sách tạo điều kiện thuân lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, nhưng kinh tế tư nhân vẫn gặp phải nhiều rào cản : thiếu vốn, môi trường kinh doanh, hệ thống pháp luật, quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân… Kinh tế tư nhân là vấn đề khá nhạy cảm cả về lý luận và thực tiễn : đình hướng XHCN trong phát triển kinh tế tư nhân, vấn đề quan điểm đối với kinh tế tư nhân. Đảng viên làm kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế tư nhân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế được coi là cần thiết. Trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam (quá độ lên CNXH), hoàn thiện lý luận, nhận thức đúng đắn về khu vực kinh tế tư nhân là rất cần thiết: Từ đó có những đựờng lối, cơ sở cụ thể tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xây dựng XHCN. Với nội dung:”Vai trò và các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam”, hy vọng đề án sẽ đóng góp phần nào trong việc nhận thức rõ hơn, đúng đắn hơn về khu vực kinh tế tư nhân mà chủ yếu là vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay. Từ đó có những giải pháp, đường lối, chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân nói riêng và của toàn bộ kinh tế nói chung. Nội dung đề án gồm: Chương I : Lý luận về kinh tế tư nhân Chương ii : Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiệ nay- vai trò và tình hình phát triển Chương iii: Các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay. Chương i : Lý luận về kinh tế tư nhân. I. Khái niệm và bản chất của kinh tế tư nhân(KTTN): 1. Khái niệm: Theo thông lệ của theo thông lệ thống kê quốc tế người ta thường chia nền kinh tế của cá quốc gia thành 2 khu vực: khu vực KTNN và khu vực kinh tế nhà nước. ở Việt Nam, với bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa, tồn tại bên cạnh khu vực KTNN là khu vực kinh tế tư nhân. Hội nghị lần thứ v ban chấp hành trung ương Đảng khoá ix khẳng định :”Kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân”. Như vậy, với khái niệm trên bao gồm hai nội dung: – Về lĩnh vực sản xuất kinh doanh:Kinh tế tư nhân rất rộng về cả hình thức sở hữu và ngành nghề mà các chủ thể đó tham gia vào sản xuất kinh doanh:công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, chế biến nông lâm sản, thương mại, dịch vụ. Về tổ chức: Khu vực kinh tế tư nhân bao gồm các hình thức kinh tế sau: Kinh tế cá thể: Được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động của chính cá nhân và hộ đó, không thuê mướn lao động làm thuê. Kinh tế tiểu chủ: là hình thưc kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và điều hành, hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất và có sử dụng lao động làm thuê. Kinh tế tư bản tư nhân: gồm công ty trách nhiệm hữu hạn,doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần được thành lập theo luật doanh nghiệp, luật công ty. 2. Bản chất của KTTN: Như ở trên chúng ta đã biết, KTTN không phải là 1 thành phần kinh tế mà là 1 phạm trù để chỉ nhóm thành phần kinh tế có những đặc trưng chung, lại vừa có bước khác nhau. Có thể xem xét KTTN trên các quan hê kinh tế cơ bản sau . 2.1. Quan hệ sở hữu: Khu vực KTTN tồn tại song song với khu vực kinh tế nhà nước, dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất(hoặc vốn ). Nó gồm sở hữu tư nhân nhỏ, là sở hữu của những người lao động tự do, sản xuất ra sản phẩm từ lao động của chính mình và các thành viên trong gia đình(thợ thủ công cá thể, tiểu thương, các hộ nông dân…), và sở hữu tư nhân lớn của các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài đầu tư ở VN. 2.2. Quan hệ quản lý Xuất phát từ quan hệ sở hữu của KTTN, quan hệ quản lý của khu vực kinh tế này bao gồm các quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ và sở hữu tư nhân lớn. Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ là quan hệ dưạ trên sự tổ chức điều hành hay phân công công việc trong nội bộ gia đình, giữa các thành viên, thường dựa trên quan hệ tình cảm. Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn là quan hệ quản lý giữa chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư với công nhân, người lao động. Người quản lý là những cá nhân : chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư hoặc một nhóm người. 2.3. Quan hệ phân phối Trong kinh tế tư nhân, quan hê phân phối dựa trên cơ sở các loại hình sở hữu tư nhân khác nhau. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh mà người sở hữu đồng thời là người lao động (thường ở người kinh tế cá thể, tiểu chủ ), thì phân phối sản xuất lao động là tự phân phối trong nội bộ chủ thể kinh tế đó. Đối với cá cơ sở sản xuất kinh doanh lớn khác có thuê mướn lao động(thành phần KTTN, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế hỗn hợp) thì phân phối kết quả căn cứ vào sở hữu giá trị, túc là sức lao động của lao động làm thuê và sở hữu tư bản. ở Việt Nam bản chất nhà nước là XHCN, quan hệ phân phối có khác so với nhà nước mang bản chất TBCN, ở đây quyền lợi người lao động được đảm bảo tốt hơn, người lao động được trả công xứng đáng với số lao động họ bỏ ra KTTN ở Việt Nam chịu sự quản lý của nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, mục đích phát triển nền phát triển KTTN nhằm phát triển kinh tế xã hội, xây dựng XHCN. Vì vậy, ở Việt Nam, KTTN mang bản chất XHCN. 2.4. Định hướng XHCN là một đặc trưng của KTTN ở Việt Nam: Phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội, đưa đất nước phát triển giàu mạnh, hướng tới chủ nghĩa xã hội là mục tiêu mà Đảng, nhà nước và nhân dân Việt Nam đang hướng tới. Định hướng XHCN là một đặc trưng của KTTN ở Việt Nam hiện nay, giữ vững định hướng đó trong phát triển KTTN là một vấn đề rất nhạy cảm, là vấn đề mà xã hội rất quan tâm. Trong sự hoạt động, phát triển của khu vực KTTN, Đảng luôn nhấn mạnh định hướng XHCN, đưa KTTN phát triển hàng đầu, kìm chế những tiêu cực do khu vực KTTN gây ra. Phát triển KTTN cần quán triệt một luận điểm quan trọng của Đảng được nêu ra trong nghị quyền Đại hội vi cách đây 18 năm là :”Tiêu chuẩn đánh giá sự vần dụng đúng đắn các quá trình thông qua chủ trương cộng sản của Đảng và nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao”. Đặc trưng định hướng XHCN trong phát triển KTTN làm hạn chế, giảm bớt tiêu cực, sự bóc lột lao động của nhà tư bản với lao động làm thuê, từ đó góp phần phân phối thu nhập xã hội công bằng hơn, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, đảm bảo an toàn xã hội, ổn đinh chính trị phát triển kinh tế. II. Sự tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam là một tất yếu khách quan 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin về nền kinh tế nhiều thành phần V.I. Lê nin lần đầu tiên đề xuất khái niệm thành phần kinh tế là trọng tưởng” Về bệnh ấu trĩ” “tả khuynh và tính tiểu tư sản”. Nêu ra khái niệm này, Lênin đã cung cấp một cách nhìn, cách hiểu về một kết cấu kinh tế đa dạng, một kết cấu gồm nhiều cấp độ phát triển với nhiều tính chất khác nhau cùng tồn tại bản chất trong thời kỳ quá độ. Lê nin cho rằng, ở Nga lúc đó có 5 thành phần kinh tế: kinh tế nông dân gia trưởng, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, thành phần kinh tế tư bản tư nhân , thành phần kinh tế tư bản nhà nước, thành phần chủ nghĩa xã hội. Các phương