Bạn đang xem bài viết Những Năng Lực Quản Lý Của Người Lãnh Đạo Cần Thiết Nhất được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Quản lý là quá trình làm việc cùng và thông qua các cá nhân, các nhóm và các nguồn lực khác. Quản lý được thử thách và đánh giá qua việc đạt được các mục tiêu thông qua sự tổ chức và thực hiện các kỹ năng khác nhau. Trước tiên, nhà quản lý cần có những năng lực quản lý của người lãnh đạo như hiểu biết một vốn kiến thức nhất định về hệ thống luật và thuế trong kinh doanh, về marketing, tài chính doanh nghiệp, dây chuyền sản xuất, công nghệ … Đây là yêu cầu tiên quyết vì nó gắn liền với hiệu quả của quá trình ra quyết định. thì mới có thể trở thành một nhà quản lý tài năng.
Một số kỹ năng quan trọng mà một nhà lãnh đạo thường cần phải có
• Kỹ năng lãnh đạo: Đây có lẽ không thể nào nằm ngoài năng lực quản lý của người lãnh đạo. Lãnh đạo giỏi được thử thách qua sự thành công trong việc thay đổi hệ thống và con người. Thuật ngữ “lãnh đạo” đang được sử dụng ngày càng nhiều hơn khi nhắc đến vai trò của người quản lý vì chức năng của lãnh đạo là xử lý thay đổi. Người quản lý cần phải lãnh đạo giỏi để thay đổi sản phẩm, hệ thống và con người một cách năng động. Nhà lãnh đạo giỏi phải là người thúc đẩy quá trình quyết định một vấn đề và trao cho nhân viên của họ quyết định vấn đề đó. Nếu bạn là một nhà lãnh đạo giỏi, quyền lực sẽ tự đến với bạn, nhưng bạn cũng phải biết khai thác quyền lực của những người khác. Bạn phải thúc đẩy quá trình quyết định và làm cho quá trình đó hoạt động. Đó là một bài toán khó.
• Kỹ năng lập kế hoạch: Nhà quản lý là người ra quyết định và toàn bộ bộ máy của công ty sẽ hành động theo quyết định đó. Nghĩa là quyết định của nhà quản lý ảnh hưởng rất lớn tới vận mệnh của doanh nghiệp. Một kế hoạch sai lầm rất có thể sẽ đưa đến những hậu quả khó lường. Vì vậy kỹ năng lập kế hoạch rất quan trọng để đảm bảo cho nhà quản lý có thể đưa ra những kế hoạch hợp lý và hướng toàn bộ nhân viên làm việc theo mục tiêu của kế hoạch đã định. Khi kế hoạch được hoàn thành, nhà quản lý phải chuyển tải thông tin kế hoạch cho cấp trên và cấp dưới để tham khảo ý kiến. Trong suốt quá trình thực hiện kế hoạch, người quản lý sẽ cần đến những công cụ giải quyết vấn đề và khi cần thiết, phải ra và thực thi các quyết định trong quyền hạn của mình.
• Kỹ năng giải quyết vấn đề: Trong các năng lực quản lý của người lãnh đạo thì khả năng lường trước rủi ro và giải quyết vấn đề gần như bắt buộc và quyết định cấp độ thành công của nhà lãnh đạo đó. Quá trình giải quyết vần đề có thể được tiến hành qua các bước sau: nhận diện vấn đề, tìm nguyên cớ của vấn đề, phân loại vấn đề, tìm giải pháp và lựa chọn giải pháp tối ưu. Một nhà quản lý giỏi sẽ tiến hành quá trình này một cách khoé léo và hiệu quả.
• Kỹ năng giao tiếp tốt: Càng ngày người ta càng nhận ra sức mạnh của các mối quan hệ, cái mà có được từ một kỹ năng giao tiếp tốt. Bạn phải thành thạo giao tiếp bằng văn nói và cả văn viết. Bạn phải biết cách gây ấn tượng bằng giọng nói, ngôn ngữ cơ thể, đôi mắt và cách diễn đạt dễ hiểu, thuyết phục. Các bản hợp đồng ngày nay có được phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ và khả năng thương thuyết. Khả năng giao tiếp tốt cũng phát huy tác dụng trong quản lý nhân sự. Một chuyên gia về nhân sự đã từng kết luận rằng tiền có thể mua được thời gian chứ không mua được sự sáng tạo hay lòng say mê công việc. Mà mức độ sáng tạo hay lòng say mê công việc lại phụ thuộc vào khả năng tạo động lực cho nhân viên để khẳng định lòng trung thành và sự cam kết của người lao động không thể có được bằng việc trả lương cao. Thực tế là mức lương cao và một văn phòng đầy đủ tiện nghi chỉ là điều kiện cần chứ không phải là điều kiện đủ để nhà quản lý có thể giữ một nhân viên tốt.
Một số tính cách quyết định đến năng lực quản lý của người lãnh đạo
Tầm nhìn xa
Một người lãnh đạo có vai trò quan trọng hơn một cá nhân rất nhiều. Anh ta dường như luôn biết cách hoạch định tốt mọi công việc và là người cung cấp những lời khuyên hữu ích nhất cho những cộng sự hay thuộc cấp của mình.
Không chỉ có một tầm nhìn xa, anh ta còn biết cách truyền đạt những ý tưởng của mình cho người khác hiểu để cùng với mình thực hiện tốt những ý tưởng đó. Những thông điệp được truyền đi phải luôn sinh động, rõ ràng và có sức thuyết phục cao. Do đó, sự thành thạo trong khả năng giao tiếp bằng lời nói luôn là phẩm chất cần có của một người lãnh đạo giỏi như đã nói ở trên.
