Xu Hướng 4/2023 # Nỗ Lực Giảm Thiểu Ô Nhiễm Không Khí # Top 5 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 4/2023 # Nỗ Lực Giảm Thiểu Ô Nhiễm Không Khí # Top 5 View

Bạn đang xem bài viết Nỗ Lực Giảm Thiểu Ô Nhiễm Không Khí được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Cần có quy chuẩn 

Cũng giống như các đô thị lớn khác ở Việt Nam, đi cùng sự phát triển, TPHCM đang phải đối mặt với những nguy cơ về ÔNKK. Nó đang gây ra rất nhiều tác động tới sức khỏe, hệ sinh thái và khí hậu. Đặc biệt, ô nhiễm bụi ở TPHCM đang ở mức báo động, gây ra nhiều bệnh về đường hô hấp, ung thư.

Theo nghiên cứu của Viện TN-MT, Trường Đại học Quốc gia TPHCM, các khí gây ÔNKK như bụi PM 2.5, NO2, SO2, CO… đều vượt ngưỡng cho phép từ 1,5-2 lần theo quy chuẩn Việt Nam. ÔNKK ở TPHCM mỗi năm gây tử vong khoảng 1.397 người.  

PGS-TS Hồ Quốc Bằng, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu ÔNKK và Biến đổi khí hậu, Viện TN-MT, cho rằng ÔNKK ở TPHCM phần lớn là do khí thải nhà kính từ hoạt động giao thông, sử dụng năng lượng, hoạt động sản xuất công nghiệp và xây dựng. Trong đó, mức thải khí nhà kính trong lĩnh vực giao thông (từ mô tô, xe máy) chiếm 65,4% và sử dụng năng lượng chiếm 91% tổng lượng phát thải.

Sử dụng phương tiện giao thông công cộng tại TPHCM để giúp giảm khí thải. Ảnh: CAO THĂNG

Theo dự báo, các chất khí thải trên sẽ tăng thêm 40% vào năm 2025 và đến 50% vào năm 2030, nếu không có giải pháp kiểm soát hiệu quả phát thải khí thải. Trong khi đó, đến nay TPHCM không còn khả năng tiếp nhận khí thải đối với CO, NO tại một số khu vực trung tâm. Các quận trung tâm của thành phố cần giảm một lượng 5.000-8.000 tấn CO/năm/km2; quận huyện phía Tây và phía Tây Bắc cần phải giảm 3.000 tấn CO/năm/km2; khu vực các quận trung tâm và các quận, huyện phía Tây thành phố cần giảm khoảng 86 tấn NO2/năm/km2. 

PGS-TS Hồ Quốc Bằng cho biết thêm, có một thực tế là các tiêu chuẩn quy định đối với vấn đề quản lý chất lượng không khí của Việt Nam còn ít nghiêm ngặt so với các nước trên thế giới. Việt Nam có những tiêu chuẩn cao hơn gấp đôi so với WHO, như đối với PM10 (Việt Nam 50, WHO 20) và PM2.5 (Việt Nam 25, WHO 10). Vì vậy, quy chuẩn phân vùng khí thải ô nhiễm của Việt Nam cần được quy định chi tiết, rõ ràng và nghiêm ngặt hơn. Nên đưa ra một tải lượng xả thải cụ thể, thay vì nồng độ xả thải.

TPHCM nói riêng và các địa phương nói chung ở Việt Nam cần thực hiện tính toán tải lượng cho phép mà môi trường không khí có thể tiếp nhận (pha loãng và khuếch tán) dựa vào quy hoạch vùng, quy hoạch kinh tế xã hội và điều kiện khí tượng của khu vực để đảm bảo phát triển kinh tế không làm ảnh hưởng đến môi trường không khí.

