Bạn đang xem bài viết Phân Tích Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta (Lớp 5) được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta hay được tìm và tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau với nội dung và hướng viết đa dạng và phong phú
Phân tích bài thơ hạt gạo làng ta (lớp 5)
Khi làm bài thơ này, Trần Đăng Khoa đang học cấp 1 nhưng bằng sự hiểu biết đời sống nông thôn và nhờ tài năng đặc biệt, bài thơ được viết ra một cách sâu sắc, rung động, giàu ý nghĩa nhưng lại rất trẻ con.
Ở lứa tuổi ấy mà biết nghĩ như thế là sâu sắc lắm. Từ một thực tế có tính khoa học là cây lúa hút chất dinh dưỡng dưới bùn, đất ra hoa trổ bông, kết hạt ( như ai cũng biết) thì nhà thơ bằng sự tinh tế của tâm hồn còn nghe được, cảm nhận được ” vị phù sa”. ” hương sen thơm” trong hạt gạo. Và hơn thế nữa có cả tình người, lòng người ấp ủ:
Làm ra hạt gạo gian khổ biết chừng nào. Ca dao cổ có câu thấm thía:
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”
Đó là cách phát biểu trực tiếp, có tính chất luân lí, hơi nghiêng về lí trí. Còn trong bài thơ này , Trần Đăng khoa để thực tế nói lên:
Bão dập, nắng lửa, mưa dầm, thiên nhiên của đất nước Việt Nam đới khắc nghiệt này đã đổ vào đầu bà con nông dân bao nhiêu nhọc nhằn để làm ra hạt gạo , mà cụ thể nhất là bà mẹ của mình:
Bốn câu thơ có sức chứa lớn về nội dung, về hình thức biểu hiện. Nghĩ bằng cách nghĩ của trẻ con, tác giả mới so sánh cái nước do mặt trời hun nóng lên ở ruộng với nước nóng mà ta đun nấu lên; nước nóng đến mức “chết cả cá cờ” thì phải là dưới con mắt và suy nghĩ của trẻ con mới nhìn thấy được. Vì sao vậy? Cá cờ là loài cá còn gọi là cá thia lia, thân đuôi nhiều màu sắc sặc sỡ, các cậu bé ở nông thôn mà bắt được là thường đem về nuôi ở chai, lọ thủy tinh như ở thành phố người ta nuôi cá vàng.
Nước óng chết cả cá, như chết mất con cá cờ thì quả là tiếc đứt ruột. Phải có con mắt trẻ con, tâm lí trẻ con mới viết được hai câu thơ:
” Cua ngoi lên bờ” không sống ở nông thôn không có thực tế ruộng đồng thì không có câu thơ đó. Nóng quá, cua phải ngoi lên bờ, nhưng bất ngờ đến sửng sốt:
Hai câu thơ, hai hình ảnh đối nghịch nhau gây một chấn động tình cảm mạnh trong lòng người đọc. Có phải nói gì nhiều về những vất vả của người mẹ để làm ra hạt gạo? Hai câu thơ đó đã nói lên quá nhiều.
Kể ra bài thơ dừng ở đây là được rồi, là đúng với lứa tuổi của người viết. Nhưng trong thời điểm cả nước dồn sức đánh Mĩ, trẻ con cũng già đi trước tuổi. Các em không được sống cái hồn nhiên cái tuổi bắt dế, nuôi chim của mình. Trần Đăng Khoa cũng vậy mà còn hơn thế nữa. Vì thông minh hơn người, em tiếp cận không khí chính trị, không khí xã hội một cách nhạy bén:
Băng đạn vàng như lúa đồng, có lẽ đó là ý thơ hay nhất trong cả bài và cũng là câu thơ hay nhất trong tất cả những bài thơ viết về người nông dân miền Bắc trong những năm đánh Mĩ. Câu thơ này hay về sự điển hình, hay về sự so sánh độc đáo, mới lạ và chính xác. Phải sống trong những năm tháng ấy mới có sự liên tưởng về bông lúa vàng trĩu hạt với những băng đạn vàng rực, cũng nặng trĩu trong tay người đánh giặc.
Trần Đăng Khoa vừa miêu tả hạt gạo nghìn đời, vừa nói đến hạt gạo những năm đánh Mĩ: gian khổ và nghĩa tình. Tác giả biết chọn lọc những hình ảnh có sức rung động. Câu thơ:’
Vừa nói lên được hoàn cảnh vừa nêu được khí thế đất nước của ngày ấy.
Năm gần hết, tết sắp đến, nhiều người đang xốn sang chạy ngược chạy xuôi để mua cho được tấm vé tàu, vé xe hầu kịp về quê sau một năm xa cách. Họ háo hức về quê đón một cái tết, một mùa xuân, một năm mới với bao ước mơ tươi đẹp cùng gia đình, bên người thân. Các cháu thiếu nhi còn nôn nóng mong tết biết bao! Mong đến nỗi các cháu thường đếm ngược thời gian, hay hỏi người lớn còn bao nhiêu nữa sẽ đến tết.
Ông bà ta rất quí trọng hạt gạo, coi hạt gạo, hạt cơm là “hạt ngọc” trời cho để nuôi sống con người. Chính vì thế, mà những hạt cơm, con cháu sơ lý làm vương vãi xuống đát, ông bà ta phải nhặt lên, nếu không thì “phí của trời”. Mà quả thật, trong dân giang biết bao câu truyện về người coi thường : Hạt ngọc” của trời đã nhận lãnh hậu quả thuê thảm, đau thương, từ đang giàu có biến thành tán gia bại sản. Hạt gạo tuy được trời cho, nhưng phải qua công sức của con người một nắng hai sương mới có. Trong bài thơ: ” Hạt gạo làng ta” của Trần đăng khoa viết năm 1968 khi nhà thơ vừa tròn 10 tuổi đã nói lên được một phần ý nghĩa đó.
Ấy thế mà ” Mẹ em xuống cấy” mẹ đâu quản nắng mưa, đầu tắt, mặt tối để kiếm bát cơm đầy cho con, cho gia đình ấm bụng.
Vì thế, ca dao Việt Nam như đã đồng cảm với bao vất vả cực nhọc thấm đẩm mồi hôi của người nông dân chân lấm tay bùn và lên tiếng nhắc nhỡ mọi người:
Dảo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”
Hạt gạo được con người chế biến ra nhiều loại lương thực, bao thứ bánh trái, với hương vị đậm đà, ngọt ngào khác nhau, và thật phong phú theo từng vùng miền của quê hương đất nước. Ta chỉ có thể cảm nhận một cách đầy đủ khi đã được đôi lần đi qua và thưởng thức. Thật thú vị khi được ngòi quanh bếp lưa hồng, với cái lanh se se vào cuối đông để canh chừng một nồi bánh chưng chờ cho bánh chín rền trong những ngày đón xuân sắp đến.
Ngày xưa thì bão tháng 7 nhưng vừa rồi chả có cơn bão tháng 5 to đùng là gì ai chả biết, trước kia những trưa tháng 6 nóng quá cá, cua nổi hết lên chỉ cần đi một lúc buổi chưa là cũng có thể mang về một ủng tay, ủng chân hay một giỏ rồi. Nhưng bây giờ những thứ đó đã trở thành đặc sản rồi nên nắng nóng chỉ thấy có người chết thôi còn cua cá chẳng thấy đâu cả. Hạt gạo ngày xưa thì mang hương vị của phù xa còn bây giờ toàn phân lân, phân đạm và các chất hóa học độc hại thôi. Ngày xưa toàn mùi thơm của lúa thời con gái, của thóc chín bây giờ đi trên đường nhiều chỉ hít bụi nên chết lúc nào không hay, bây giờ hết chiến tranh rồi hạt gạo làng ta đã đi xuất khẩu lao động sang châu phi châu mỹ cả rồi mỗi năm trung bình có khoảng 60-70tr tấn chư kể vượt biên sang các nước liền kề
Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy Có hương sen thơm Trong hồ nước đầy Có lời mẹ hát Ngọt bùi đắng cay… Hạt gạo làng ta Có bão tháng bảy Có mưa tháng ba Giọt mồ hôi sa Những trưa tháng sáu Nước như ai nấu Chết cả cá cờ Cua ngoi lên bờ Mẹ em xuống cấy… Hạt gạo làng ta Những năm bom Mỹ Trút trên mái nhà Những năm cây súng Theo người đi xa Những năm băng đạn Vàng như lúa đồng Bát cơm mùa gặt Thơm hào giao thông… Hạt gạo làng ta Có công các bạn Sớm nào chống hạn Vục mẻ miệng gàu Trưa nào bắt sâu Lúa cao rát mặt Chiều nào gánh phân Quang trành quết đất Hạt gạo làng ta Gửi ra tiền tuyến Gửi về phương xa Em vui em hát Hạt vàng làng ta… Bài thơ này đã được nhạc sĩ Nguyễn Viết Bính phổ nhạc thành nhạc phẩm cùng tên.
Sau khi đọc bài thơ “Hạt gạo làng ta” của nhà thơ Trần Đăng Khoa, em có cảm nhận rằng:
Muốn làm ra được hạt gạo thì đâu phải dễ dàng gì, người nông dân phải vất vã rất nhiều. Trong hạt gạo có bao nhiêu mồ hôi nước nước mắt, vị phù sa của con sông thuần khiết, hương sen và cả những câu hát vui khi chăm sóc cánh đồng, khoảnh ruộng của mẹ. Người nông dân muốn cho cây lúa tốt tươi thì còn phải cực nhọc khi những cơn bão lớn đi qua, mưa to, gió lốc lớn, những trưa hè oi ả lại phải ra đồng cày cấy, nước ruộng nóng cứ như là được ai đun sôi. Đến các con vật như cá, cua cũng không chịu nổi: “cá chết-cua ngoi lên bờ”. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt của thiên nhiên như vậy mà người nông dân, cụ thể ở đây là người mẹ của tác giả vẫn không quản khó khăn, chịu nắng nóng khắc nghiệt để xuống đồng gieo mạ. Bài thơ đã cho mọi người hiểu cảnh khổ cực của nông dân thời bao cấp, để mọi người luôn nhớ ơn người nông dân đã làm ra những hạt gạo trắng trong chắt lọc tinh hoa của đất trời nghìn năm muôn thuỡ.
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.
Phân Tích Vẻ Đẹp Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Của Trần Đăng Khoa
Sơ nét về tác giả và tác phẩm
Để tìm hiểu về nội dung và ý nghĩa của tác phẩm cũng như phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta, trước hết bạn cần nắm được những nét cơ bản về tác giả cùng tác phẩm.
Trần Đăng Khoa sinh năm 1958, quê của ông là làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Từ thuở còn nhỏ, ông đã được nhiều người biết đến với tài năng sáng tác thơ thiên bẩm. Khi chỉ là một cậu bé 8 tuổi, Trần Đăng Khoa đã có tác phẩm được đăng báo và 2 năm sau đó, tập thơ “Góc sân và khoảng trời” của ông đã được xuất bản bởi Nhà xuất bản Kim Đồng.