Trong khi mọi người đều bị thuyết phục bởi tài năng của người lãnh đạo, họ thường không nhận ra rằng tài năng đó chỉ đóng vai trò bổ trợ cho những kinh nghiệm mà anh ta có thể tiếp thu từ thực tiễn công việc: khả năng lên kế hoạch và thiết lập mục tiêu cần đạt được. Anh ta là người luôn có những giải pháp để giải quyết mọi khó khăn trong những tình huống nan giải nhất bởi vì, anh ta đã nhìn rõ bản chất của sự việc ngay cả trước khi khi bạn chỉ mới bắt đầu nghĩ về nó.
Sự tự tin
Một người lãnh đạo thật sự phải luôn có lòng tin vào chính mình. Thông thường, sự tự tin này hình thành từ sự thật là bất cứ một người lãnh đạo nào cũng đã từng trải qua thời gian dài rèn luyện những kỹ năng trong công việc, tích lũy vốn kiến thức rộng cùng với sự thông minh sẵn có của anh ta. Bên cạnh đó, cho dù không có những kỹ năng, kinh nghiệm kia thì anh ta cũng là người biết nhận thức, học hỏi điều đó từ những người khác.
Tính kiên định
Một người lãnh đạo mạnh mẽ cần phải có lập trường vững vàng trong các quyết định của mình. Tuy nhiên, điều này không bao gồm những tư tưởng bảo thủ, ngoan cố không biết sửa chữa những sai lầm. Hơn nữa, anh ta phải biết nghiêng về lẽ phải trong việc phân xử các xung đột trong nội bộ của mình.
Biết chấp nhận mạo hiểm
Nhiều người không dám mạo hiểm bởi vì họ sợ phải nhận lấy thất bại. Tuy nhiên, nếu bạn là một người lãnh đạo có tham vọng, bạn cần phải tự hỏi chính mình rằng liệu sự mạo hiểm đó có đáng giá hay không? Nếu cảm thấy sự liều lĩnh của mình là đáng bỏ công, bạn cần biết vượt qua rào cản tâm lý lo sợ, e ngại và dũng cảm đương đầu với thử thách. Nếu thử thách là quá khó, hãy dành thời gian cho việc lên kế hoạch “tác chiến”, càng có nhiều sự chuẩn bị, mức độ mạo hiểm trong tình huống của bạn càng được giảm bớt.
Sự kiên trì
Người lãnh đạo không bao giờ đầu hàng khó khăn khi chưa thật sự đối đầu với nó. Mọi thứ không phải luôn luôn dễ dàng đối với bạn và bởi vì bạn là người đứng đầu nên bạn cần biết thử trải nghiệm thật nhiều cho đến khi nào thành công thì thôi.
Sự quả quyết
Là người đứng đầu, bạn được trông chờ trong việc đưa ra những quyết định quan trọng trong khi những người khác thường cố gắng tránh xa nó. Cho dù những quyết định này đôi khi sẽ tạo ra những tác động lớn ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa bạn và những người xung quanh mình thì bạn cũng phải chấp nhận điều đó.
Sự cả nể, nhân nhượng trong cách đưa ra quyết định có thể dẫn bạn đến những sai lầm khi tạo tiền lệ xấu dẫn đến việc làm mất đi cái “uy” trong vị thế là người lãnh đạo của bạn. Đôi khi bạn cũng cần nhẫn tâm một chút trong việc sa thải một nhân viên nào đó vì hành động của anh ta gây tổn hại lớn đến lợi ích của công ty.
Sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân
Bạn có sẵn sàng để làm điều đó để công việc của mình tiến triển tốt hay không? Là một người đứng đầu một tập thể, bạn phải tốn rất nhiều thời gian và công sức để quản lý tốt những người dưới quyền và công việc của mình. Thậm chí, sự bận rộn đó còn chiếm cả những khoảng thời gian riêng tư dành cho bản thân và gia đình bạn.
Khả năng thích nghi
Phương thức kinh doanh có thể hiệu quả trong hôm nay nhưng ngày mai thì nó lại khác. Một người lãnh đạo có tài cần phải nhận thức được điều đó và phải biết thức thời trong việc thích nghi và chấp nhận thay đổi. Anh ta phải luôn cập nhật những kỹ năng, công nghệ và phương pháp mới để thúc đẩy sự phát triển trong công việc của mình. Để trở thành một nhà lãnh đạo tài năng thật không dễ dàng chút nào. Nó đòi hỏi bạn phải thật sự yêu thích công việc của mình cùng với những công sức và sự nỗ lực không ngơi nghỉ để có thể hội tụ được những phẩm chất cần có của người lãnh đạo. Hãy tự hỏi mình vì sao những người khác cần phải lắng nghe, tôn trọng và thực hiện theo sự điều động, hướng dẫn của bạn. Chắc chắn, bạn sẽ tìm thấy động lực để hoàn thành tốt vai trò của một người lãnh đạo.
Ngan Tran
Publisher Name
VnResource
Người Cán Bộ Quản Lý Lãnh Đạo Và Các Kỹ Năng Quản Lý
NGƯỜI CÁN BỘ QUẢN LÝ LÃNH ĐẠO VÀ CÁC KỸ NĂNG QUẢN LÝ
Người cán bộ quản lý, lãnh đạo
Loại cán bộ quản lý
Người cán bộ quản lý theo nghĩa rộng bao gồm:
Những cán bộ quản lý lãnh đạo.
Những người tham gia, hoạt động, làm việc quản lý.
Vai trò, nhiệm vụ của người cán bộ quản lý l∙nh đạo
Trong một tổ chức người lãnh đạo là người có vai trò quan trọng quyết định sự thành bại của tổ chức. Vai trò đó được thể hiện trong các nhiệm vụ chính của người lãnh đạo sau:
Xác định phương hướng, mục đích của cơ quan tổ chức và thiết lập chiến lược hoạt động để đạt được mục đích.