Đẩy mạnh kiểm kê phát thải 

Thời gian qua, để giải quyết tình trạng ÔNKK, thành phố cũng đã đẩy mạnh việc thực hiện các chiến dịch truyền thông, nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường cho doanh nghiệp; áp dụng các mô hình sản xuất sạch, sử dụng các nguyên liệu sạch, thân thiện với môi trường, thực hiện kiểm kê khí thải xe máy; khuyến khích người dân sử dụng các phương tiện di chuyển công cộng, sử dụng nhiên liệu xăng sinh học thay thế nhiên liệu truyền thống; tăng cường kiểm tra, giám sát chấp hành quy định pháp luật về bảo vệ môi trường không khí, xử phạt nghiêm những hành vi vi phạm của cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, khu, cụm công nghiệp cũng như các hoạt động xây dựng. 

Nhiều ý kiến từ các chuyên gia, nhà khoa học cũng cho rằng, thành phố cần phải đẩy mạnh hoạt động kiểm kê phát thải khí thải khí nhà kính. Đẩy mạnh hoạt động này sẽ biết được nguồn ÔNKK từ đâu ra, ô nhiễm chất gì, ô nhiễm do cái gì. Trên cơ sở đó mới thiết kế kế hoạch kiểm soát chất lượng không khí hiệu quả, thiết lập các quy định và giấy phép phát thải, xả thải khí thải, xây dựng các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm.

Không những thế, kiểm kê phát thải khí thải còn giúp chúng ta đánh giá các nhà máy, xí nghiệp hay chính sách giao thông mới, hoặc đang đề xuất thực hiện, có phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng không khí xung quanh. Các kết quả này cũng được dùng để hỗ trợ trong việc thiết kế các chiến lược kiểm soát hiệu quả để giảm lượng phát thải các chất ÔNKK. 

Theo Tiến sĩ Hoàng Dương Tùng, Chủ tịch Hội Không khí sạch Việt Nam, TPHCM cần tái đầu tư các trạm quan trắc và đầu tư thêm mạng lưới giám sát chất lượng môi trường không khí để có thể giám sát các thông số ÔNKK như CO, NO2, các hợp chất hữu cơ, các loại bụi mịn… Việc sử dụng các trạm quan trắc tự động giúp kiểm soát tình hình một cách chặt chẽ hơn: giúp cập nhật số liệu để kiểm soát trực tuyến, phát hiện các địa chỉ gây ô nhiễm nhanh và chính xác hơn. Song song với đó là các giải pháp kiểm soát được lượng phát thải xe gắn máy, khuyến khích mọi người sử dụng phương tiện công cộng.

MINH HẢI

Các Giải Pháp Giảm Thiểu Ô Nhiễm Không Khí Đô Thị

Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về tác hại sức khỏe của ô nhiễm không khí và hướng dẫn thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường (BVMT) không khí. Huy động sự tham gia tích cực của cộng đồng, mọi người dân, mọi cơ sở sản xuất, mọi tổ chức xã hội trong công tác BVMT không khí nói riêng và BVMT thành phố nói chung.

Thứ hai, kiểm soát chặt chẽ các nguồn ô nhiễm giao thông vận tải: Giải pháp trước mắt, cần kiểm soát, kiểm tra nguồn thải từ các phương tiện giao thông cơ giới. Tiến hành định kỳ kiểm tra theo quy định của quy chuẩn môi trường về khí thải đối với tất cả các phương tiện giao thông cơ giới (các loại xe ô tô, đặc biệt là các loại xe buýt, xe tải, xe ô tô chạy dầu, và các loại mô tô, xe máy). Cấm lưu hành đối với tất cả các xe không đáp ứng yêu cầu về BVMT.