Trần Đăng Khoa từng có một khoảng thời gian phục vụ trong quân ngũ và sau khi đất nước được thống nhất, ông có điều kiện tập trung cho việc học tập. Ông từng theo học tại Trường Viết văn Nguyễn Du và với sự nhạy bén trong tiếp thu kiến thức, ông đã được cử sang Nga du học và khi trở về, ông đầu quân cho Tạp chí Văn nghệ quân đội.
Trần Đăng Khoa là tác giả đảm nhiệm khá nhiều những chức vụ quan trọng trong các tổ chức về văn chương, truyền thông, báo chí, chẳng hạn như: Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam và gần đây còn được mời làm giám khảo, có quyền cầm cân nảy mực cho cuộc thi Viết thư quốc tế UPU. Những năm sau này, nhà thơ đang giữ chức vụ Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam.
Nhà thơ đã cho ra đời những tác phẩm nổi bật như: “Từ góc sân nhà em” ; “Góc sân và khoảng trời” ; “Trường ca Trừng phạt” ; “Trường ca Giông bão” hay … Với rất nhiều những sáng tác kể trên, nhà thơ đã vinh dự nhận được giải thưởng của báo Thiếu niên Tiền phong, báo Văn nghệ và đặc biệt là vào năm 2001, nhà thơ được vinh danh với Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta, ta thấy tác phẩm này được trích từ tập thơ “Góc sân và khoảng trời” và được viết vào năm 1969 khi đất nước ta đang diễn ra cuộc kháng chiến chống Mĩ khốc liệt. Ở thời điểm này, nhà thơ mới chỉ là một cậu bé 11 tuổi nhưng lại có những suy nghĩ rất trưởng thành và chu đáo.
Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta của Trần Đăng KhoaTìm hiểu nguồn gốc của “hạt vàng”, những gian khổ đắng cay để tạo ra hạt gạo, hạt gạo trong những năm tháng kháng chiến gian lao cùng với ý nghĩa và giá trị của hạt gạo là những nội dung chính cần tìm hiểu khi phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã thể hiện giá trị của gạo để thể hiện giá trị của hạt gạo:
Việt Nam ta vốn là đất nước nông nghiệp với hình ảnh quen thuộc của ruộng đồng, thôn xóm, hạt gạo … Hạt gạo trắng sữa đã được xem như là hạt ngọc quý giá trời cho với vị phù sa nồng nàn của con sông Kinh Thầy thân thuộc, hương thơm thanh mát của hồ sen và xuất hiện trong cả những lời mẹ hát ru con với sự “ngọt bùi đắng cay” da diết.
Chính những hạt lúa nhỏ bé, trắng tinh khôi ấy chính là thứ mang lại nguồn lương thực và cả giá trị tinh thần vô cùng lớn lao dành cho mọi người. Dường như, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã miêu tả vẻ đẹp của những hạt gạo bằng những hình ảnh thân thuộc, gắn bó với nhân dân nhưng lại là những gì đẹp đẽ nhất và tinh túy nhất.
Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta, người đọc nhận thấy trước khi thành hình và có thể xuất hiện với những vẻ đẹp tinh túy như cách mà Trần Đăng Khoa miêu tả, có được hạt gạo là cả một quá trình con người phải trải qua rất nhiều những khó khăn và gian khổ:
Qua những dòng viết của nhà thơ, ta thấy hiện lên biết bao nhiêu những trở ngại làm ảnh hưởng đến việc canh tác, cấy cày. Trở ngại ấy phần lớn đến từ sự khắc nghiệt của thiên nhiên, khí hậu.
Chắc hẳn ta vẫn nhớ một bài ca dao rất đỗi quen thuộc của ông cha: “Ai ơi bưng bát cơm đầy” – “Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần” . Cái phải chăng chính là nỗi cực nhọc của người nông dân khi phải đối mặt với những trở ngại của thiên nhiên. Đó là bão giông khi tháng bảy về, là mưa tuôn khi tháng ba đến và trời nắng như cháy da bỏng thịt của những trưa tháng sáu. Những biến động đó của thời tiết là những thách thức rất lớn đối với cây lúa vốn là loại thân mềm lại rỗng ở phía bên trong. Thế nhưng những thử thách ấy dù có lớn đến như thế nào thì cũng không thể làm khó được con người.
Không đổ mồ hôi rơi nước mắt, mà người mẹ trong bài thơ cũng như rất nhiều những người nông dân khác đều phải trải qua rất nhiều những khó nhọc chỉ mong có thể lấy công sức ấy đổi lấy những hạt lúa căng tròn và chén cơm mát ngọt. Điều đó khiến cho ta có thể cảm nhận được những phẩm chất lao động đáng quý của người nông dân Việt Nam. Dù cho bão táp, mưa dầm, nắng rọi khiến cho “nước như ai nấu” , họ vẫn không quản khó nhọc, vẫn cần cù, siêng năng làm lụng chỉ để mong có một mùa thu hoạch thuận lợi, để cuộc sống được đủ đầy hơn, ấm no hơn…
Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta sẽ thấy việc bảo vệ hạt gạo trong chiến tranh với ý chí kiên cường của nhân dân đã cho thấy vai trò và ý nghĩa lớn lao của “hạt ngọc” làng ta. Gian khó mà người nông dân đối mặt trong sản xuất nông nghiệp không chỉ đơn thuần là sự khắc nghiệt của thiên nhiên mà có những thứ còn khủng khiếp, nguy hiểm hơn nữa, đó chính là bom đạn trong chiến tranh:
Những câu thơ trên đã tái hiện ra khung cảnh đất nước trong những năm cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra vô cùng khốc liệt. Để tàn phá đất nước ta, chúng không ngại đổ xuống đất ta vô vàn những trận mưa bom, bão đạn với sức hủy diệt ghê gớm. Trước hoàn cảnh đó, bao lớp thanh niên đã đi theo tiếng gọi của tình yêu tổ quốc để xung phong vào trận mạc làm nhiệm vụ chống lại quân thù, bảo vệ nền hòa bình cho đất nước. Đó là nhiệm vụ rất đỗi lớn lao.
Lúc này, những người ở lại đảm nhiệm một vai trò cũng lớn lao không kém, là một hậu phương vững chắc bằng cách tăng gia sản xuất để có thể làm ra lúa gạo cung ứng cho bộ đội ta. Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta, người đọc cũng thấy quá trình làm ra hạt gạo đã không hề dễ dàng vì sự xuất hiện của những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt như đã nói, nhưng những người nông dân đã vượt qua rất xuất sắc.
Ấy vậy mà bao nhiêu thành quả lao động sắp được gặt hái thì lại đứng trước nguy cơ bị hủy hoại không thương tiếc của bom đạn kẻ thù. Hình ảnh băng đạn của giặc “vàng như lúa đồng” đã cho thấy sức tàn phá vô cùng của chiến tranh. Vậy là người nông dân phải ra sức bảo vệ lấy chúng để rồi vẫn dành cho đời, nhất là những anh bộ đội chiến sĩ những thành quả ngọt ngào:
Hoàn cảnh của chiến tranh tuy có nghiệt ngã, khốc liệt nhưng lại là dịp để làm nổi bật lên ở người nông dân ý chí, lòng quyết tâm, sự can trường và tinh thần sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn, thử thách. Dù có khi sự nguy hiểm đe dọa đến sinh mạng con người nhưng họ vẫn không hề lùi bước để có được “bát cơm mùa gặt” – “thơm hào giao thông” .
Như vậy, họ thật sự đã trở thành tấm gương, là hậu phương vững vàng và đồng thời cũng là động lực để cho những người chiến sĩ nơi chiến trường có thêm lí do để quyết tâm chiến đấu và mang về thắng lợi. Và quả thật, cuộc kháng chiến chống Mĩ của ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác để rồi cuối cùng cả hai miền Nam – Bắc được vui niềm vui thống nhất… Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta sẽ nhận ra thành quả đó dĩ nhiên được tạo nên không chỉ từ một cá thể, một tổ chức mà là sự hợp sức và đồng lòng của cả đất nước, dân tộc.
Như đã nói, để làm nên sự thắng lợi thì cần đến sự hợp lực của đông đảo mọi người, với công tác sản xuất cấy cày ở địa phương, không chỉ có người lớn mà trẻ em cũng có thể tham gia như một sự đóng góp cho công tác chung của đất nước:
Hình ảnh những bạn nhỏ xuất hiện tạo nên một không khí mới cho đoạn thơ dù ở đoạn thơ trước đó tác giả thể hiện sự căng thẳng, hiểm nguy của chiến trận. Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta, người đọc nhận thấy dù còn ở tuổi nhỏ nhưng những đứa trẻ đã biết phụ giúp cho gia đình những công việc tuy nhỏ nhưng không kém phần quan trọng. Điều này đã giúp những cánh đồng có thể phát triển tốt nhất: nào là tưới nước để lúa không bị khô cằn vì nắng hạn, nào là bắt sâu ban trưa để chúng không thể phá hoại cây và cả gánh phân chăm bón để cây lúa có chất dinh dưỡng và phát triển được tốt nhất.
Những bạn nhỏ ấy đã làm việc với tinh thần hăng say không khác gì người lớn. Điều đó khiến ta như cũng thấy thêm hân hoan, tự hào vì công cuộc xây dựng đất nước có cả sự góp sức của sức trẻ. Như vậy, có thể thấy lứa tuổi nào cũng có thể đóng góp một phần công sức của mình vào sự nghiệp chung của dân tộc, dù nhỏ thôi nhưng đã thể hiện tấm lòng chân thành dành cho quê hương xứ sở. Riêng những bạn nhỏ trong bài thơ, chính nhờ vào bàn tay góp sức mà hạt gạo trắng thơm được gửi đi đến khắp muôn nơi và mang đến biết bao nhiêu niềm vui cho cả người cho và nhận:
Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta dễ dàng nhận ra tác giả nhắc nhiều đến từ , thế nhưng trong đoạn thơ này, tác giả đã gọi hạt gạo là “hạt vàng”. Nhà thơ dường như muốn thể hiện sự trân trọng đối với giá trị vô cùng quý giá của hạt gạo ấy. Nó không chỉ quý vì có thể giúp con người ấm lòng no bụng mà còn quý vì chứa đựng biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và sự cố gắng của những người làm ra…
Đánh giá về tác phẩm khi phân tích bài thơ Hạt gạo làng taPhân tích bài thơ Hạt gạo làng ta, người đọc dễ dàng nhận thấy tác phẩm được viết theo thể thơ bốn chữ ngắn gọn, nhịp thơ uyển chuyển và cùng các hình ảnh đặc sắc của làng quê Việt Nam, nhất là hình ảnh của hạt gạo trắng ngần, thơm mát. Như vậy, bài thơ đã toát lên những nội dung giàu giá trị. Đó là tình cảm trân trọng của nhà thơ đối với hạt gạo được vun trồng bởi bàn tay khéo léo, chăm chỉ của người nông dân. Bên cạnh đó, nhà thơ còn bày tỏ sự mến phục với những người lao động miệt mài quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời để dâng tặng đời món quà quý báu của đồng nội.