Huy động và sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên để thực hiện mục đích.
Dự báo những thay đổi, quá trình phát triển và vạch ra các kế hoạch ngắn hạn và dài hạn.
Xây dựng hệ thống thông tin báo cáo hợp lý.
Xây dựng các quy định, luật lệ và điều kiện làm việc tạo môi trường thuận lợi cho các thành viên trong tổ chức hoàn thành nhiệm vụ và đáp ứng nhu cầu của họ.
Xây dựng chế độ động viên khen thưởng kịp thời.
Đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ từng giai đoạn cụ thể.
Để hoàn thành nhiệm vụ trên đòi hỏi người lãnh đạo cần có trình độ và kỹ năng nhất định trong công tác quản lý lãnh đạo .
Người lãnh đạo phải tập hợp được những cán bộ dưới quyền, tạo điều kiện để họ tham gia tích cực vào mọi hoạt động của tổ chức.
Kỹ năng và phẩm chất Người cán bộ quản lý, lãnh đạo
Kỹ năng quản lý, lãnh đạo
Kỹ năng của người lãnh đạo và người quản lý khó có thể tách biệt một cách rạch ròi nhưng trên cơ sở sự khác nhau giữa khái niệm lãnh đạo và quản lý, chúng ta cũng có thể tách biệt kỹ năng của hai loại cán bộ này như sau:
Ba nhóm kỹ năng lãnh đạo
Chẩn đoán (dự đoán, tiên đoán) là khả năng thuộc về nhận thức hoặc lý trí. Đó là khả năng hiểu được tình huống hiện tại và nhận thức được những gì có thể hy vọng xảy ra trong tương lai.
Thích ứng là khả năng thuộc về hành vi. Nó bao hàm việc thích ứng các hành vi của người lãnh đạo và các nguồn lực khác sẵn có để đáp ứng được những bất ngờ của tình huống và để có thể giảm bớt sự cách biệt giữa tình huống hiện tại và mục đích hay mục tiêu muốn đạt được.
Giao tiếp là khả năng xử lý làm cho mọi người dễ dàng hiểu và chấp nhận.
Ba nhóm kỹ năng quản lý
Kỹ năng kỹ thuật là khả năng sử dụng tri thức, các phương pháp, kỹ thuật và thiết bị cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ nhất định có được từ kinh nghiệm, giáo dục và đào tạo.
Kỹ năng làm việc với con người (Human skill) là năng lực và cách nhìn khi làm việc với con người và thông qua con người, bao gồm cả cách thức động viên thúc đẩy và áp dụng phương pháp lãnh đạo hữu hiệu.
Kỹ năng lý luận ( nhận thức) là khả năng hiểu được sự phức tạp của toàn thể tổ chức và biết được vị trí mà hoạt động riêng của nó phù hợp với tổ chức.
Khi tiến từ cấp quản lý thấp nhất tới các chức vụ cao nhất, ba nhóm kỹ năng trên được pha trộn theo tỷ lệ rất khác nhau cho những người quản lý ở các cấp khác nhau. Để quản lý có hiệu quả, cấp quản lý càng cao có xu hướng càng ít cần đến kỹ năng kỹ thuật nhưng cần nhiều kỹ năng lý luận. Các cán bộ điều hành ở cấp thấp có thể cần nhiều kỹ năng kỹ thuật vì họ thường phải đào tạo và hỗ trợ các cán bộ kỹ thuật và nhân viên dưới quyền. Ngược lại, các cán bộ quản lý cấp cao trong một số tổ chức y tế cụ thể lại thường không cần biết làm thế nào để thực hiện tất cả các công việc cụ thể ở mức vận hành. Tuy nhiên, họ phải có khả năng theo dõi để các chức năng này tác động lẫn nhau nhằm hoàn thành các mục tiêu của toàn thể tổ chức.
Những kỹ năng quản lý cụ thể
Kỹ năng nhận thức
Là khả năng thấy được “bức tranh khái quát”, nhận ra được những nhân tố chính trong mỗi hoàn cảnh; nhận thức được những mối quan hệ giữa các phần tử.
Kỹ năng kỹ thuật ( technological skills)
Là kiến thức và tài năng trong các hoạt động, bao gồm phương pháp, quá trình và quy trình. Như vậy nó gắn công việc với các công cụ và các kỹ thuật cụ thể. Như vậy kỹ năng kỹ thuật chính là:
Hiểu biết các yếu tố kỹ thuật phong phú của hệ thống kỹ thuật.
Sử dụng các kỹ thuật thích hợp, hợp lý.
Có khả năng về các kỹ thuật chuyên biệt.
Là khả năng có thể làm việc được với mọi người, đó là năng lực hợp tác, là khả năng tham gia vào công việc tập thể, khả năng tạo ra một môi trường trong đó mọi người cảm thấy an toàn và dễ dàng bộc bạch ý kiến của mình.
Kỹ năng thiết kế
Khả năng thực hành xây dựng giải pháp khả thi cho mỗi vấn đề, căn cứ vào thực tế mà người quản lý gặp phải.
Khả năng phân tích và giải quyết vấn đề
Khả năng xác định rõ các vấn đề, phân tích được các tình huống phức tạp và qua việc giải quyết những vấn đề vướng mắc, có khả năng làm lộ ra những cơ hội đang tồn tại và khả năng thực thi các giải pháp của vấn đề.