thức sản xuất được xếp, định vị vào từng thành phần kinh tế thích hợp, gắn với mỗi hình thức sản xuất có một đại biểu kinh tế, một chủ thể kinh tế nhất định. Quy luật quan hệ sản xuất phối hợp với tính chất và trình độ phát triển của một lực lượng sản xuất là quy luật chung cho mọi phương thức sản xuất. Trong nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhỉều trình độ khác nhau tương ứng với mỗi trình độ của một lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó cơ cấu của nền kinh tế xác đình về phương diện kinh tế xã hội phải là kết cấu kinh tế nhiều thành phần. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức, tức là nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần . v.i. Lênin nhận thấy, con đường phát triển kinh tế, nội dung cơ bản của cuộc xây dựng CNXH ở Nga, tất yếu phải thúc đẩy tiến trình kinh tế. Coi đó là khâu quyết định vì: kinh tế tư bản tư nhân là nấc thang phát triển cao và là động lực của sự phát triển, giải quyết trạng thái kinh tế chậm phát triển, phương thức sản xuất lạc hậu . Vào năm 1953, để mô tả kết cấu kinh tế của XH dân chủ mới của VN Hồ Chủ Tịch đã dùng khái niệm”loại kinh tế”, người viết :”trong chế độ dân chủ mới, có 5 loại hình kinh tế khác nhau: A: Kinh tế quốc doanh( thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân) B: Các hợp tac xã (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH) C: Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghiệp( có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa CNXH). D: Tư bản của tư nhân E : Tư bản của nhà nước (như nhà nước hùn vốn với TBCN để kinh doanh). Trong 5 loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả”. Cho nên nền kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng CNXH chứ không phải theo hướng chủ nghĩa tư bản. Như vậy lực lượng của chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng định trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay tồn tại thành phần kinh tế phi XHCN là tất yếu khách quan. 2. Kinh tế tư nhân trước và sau đổi mới (1986), quan điểm của Đảng KTTN trên thực tế có sức sống mãnh liệt và có nhiều đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhưng do những sai lầm, nóng vội đã coi KTTN là đối tượng phải cải tạo,không được khuyến khích phát triển, không được pháp luật bảo vệ, người ta gọi nó là”kẻ thù” của CNXH. Những người làm việc trong thành phần kinh tế này có địa vị chính trị thấp kém. Sản xuất kinh doanh của họ bị trói buộc, kìm hãm, bị kinh tế quốc doanh, tập thể chèn ép. Quan niệm cũ của xã hội là khu vực KTTN gắn liền với tự quyền đi lên chủ nghĩa tư bản nó đối lầp với con đường đi lên CNXH. Ngay trong điều kiện khó khăn như vậy, khu vực KTTN vẫn tồn tại và chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng quỹ thu nhập của hộ dân cư. Chẳng hạn, trong thu nhập của hộ người nông dân là xã viên hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, thu từ kinh tế tập thể thường chiếm 30 – 40%, kinh tế phụ gia đình (thực chất là khu vực KTTN) chiếm 60 – 70%. Như vậy có nghĩa là trong nhà nước nơi có phong trào hợp tác hoá mạnh nhất, triệt để nhất nhưng luôn tồn tại kinh tế cá thể. Đại hội Đảng lần thứ vi là mốc lịch sử đánh dấu sự chuyển hướng có ý nghiã quyết đình đối với sự hình thành mô hình kinh tế phối hợp với tiền tệ Việt Nam và quy luật khách quan. Đường lối đổi mới được tiếp tục khẳng định và hoàn thiện tại các Đại hội lần thứ vii. Viii, và ix. chủ trương đối với kinh tế tư nhân được đại hội Đảng VI đề ra :”Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác nhau trong sự liên kết chặt chẽ dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế XHCN”- Văn kiện Đại Hội đại biểu lần thứ VI, NXB sự thật, Hà Nội (tr44). Đại hội còn chỉ rõ:”Kinh tế gia đình có vị trí quan trọng và khả năng dồi dào, cần được khuyến khích và giúp đỡ phát triển trong mối quan hệ hỗ trợ và gắn bó với kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể”. Đối với kinh tế tiểu tư sản, Nhà nước thừa nhận sự cần thiết của bộ phận kinh tế này trong thời kỳ quá độ, hướng dẫn và giúp đỡ nó sản xuất, kinh doanh liên kết với kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể. Cương lĩnh tại Đại hội vii của Đảng(1991) đã xác định :”Kinh tế cá thể còn có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyên dân chủ cùng có lợi.Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh, do luật pháp qui định. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức. Đại Hội Đảng lần thứ ix xác định : “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trựờng định hướng XHCN” ( Văn kiện Đại hội Đảng, trang 95 – 96). “Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn ” ( Văn kiện Đại hội Đảng ix, trang 98). “Khuyến khích phát triển kinh tế Tư bản tư nhân rộng rãi trong những nghành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế Tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài, khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước “. “Xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xác định tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai ” Như vậy trong quan điểm của Đảng và của Nhà nước đã có những đổi mới quan trọng trong tư duy nhận thức, đánh giá về khu vực kinh tế tư nhân; và dần được cụ thể hoá bằng những chích sách và pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển : -Từ chỗ chia kinh tế thành 2 bộ phận: XHCN và phi XHCN,chủ trương xoá bỏ thành phần kinh tế phi XHCN, đã chuyển sang thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần, với nhiều hình thức sở hữu, tổ chức kinh doanh đa dạng. -Từ chỗ coi kinh tế quốc doanh là chủ đạo, phải nắm giữ mọi ngành nghề, lĩnh vực, độc quyền nắm tiền,nắm hàng đã chuyển sang phân biệt rõ sở hữu Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; phát triển kinh tế thị trường định hựớng XHCN, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô. Những nỗ lực trên về việc tạo lập hành lang pháp lý để cho KTTN của nước ta phát triển nhanh chóng và vững chắc. Qua đó khẳng định: Đảng, Nhà nước ta tạo điều kiện cho khu vực KTTN phát triển thuận lợi, phát huy hết mọi tiềm lực, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển, tiến lên CNXH. Được Nhà nước khuyến khích phát triển, tồn tại bên cạnh khu vực kinh tế Nhà nước, khu vực KTTN có vai trò như thế nào và tình hình phát triển của khu vực này ra sao, chúng ta cùng xem xét ở chương sau. Chương II : Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam I. Vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay 1. Ưu thế của kinh tế tư nhân Những đặc điểm vốn có: -KTTN có sức sống mạnh mẽ: Khác với kinh tế nhà nước, KTTN dễ thành lập, mang tính tự nhiên, lan truyền, không cần sự hỗ trợ nhiều của Nhà nước. Sự phát triển của KTTN là mang tính khách quan, phản ánh quy luật cung cầu trên thị trường. Sức sống mãnh liệt của KTTN thể hiện sự tồn tại của nó trong nền kinh tế dù cho Nhà nước không thừa nhận, không chấp nhận nó, dù cơ chế kinh tế kìm hãm nó. -Tính bền vững, truyền thống lưu truyền kinh nghiệm : KTTN ra đời cùng sự ra đời của sản xuất hàng hoá và nó là nhân tố thúc đẩy sản xuất phát triển. Hộ gia đình là thành phần kinh tế không thể thiếu trong KTTN; với đặc trưng là một tế bào của nền kinh tế, hộ gia đình luôn tồn tại, phát triển