Có thể thấy bài thơ “Hạt gạo làng ta” dù được sáng tác bởi một Trần Đăng Khoa nhỏ tuổi nhưng lại thể hiện những suy nghĩ của một người chín chắn, trưởng thành. Sau những vần thơ ngắn gọn ấy, ta cảm nhận được sự quý giá của hạt gạo nói riêng và thành quả của người lao động nói chung. Từ sự cảm nhận đó, ắt hẳn nhà thơ cũng mong muốn mỗi người hãy biết góp sức xây dựng và đồng thời phải biết trân trọng những thành quả ngọt ngào được làm ra.
Giới thiệu nét chính về tác giả Trần Đăng Khoa.
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Hạt gạo làng ta.
Dẫn dắt vấn đề: phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta.
Nguồn gốc dân dã và giá trị của hạt gạo làng ta.
Những gian khổ khó khăn để có được hạt gạo làng ta.
Ý chí vượt khó vươn lên trong chiến tranh gian khổ của nhân dân để có được hạt gạo.
Sự đóng góp của thiếu nhi cùng với niềm vui của con người trong vụ mùa bội thu.
Tóm tắt giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Bày tỏ những cảm nhận riêng của bản thân trong quá trình phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta.
Dàn ý phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta của Trần Đăng KhoaÝ thơ Hạt gạo làng ta đọng lại trong trái tim người đọc bởi sự trân quý hạt gạo – hạt ngọc của quê hương xứ sở. Từ đó, nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng gửi gắm sự biết ơn đến những dân lao động hai sương một nắng để giúp chúng ta biết trân trọng hơn ý nghĩa của sự vất vả chân lấm tay bùn để tạo ra hạt vàng. Hạt gạo làng ta không những là sản phẩm vật chất mà còn là sản phẩm tinh thần vô giá. Đến nay, tứ thơ của Trần Đăng Khoa đã được phổ nhạc thành những tiếng hát ngân nga đầy sâu sắc…
Tác giả: Việt Phương
Bài Thơ: Hạt Gạo Làng Ta (Trần Đăng Khoa)
Khi làm bài thơ này, Trần Đăng Khoa đang học cấp I nhưng bằng sự hiểu biết đời sống nông thôn và nhờ tài năng đặc biệt, bài thơ được viết ra một cách sâu sắc, rung động, giàu ý nghĩa nhưng lại rất trẻ con.
Hạt gạo làng ta.Có vị phù sa,Của sông Kinh Thầy.Có hương sen thơm,Trong hồ nước đầy…
Ở lứa tuổi ấy mà biết nghĩ như thế là sâu sắc lắm. Từ một thực tế có tính khoa học là cây lúa hút chất dinh dưỡng dưới bùn, đất ra hoa trổ bông, kết hạt ( như ai cũng biết) thì nhà thơ bằng sự tinh tế của tâm hồn còn nghe được, cảm nhận được “vị phù sa”, “hương sen thơm” trong hạt gạo. Và hơn thế nữa có cả tình người, lòng người ấp ủ:
Có lời mẹ hát,Ngọt ngào hôm nay.
Làm ra hạt gạo gian khổ biết chừng nào. Ca dao cổ có câu thấm thía:
Ai ơi bưng bát cơm đầyDẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Đó là cách phát biểu trực tiếp, có tính chất luân lí, hơi nghiêng về lí trí. Còn trong bài thơ này, Trần Đăng khoa để thực tế nói lên:
Hạt gạo làng taCó bão tháng bảyCó mưa tháng baGiọt mồ hôi saNhững trưa tháng sáu
Bão dập, nắng lửa, mưa dầm, thiên nhiên của đất nước Việt Nam đới khắc nghiệt này đã đổ vào đầu bà con nông dân bao nhiêu nhọc nhằn để làm ra hạt gạo, mà cụ thể nhất là bà mẹ của mình:
Nước như ai nấu,Chết cả cá cờ.Cua ngoi lên bờ,Mẹ em xuống cấy.
Bốn câu thơ có sức chứa lớn về nội dung, về hình thức biểu hiện. Nghĩ bằng cách nghĩ của trẻ con, tác giả mới so sánh cái nước do mặt trời hun nóng lên ở ruộng với nước nóng mà ta đun nấu lên; nước nóng đến mức “chết cả cá cờ” thì phải là dưới con mắt và suy nghĩ của trẻ con mới nhìn thấy được. Vì sao vậy? Cá cờ là loài cá còn gọi là cá thia lia, thân đuôi nhiều màu sắc sặc sỡ, các cậu bé ở nông thôn mà bắt được là thường đem về nuôi ở chai, lọ thuỷ tinh như ở thành phố người ta nuôi cá vàng.
Nước nóng chết cả cá, như chết mất con cá cờ thì quả là tiếc đứt ruột. Phải có con mắt trẻ con, tâm lí trẻ con mới viết được hai câu thơ:
Nước như ai nấu,Chết cả cá cờ.
“Cua ngoi lên bờ” không sống ở nông thôn không có thực tế ruộng đồng thì không có câu thơ đó. Nóng quá, cua phải ngoi lên bờ, nhưng bất ngờ đến sửng sốt:
Cua ngoi lên bờ,Mẹ em xuống cấy…
Hai câu thơ, hai hình ảnh đối nghịch nhau gây một chấn động tình cảm mạnh trong lòng người đọc. Có phải nói gì nhiều về những vất vả của người mẹ để làm ra hạt gạo? Hai câu thơ đó đã nói lên quá nhiều.
Kể ra bài thơ dừng ở đây là được rồi, là đúng với lứa tuổi của người viết. Nhưng trong thời điểm cả nước dồn sức đánh Mĩ, trẻ con cũng già đi trước tuổi. Các em không được sống cái hồn nhiên cái tuổi bắt dế, nuôi chim của mình. Trần Đăng Khoa cũng vậy mà còn hơn thế nữa. Vì thông minh hơn người, em tiếp cận không khí chính trị, không khí xã hội một cách nhạy bén:
Những năm bom MỹTrút trên mái nhàNhững năm cây súngTheo người đi xaNhững năm băng đạn,Vàng hơn lúa đồng.Bát cơm mùa gặt,Thơm hào giao thông…
Băng đạn vàng như lúa đồng, có lẽ đó là ý thơ hay nhất trong cả bài và cũng là câu thơ hay nhất trong tất cả những bài thơ viết về người nông dân miền Bắc trong những năm đánh Mĩ. Câu thơ này hay về sự điển hình, hay về sự so sánh độc đáo, mới lạ và chính xác. Phải sống trong những năm tháng ấy mới có sự liên tưởng về bông lúa vàng trĩu hạt với những băng đạn vàng rực, cũng nặng trĩu trong tay người đánh giặc.
Trần Đăng Khoa vừa miêu tả hạt gạo nghìn đời, vừa nói đến hạt gạo những năm đánh Mĩ: gian khổ và nghĩa tình. Tác giả biết chọn lọc những hình ảnh có sức rung động. Câu thơ:
Bát cơm mùa gặt,Thơm hào giao thông…
Vừa nói lên được hoàn cảnh vừa nêu được khí thế đất nước của ngày ấy.
Phân Tích Bài Thơ Mây Và Sóng Của Ta
R. Ta-go ( Rabindranath Tagore ) được biết đến là nhà thơ nổi tiếng tiêu biểu cho nền thơ ca hiện đại của thế kỷ XX ở Ấn Độ
Nhà thơ sinh ra ở Ấn Độ năm 1861 và mất năm 1941 tại Can-cút-ta, thuộc bang Ben-gan, trong một gia đình quý tộc. Thơ ông tượng trưng cho cái hồn của đất nước này.
Những tác phẩm của Ta-go mang đến những xúc cảm mãnh liệt, thiết tha và sâu lắng bởi những chiêm nghiệm được đút kết qua chính cuộc đời của ông. Ông được biết đến với rất nhiều tác phẩm tiêu biểu. Khi phân tích bài thơ Mây và sóng ta sẽ thấy đây là một tác phẩm điển hình cho hồn thơ của ông.
Với sức sáng tạo phi thường của mình, Ta-go đã để lại cho đời một kho tàng đồ sộ với nhiều thể loại khác nhau. Những tư tưởng trong tác phẩm của ông có tầm ảnh hưởng lớn đối với thời đại.
Phân tích bài thơ Mây và sóng cũng như khi tìm hiểu về tác phẩm này, ta thấy nó được in trong tập Thơ non – Đây được xem như một kiệt tác điển hình cho những bài ca về tình yêu thương gia đình, tình mẫu tử thiêng liêng cao quý cũng như hạnh phúc và ước mơ tự do của con người.
Mây và sóng được Ta-go tạo nên giống như một khúc ca, một bài hát nhẹ nhàng với giọng điệu du dương da diết và sâu lắng. Từ đó, tình cảm mẹ con được thể hiện một cách rất tự nhiên và ngọt ngào.
Giới thiệu tác giả Ta-go và bài thơ Mây và sóngTrước khi đi vào cảm nhận và phân tích bài thơ Mây và sóng, chúng ta cần nắm được các ý chính về tác giả cũng như tác phẩm, cụ thể như sau:
Hai bàn tay con ôm lấy mẹ, và mái nhà ta sẽ là bầu trời xanh thẳm. Con là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ, Con lăn, lăn, lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ”
Phân tích bài thơ Mây và sóng của Ta-goTác phẩm chính là những lời kể chân thành và tự nhiên của em nhỏ với người mẹ của mình qua những cuộc đối thoại tưởng tượng của em với các nhân vật sống trên mây và dưới nước. Khi phân tích bài thơ Mây và sóng ta nhận thấy rằng, dù người mẹ không xuất hiện, không trực tiếp đối thoại nhưng ở đây đối tượng để bày tỏ tình cảm của em bé chính là mẹ.
Mở đầu bài thơ là những tưởng tượng của em bé về hình ảnh mây. Em bé đã từ chối lời rủ của mây để ở nhà và bày trò chơi cùng mẹ. Em cũng từ chối những rủ rê của sóng để ở nhà chơi cùng mẹ.
“Mẹ ơi, trên mây có người gọi con Bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà. Bọn tớ chơi với bình minh vàng, bọn tớ chơi với vầng trăng bạc”…..
Qua biện pháp nhân hóa khiến mây và sóng trở nên có linh hồn đồng thời cũng thể hiện tư tưởng của tác giả: đó là sự gắn bó và hòa hợp của hai mẹ con với thiện nhiên và đất trời. Phân tích bài thơ Mây và sóng cũng chính là cảm nhận về những tưởng tưởng của em bé cũng như về tình mẫu tử thiêng liêng.