Kỹ năng quản lý hoạt động chăm sóc sức khoẻ
Kỹ năng lập kế hoạch; kỹ năng thực hiện kế hoạch; kỹ năng giám sát; đánh giá v.v…
Kỹ năng ra quyết định (decision making)
Kỹ năng ra quyết định được coi là khả năng làm việc sáng tạo của người quản lý chủ yếu là để giải quyết các vấn đề nẩy sinh trong quá trình quản lý. Để có kỹ năng này người quản lý phải có nhiều kỹ năng khác đã được nêu ở trên.
Phẩm chất của người quản lý, l∙nh đạo
Có 3 loại phẩm chất
Phẩm chất chính trị.
Phẩm chất cá nhân.
Phẩm chất công tác.
Các phẩm chất cơ bản cần có của người quản lý, lãnh đạo
Có lòng say mê, có mục tiêu rõ ràng, có định hướng trong hoạt động
Bất kỳ một một người nào muốn tiến bộ cũng cần có mục tiêu lý tưởng phấn đấu của mình. Việc xác định rõ ràng mục tiêu hoạt động và phấn đấu để đạt được mục tiêu của mình chính là động lực quan trọng bậc nhất của người quản lý lãnh đạo. Mục tiêu và lý tưởng chính đáng của người lãnh đạo là phấn đấu để tổ chức của mình đạt được mục tiêu chiến lược của tổ chức. Để phấn đấu vì mục tiêu chung người lãnh đạo phải đặt lợi ích của tổ chức lên trên lợi ích cá nhân, luôn tìm tòi, sáng tạo, vượt qua các khó khăn thử thách trong công việc. Mục tiêu và lý tưởng của người lãnh đạo không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của chính họ mà còn ảnh hưởng đến các cá nhân cũng như nhóm và tập thể trong tổ chức, đó cũng chính là động lực thúc đẩy tổ chức phát triển.
Làm việc có tính nguyên tắc
Tính nguyên tắc thể hiện trong việc tôn trọng các luật lệ trong tổ chức, gương mẫu thực hiện các luật lệ quy định. Đảm bảo nguyên tắc đối xử công bằng với mọi người, khen thưởng và kỷ luật đúng thực chất, không thiên vị, tránh sự chi phối tình cảm cá nhân. Tránh định kiến và trù dập những người không ăn ý hoặc đã có những tiền sự không tốt trước đây.
Nhạy cảm, sáng tạo trong lãnh đạo quản lý
Lãnh đạo quản lý là quá trình động, hoàn cảnh và con người trong tổ chức luôn biến đổi vì thế người lãnh đạo phải nhạy bén với các thay đổi của môi trường bên trong và bên ngoài tổ chức. Người lãnh đạo cần kịp thời đưa ra các quyết định hợp lý để ứng phó với các thay đổi, đáp ứng các tâm tư nguyện vọng chính đáng của cấp dưới. Phát hiện và phát huy được các nhân tố mới trong tổ chức sẽ tạo điều kiện cho tổ chức phát triển. Tính nhạy cảm trong lãnh đạo đòi hỏi người lãnh đạo phải có các kiến thức về tâm lý quản lý lãnh đạo, có khả năng phát hiện các diễn biến tâm lý của cấp dưới để kịp thời ứng xử giải quyết các khó khăn vướng mắc của cá nhân cũng như của nhóm, tránh được các căng thẳng giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với nhóm, cấp dưới với cấp trên. Người lãnh đạo cần tạo ra không khí thi đua lành mạnh trong tổ chức tránh đố kỵ và bè phái trong giải quyết công việc.
Quan hệ đúng mực với người dưới quyền
Tạo và giữ được uy tín với người dưới quyền là bí quyết cho lãnh đạo thành công. Muốn tạo và giữ được uy tín với cấp dưới trước tiên người lãnh đạo phải gương mẫu, đối xử đúng mực với cấp dưới, kiềm chế sự bột phát của tình cảm, biết lắng nghe và nói đúng lúc đúng chỗ. Người lãnh đạo luôn luôn phải đòi hỏi sự cố gắng của cấp dưới, tôn trọng, tin tưởng vào cấp dưới quyền, động viên khuyến khích cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ. Đi đôi với đòi hỏi cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ thì bản thân người lãnh đạo cũng phải đòi hỏi sự nỗ lực học hỏi và phấn đấu của bản thân mình.
Bản thân người lãnh đạo cũng là một thành viên trong tập thể, trong cộng đồng như những người bình thường khác vì thế họ cũng phải là người có nếp sống văn hoá phù hợp với đạo đức, lối sống, phong tục, truyền thống văn hoá của cộng đồng xã hội. Sống trung thực là một phẩm chất không thể thiếu của người lãnh đạo được thể hiện trong khi thực hiện công việc tại cơ quan cũng như trong cuộc sống hàng ngày tại gia đình hay trong xã hội. Tự chủ, tự tin, giản dị, mẫu mực và có văn hoá trong ăn nói, đi đứng, trang phục làm tôn vinh thêm uy tín trong công tác của người lãnh đạo, đây chính là yếu tố tạo nên quyền lực cá nhân cho người lãnh đạo.
Quyền lực
Khái niệm về quyền lực
Có thể định nghĩa một cách đơn giản: Quyền lực là nhiệm vụ kiểm soát hay ảnh hưởng đến người khác hay đến nhóm trong một cơ quan, tổ chức. Quyền lực có sức mạnh giúp đỡ và hỗ trợ về tinh thần. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu đã phân tích và đưa ra các lý thuyết khác nhau và phân loại sâu hơn về quyền lực trong xã hội cũng như trong cơ quan hay một tổ chức cụ thể nào đó.