Tiến hành phun nước rửa đường vào các ngày trời nắng hanh khô. Giải pháp lâu dài là hoàn thiện quy hoạch chung đô thị hợp lý, đặc biệt là quy hoạch giao thông đô thị thông minh, phát triển hệ thống giao thông công cộng, như là các dạng xe buýt, metro, đường xe điện trên cao… Khuyến khích hình thành các khu phố đi bộ, xe đạp; các loại xe cơ giới chạy bằng khí gas, khí hóa lỏng và xe chạy điện…

Thứ ba, tập trung kiểm soát, kiểm tra và xử lý nghiêm ngặt các nguồn thải ô nhiễm bụi phát sinh từ các hoạt động xây dựng mới và sửa chữa các công trình nhà cửa, hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị. Áp dụng các công nghệ xây dựng ít ô nhiễm, như không sản xuất bê tông tươi tại công trường mà sản xuất bê tông tươi tại các trạm sản xuất bê tông tươi rồi chở đến công trường bơm lên sàn, cột công trình,…

Thứ tư, tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải bụi phát sinh từ vận chuyển nguyên vật liệu rời, cũng như việc vận chuyển đổ trộm chất thải xây dựng, đặc biệt là vận chuyển chất thải về ban đêm.

Thứ năm, vệ sinh đường phố sạch sẽ, văn minh, hiện đại. Quét dọn đường xá, vỉa hè, thường xuyên, bảo đảm đường xá được hút bụi hoặc rửa đường sạch sẽ. Thực hiện thu gom, vận chuyển và xử lý đúng kỹ thuật vệ sinh 100% rác thải của đô thị. Giáo dục nhân dân giữ gìn vệ sinh đường phố, không vứt rác ra đường hay vứt rác ra cống rãnh, kênh mương thoát nước.

Thứ sáu, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các chất hữu cơ bay hơi (VOC), nhất là hơi xăng dầu đối với các trạm bán xăng dầu, các cơ sở sản xuất, chế biến và sử dụng sơn, vecni, xăng dầu nằm trong đô thị. Xử lý triệt để các sông, hồ, ao, cống rãnh bị ô nhiễm nước. Áp dụng các biện pháp kỹ thuật xử lý bụi phát sinh từ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp ở bên trong và xung quanh thành phố.

Thứ bảy, áp dụng các chính sách khuyến khích ưu đãi để đạt được mục tiêu đến năm 2025 không còn bếp đun than tổ ong ở các đô thị. Cần áp dụng các chính sách phát triển công nghệ xử lý chất thải nông nghiệp cần thiết để nông dân ngoại thành chấm dứt việc đốt rơm rạ ở ngoại thành trong mùa thu hoạch nông nghiệp. Chúng tôi rất hoan nghênh Hà Nội đã có kế hoạch đến hết ngày 31/12/2020 sẽ chấm dứt tình trạng sử dụng than tổ ong làm nhiên liệu phục vụ sinh hoạt, kinh doanh, dịch vụ. Theo thông tin trên báo chí thì đến cuối tháng 6/2020, Hà Nội đã cắt giảm thành công khoảng 73% số lượng bếp đun than tổ ong ở thành phố.

Thứ tám, phát triển trồng, chăm sóc và bảo vệ cây xanh trong thành phố, bảo đảm chỉ tiêu diện tích cây xanh trên đầu người dân đạt trị số quy định theo quy chuẩn xây dựng Việt Nam.

Thứ chín, tăng cường năng lực cơ quan quản lý môi trường không khí ở Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh và ở các thành phố lớn khác, như là thành lập phòng quản lý môi trường không khí ở Chi cục BVMT, bổ sung cán bộ chuyên môn được đào tạo đúng chuyên ngành môi trường không khí cho Chi cục BVMT, cũng như các phòng quản lý môi trường ở các quận/huyện; tổ chức các lớp bổ túc kiến thức nâng cao trình độ chuyên môn về quản lý môi trường không khí cho các cán bộ đương chức trong hệ thống quản lý môi trường các cấp của các đô thị lớn.

Thứ mười, ưu tiên đầu tư hoàn thiện hệ thống quan trắc môi trường không khí, đặc biệt là hệ thống quan trắc không khí tự động cố định ở các đô thị. Ở TP.Hồ Chí Minh trước đây có 9 – 11 trạm quan trắc không khí tự động, nay đã bị hỏng 100%. Ở Hà Nội trước đây có 6 trạm quan trắc không khí tự động, nay đã bị hỏng 5 trạm tự động. Hiện đã bổ sung, thay thế bằng các trạm quan trắc cảm biến.