Tiếp theo là hai cảnh cũng chính là hai lời thoại. Những tưởng tượng phong phú và xúc cảm dâng trào trong lòng đứa trẻ ấy, lần sau cứ cao hơn lần trước. Sự thử thách tình cảm vượt qua bao nhiêu khó khăn trong trí tưởng tượng của em bé đã thể hiện tình mẫu tử trọn vẹn giữa hai mẹ con. Như vậy, phân tích bài thơ Mây và sóng sẽ cho chúng ta thấy được điều này.
“Trong sóng có người gọi con Bọn tớ ca hát từ sáng sớm cho đến hoàng hôn Bọn tớ ngao du từ nơi này nơi nọ mà không biết từng đến nơi nào…”
Giọng thơ nhẹ nhàng, truyền cảm, ý thơ dạt dào cảm xúc, tứ thơ dung dị và đơn giản nhưng hình ảnh thơ lại rất đa dạng và phong phú. Phân tích bài thơ Mây và sóng, chúng ta cùng theo dõi cuộc trò chuyện này:
Cậu bé nhỏ tâm tình thủ thỉ cùng mẹ rồi để cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Những hình dung sáng tạo như tưởng tượng trên mây có người gọi, rủ cậu bé với những trò chơi thú vị với trăng bạc và bình minh vàng… Sự reo vui thích thú của chú bé thể hiện những ước mơ của tuổi thơ thật đẹp biết bao. Phân tích bài thơ Mây và sóng còn cho thấy chú bé lưỡng lự khi có mẹ đang đợi ở nhà. Để rồi tự khước từ những lời mời mọc ngọt ngào ấy để trở về chơi cùng mẹ, bởi vắng mình mẹ sẽ buồn biết bao.
Phân tích bài thơ Mây và sóng trong khung cảnh tiếp theo này, ta thấy chú bé hồn nhiên kể tiếp:
Cuộc rủ rê này thiệt thú vị và thích thú biết bao. Chú bé tưởng tượng và vui mừng với những tưởng tượng ấy. Tuy vậy, những lời dặn dò của mẹ trong tưởng tượng khiến chú bé lưỡng lự “Buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà…” Và chú bé nghĩa đến một trò chơi khác để thay thế. Em sẽ là sóng còn mẹ sẽ là mây – Một trò chơi giàu trí tưởng tượng và đầy sự sáng tạo.
Phân tích bài thơ Mây và sóng qua khung cảnh thứ 2 này, ta thấy chú bé ấy vô cùng yêu thương mẹ của mình. Tình yêu ấy thật thắm thiết và nồng nàn.
Câu cuối bài thơ là lời khẳng định sự tồn tại của mẹ sẽ còn ở khắp mọi nơi.Với những rủ rê nhất thời ấy, cuối cùng, chú bé đã có thể chối từ để một mực nghĩ về mẹ, với trí tưởng tượng các trò chơi có sự tham gia của mẹ.
Người đọc có thể nhận ra một cách dễ dàng khi phân tích bài thơ Mây và sóng, đó là hai hình ảnh tượng trưng dẫu được miêu tả chân thực và sinh động. Những trò chơi trên mây trong sóng ấy, phải chăng biểu trưng cho những cám dỗ quyến rũ của cuộc đời này?. Bãi biển trong tác phẩm là hình ảnh tượng trưng cho lòng mẹ, bao la, rộng lớn và cũng đầy ấm áp.
Nhận xét về nội dung và nghệ thuật của bài thơBài thơ có giá trị nghệ thuật lớn lao bởi Ta-go đã sử dụng nhiều hình ảnh thiên nhiên tuyệt đẹp đồng thời cũng thổi hồn vào đó những ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Ngoài ra, trong tác phẩm ta cũng thấy cách sử dụng biện pháp so sánh tài tình, những liên tưởng và tưởng tượng đầy thú vị.
Có thể nói, hai hình tượng mây và sóng đã chắp cánh cho những tưởng tượng tuổi thơ. Đồng thời, khi phân tích bài thơ Mây và sóng, ta cũng nhận thấy rằng, nhà thơ Ta-go đã khéo léo nhắc nhở chúng ta rằng hạnh phúc không phải nơi xa xôi, không phải khó kiếm tìm mà nó ở ngay trước mặt, hiện hữu chân thực như chính tình mẫu tử sâu nặng.
Tác giả: Việt Phương
5 Bài Văn Mẫu Phân Tích Đoạn Thơ: “Ta Về, Mình Có Nhớ Ta… Nhớ Ai Tiế
Đề bài: Phân tích đoạn thơ: “Ta về, mình có nhớ ta… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” trong bài Việt Bắc
Phân tích đoạn thơ: “Ta về, mình có nhớ ta.. trong bài Việt Bắc
Mẹo Phương pháp phân tích bài thơ, đoạn thơ đạt điểm cao
Bài mẫu số 1: Phân tích đoạn thơ: “Ta về, mình có nhớ ta… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” trong bài Việt BắcKể về những thành tựu xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp xâm lược, có lẽ chúng ta không thể nào không nhắc đến Việt Bắc của Tố Hữu. Đây là một bài thơ mang đậm màu sắc dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Thông qua đó, thế hiện niềm nhớ thương tha thiết và tình cảm sắt son, đằm thắm của nhân dân Việt Bắc với cách mạng, với Đảng, với Bác Hồ, đồng thời cũng thể hiện tình cảm của người cán bộ kháng chiến với thiên nhiên, núi rừng và con người Việt Bắc.
Đoạn thơ gồm năm câu lục bát nhắc lại những cảnh thân thiết và tươi đẹp nhất về cánh và người Việt Bắc trong hồi ức cùa người cán bộ cách mạng miền xuôi, ở đây chính là nhà thơ.
Ta về mình có nhớ taTa về ta nhớ những hoa cùng người.
Đây là hai câu thơ mở đầu nhưng nó mang cảm xúc chung cho toàn đoạn. “Ta” là người ra đi mà cũng là chính tác giả. Ở đây đoạn thơ kết cấu theo lối đối đáp thông thường trong dân ca truyền thống. Do đó, đây chính là lời hỏi ngọt ngào của người ra đi với người ở lại để liên tưởng đây là một thiếu nữ địa phương. Và câu hỏi tu từ này là cái cớ bày tỏ tình yêu của một chàng trai miền đồng bằng với cô gái miền cao.
“Hoa và người” thực là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Ở đây, thiên nhiên hòa điệu với con người, giữa chúng ngoài mối quan hệ tương hỗ còn có mối tương sinh lẫn nhau. Việt Bắc sinh ra con người và con người làm nóng ấm quê hương Việt Bắc.
Tiếp theo, tám dòng lục bát còn lại như là một bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người nơi đây. Với bốn dòng lục, nhà thơ đã miêu tả phong cảnh núi rừng qua bốn mùa, mỗi mùa là một bức tranh thiên nhiên có nét đẹp riêng biệt. Qua đây, ta thấy chỉ riêng đoạn thơ này đã thấm đậm tính chất dân gian.
Bài văn Phân tích đoạn thơ Mình về mình có nhớ ta…ân tình thủy chung
Đầu tiên là bức tranh tả cảnh và khơi gợi cho chúng ta tình cảm mến thương của mùa đông Việt Bắc. Tại sao lại là mùa đông? Vì đây là hồi ức của tác giả trong giờ phút chia tay. Chúng ta còn nhớ, vào một đêm mùa đông 1946, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân kháng chiến. Đặc biệt ở Hà Nội, những người lính cảm tử sau hai tháng giam chân địch trong thành phố đã bí mật vượt sông Hồng để lên căn cứ cách mạng Việt Bắc. Sự kiện này, đến tận bây giờ vẫn sống mãi bởi một khúc hát quen thuộc:
Lưu Trọng Lư trong Một mùa đông đã từng viết:
Đôi mắt em lặng buồn,Nhìn tôi mà không nói.Tình đôi ta vời vợi,Có nói cũng vô cùngTrời hết một mùa đôngKhông một lần đã nói…
Thế mà, ở chốn núi rừng heo hút này đột ngột bừng lên màu đỏ tươi của hoa chuối rừng như những bó đuốc thắp lên sáng rực. Vẻ đẹp nên thơ và rực rỡ của Việt Bắc vào mùa đông gợi cho người đọc những rung động sâu xa. Thông qua bức tranh, ta thấy dù mùa đông lạnh giá nhưng sự sống núi rừng vẫn cứ như tuôn trào, cảm giác đem đến cho lòng người sự ấm áp lại.
Thiên nhiên đáng yêu như thế, còn con người thì sao? Ta xét tiếp câu hát:
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Thời gian được xác định bởi yếu tố “ngày xuân”. Chính ấn tượng thời gian này tạo sự vận động, sinh sôi nảy nở. Không gian ở đây như là cổ tích. Mới vừa rồi màu xanh bạt ngàn điểm hoa chuối đỏ, bây giờ nở bung ra những rừng mơ trắng muốt thoảng hương thơm. Cái màu trắng dìu dịu tinh khiết ấy phủ lên cả cánh rừng, gợi lên trong lòng ta một cảm giác thơ mộng bâng khuâng. Ngoài ra màu trắng của hoa mơ gợi cho người ta cái thanh thoát hơn, đem lại cho lòng người sự thanh thản, thảnh thơi. Câu thơ làm cho ta thấy dường như màu xanh đã bị lấn lướt. Mùa xuân ở đây không tưng bừng như mùa xuân của Xuân Diệu mà nó đến một cách lặng lẽ, âm thầm nhưng không kém niềm vui.
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Mùa xuân miêu tả trong câu thơ rất đặc trưng cho mùa xuân Việt Bắc. Sợi giang là sản phẩm của Việt Bắc. Do vậy, người lao động đó là người Việt Bắc chứ không phải là người miền xuôi. Nhìn thấy được từng sợi giang, tức là con người được nhìn ở tầm gần.
Thế rồi, khoảnh khắc của mùa xuân cũng qua mau, con người tiếp tục sống cuộc sống của họ.
Ve kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mình.
Bức tranh gợi sự chú ý cho người đọc bằng thị giác, lẫn thính giác. Đầu tiên, cái độc đáo ờ đây chính là âm thanh, âm thanh mùa hạ, tiếng “ve kêu”. Câu thơ tạo ra hình ảnh nhân hóa. Con ve là loài vật, vậy mà nó biêt kêu, biết gọi, nó xui khiến rừng phách “đổ vàng”. Chúng ta nên dành một ít thời gian để tìm hiểu cái rừng phách kì lạ này. Phách là một loài cây thân gỗ ở rừng Việt Bắc, nở hoa vàng vào đầu mùa hạ.
Tiếng ve kêu râm ran đây đó báo hiệu mùa hạ, nhưng lúc này đã là cuối hạ. Lá cây bắt đầu chuyến sang màu vàng, cả rừng phách thay áo mới, chiếc áo vàng óng ánh dưới ánh nắng mặt trời. Cảnh thiên nhiên đẹp và rực rỡ thêm lại càng lãng mạn hơn, vì trong cánh rừng bạt ngàn ấy có thêm bóng dáng của một sơn nữ “hái măng một mình”. Đọc tới đây khiến ta liên tưởng đến một hình ảnh tương tự trong thơ Nguyễn Bính, nhà thơ của đồng quê trong phong trào Thơ mới.