Trước đây có một số tác giả định nghĩa quyền lực là sức ép có chủ định hay là sự kiểm soát (Adler 1938, 1964, ansbacher 1956, 1964; Bienrstedt 1950, Russell 1938, Wrong 1968). Các tác giả khác thì cho quyền lực là sức mạnh, ảnh hưởng qua quá trình giám sát hiệu quả của các mối tác động qua lại trong quan hệ công việc. Tác giả Simon (1957) thì gọi sự tác động này là mối quan hệ ảnh hưởng hệ thống. Có những tác giả đưa ra định nghĩa quyền lực là những thay đổi qua lại trong xã hội do quan hệ nhiệm vụ. Các thuyết khác dựa theo khái niệm hoá coi quyền lực là khả năng tạo ra ảnh hưởng của một người đến những người hay nhóm người khác. Như vậy chúng ta có thể nhận thấy là quyền lực có sức mạnh giúp cho các nhà quản lý lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của mình nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức họ.
Phân loại quyền lực
Theo tác giả Etzioni (1961) chia ra 2 loại quyền lực:
Quyền lực địa vị
Quyền lực địa vị còn được gọi là quyền lực chính thức, có nguồn gốc từ bên trong tổ chức. Người quản lý có ảnh hưởng đến một nhóm người để thực hiện mục tiêu bởi vì người đó được đặt vào vị trí đó trong tổ chức để sử dụng quyền lực điều hành các hoạt động của tổ chức. Người ta cho rằng quyền lực địa vị giảm dần trong một tổ chức từ trên xuống dưới: những người có địa vị cao ủy quyền và trách nhiệm cho những người ở địa vị thấp hơn và những người có địa vị thấp hơn lại ủy quyền và trách nhiệm cho những người thấp hơn nữa.
Quyền lực cá nhân
Quyền lực cá nhân bắt nguồn từ những người dưới quyền. Quyền lực cá nhân theo hướng từ cấp dưới ảnh hưởng đến cấp trên và nhà quản lý. Quyền lực cá nhân được mở rộng ảnh hưởng qua sự kính trọng của cấp dưới đối với cấp trên và thể hiện sự cam kết của họ đối với người lãnh đạo cấp trên của mình. Quyền lực cá nhân còn được gọi là quyền lực không chính thức. Quyền lực không chính thức được coi là phạm trù thể hiện trong cuộc sống hàng ngày bởi vì nó có thể dần dần thu được từ cấp dưới, đồng thời cá nhân cũng có thể bị mất đi dần dần do uy tín của người quản lý giảm đi. Người lãnh đạo không chính thức trong một nhóm, được nhóm tin cẩn là một ví dụ về người có thể được trao hay mất đi quyền lực cá nhân của mình.
Mỗi cá nhân có thể kiểm soát quyền lực riêng của mình – tuy nhiên cũng có thể họ không hoàn toàn kiểm soát được toàn bộ hệ thống các mối quan hệ xã hội, nhưng họ cũng kiểm soát được rất nhiều các quan hệ do quyền lực mà họ tạo ra.
Các nhà lãnh đạo cấp cao trao quyền lực địa vị bằng cách ủy quyền và trách nhiệm cho các nhà quản lý, các nhà quản lý lại chiếm được lòng tin của cấp trên thông qua khả năng làm việc, cách ứng xử, sự tự tin và sự trung thành. Cấp dưới tạo nên quyền lực cá nhân cho các nhà quản lý, họ cho phép họ chấp nhận hay phục tùng quyền lãnh đạo của cấp trên.
Các nhà quản lý tạo dựng được quyền lực cá nhân thông qua giải quyết các vấn đề của con người với sự tôn trọng họ, qua cử chỉ hành vi thân thiện với sự hiểu biết và sử dụng kiến thức, kinh nghiệm cần thiết để lãnh đạo người khác hoàn thành các mục tiêu đề ra.
Trên thực tế quyền lực là sức mạnh quan hệ giữa những con người với nhau. Có thể nói một người trao quyền lực cho người khác và lại dùng quyền lực để kiểm soát người mà mình đã trao quyền lực. Quyền lực thường tồn tại trong hệ thống tổ chức. Các bằng chứng về hành vi quyền lực tồn tại có thể quan sát thấy được nhưng việc nhận biết các hành vi quyền lực phụ thuộc vào từng người khác nhau ở các thời điểm khác nhau, trong các phạm vi khác nhau.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ của nhà quản lý thì tốt nhất là có cả hai loại quyền lực địa vị và quyền lực cá nhân. Có thể nói nôm na là cùng một lúc vừa được người ta sợ và được người ta quý mến để làm cho người khác phải thực hiện tốt nhiệm vụ.
Sử dụng quyền lực
Các nội quy và luật lệ có thể được sử dụng để tạo những nỗ lực nhằm thay đổi ở những người cấp dưới tuân theo những quy định chung.
Đối mặt trực tiếp với thực tế công việc và các con số là những thử thách có thể sử dụng để nêu ra các mục tiêu mong muốn cuối cùng sẽ đạt được.
Các đóng góp quan trọng của cá nhân có thể được nhân rộng khi họ được thăng tiến và sử dụng họ vào vị trí thích hợp. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu như người nào đó có khả năng cá nhân và có những đóng góp quan trọng thì người đó có ảnh hưởng nhiều đến những người khác.
Hợp tác và liên kết các thành viên trong nhóm được hình thành sẽ là biện pháp quan trọng để huy động các nguồn lực khác nhau hay hợp tác tạo nên sức mạnh tổng hợp vượt qua các trở ngại đối ngược.
Không gian là một phạm trù đã được tác giả Kodar nghiên cứu năm 1975. Vị trí và sắp xếp bàn ghế có thể là một chiến lược để đạt được sức mạnh quyền lực. Ngồi cạnh bàn có khoảng không rộng rãi trong khi chỗ của người đến thăm hay của cấp dưới ở khu vực chật hẹp sẽ giảm đi sự thoải mái về tâm lý của người đến thăm. Ngồi ở vị trí “giữa các sự việc” tạo ra kết quả của quyền lực bởi vì sẽ tiếp cận được các thông tin.