trong nền kinh tế, dưới nhiều hình thức, quy mô. Gắn với sở hữu tư nhân và quá trình tự phát, quá trình phát triển KTTN là quá trình lưu truyền kinh nghiệm truyền thống trong bản thân các doanh nghiệp, xí nghiệp tư nhân, trong các hộ kinh tế gia đình. Những bí quyết công nghệ, kinh nghiệm kinh doanh thường tồn tại trong phạm vi nhỏ và đặc trưng nhất là các làng nghề truyền thống; nó được chuyển từ đời này qua đời khác. -KTTN có cơ cấu tổ chức linh hoạt: Trong bất kỳ một nền kinh tế nào, thì vấn đề then chốt là phải đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. KTTN với sự linh hoạt của mình sẽ phủ đầy những lỗ trống trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng tốt hơn kinh tế nhà nước. Với những đặc điểm vốn có đó, KTTN có ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế . 2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế ở Việt Nam Kể từ sau đại hội Đảng lần thứ vi (tháng 12/1986), và nhất là khi Luật công ty, Luật doanh nghiệp có hiệu lực, KTTN đã được chú trọng và có điều kiện phát triển: số doanh nghiệp trong khu vực KTTN tăng mạnh cả về số lượng, quy mô và vốn đầu tư, tham gia vào mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh của xã hội. Qua đó cho thấy sức sống mạnh mẽ của khu vực KTTN; KTTN khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong sự phát triển kinh tế. Vai trò đó thể hiện qua từng lĩnh vực: 2.1. Trong lĩnh vực nông nghiệp: Trong lĩnh vực nông nghiệp, số hộ tư nhân, cá thể kinh doanh sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn: 81.659 hộ. Đây thực sự là một lực lượng kinh tế mạnh, thể hiện ở các mặt sau: – Trong một thời gian ngắn, các hộ nông dân đã mua sắm nhiều thiết bị hiện đại, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp lên một bước, cụ thể đã mua: 109483 máy phát điện, 36011 động cơ chạy xăng, 72286 máy kéo nhỏ, 5378009 máy bơm … – Kinh tế trang trại phát triển mạnh: trong thời gian ngắn, số trang trại được thành lập là: trên 110000 trang trại trong cả nước, trong đó các tỉnh phía Bắc chiếm 67000 trang trại, tương đương 61% . Hình thức kinh tế trang trại là những tổ chức kinh tế nằm trong khu vực kinh tế tư nhân nhằm đưa sản xuất nông nghiệp lên trình độ sản xuất hàng hoá. Lượng vốn bình quân của mỗi trang trại là 291,43 triệu đồng, nguồn vốn chủ yếu là do chủ trang trại bỏ vốn ra, chiếm 91,03%. Trang trại tạo ra lượng hàng hóa lớn, trung bình một trang trại cung cấp một lượng giá trị hàng hoá là 91.45 triệu đồng, chủ yếu là nông sản, hải sản, sản phẩm chăn nuôi. Như vậy, kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam lên kinh tế hàng hoá, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tạo việc làm cho trên 60 vạn lao động, với tiền công trung bình 434.29 nghìn đồng/gười /tháng. Kinh tế trang trại huy động vốn của người dân, khai thác hiệu quả nguồn lực về nông nghiệp của địa phương. Khu vực KTTN trong nông nghiệp thời gian qua đã góp phần quan trọng vào ngành nông nghiệp: tạo ra gần 1/4 tổng sản lượng của Việt Nam, 30% kim ngạch hàng xuất khẩu. Qua đó, góp phần tích cực trong việc công hiệp hoá nông nghiệp nông thôn, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. 2.2. Trong lĩnh vực công nghiệp: Không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp, KTTN tham gia mạnh mẽ vào lĩnh vực công nghiệp. Toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình đã đóng góp vào sản lượng công nghiệp cả nước là:58% năm 2000, Khu vực KTTN mà đặc biệt là các doanh nghiệp, hộ gia đình có vai trò quan trọng tronglĩnh vực công nghiệp chế tạo. Năm 1999 có 600000 doanh nghiệp, hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo, đóng góp 28% giá trị gia tăng trong công ngiệp chế tạo. Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp sẽ còn tăng hơn nữa vì thể chế pháp lý từ năm 1998 đến nay, nhất là luật doanh nghiệp được phê chuẩn và có hiệu lực từ năm 2000. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong những năm gần đây, trong nông thôn cả nước có khoảng 18 – 20% số hộ nông dân tham gia hoạt động phi nông nghiệp. Trong đó 1/2 là hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng thuộc KTTN, cá thể và hộ gia đình. Hoạt động công nghiệp của KTTN trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn lại có tác động mạnh mẽ đến quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông thôn. Điều này thể hiện: – Hình thành loại hoạt động có tính chất công nghiệp ngay tại địa bàn nông thôn cạnh hoạt động nhà nước. – Giải quyết được nhiều việc làm tại chỗ, góp quyền chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. – Góp phần nâng cao đời sống ngưòi dân nông thôn, do đó mở rộng thị trường trong nước: thị trường hàng tiêu dùng, hàng tư liệu sản xuất, sức lao động. – Góp phần tạo điều kiện và thúc đẩy xây dựng nông thôn Việt Nam hiện đại theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Việc xây dựng nông thôn mới hiện đại là mục tiêu lớn của công nghiệp hoá hiện đại hoá theo tinh thần mới, đòi hỏi cơ sở hạ tầng có nguồn vốn lớn mà chỉ Nhà nước thì không thể làm được. Thu nhập từ hoạt động của khu vực KTTN sẽ là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho sự nghiệp này. Với sự năng động của mình, khu vực kinh tế tư nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp sẽ góp phần thu hút vốn, tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại, tận dụng tri thức con người, kinh nghiệm kinh doanh, qua đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước 2.3. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ: Đây là lĩnh vực kinh tế tư nhân hoạt động sôi động, ngày càng lấn át khu vực kinh tế quốc doanh. Số lượng tăng lên nhanh chóng: năm1986 có 56,8 vạn hộ, năm 1995 có 94 vạn hộ. Tư thương và hộ cá thể ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ: năm 1987, khu vực này đảm nhận tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội là 59%, năm 1995 là 79,4%. – Về mặt số lượng, cơ cấu: 12/2001 số hộ cá thể trong cả nước là 7685978 hộ, trong lĩnh vực thương mại và khách sạn chiếm 54,4%; tập trung nhiều ở thành phố lớn như: thành phố Hồ Chí Minh 17%, Hà Nội 13,6%, Quảng Ninh 7,17%… – Về mặt lao động: lĩnh vực thương mại và dịch vụ tư nhân có thể thu hút nhiều lao động và giải quyết việc làm tốt, tỷ trọng lao động thương nhân cá thể năm 2001 chiếm 87,2%, khu vực khác chiếm 12,8%. – Về doanh số kinh doanh: tổng mức bán lẻ của thương nghiệp tư nhân tăng từ 66,9% lên 75,1% (từ 1990 – 2001). Thương nghiệp quốc doanh và khu vực khác giảm từ 33,1% xuống còn 24,9%. – Đóng góp vào nguồn thu ngân sách khu vực này cũng rất đáng kể, tổng số thuế nộp vào ngân sách nhà nước tăng từ 908 tỷ đồng năm 1991 lên 9782,7 tỷ đồng năm 2001. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, còn phải kể đến vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong xuất nhập khẩu. Tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước trong giá trị xuất khẩu tăng từ 12% năm 1997 lên 22% năm 2000 và tỷ trọng trong giá trị nhập khẩu đã tăng từ 4% lên tới 16%. Như vậy, trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Đặc biệt là trong việc sản xuất hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân thì khu vực KTTN làm tốt hơn khu vực kinh tế nhà nước. 2.4. Trong xây dựng kết cấu hạ tầng: Với chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm và mục tiêu tới năm 2023 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, đòi hỏi một kết cấu hạ tầng tương ứng, bao gồm những công trình lớn về phát triển đường sắt, đường bộ, hàng không. Để xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng phù hợp cho mục đích phát triển kinh tế cần nguồn vốn rất lớn mà nếu chỉ có nguồn vốn Nhà nước thì không đủ sức thực hiện. Những chỉ số sau nói lên điều đó: vốn đầu tư ngành năng lượng hàng năm khoảng 2ữ2,5 tỷ USD, dành 5,3ữ5,5% GDP đầu tư cho kết cấu hạ tầng ngành năng lượng; số vốn cần thiết đầu tư cho ngành giao thông vận tải là 11,6 tỷ USD, tương đương 2,5% GDP tích luỹ. Chỉ với 2 ngành nêu trên, số vốn hàng năm cần thiết cho đầu tư là 3,4ữ3,5 tỷ USD, đó là chưa kể tới những kết cấu hạ tầng khác như viễn thông, nước sạch… Trong thập kỷ tới, nhu cầu vốn sẽ rất lớn, khảng 6ữ7% GDP. Vì thế việc thu hút tham gia của khu vực KTTN là hết sức quan trọng, qua đó khẳng định vai trò quan trọng của khu vực KTTN trong nền kinh tế, vốn nhàn rỗi trong dân sẽ đựơc huy động cho hoạt động kinh tế, phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. II. Tình hình phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam – những đóng góp và những hạn chế: 1. Những đóng góp tích cực, vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian qua: Với những quan điểm, chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước, trong những năm gần đây khu vực KTTN phát triển mạnh mẽ, cụ thể là: tính đến hết tháng 9-2003 cả nước có khoảng 12,4 triệu hộ kinh doanh cá thể, hơn 1000 doanh nghiệp tư nhân. Khu vực KTTN chiếm tỷ trọng áp đảo trong việc tạo chỗ làm mới. Không những thế lượng vốn huy động cho đầu tư khá lớn; tỷ trọng đầu tư của các hộ kinh doanh cá thể và các doanh nghiệp dân doanh trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội năm 2002 là 28.8%. 1.1. Phát triển kinh tế tư nhân thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: a. Xét trên giác độ tổng cung: Sự phát triển của kinh tế tư nhân sẽ cung cấp cho xã hội sản phẩm vật chất và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu đời sống, nhu cầu cho quá trình tái sản xuất của xã hội. Tốc độ tăng trưởng của khu vực KTTN khá ổn định, năm 2002 tăng trưởng cả nước là 7% thì khu vực KTTN trong cả nước tăng 19%, khu vực đầu tư nước ngoài tăng 15%. Với tốc độ tăng trưởng trên, khu vực kinh tế tư nhân tạo ra 43,36% GDP năm 1995; 42,65% GDP năm 1996; 41,54% GDP (1997); 41,07% GDP (1998) và 40,179% GDP (1999). Đây là đóng góp đáng kể vào sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội và tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. b. Xét trên góc độ tổng cầu: Vấn đề tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế là vấn đề quan trọng. Vì vậy nhiều quốc gia trên Thế giới, trong đó có Việt Nam đã có chính sách kích cầu. ở Việt Nam, theo tính toán của các nhà thống kê, để tăng trựởng 1% GDP cần tăng trưởng tiêu dùng 2,1ữ2,2%. Khi khu vực KTTN phát triển sẽ làm tổng cầu tăng, vì: – Do mở rộng sản xuất làm cho nhu cầu các yếu tố đầu vào tăng. – Thu nhập người lao động tăng và số lao động được huy động tăng. 1.2. Huy động vốn trong xã hội: Khu vực KTTN có đóng góp rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư trong xã hội. Tính đến cuối năm 2003, đầu tư của KTTN chiếm 27% tổng đầu tư xã hội của Việt Nam (khoảng 10 tỷ USD), cao hơn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế địa phương. Chẳng hạn, đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh năm 2002 ở thành phố Hồ Chí Minh chiếm 38% tổng số vốn đầu tư xã hội trên