Đây là khổ thơ thứ nhất trong bài thơ Cô hái mơ. Ta thấy có sự giống nhau rất ngẫu nhiên: cũng là rừng núi và cô gái đang làm việc. Chỉ có điều ở đây là “hái mơ” chứ không phái “hái măng”.
Từ “hái” ở đây dường như không thể thay thế bằng một động từ khác như bẻ, đốn… vì chỉ có nó mới phù hợp với nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của cô gái mà thôi. Ta hãy thử tưởng tượng bức tranh mùa hạ như thế này đẹp biết bao! Cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ như thế lại khảm chạm thêm vào hình ảnh một người thiếu nữ nhẹ nhàng làm việc. Quả thật bức tranh vừa đẹp vừa có hồn. Rõ ràng thiên nhiên và con người đã hòa quyện vào nhau, tô điểm cho nhau.
Cuối cùng đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh mùa thu cũng không kém phần đẹp đẽ:
Rừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Câu thơ đã xác định rõ, đây là mùa thu. Thiên nhiên mùa thu được miêu tả bằng ánh trăng. Việc sứ dụng hình ảnh trăng thật ra cũng không có gì độc đáo và mới mẻ. Tuy nhiên, đặt vào hoàn cảnh Việt Bắc lúc bấy giờ, ta thấy được niềm mơ ước hòa bình của người cán bộ cũng như toàn dân Việt Bắc. Tất cả đều nói lên niềm tin tưởng chiến thắng sẽ đến với cách mạng, với đất nước.
Câu thơ thiếu cụ thể nên con người ở đây cũng thiếu cụ thể. Từ “ai” nhòa đi để tạo nền cho cả đoạn và cũng nhằm trả lời cho câu hỏi đầu tiên: “Mình về có nhớ ta chăng?”. Tuy hỏi thế nhưng trong lòng họ vẫn biết rằng con người ấy vẫn thủy chung, son sắt. Đây là lời đồng vọng trong tâm hồn của cả người đi và người ở lại.
Qua đây ta thấy bao trùm cả đoạn thơ là tình cảm nhớ thương tha thiết tiếp tục âm hưởng chung của nghệ thuật ca dao. Câu thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, ý nọ gợi ý kia cứ trào lên dào dạt trong lòng người ra đi và người ở lại. Đặc biệt là qua cách xưng hô “mình” với “ta”. Ở đây điệp từ “nhớ” dùng để xoáy sâu vào cảm hứng chủ đạo là hồi ức. Bên cạnh đó, nhạc điệu dịu dàng trầm bổng khiến cả đoạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm êm như một khúc hát ru – khúc hát ru kỉ niệm. Có lẽ khúc hát ru này không của ai khác mà là của “ta” và cho người nhận là “mình”. Cả “ta” và “mình” đều cùng chung nỗi nhớ, cùng chung “tiếng hát ân tình” và ân tình sâu nặng ấy mãi còn lưu luyến vấn vương trong những tâm hồn chung thủy.
Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài Việt Bắc. Cảnh hiên nhiên và con người trong đoạn thơ được miêu tả hết sức tuyệt vời và tươi đẹp tràn ngập sức sống. Và với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình khiến đoạn thơ như một bản tình ca về lòng chung thủy, sắt son của người cách mạng đối với nhân dân, quê hương Việt Bắc.
Sau khi đã Phân tích đoạn thơ: “Ta về, mình có nhớ ta… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” trong bài Việt Bắc các em có thể đi vào Việt Bắc thể hiện rất đậm đà tính dân tộc trong nghệ thuật thơ Tố Hữu hoặc tham khảo Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ lại có cách khám phá thể hiện riêng. Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Tây Tiến và Việt Bắc nhằm củng cố kiến thức của mình.
Bài mẫu số 2: Phân tích đoạn thơ: “Ta về, mình có nhớ ta… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” trong bài Việt BắcViệt Bắc là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Lời thơ như khúc hát ân tình tha thiết về Việt Bắc, quê hương của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ở đó, bên cạnh cách những bức tranh hùng tráng, đậm chất sử thi về cuộc sống đời thường gần gũi, thân thiết được bao bọc bởi thiên nhiên vô cùng tươi đẹp:
Ta về, mình có nhớ taTa về, ta nhớ những hoa cùng người.Rừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.Ve kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Đây là bức tranh được dệt bằng ngôn từ nghệ thuật toàn bích, có sự hòa quyện giữa cảnh và người, giữa cuộc đời thực với tấm lòng của nhà thơ 1 cách mạng.
Mười câu thơ trên nằm trong trường đoạn gồm 62 câu thơ diễn tả tâm tư tình cảm của người cán bộ sắp sửa rời Việt Bắc, nơi mình đã 15 năm gắn bó với bao tình cảm máu thịt. Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi:
Ta về, mình có nhớ ta.
Nhưng thực ra, hỏi chỉ để mà hỏi, hỏi để tạo thêm cái cớ để giải bày nỗi lòng của mình:
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Câu thơ có nhịp điệu êm ái nhờ những điệp từ tạo và các thanh bằng B (6/8) như một lời ru, một câu hát không chỉ diền tả tâm trạng tha thiết của nhân vật trữ tình. Đây còn là lời ngợi ca về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Trong ngôn ngữ Việt, hoa còn có ý nghĩa biểu trưng về thiên nhiên, về những gì tươi đẹp. Đặt hoa bên cạnh người là sự tôn vinh về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Vả lại hoa và người hòa quyện, gắn bó với nhau. Nói tới thiên nhiên không thể không nói đến con người và ngược lại, những con người ấy đã ở trong một thiên nhiên đẹp gần gũi.
Phân tích nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng với Việt Bắc trong đoạn thơ Ta về mình có nhớ ta
Bốn câu thơ lục bát còn lại là một bức tranh liên hoàn về con người và thiên nhiên Việt Bắc. Nhiều người gọi đây là bộ tứ bình(xuân, hạ, thu, đông). Nhà thơ kế thừa nghệ thuật hội họa cổ truyền của dân tộc trong khi miêu tả thiên nhiên. Mỗi một câu thơ khắc hòa một bức tranh cụ thể nhưng cũng có thể ghép lại thành một bộ liên hoàn.
Bức tranh thứ nhất:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn. Trên cái nền xanh bạt ngàn của rừng, nổi bật lên hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi. Nghệ thuật điểm xuyết trong thơ cổ (Cỏ non xanh rợn chân trời – cành lê trắng điểm một vài bông hoa – Nguyễn Du) tỏ ra rất hữu hiệu. Giữa bạt ngàn xanh của núi rừng Việt Bắc, màu đỏ của hoa chuối bỗng gợi lên sự ấm áp, có sức lan tỏa. Vì thế, thiên nhiên hùng vĩ ấy không xa lạ; trái lại, gần gũi, thân thiết với con người:
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Cũng là cách điểm xuyết những hình ảnh điểm nổi rõ hơn cảnh. Hơn nữa, cách điểm xuyết ấy rất độc đáo: càng chọn điểm nhỏ nhất thì sức gợi càng lớn hơn. Vì thế, câu thơ có sự nhấp nháy (nắng ánh) của hình ảnh và cảnh vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch mịch, bỗng có sức sống, sự chuyền động- Thơ ca là nghệ thuật của thời gian. Với những nghệ sĩ tài hoa đó, việc tạo dựng nên những lớp thời gian chồng lấp và không gian không bất động, bất biến mà ngang sức sống nhờ sự tái sinh của những lớp ngôn từ. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng là một câu thơ như thế.
Bức tranh thứ hai:
Ngày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Khác bức. tranh thứ nhất, bức tranh thơ thứ hai mở đầu có sự định vị về thời gian (Ngày xuân). Nhưng tự thân thời gian ấy cũng đã mở ra không gian:
Ngày xuân mở nở trắng rừng.
Cách điệp âm (mơ / nở; trắng / rừng) cùng với hình ảnh của hoa mơ (màu trắng) tạo ra một không gian vừa rộng lớn, vừa có sự rộn ràng, náo nức của thiên nhiên. Nếu ở bức tranh thơ thứ nhất, nghệ thuật miêu tả của tác giả ở điểm xuyết, tìm hình ảnh gợi, sắc màu sáng (hoa đỏ, nắng ánhí dể diễn tả sự chuyển động của cảnh vật thì ở đây, nhà thơ lại hướng cái nhìn vào sự bao quát điệp trùng để tìm cái rạo rực (tiềm ẩn) của thiên nhiên.
Trên cái nền không gian rộng lớn và náo nức ấy, nhà thơ hướng mắt nhìn về một hoạt động có vẻ tỉ mỉ:
Người đan nón chuốt từng sợi giang.
Nhiều người nói câu thơ ca ngợi “dáng diệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa” trong “công việc thầm lặng” của người Việt Bắc. Có người nói “dưới ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình ảnh cô gái Việt Bắc hiện lên thanh mảnh, dịu dàng”. Câu thơ có hình ảnh ấy. Con người Việt Bắc trong hoài niệm của Tố Hữu là như thế. Nhưng đó là hình ảnh thực. Trong chuồi hoài niệm của tác giả, hình ảnh kia chỉ là một điểm gợi nhớ. Câu thơ gợi lên cách cảm, cách nhìn của tác giả hơn là tả thực. Đó là hình ảnh đặc trưng của sinh hoạt đời thường ở Việt Bắc. Với nhiều người, nó có thể nhỏ nhật, không đáng nhớ. Với một nhà thơ ân tình như Tố Hữu, đó lại là hình ảnh khắc ghi trong tâm khảm.
Bức tranh thứ ba:
Ve kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mình.
Câu thơ mở đầu bằng âm thanh (ve kêu), nhưng cũng là cách định vị bằng thời gian (mùa hè). Dòng thơ vừa có âm thanh rộn ràng, vừa có màu sắc đặc trưng của rừng Việt Bắc. Âm thanh và màu sắc ấy tạo nên cảnh tưng bừng của thiên nhiên. Nếu nói thiên nhiên cũng có đời sống riêng của nó thì đây quả thực là ngày hội của cảnh vật. Vì vậy, trong “ngày hội” ây hình ảnh cô em gái hái măng một mình không lẻ loi mà góp phần tạo nên bức tranh thơ hoàn chỉnh:
Ve kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mình.
Như đã nói, hoa và người Việt Bắc trong thơ Tố Hừu hòa quyện, cùng tôn vinh lẫn nhau. Trong hoài niệm này, tác giả dùng bút lực của mình để ca ngợi, tôn vinh sự hài hòa đó. Và chính sự hài hòa đó đã tạo nên chất thơ. Vì thế, không nên suy diễn, giàu chất tượng trứng với những nét sinh hoạt, lao động của cuộc sống thực.