Hà Nội: Đồng Bộ Các Giải Pháp Giảm Thiểu Ô Nhiễm Không Khí

Theo Sở TN&MT Hà Nội, tiếp tục thực hiện Dự án “Cam kết thành phố tham vọng”,năm 2020, Hà Nội xây dựng và cập nhật Kế hoạch lần thứ 3 với mục tiêu chung là đưa ra giảm thiểu phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu trong từng giai đoạn. Đây không phải là những hoạt động được thực hiện riêng của chính quyền thành phố mà là sự cam kết, chung tay của nhiều tổ chức, doanh nghiệp, người dân. Thành phố Hà Nội xác định 5 nhóm ưu tiên thực hiện dự án gồm: vấn đề quản lý chất lượng không khí, quản lý chất thải, năng lượng, quy hoạch đô thị, lối sống xanh hay tiêu dùng bền vững.

Bên cạnh Dự án “Cam kết thành phố tham vọng”, TP Hà Nội đã thực hiện đồng bộ các giải pháp về bảo vệ môi trường, rà soát các quy hoạch phát triển có tính tới yếu tố thích nghi với biến đổi khí hậu, ưu tiên các dự án thân thiện với môi trường và tập trung triển khai giải pháp bảo vệ môi trường bền vững hướng tới TP cacbon thấp.

Đến nay, TP đã lắp đặt 50 trạm cảm biến trong nhà tại các trường học, một số văn phòng… để cung cấp cho người dân chỉ số chất lượng không khí liên tục và kịp thời. Từ đó giúp những nhà hoạch định chính sách có thể đưa ra những quy định phù hợp trong việc cải thiện chất lượng không khí.

Thời gian tới, TP Hà Nội sẽ tiếp tục phối hợp với Cơ quan Phát triển Đức tiến hành lắp đặt tại quận Hoàn Kiếm thêm 20 trạm cảm biến nữa, góp phần từng bước hoàn thiện mạng lưới quan trắc về không khí.

Về quản lý chất thải, TP luôn quan tâm quản lý những phụ phẩm, chất thải từ hoạt động nông nghiệp; xử lý chất thải, đặc biệt là chất thải nhựa; quản lý tuần hoàn rác là mục tiêu hướng tới của thành phố. Trong đó, với các sản phẩm, phụ phẩm từ nông nghiệp, sáng kiến “hạn chế đốt rơm, rạ” để tiến tới chấm dứt tình trạng này vào cuối năm 2020.

Hà Nội cũng tiến hành khảo sát và đưa ra giải pháp phù hợp để các địa phương xây dựng các kế hoạch hoạt động về phát triển năng lượng tái tạo, đánh giá những mô hình thí điểm hiệu quả, từ đó nhân rộng ra các địa phương. Một trong những chương trình mà thành phố hướng đến là mỗi người dân khi sử dụng tấm năng lượng mặt trời sẽ được hỗ trợ 1 triệu đồng – mức giá ưu đãi nhất với sự cam kết của doanh nghiệp và chính quyền.

Đề Xuất Các Giải Pháp Giảm Thiểu Ô Nhiễm Không Khí Tại Tp Hcm

Đây là thông tin được Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Quốc Bằng, Trưởng phòng Ô nhiễm không khí và Biến đổi khí hậu, Viện Môi trường và Tài nguyên, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh cho biết tại tọa đàm về ô nhiễm không khí ở TP Hồ Chí Minh, do Trung tâm Hành động và liên kết vì môi trường và phát triển (thuộc Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam) tổ chức ngày 3-1.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Quốc Bằng, hoạt động giao thông, xây dựng và sản xuất công nghiệp là những tác nhân chính gây nên tình trạng ô nhiễm không khí tại các đô thị. Hoạt động giao thông phát thải tới gần 85% lượng khí cacbon monoxit có khả năng gây nhiễm độc cấp và nhiều chất độc hại khác. Tại các công trình xây dựng, mức độ ô nhiễm không khí cao gấp 5 – 6 lần quy chuẩn. Không chỉ gây khói, bụi độc hại, các hoạt động này còn phát sinh tiếng ồn làm trầm trọng thêm tình trạng ô nhiễm không khí.