Quyết đoán là một phương pháp truyền thông có sức mạnh mà nhiều người đã biết để sử dụng trong công tác hàng ngày. Đó chính là một trong các điểm cơ bản trong quản lý cần được phát huy tối ưu.
Hội đàm qua lại giữa những người quản lý và người dưới quyền sẽ có ảnh hưởng lẫn nhau. Sự bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau trong trao đổi hai chiều là đặc trưng cần thiết của chiến lược sử dụng hội đàm để sử dụng quyền lực.
Quyền lực được duy trì và phát huy khi người quản lý lãnh đạo không lạm dụng và sử dụng quyền lực bất chấp luật lệ quy định.
Người lãnh đạo với việc quản lý xung đột trong tổ chức
Trong một tổ chức rất khó có thể tránh được xung đột xảy ra. Quản lý xung đột là một nội dung quan trọng và thể hiện năng lực của người lãnh đạo quản lý.
Khái niệm về xung đột
Xung đột là sự bất đồng hoặc chiến tranh xảy ra khi sự cân bằng về cảm giác, suy nghĩ, mong muốn và hành vi bị đe dọa (Deutch 1969). Xung đột xảy ra dẫn đến kết quả là các hành vi xung khắc cản trở thực hiện mục tiêu của tổ chức.
Nguyên nhân xung đột
Xung đột có thể xuất hiện trong số người, do có sự khác nhau về quan điểm, quyền lực, mục tiêu, giá trị quyền lợi v.v… Có rất nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến xung đột:
Giải quyết xung đột
Trong thực tế không có một cách giải quyết xung đột tốt nhất nào cho mọi xung đột. Cách giải quyết phụ thuộc rất nhiều vào khả năng, uy tín và kinh nghiệm của người lãnh đạo và người quản lý. Một nguyên tắc quan trọng trong giải quyết xung đột là: Tạo nên môi trường tổng hợp thuận lợi để giải quyết xung đột. Có hai chiến lược quản lý quan trọng để phòng xung đột:
Quản lý chặt chẽ các sự kiện xảy ra bất ngờ theo các mức độ khác nhau
Quản lý bằng mục tiêu
Quá trình mà những người quản lý giám sát và cấp dưới cùng tham gia xác định mục tiêu, xác định các lĩnh vực theo trách nhiệm cá nhân, lập kế hoạch chiến lược, thiết kế nhiệm vụ để đạt mục tiêu, thực hiện và đánh giá kết quả là một chiến lược có thể sử dụng để thu hút sự tham gia của mọi người trong tổ chức, tránh được các xung đột có thể xảy ra do bất đồng và thiếu dân chủ.
Cách giải quyết khác
Nói ra để bàn cách giải quyết hơn là hành động trước.
Tham vấn, hướng dẫn cá nhân có tác dụng giải quyết xung đột cá nhân.
Theo Kilman: Xác định 5 hình thái giải quyết xung đột: (1) Bàn bạc; (2) Tránh; (3) Thỏa hiệp; (4) Thi đua và (5) Phối hợp.
Sơ đồ kết quả giải quyết xung đột
Như vậy giải quyết xung đột có vai trò vô cùng quan trọng, nếu giải quyết không đúng đắn có thể làm xung đột phát triển ở giai đoạn mới và tạo ra mâu thuẫn nặng hơn vì thế việc phát hiện và tìm giải pháp hợp lý để giải quyết xung đột thể hiện năng lực của người lãnh đạo.
Nâng Tầm Năng Lực Lãnh Đạo Của Đảng
Tạp chí Xây dựng Đảng giới thiệu bài viết “Nâng tầm năng lực lãnh đạo của Đảng – nhìn từ thực tiễn Quảng Ninh” – (4 kỳ) đoạt Giải B – Giải báo chí toàn quốc về xây dựng Đảng (Giải Búa liềm vàng) lần thứ nhất – năm 2016 của Báo Quảng Ninh.
Bài 1: “Cẩm nang” của Quảng Ninh
Một bộ máy trùng chéo, bất hợp lý, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ; một lực lượng cán bộ, công chức, viên chức nhiều tới mức “lạm phát”; sự bất hợp lý trong chi ngân sách cho đầu tư phát triển và chi để nuôi bộ máy; sự hạn chế, yếu kém về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một bộ phận đảng viên, cơ sở đảng; sự chưa đồng bộ trong đổi mới hệ thống chính trị và đổi mới về kinh tế… là thực trạng chung ở nhiều địa phương trong cả nước hiện nay. Nhận diện rõ những hạn chế, yếu kém này, trên cơ sở chủ trương của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị, Quảng Ninh đã xây dựng và đang vào guồng triển khai thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TU của BCH Đảng bộ tỉnh, Đề án 25 về “Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế”.
Sức sống mới ở Tiên Yên
Với khát vọng vươn cao từ bàn tay, khối óc, khung trời, cửa biển, trong những năm qua Quảng Ninh đã đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức và tầm nhìn chiến lược, linh hoạt và sáng tạo trong cụ thể hoá các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Từ đó, đưa ra những sáng kiến chính trị hành chính có tính đột phá, tạo không khí thi đua lao động sản xuất đoàn kết, gắn bó, tăng cường, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới của Đảng.