Bức tranh thứ tư:
Rừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Câu thơ có kiểu mở đầu bằng sự định vị cả không gian lẫn thời gian (rừng thu). Đến đây, ta chú ý các kiểu định vị ở những câu thơ trên:
Ứng với mỗi câu thơ và cách định vị trên là một mùa của thiên nhiên (mùa đông, mùa xuân, mùa hạ). Câu thơ này cũng là bức tranh về một mùa của thiên nhiên (mùa thu). Nhưng có lẽ vì đó là bức tranh cuối của bộ tứ bình và là tiếng hát cuối của một trường đoạn hoài niệm nên hình ảnh tất thảy đều trở nên tượng trưng, âm hưởng cũng bao quát hơn:
Rừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Không gian mênh mông chẳng khác gì cảnh thu huyền ảo của thơ mới:
Nai cao gót lẫn trong mùXuống rừng nẻo thuộc nghìn thu mới về.
(Huy Cận)
(Hằng Phương)
Rừng thu Việt Bắc trong thơ Tố Hữu mênh mông nhưng không lạnh lẽo. “Trăng rọi hòa bình” vừa mang ý nghĩa ánh trăng của cuộc đời ân tình ấy, lại vừa mang ý nghĩa cuộc sống có sự soi rọi ấm áp của niềm tin, tự do. Và, trong cuộc sống ấm áp ấy, có biết bao nhiêu nghĩa tình sâu nặng.
Thơ Tố Hữu là khúc hát của tự do, của ân tình cách mạng. Bản thân cuộc đời ân tình ấy, đối với nhà thơ, luôn là bài ca sâu nặng. Vì thế, nhà thơ không chỉ cảm, nghĩ về cuộc dời mà cất tiếng ca ngợi. Tiếng hát ân tình thuỷ chung trong bài thơ Việt Bắc là tiếng hát như thế.
Bộ tứ bình bằng thơ về cảnh và người Việt Bắc được dệt dưới ánh sáng của hoài niệm da diết. Thông thường, người ta chỉ nhớ những gì mang ấn tượng nhất của quá khứ và thời gian càng lùi xa thì ấn tượng ấy càng trở nên tươi dẹp, huyền ảo hơn. Hàng loạt điệp từ nhớ (5 từ) trong một thơ như là sư nối dài của lòng hoài niệm không dứt.
Việt Bắc là bài thơ hay của Tố Hữu. Ở đó, nhà thơ thể hiện sự tài hoa của mình trên nhiều phương diện của nghệ thuật sáng tạo thi ca. Sự tài hoa ấy được dẫn dắt của một điệu tâm hồn đầy tình nghĩa của nhà thơ. Đoạn thơ trên là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc bởi kết tinh một nghệ thuật thơ ca vừa giàu tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại trong một điệu tâm hồn say đắm.
Bài mẫu số 3: Phân tích đoạn thơ: “Ta về, mình có nhớ ta… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” trong bài Việt BắcTố Hữu một nhà thơ xếp thứ hai sau Hồ Chí Minh về thơ ca cách mạng. Chàng thi sĩ ngày nào vẫn còn bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời với ước nguyện sống sao cho có ích thì nay đã được giác ngộ cách mạng và trở thành một nhà thơ- chiến sĩ xuất sắc trên cả hai lĩnh vực thơ ca và chiến đấu trên mặt trận. Bài thơ Việt Bắc được viết để nói về sự kiện thắng lợi Điện Biên Phủ của nhân dân ta. Chiến sĩ bộ đội phải chia tay với đồng bào Việt Bắc để trở về Hà Nội. Bấy nhiêu thời gian sinh sống và sinh hoạt cùng nhau tình quân dân gắn kết khiến cho cuộc chia ly bịn rịn. Đặc biệt trong bài thơ đoạn thơ “Ta về mình có nhớ ta/…./ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” là đoạn thơ vừa tả cảnh vừa ca ngợi vẻ đẹp của người dân Việt Bắc. Đây là bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt bốn mùa nơi Việt Bắc yêu dấu.
Bức tranh thiên nhiên ấy mở đầu bằng mùa đông. Không phải tự nhiên nhà thơ lại chọn mùa đông mở đầu cho bức tranh ấy, theo lẽ thường thì xuân hạ thu rồi mới đến đông. Thế nhưng ở đây nhà thơ chọn mùa đông trước vì đây chính là khoảng thời gian mà người cách mạng đến với Việt Bắc:
Người cách mạng tự hỏi khi mình về liệu người dân Việt Bắc có nhớ đến mình không. Cách xưng hô mình ta được nhà thơ kế thừa từ trong ca dao dân ca thể hiện sự thân thiết, gần gũi. Người cách mạng trở về xuôi sẽ nhớ cả cảnh và người Việt Bắc. Bức tranh thiên nhiên mùa đông được tô điểm bằng hình ảnh của những bông hoa chuối rừng. Trên nền rừng xanh ngát những bông chuối màu đỏ tươi nở rộ như tô thắm cả một cánh rừng. Nói đến mùa đông người ta thường nghĩ đến những khung cảnh ảm đạm, lạnh lẽo, cây lá rụng cành lìa gốc mà rơi vậy mà ở xưa Việt Bắc này màu sắc lại tươi đẹp đến thế. Trên nền cảnh tươi sáng ấy con người xuất hiện với hình ảnh lao động. Trên đèo cao ánh nắng ban chiếu vào con dao gài ở thắt lưng người Việt Bắc khiến cho con dao sáng lên. Đèo cao đấy, con người nhỏ bé thật đấy nhưng con người vẫn cao hơn đèo. Ở đây ta có thể thấy sự làm chủ thiên nhiên, sự chủ động của người Việt Bắc.
Phân tích đoạn thơ Ta về mình có nhớ ta trong Việt Bắc để thấy được tình cảm thủy chung của người cán bộ về xuôi
Tiếp theo là bức tranh mùa xuân, nơi Việt Bắc thân yêu của nhà thơ những cảnh vật mùa xuân hiện lên là hoa mơ trắng và người đan nón:
Ngày xuân mơ nở trắng rừngNhớ ai đan nón chuốt từng sợi giang”
Việt Bắc mùa xuân đến hoa mơ trắng nở rộ khắp cánh rừng, nó mang đến cho thiên nhiên một cảnh đẹp nền nã, dịu dàng. Những cánh trắng hoa mơ trước ánh nắng nhẹ nhàng của mùa xuân trở nên tinh khiết và trong trắng làm sao. Người chiến sĩ cách mạng trước cảnh đẹp nên thơ ấy lại nhớ đến hình ảnh người Việt Bắc chăm chỉ kiên trì chuốt từng sợi giang đan nón. Ở đây ta thấy được vẻ đẹp chăm chỉ, bền bỉ và kiến trì của con người Việt Bắc.
Mùa xuân qua đi mùa hạ lại về, hoa mơ được thay thế bằng rừng phách, màu trắng được thay thế bằng màu vàng – màu đặc trưng của mùa hạ. Đặc biệt trong cảnh ngày hè ấy không thể thiếu âm thanh của những dàn đồng ca mùa hạ là tiếng của những chú ve:
Ve kêu rừng phách đổ vàngNhớ con em gái hái măng một mình”
Nhà thơ sử dụng thật đắt, thật hay từ “đổ”, nối tiếp câu thơ tả cảnh mùa xuân, mùa hè hiện ra như đổ màu vàng thay thế cho cánh rừng hoa mơ trắng. Cánh rừng ấy đang ngả mình đón mùa hè với màu sắc khác biệt, rực rỡ hơn. Người chiến sĩ nhớ người con gái Việt Bắc hái măng một mình. Hai từ “một mình” cho ta thấy sự nguy hiểm luôn dình dập bên cạnh cô gái nhưng đồng thời cũng cho thấy được sự gan góc, dũng cảm của người em gái Việt Bắc.
Cuối cùng là bức tranh mùa thu, bức tranh ấy hiện lên với những hình ảnh của ánh trăng và tiếng hát của người thủy chung:
Rừng thu trăng rọi hòa bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Mùa thu là mùa của ánh trăng, nếu trước đây Hồ Chí Minh từng viết:
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
Thì nay Tố Hữu đã được “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Trước đây Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ của đất nước còn lo nỗi nước nhà trước ánh trăng đẹp thì giờ đây ánh trăng nơi Việt Bắc đã là ánh trăng của hòa bình. Ánh trăng ấy mang ánh sáng của niềm tin yêu cuộc sống,của sự ấm no yên bình. Người Việt Bắc hiện lên với những tiếng hát tình nghĩa thủy chúng. Người chiến sĩ và người Việt Bắc có thể tạm thời phải chia li nhưng nhưng trong lòng cả hai bên vẫn luôn nhớ về nhau với những kỉ niệm đẹp.
Có thể nói nhà thơ Tố Hữu đã rất thành công khi vẽ lên một bức tranh thiên nhiên bốn mùa nơi Việt Bắc núi cao, đèo lớn. Những hình ảnh thiên nhiên ấy gắn liền với hai từ Việt Bắc, con người nơi đây hiện lên với những nét đẹp tâm hồn và tính cách chăm chỉ, kiên trì, làm chủ, gan góc, tình nghĩa. Những đức tính ấy cũng góp phần làm nên chiến thắng cho dân tộc ngày hôm nay.
Bài mẫu số 4: Phân tích đoạn thơ: “Ta về, mình có nhớ ta… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” trong bài Việt BắcTố Hữu luôn viết về lí tưởng, về lẽ sống, lòng trung thành với cách mạng, là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông là người có tấm lòng yêu dân, yêu nước sâu sắc, vì vậy các sáng tác của ông rất gần gũi với nhân dân. Bài thơ Việt Bắc là một bức tranh trữ tình mà hoàng tráng, bao quát cả một không gian toàn bộ Việt Bắc là một bài thơ dài, không phải đoạn nào viết cũng đều tay. Nhưng có những đoạn quả thật là đặc sắc mà ở đó người đọc thấy được vẻ đẹp của ngòi bút Tố Hữu.
Trong mỗi câu thơ tác giả đã có sự kết hợp giữa hoa và người. Nó là một bức tranh tứ bình diễn tả họa và người ở Việt Bắc trong bốn mùa bằng những nét đặc trưng nhất của miền này. Có thể nói, cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc tuy được mô tả rải rác trong cả bài thơ nhưng dường như nó được kết tinh vào đoạn này một cách hàm súc, cô đúc nhất.
Mỗi một câu thơ như một lời đối đáp thân tình của cặp đôi trai gái, lời thơ ngọt ngào tha thiết, đi vào lòng người:
“Ta về mình có nhơ ta”
Lời đối đáp nghe thật thắm thiết, quyến luyến của đôi trai gái, nhưng với cách xưng hô ta – mình, mình – ta, khiến cho tình cảm của hai người lại trở nên bình dị, vô tư. Cũng nhờ cách xưng hô này, đôi trai gái lại có điều kiện thoải mái để bày tỏ tình cảm của mình. Ta vẫn chẳng biết mình có nhớ ta không, nhưng ngay cả khi mình không nhớ ta thì ta vẫn cứ nhớ mình. Mà nỗi nhớ mới duyên dáng và tế nhị làm sao:
“Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Người ra về lưu luyến với Việt Bắc không chỉ có cảnh đẹp mà còn cả con người tình nghĩa nơi đây. Trong nỗi nhớ của người đi, hai hình ảnh này là đồng hiện, soi chiếu vào nhau. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên, còn người ta lại là “hoa của đất”. Vì vậy, hễ nhớ đến người thi hiện bóng hoa, hễ nhớ về hoa thì hiện hình người. Hoa và người không thể tách rời. Mà nói với một người con gái, lại nói “hoa cùng người” thì đó chẳng phải là một lời đánh giá kín đáo hay sao?