Ô nhiễm không khí tại TP Hồ Chí Minh đang ở mức báo động.

Tại tọa đàm, đại diện Trung tâm Hành động và liên kết vì môi trường và phát triển cho biết, qua phân tích các giai đoạn ô nhiễm không khí mức cao tại TP Hồ Chí Minh cho thấy, đây là nơi phát thải lớn nhất trong khu vực với số lượng lớn các phương tiện giao thông, khu công nghiệp, hoạt động xây dựng… Ô nhiễm không khí đỉnh điểm tại thành phố luôn diễn ra vào buổi sáng là thời điểm giao thông cao điểm.

Trong khi đó, theo số liệu của Chi cục Bảo vệ môi trường TP Hồ Chí Minh, ô nhiễm chất lượng không khí trên địa bàn thành phố chủ yếu là do bụi lơ lửng và mức ồn do các hoạt động giao thông gây ra (với 72 % số liệu bụi quan trắc tại 12 vị trí giao thông vượt Quy chuẩn Việt Nam và 97 % số liệu mức ồn quan trắc được tại 12 vị trí giao thông vượt Quy chuẩn Việt Nam).

Đánh giá về tác động của ô nhiễm không khí tới vấn đề sức khỏe, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Quốc Bằng cho biết, ô nhiễm không khí là nguyên nhân đứng thứ 4 dẫn tới nguy cơ tử vong sớm trên toàn cầu. Tại Việt Nam, ô nhiễm không khí khiến khoảng 1,5 triệu người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính mỗi năm. Đặc biệt với thành phố lớn và dân số đông như TP Hồ Chí Minh, ô nhiễm không khí đang là vấn đề đáng báo động với sức khỏe người dân.

Đề xuất về giải pháp giảm ô nhiễm không khí tại TP Hồ Chí Minh, Tiến sĩ Lê Việt Phú, giảng viên Đại học Fulbright tại Việt Nam cho biết, cần có thêm những tiêu chuẩn nghiêm ngặt về chất lượng không khí và nâng cao tiêu chuẩn về chất lượng không khí. Bên cạnh đó, cơ quan chức năng cần thiết lập hệ thống cảnh báo sớm về ô nhiễm không khí để gửi thông tin cho người dân sinh sống trong khu vực có nguy cơ cao. Thành phố cần thực hiện đa dạng hóa trong đầu tư về sản xuất năng lượng, chuyển đổi qua những dạng năng lượng khác ngoài năng lượng từ đốt than, khích lệ sử dụng những nguồn năng lượng sạch như năng lượng mặt trời, sử dụng thiết bị tiết kiệm năng lượng và những dự án giao thông công cộng.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Quốc Bằng, để giảm thiểu ô nhiễm không khí, trước hết thành phố phải kiểm soát được lượng phát thải xe gắn máy để tiến tới thay thế xe gắn máy chuyển sang sử dụng xe công cộng, tàu điện hoặc xe buýt sạch. Đồng thời, thành phố thay thế xe buýt dùng công nghệ cũ bằng xe buýt dùng nhiên liệu sạch hơn.

TP Hồ Chí Minh là nơi tập trung mật độ công nghiệp rất cao, vì vậy cần sớm triển khai áp dụng cho phép xả thải từng nhà máy. Về lâu dài, thành phố cần thực hiện quy hoạch và phân vùng xả thải khí thải phục vụ quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của thành phố, quy định khu vực được phép hoặc không được phép tiến hành xây dựng và hoạt động của khu công nghiệp.

Cập nhật thông tin chi tiết về Nỗ Lực Giảm Thiểu Ô Nhiễm Không Khí trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!