3 năm trở lại đây toàn tỉnh Quảng Ninh thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, trong đó Tiên Yên là một trong những điểm sáng trong “Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế”. Đến Tiên Yên thời gian này, hẳn ai cũng có thể cảm nhận rõ ràng sức sống mới ở địa bàn miền núi, ven biển với gần 70% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số này. Những con đường nông thôn mới trải dài từ xã xuống thôn, từ thôn đến xóm, từ xóm ra đồng đều được cứng hoá, mở rộng từ sự chung tay, góp sức của cả cộng đồng, những mô hình sản xuất “2 con 1 cây” (con gà, con tôm và cây dược liệu) nở rộ trên những cánh đồng, trang trại. Người nông dân hào hứng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền. Từ những đổi mới, đột phá trong xây dựng bộ máy, hệ thống chính trị, Tiên Yên đã tạo sự đoàn kết, thống nhất, huy động tổng nguồn sức mạnh phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; tạo niềm tin sắt son vào Đảng của nhân dân các dân tộc trên địa bàn. Đồng chí Trương Công Ngàn, Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện Tiên Yên cho biết: Tiên Yên đang có một sinh khí mới từ việc chăm lo, làm tốt khâu “then chốt”, nhất là từ khi thực hiện Đề án 25. Như đối với ngành giáo dục và y tế nhờ mạnh dạn sắp xếp lại hoạt động của ngành giáo dục và y tế, Tiên Yên đã đột phá thành công trong thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế ở 2 ngành có đầu mối, cán bộ, biên chế nhiều và phức tạp nhất này. Kết quả là các em học sinh đã được thụ hưởng điều kiện học tập tốt hơn sau khi sắp xếp lại các trường, điểm trường ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc, công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được tập trung và hiệu quả hơn.
Đối với tổ chức, bộ máy để minh bạch hoá, Tiên Yên thực hiện bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý có cạnh tranh thông qua trình bày chương trình công tác; thí điểm thực hiện chế độ tập sự lãnh đạo, quản lý (tập sự 6 tháng); luân chuyển cán bộ các phòng, ban, đơn vị huyện về làm Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch UBND tại các xã, thị trấn; thực hiện luân chuyển Phó Bí thư giữa các xã, trưởng phòng cấp huyện có thời gian giữ chức vụ 7 năm trở lên và do yêu cầu công tác, luân chuyển 18 công chức kế toán và công chức địa chính xã, thị trấn theo Nghị định 158 và Nghị định 150 của Chính phủ… Năm 2015, Tiên Yên được Tỉnh uỷ Quảng Ninh lựa chọn là Đảng bộ tổ chức đại hội điểm cấp huyện nhiệm kỳ 2015-2020, thí điểm đại hội bầu trực tiếp Bí thư, Phó Bí thư, Ban Thường vụ; thực hiện nhất thể hoá chức danh người đứng đầu địa phương – Bí thư Huyện uỷ đồng thời là Chủ tịch UBND huyện. Và Tiên Yên đã “mở hàng” rất may mắn cho kỳ Đại hội cấp huyện thành công rực rỡ của Quảng Ninh nhiệm kỳ 2015-2020 với nhiều đổi mới để mở rộng dân chủ trong Đảng. Cũng là Tiên Yên với mô hình “2 trong 1” – Bí thư đồng thời là Chủ tịch UBND huyện không chỉ khẳng định lựa chọn rất đúng đắn của cán bộ, đảng viên, nhân dân trên địa bàn để bộ máy của huyện ngày càng vận hành nhịp nhàng, đồng bộ, ăn khớp, công việc chạy nhanh hơn, vai trò người đứng mũi chịu sào thể hiện rõ ràng hơn mà còn chứng minh chủ trương của Đảng về đẩy mạnh thực hiện nhất thể hoá chức danh (Nghị quyết XII của Đảng) đã đáp ứng yêu cầu đòi hỏi từ thực tiễn. Như Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện Tiên Yên Trương Công Ngàn khẳng định: Việc triển khai thực hiện Nghị quyết 19, Đề án 25 ở Tiên Yên đã tạo ra những chuyển biến rất tích cực trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị của huyện, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của nhiều cấp uỷ, tổ chức Đảng được nâng lên, phương thức lãnh đạo có nhiều đổi mới, nhất là trong chỉ đạo phát triển kinh tế – xã hội và xây dựng nông thôn mới. Tổ chức bộ máy được sắp xếp tinh gọn, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ và có hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được tinh giản; trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc, ý thức và tinh thần trách nhiệm cơ bản được nâng lên. Quá trình thực hiện Chỉ thị số 25-CT/TU, Nghị quyết số 19-NQ/TU và Đề án 25 gắn với tổ chức thành công đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020, bầu cử Đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2016-2021 và thực hiện Nghị định 108/NĐ-CP có hiệu quả.
Không chỉ là nâng tầm lãnh đạo…
Một trong những điểm đột phá mà Quảng Ninh đã và đang quyết tâm thực hiện đó là “Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế” (gọi tắt là Đề án 25). Trả lời câu hỏi tại sao trong 3 năm qua, cả hệ thống chính trị của tỉnh tập trung cao độ cho Đề án này, là bởi Quảng Ninh nhìn nhận thấy rõ những cái được và những mặt hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Đó là, năng lực lãnh đạo ở nhiều cấp uỷ chưa theo kịp yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, một số tổ chức Đảng, đảng viên, sức chiến đấu chưa cao, bộ máy chưa tinh gọn, chức năng, nhiệm vụ ở một số cơ quan, đơn vị còn chồng chéo, bất hợp lý; trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ, số lượng người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước chiếm tỷ lệ cao và có xu hướng ngày càng tăng… Và trong những nguyên nhân chính dẫn đến hạn chế, tồn tại này là đổi mới phương thức cầm quyền, lãnh đạo của Đảng chưa theo kịp với sự phát triển của thực tiễn, chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế. Vì vậy, Quảng Ninh đã nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp uỷ đảng, tiến hành rà soát trong hệ thống chính trị về tổ chức bộ máy, biên chế, phát hiện nhiều yếu kém, bất cập cần phải mạnh dạn đổi mới. Sau khi phân tích kỹ những hạn chế, yếu kém, làm rõ nguyên nhân, yếu tố tác động, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ninh tập trung chỉ đạo xây dựng và thực hiện quyết liệt Đề án 25. Như khẳng định của đồng chí Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ Đỗ Thị Hoàng thì Đề án 25 không chỉ là để nâng tầm lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy mà đối với Quảng Ninh, Đề án 25 chính là “cẩm nang” trong quá trình đổi mới để hiện thực hoá khát vọng to lớn của nhân dân trở thành động lực và nguồn lực cho sự phát triển.