Hình ảnh đẹp và được tác giả nhắc đến là hình ảnh hết sức bình dị, diễn ra ở mọi nơi trên đất trời Việt Bắc:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươiĐèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Một màu xanh man mác, dấu hiệu của cuộc sống tươi đẹp, tràn trề nhựa sống đang bao trùm không gian, đất trời vùng Việt Bắc. Đó là một màu xanh mênh mông, trầm tĩnh của rừng già. Nó gợi ra hình ảnh một xứ sở êm đềm, lặng lẽ, yên tĩnh. Nhưng trên cái nền xanh ấy, chúng ta nhìn thấy hình ảnh hoa chuối rừng bập bùng cháy như những bó đuốc. Ai đã biết hoa chuối nở, sẽ thấy rằng tuy tác giả viết hai chữ “đỏ tươi” nhưng cũng đủ gợi cho chúng ta biết hoa chuối đã làm sáng lên một góc rừng. Thế là hoa chuối làm cho cảnh rừng trở nên sống động hơn. Đồng thời hình ảnh hoa chuối lại được tô điểm thêm những tia nắng ở câu thứ hai càng làm cho không khí vốn trầm mặc ở nơi này lại trở nên tươi sáng và linh động. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh con người xuất hiện:
”Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Đó là hình ảnh những con người lao động của núi rừng Việt Bắc. Họ đang bước lên đèo với một tinh thần lao động miệt mài, không quản khó nhọc. Thiên nhiên cũng như hòa cùng vào niềm vui với những người lao động. Người đứng trên đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu vào lưỡi dao trên thắt lưng, lóe sáng. Nó gợi được một tư thế vững chãi, tự tin của người làm chủ núi rừng. Tố Hữu thường mô tả con người trong những tư thế ấy. Trong bài Lên Tây Bắc tác giả có viết:
Trong đoạn thơ trên nhà thơ không vẽ kĩ mà chỉ chấm phá vài nét song cũng đủ cho ta hình dung khá rõ nét về hình tượng. Vậy là, tương ứng với một cảnh hoa là một dáng điệu người, mỗi dáng điệu toát lên một phẩm chất của người Việt Bắc.
Văn mẫu Phân tích đoạn thơ Ta về mình có nhớ ta trong Việt Bắc lớp 12
Mùa xuân ở Việt Bắc thì đẹp lắm, làm say đắm lòng người. Nhưng đi vào thơ ca Tố Hữu thì vẽ đẹp ấy thật đời thường, nhưng không phải ai cũng có thể nhận ra vẻ đẹp ấy.
“Ngày xuân hoa nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Một màu trắng tinh khiết của hoa mơ đã bao trùm khắp núi rừng Việt Bắc. Hai chữ “trắng rừng” khiển cảnh rừng bừng sáng. Phải nói rằng đây là một hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với hồn thơ Tố Hữu. Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường như không thể thiếu được sắc hoa này. Về sau, trong bài Theo chân Bác, Tố Hữu viết:
Giữa một không gian bao la tươi đẹp ấy là hình ảnh những người lao động cần cù, đáng quý. Hai chữ “chuốt từng” gợi ra được dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa. Không gì người đan nón kia gửi vào từng sợi giang nỗi niềm gì, ước mơ gì?
“Ve kêu rừng phách đỏ vàngNhớ cô em gái hái măng một mình”
Bức tranh thiên nhiên tác giả nói đến không chỉ thấy màu sắc, đường nét và ánh sáng, mà chúng ta còn nghe thấy được âm thanh của rừng, đó là tiếng nhạc ve. Nhạc ve làm cho không khí trở nên xao động. Phải nói rằng trong các bức tranh ở đây thì Việt Bắc mùa hè là đặc sắc hơn cả. Trong câu thơ, chúng ta thấy dường như có một có một phản ứng dây chuyền chạy từ đầu đến cuối câu thơ. Ve kêu gọi hè đến, hè đến làm cho những rừng phách ngả sang màu vàng. Ai đã lên Việt Bắc, dễ thấy hình ảnh kì lạ của những cánh rừng phách vẫn là màu xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá. Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên thì chúng đồng loạt trổ hoa vàng. Chỉ có một vài ba ngày mà những rừng phách đã lênh láng sắc vàng. Chữ “đổ” là một chữ tinh tế. Nó nhấn mạnh khía cạnh mau lẹ trong việc biến đổi màu sắc, đồng thời diễn tả những trận mưa hoa vàng rừng phách mỗi khi có một luồng gió ào qua. Rõ ràng, gam màu đến đây đã thay đổi hẳn, sắc trắng đã nhường chổ hẳn cho sắc vàng. Dường như âm thanh đã làm biến đổi thay màu sắc. Trên nền cảnh ấy xuất hiện một hình ảnh lao động đầy kiên nhẫn của một cô gái Việt Bắc: “Nhớ cô em gái hãi măng một mình”. Hình ảnh này làm toát lên dáng điệu chịu thương, chịu khó, hay lam hay làm, giàu đức hi sinh. Bao bọc lên hình ảnh này dường như chúng ta thấy sự cảm thương kín đáo của người viết.
Ngày ở Việt Bắc đã đẹp, đêm trăng mới tĩnh mịch, thơ mộng làm sao. Bức tranh vẽ ra những ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành một khung cảnh huyền ảo:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình”.
Tác giả đã tái hiện lên cảnh đêm trăng trên nứi rừng Việt Bắc, của những đêm hòa bình, không có bóng giặc, tạo cho dân làng cuộc sống yên bình. Đây đúng là khung cảnh hữu tình dành cho những cuộc hát dao duyên. Cho nên nó cũng là cảnh cuối cùng:
“Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Chữ “ai” là cách nói bóng gió, ám chỉ người đang hát cùng với mình, làm cho lời lẽ trở nên tình tứ hơn. Và qua tiếng hát chúng ta thấy được phẩm chất ân tình, chung thủy của người Việt Bắc.
Với những từ ngữ hết sức bình dị, lời thơ du dương Tố Hữu đã tái hiện lại những gì là đặc trưng nhất của quê hương cách mạng. Đó là tình yêu của tác giả với căn cứ quan trọng của cuộc cách mạng. Chính nơi thơ mộng này đã nuôi dưỡng và rèn luyện những người con của cách mạng, làm cho họ thấm nhuần lí tưởng cách mạng và thêm yêu đất nước quê hương, làm động lực để tiếp tục đứng lên chống lại bom đạn của kẻ thù.
Bài mẫu số 5: Phân tích đoạn thơ: “Ta về, mình có nhớ ta… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” trong bài Việt BắcLịch sử dân tộc không ít những trang viết bằng thơ. Một trong những trang viết tiêu biểu ấy là thơ Tố Hữu – một nhà thơ lớn của thơ ca cách mạng Việt Nam. Ta bắt gặp trong thơ Tố Hữu chặng đường cách mạng của dân tộc. Các sự kiện, các dấu mốc của lịch sử Việt Nam suốt hơn nửa thế kỉ từ khi Đảng ra đời đến sau chiến thắng mùa xuân 1975 được ông ghi lại trong những vần thơ trữ tình cách mạng tha thiết. Việt Bắc là một trong số đó. Bài thơ ghi lại sự kiện Đảng và Nhà nước chuẩn bị rời Việt Bắc về Hà Nội sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Trong bài thơ của mình, Tố Hữu đã thể hiện những tình cảm tha thiết của người đi – kẻ ở, thể hiện những cảm nhận sâu sắc của tác giả về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn thơ:
Ngày xuân mơ nở trắng rừngNhớ người đan nón chuốt từng sợi giangVe kêu rừng phách đổ vàngNhớ cô em gái hái măng một mìnhRừng thu trăng rọi hoà bìnhNhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Đoạn thơ là một bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa và hàm chứa một nỗi nhớ nhung da diết cũng như biểu lộ tấm lòng chung thủy của tác giả nói riêng cũng như người cán bộ nói chung đối với Việt Bắc.
5 bài mẫu Phân tích đoạn thơ Ta về mình có nhớ ta trong Việt Bắc
Hai câu đầu của đoạn thơ là lời hỏi và kể của người ra đi, muốn biết lòng người ở lại như thế nào và tự bộc lộ tấm lòng mình. Tám câu tiếp theo vẽ nên thiên nhiên Việt Bắc đầy thơ mộng và con người Việt Bắc đầy thân thương qua lời của người đi. Đầu tiên mùa đông xuất hiện với những bông chuối đỏ rực trên nền rừng xanh thẫm của những buổi hoàng hôn và hình ảnh con người lao động vui tươi. Tiếp đến là mùa xuân rực rỡ màu trắng của mơ và hình ảnh người đan nón. Rồi mùa hạ đến đầy màu vàng của rừng phách và đầy âm thanh của tiếng ve. Con người lại xuất hiện dưới hình ảnh cô gái một mình đang hái măng. Kết thúc là rừng thu ngập ánh trăng và không gian ngập tiếng hát. Cứ mỗi câu thơ tả thiên nhiên lại có một câu thơ tả con người, con người hoà quyện trong thiên nhiên nhưng không chìm trong thiên nhiên và luôn ở tư thế lao động, chủ động, thiên nhiên là nền nâng con người, tô điểm cho con người.
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Cái đẹp của câu thơ là hình ảnh hoa cùng người, bởi chăng con người cũng là một bông hoa trong vườn hoa sự sống. Hình ảnh tạo nên nét hài hoà giữa thiên nhiên và con người, hoa và người tôn vẻ đẹp của nhau. Bốn câu lục bát sau tả bức tranh bốn mùa với những hình ảnh, màu sắc tươi tắn và âm thanh rộn ràng. Dù là mùa đông hay mùa hạ, mùa xuân hay mùa thu, tất cả đều có màu tươi vui. Màu đỏ của hoa chuối làm cho mùa đông bớt lạnh. Màu trắng của hoa mơ và màu vàng của rừng phách càng tôn thêm vẻ rực rỡ của thiên nhiên một sự êm ả, thơ mộng và cảm giác thanh bình cho lòng người. Tất cả những đường nét đó vẽ nên bức tranh tứ bình đặc sắc bởi lời thơ mềm mại. Song nếu chỉ là bức tranh thì chưa đủ bởi thiếu âm thanh thiên nhiên Việt Bắc: Ta về, ta nhớ những hoa cùng người, không thiếu âm thanh, còn có tiếng ve kêu mùa hạ và tiếng hát của con người. Tác giả chọn tiếng ve là một sự lựa chọn hợp lí và mang tính tiêu biểu. Bởi ở Việt Nam, nói đến tiếng ve là người ta nghĩ ngay đến mùa hè. Tiếng ve rả rích tuy bình thưởng nhưng là một biểu tượng bằng âm thanh cho mùa hạ với màu vàng rất riêng của Việt Bắc tạo nên một sự kết hợp nghe – nhìn đặc biệt làm cho bức tranh mùa hạ vừa có nét riêng của Việt Bắc vừa có nét chung của đất nước. Phải chăng dụng ý của tác giả là để từ đó, dù mai sau có ở đâu, khi nghe tiếng ve kêu, ai cũng có thể liên tưởng và nhớ lại Việt Bắc? Vậy là thiên nhiên Việt Bắc, chỉ qua vài câu thơ đã được miêu tả đầy đủ và mang tính cách riêng độc đáo với hình ảnh và âm thanh chọn lọc khéo léo.