địa bàn, cao hơn tỷ trọng vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và ngân sách gộp lại (36,5%). Với hoạt động khu vực KTTN, nguồn vốn trong dân đã dần dần được khơi thông, góp phần thúc đẩy quy mô đầu tư của nền kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân dễ huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Theo kết quả điều tra nguồn lực do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội tiến hành cho thấy có tới trên 70% vốn sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình là huy động của bà con họ hàng. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 1999 – 2000 TT Chỉ Tiêu Đơn vị tính 1999 2000 Tăng so với năm trước 1 Tổng vốn đầu tư phát triển xã hội Tỷ đồng 131171 147633 12.55 2 Khu vực KTTN Tỷ đồng 31542 35894 13.79 2.1 Doanh nghiệp tư nhân Tỷ trọng trong toàn xã hội Tỷ trọng trong khu vực KTTN Tỷ đồng % % 5628 4.29 17.04 6627 4.48 18.46 17.75 2.2 Hộ kinh doanh cá thể Tỷ trọng trong toàn xã hội Tỷ trọng trong khu vực KTTN Tỷ đồng % % 25914 19.75 82.15 29267 19.82 81.53 12.93 1.3. Phát triển kinh tế tư nhân góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giữ gìn ổn định xã hội: Tạo công ăn việc làm có thể coi là đóng góp quan trọng nhất của khu vực KTTN. Trong điều kiện nước ta, vấn đề lao động và việc làm đang là vấn đề cấp bách. Hệ thống các doanh nghiệp nhà nước đang trong quá trình cải cách, không tạo thêm được nhiều việc làm mới, khu vực hành chính nhà nước đang giảm biên chế và tuyển dụng mới không nhiều. Do đó khu vực KTTN là nơi thu hút, tạo việc làm mới cho xã hội. Các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể (phi nông nghiệp) đã sử dụng hơn 6 triệu người. Trong 3 năm (2000-2002) các doanh nghiệp dân doanh và hộ cá thể mới thành lập đã tạo ra khoảng 1,5 triệu chỗ làm mới. Cùng với sự tăng trưởng của khu vực KTTN là thu nhập của người lao động ngày một nâng cao. Theo Tổng cục Thống kê thì mức thu nhập bình quân tháng một lao động như sau: Các loại hình doanh nghiệp Mức thu nhập trung bình(1000đ) Chung các loại hình doanh nghiệp – Doanh nghiệp nhà nước – Doanh nghiệp tư nhân – Công ty cổ phần – Tập thể – Công ty trách nhiêm hữu hạn – Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1041.1 1048.2 651.1 933.0 529.3 801.8 1754.5 Thu nhập người lao động tăng, đời sống nhân dân được nâng cao, góp phần quan trọng trong phân phối lại thu nhập, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, qua đó tình hình chính trị đất nước được củng cố ổn định. 1.4. Tăng thu cho ngân sách quỗc gia Đóng góp của doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước đang có xu hựớng tăng nhanh, từ khoảng 6.4% năm 2001 lên hơn 7% năm 2002. Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103.6% kế hoạch, tăng 13% so với năm 2001. Ngoài ra khu vực KTTN còn góp phần tăng nguồn thu ngân sách như: thuế môn bài, VAT và các khoản phí khác. ở một số địa phương, đóng góp của doanh nghiệp dân doanh chiếm tỷ trọng lớn như: thành phố Hồ Chí Minh là 15%, Tiền Giang: 24%, Đồng Tháp: 16%, Gia Lai: 22%, Quảng Nam 22%, Bình Định: 33%… 1.5. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, hoàn thiện hệ thống ngành nghề: KTTN phát triển bên cạnh các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam, nó sẽ góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh ở các loại hình doanh nghiệp. KTTN ngày càng phát triển đa dạng về lĩnh vực, do vậy những lĩnh vực vốn trước đây có sự độc quyền thì na._.
Cập nhật thông tin chi tiết về Phát Triển Bền Vững Kinh Tế Tư Nhân Ở Việt Nam: Một Số Vấn Đề Đặt Ra Và Giải Pháp trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!