Trên nền thiên nhiên tuyệt đẹp đó, con người hiện ra trong tư thế chủ động và đầy sức sống. Bốn câu bát nói về con người cũng rất tinh tế và tình cảm. Tác giả chọn lọc phác họa những hình ảnh con người lao động thấp thoáng nhưng đủ sức gợi. Đó là hình ảnh người đi rẫy, đan nón, hái măng, hay kín đáo hơn một tiếng hát khi lao động hay trong một đêm sinh hoạt văn nghệ. Hình ảnh nắng ánh dao gài thắt lưng rất đặc trưng khoẻ khoắn và vui tươi. “Nắng” như tiếp thêm sự sống động cho con người chứ không mang vẻ gay gắt. Khi nhớ về hình ảnh người đan nón, tác giả gián tiếp bày tỏ lòng biết ơn đối với những đóng góp của Việt Bắc cho kháng chiến. Một cách bày tỏ kín đáo và tế nhị! Kí ức về cô em gái hái măng rất tình cảm bởi cách sử dụng từ “cô em gái” một cách trìu mến. Hơn nữa cảnh thiên nhiên thật rực rỡ, tươi đẹp, đầy âm thanh và màu sắc sống động. Cuối cùng, kỉ niệm về tiếng hát gây cho người đối thoại của nhân vật trữ tình xưng “ta” cũng như cả người đọc sự xúc động thật sự. Bởi tiếng hát xuất phát từ tâm hồn và tiếng hát “ân tình thuỷ chung” theo người đi là một kỉ niệm, một tình cảm êm dịu và lâu dài. Tiếng hát ấy phải chăng cũng chính là tâm hồn của tác giả.
Tố Hữu có biệt tài chọn lọc hình ảnh và phối hợp ánh sáng rất độc đáo. Ông có một tâm hồn nhạy cảm và có khả năng truyền cảm xúc của mình cho người khác. Chẳng hạn như chỉ với hai câu thơ:
Em ơi Ba Lan mùa tuyết tanĐường bạch dương sương trắng nắng tràn.
Cũng đủ khiến cho người đọc có cảm giác như mình đang ở Ba Lan thật sự. Tâm hồn Tố Hữu say mê và mạnh mẽ nhưng cũng rất sâu lắng và thủy chung. Với Tố Hữu, chính trị là một nguồn thơ thực sự, ông say mê sống với lí tưởng cách mạng và với niềm tin chân thật, ông muốn mang lí tưởng đó đến cho mọi người, ông thực hiện điều đó bằng tài năng thi ca của mình. Một điều đáng tiếc là những tập thơ sau này của ông như Ra trận, Máu và hoa có phần trở nên khô khan, đôi khi mang nặng tính triết lí và giáo huấn. Tuy nhiên, đoạn thơ vừa được phân tích ở trên là một bằng chứng hùng hồn cho tài năng sáng tạo của ông. Với tôi, đoạn thơ thực sự là một điểm son trong những sáng tác của Tố Hữu mang đậm tính dân tộc và cảm xúc chân thực.
Phân Tích Bài Thơ “Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa” Của Nguyễn Duy
Nguyễn Duy quê ở Thanh Hóa; anh viết bài thơ “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” tại Thành phố Hồ Chí Minh vào mùa thu 1986. Bài thơ gồm có 28 câu lục bát, chia thành 6 khổ thơ; khổ thứ tư có 8 câu, năm khổ còn lại, mỗi khổ có 4 câu thơ.
Chữ đầu mỗi khổ thơ đều viết hoa; các chữ đầu mỗi câu thơ còn lại không viết hoa. Toàn bài thơ chỉ có 4 dấu chấm lửng và một dấu gạch ngang mà thôi, không hề có dấu chấm, dấu phẩy… nào cả. Phải chăng đó là sự cách tân về hình thức nghệ thuật thơ lục bát của Nguyễn Duy? Tác giả đã vận dụng sáng tạo ca dao, tục ngữ để tạo nên những vần thơ trữ tình giàu âm điệu và nhạc điệu thiết tha ngọt ngào.
“Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn”.
Nhìn khói nhang tỏa, nhìn chân nhang “lấm láp tro tàn”, đứa con cảm thấy người mẹ hiền đang hiển hiện giữa cõi đời, đang tất tả ngược xuôi:
“chân nhang lấm láp tro tàn
xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào “,
Các từ láy “bần thần “, “lấm láp”,”xăm xăm” là những nét vẽ tài hoa làm cho vần thơ giàu hình tượng và gợi cảm.
Khổ thơ thứ hai gợi tả hình ảnh người mẹ hiền ngày xưa. Người mẹ nghèo khổ, vất vả. Thời con gái chẳng có yếm đào, chẳng có nón quai thao mà chỉ có nón mê; áo quần chỉ một màu nâu nhuộm bùn:
“Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu”.
Hai tiểu đối: “tay bí
“Rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa “.
Suốt đời mẹ sống mộc mạc, giản dị như thế. Quanh năm bốn mùa mẹ vẫn sống và ăn mặc như thế!
Khổ thơ thứ ba, lời ru của mẹ hiền ngày xưa vẫn còn vang vọng trong hoài niệm. Ca dao đã nhập hồn vào thơ Nguyễn Duy:
“Cái cò…sung chát đào chua…
câu ca mẹ hát gió đưa về trời”.
Câu ca dao “Cái cò đậu cọc cầu ao – Ăn sung sung chat, ăn đào đào chua” đã được nhà thơ vận dụng tài tình sáng tạo gợi lên bao thương nhớ người me hiền nay đã đi xa…
Hai câu thơ: “Ta đi trọn kiếp con người – cũng không đi hết những lời mẹ ru” hàm chứa chất triết lí sâu sắc. Lòng mẹ bao la. Tinh thương của mẹ mênh mông đào dạt. Suốt đời con cũng không thấu hiểu, hiểu hết lời ru của mẹ. “Gió mùa thu, mẹ ru con ngủ …Năm canh chày thức đủ năm canh… “. Mỗi giấc ngủ của con được nâng niu bằng lời ru của mẹ vô cùng sâu nặng với biết bao tình đời và tình người. Mọi đứa con từ bé thơ đến trưởng thành, không bao giờ có thể “đi hết mấy lời mẹ ru”. Hai chữ “đi” trong vần thơ của Nguyễn Duy được chuyển nghĩa một cách thần tình.
Điệp ngữ “bao giờ cho tới” trong khổ thơ thứ tư đã làm sống lại tuổi thơ với bao kỉ niệm đẹp. Ước mong được sống lại đêm rằm trung thu để phá cỗ. Ước mong được sống lại những đêm tháng năm đẹp trời để “nằm đếm sao” giữa sân nhà:
“Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao”.
Hai chữ “đánh đu ” đã nhân hóa trái hồng trái bưởi, món quà trung thu, tạo nên sự ngộ nghĩnh hồn nhiên. Cái giây phút thần tiên “mẹ ra trải chiến ta nằm đếm sao” là giây phút hạnh phúc nhất của tuổi thơ. Kỷ niệm ấy, Nguyễn Duy có bao giờ quên; mỗi chúng ta có bao giờ quên.
Các từ láy:”nghêu ngao “,”chập chờn “, “leo lẻo”, “xa xôi” trong bốn câu thơ tiếp theo vừa nêu lên sự hồn nhiên của tuổi thơ, vừa nói lên mơ ước được sống lại trong khung cảnh thần tiên nơi quê nhà. Đứa con có bao giờ quên những kỉ niệm đẹp, đầy hạnh phúc ấy:
“Ngân Hà chảy ngược lên cao
quai mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm…
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi”.
Ký ức tuổi thơ đã trôi vào dĩ vãng, nhưng vẫn còn chập chờn trong tâm hồn yêu thương với “những vui buồn xa xôi”. Đứa con càng thương nhớ mẹ, càng biết ơn mẹ không thể nào kể xiết!
“Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác
Các thế hệ sẽ nối tiếp sinh ra, rồi lớn lên theo lời ru tiếng hát của mẹ, của bà. Điệu ru của bà, của mẹ sẽ được những thế hệ mai sau nâng niu, giữ gìn. Điệu ru tiếng hát của bà, của mẹ trong mỗi gia đình Việt Nam là dân ca, là tâm hồn dân tộc sẽ sống mãi đến muôn đời mai sau. Câu hỏi tu từ làm cho vần thơ trở nên thiết tha, lay động hồn người:
“Bà ru mẹ…mẹ ru con
liệu mai sau các con càn nhớ chăng”.
Nhớ mẹ, nhớ nơi chôn nhau cắt rốn, đứa con ly hương đêm ngày đăm đắm “Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Càng “nhìn về” càng bồi hồi nhớ mẹ, nhớ đức hy sinh cao cả, tình thương con bao la của người mẹ nay đã khuất núi. Câu tục ngữ “Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo nhường con” được tác giả vận dụng sáng tạo:
“Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta – chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa”.
Tác giả khép lại bài thơ bằng hai câu thơ mang âm điệu ca dao trữ tình thể hiện bao nỗi ân tình sâu nặng của đứa con đối với người mẹ hiền thương yêu:
“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”.
Dù mẹ đã mất, nhưng những kỉ niệm ân tình sâu sắc ấy của mẹ, đứa con mãi mãi ghi sâu trong lòng. Lòng hiếu thảo là một trong những tình cảm đẹp nhất của con người Việt Nam chúng ta. Thơ Nguyễn Duy man mác như điệu ru tiếng hát của bà, của mẹ sau lũy tre xanh, bên bờ dâu ruộng lúa đang vọng về năm tháng. Những suy tư triết lí của tác giả làm cho tư tưởng tình cảm trong bài thơ trở nên sâu sắc, mang tính chất dân tộc và hiện đại.
“Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa…” là một bài thơ rất hay, tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong khói lửa chiến tranh thời chống Mỹ. Ọuả vậy, thơ Nguyễn Duy đẹp như ca dao, đậm đà như dân ca, man mác như lời hát ru.
Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta (Lớp 5) trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!