Mặc dù rất nóng ruột sớm đồng bộ giữa đổi mới kinh tế và hệ thống chính trị nhưng Quảng Ninh rất thận trọng trong xây dựng Đề án 25 chung của tỉnh và các địa phương, đơn vị. Tất cả các Đề án đều được lấy ý kiến tham gia góp ý trực tiếp của nhân dân, mọi đối tượng chịu tác động và phải được thông qua HĐND các cấp. Riêng đối với đề án cấp tỉnh trong 2 năm 2013, 2014, tỉnh Quảng Ninh đã tổ chức các cuộc làm việc với các bộ, ngành và các cuộc hội thảo, toạ đàm khoa học với các cơ quan nghiên cứu lý luận của Đảng, Nhà nước để có được những ý kiến đóng góp xác đáng. Đối với đề án của 14 địa phương, tỉnh chủ trương không cứng nhắc, rập khuôn tỉnh làm gì, địa phương làm đó, mà sự khác biệt trong Đề án 25 của mỗi địa phương là trên cơ sở đặc điểm tình hình của mình, chủ động đề xuất lựa chọn những lĩnh vực, những nội dung trọng điểm nhưng đồng thời vẫn thực hiện triệt để, toàn diện đề án.
Trong quá trình thực hiện, từ tỉnh đến cơ sở xuyên suốt một tinh thần, một mục tiêu cao nhất là “việc gì có lợi cho dân, cho nước thì hết sức làm”. Thể hiện trước tiên là việc xác định trúng mục tiêu lãnh đạo đột phá để phát triển: Đối với tỉnh, tập trung thực hiện 3 đột phá chiến lược, chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh”, xây dựng các quy hoạch chiến lược, các đề án trọng điểm… Đối với cấp huyện tuỳ vào đặc thù để lựa chọn khâu đột phá trong lãnh đạo chỉ đạo, như: Đông Triều, Cô Tô là tập trung lãnh đạo đạt chuẩn nông thôn mới; Hoành Bồ phát triển theo hướng xây dựng thành vùng kinh tế mở rộng của 3 thành phố: Hạ Long, Cẩm Phả, Uông Bí; Vân Đồn sẽ là đặc khu kinh tế mang tầm cỡ quốc gia, quốc tế; TP. Móng Cái là Khu kinh tế mở vùng biên… Thay đổi tư duy lãnh đạo, đồng bộ với tinh gọn bộ máy, tỉnh Quảng Ninh đã sắp xếp, giảm được 2 đơn vị sự nghiệp thuộc tỉnh, 118 phòng, đơn vị, đầu mối trực thuộc các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh và các địa phương, chuyển chức năng quản lý nhà nước của Ban Quản lý Vịnh Hạ Long về UBND thành phố Hạ Long… Với mô hình nhất thể hoá bí thư đồng thời là chủ tịch UBND cấp huyện được tỉnh thực hiện rất thận trọng, bước đầu đang thực hiện nhất thể hoá ở 2 huyện là Tiên Yên và Cô Tô và tiếp tục thực hiện ở các xã, thôn, khu. Riêng đối với 2 ngành y tế và giáo dục đã tiết kiệm được khoảng 300 tỷ đồng từ việc sắp xếp, tinh giản bộ máy, biên chế để dành nguồn cho đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, hỗ trợ học sinh và đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Dù rằng kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu, còn rất nhiều việc mà Quảng Ninh sẽ phải làm để xây dựng “cẩm nang” nâng tầm năng lực lãnh đạo của Đảng, nhưng Quảng Ninh đã và đang rất tự tin vào con đường đang đi và ở phía trước khi chủ trương của Đảng đã là cuộc sống từ “Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế”…
Lan Hương – Thuỳ Linh
Bài 2: Thổi bùng những khát vọng cống hiến
Từ thực tiễn sinh động của Quảng Ninh có thể thấy, tỉnh đã có những sáng kiến chính trị hành chính có tính đột phá trong việc đổi mới tổ chức, hoàn thiện bộ máy lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Những sáng kiến này không chỉ cụ thể hoá chủ trương của Đảng được thể hiện nhất quán trong các Nghị quyết Trung ương 4, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá XI) và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, mà đã trở thành động lực thúc đẩy, thổi bùng khát vọng cống hiến trong đội ngũ cán bộ. Từ đó, nâng tầm năng lực lãnh đạo của Đảng, tạo ra động lực quan trọng cho phát triển.
Hướng tới bộ máy vừa gọn, vừa tinh
Với mục tiêu cao nhất là “việc gì có lợi cho dân, cho nước thì hết sức làm”, Quảng Ninh đã thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế với những giải pháp hết sức sáng tạo. Tỉnh đã sáp nhập các cơ quan, đơn vị có cùng chức năng, nhiệm vụ hoặc chức năng, nhiệm vụ tương đồng theo hướng “một chức năng, một nhiệm vụ chỉ có một người hoặc một đơn vị chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm”. Đến nay đã giảm 2 đơn vị sự nghiệp thuộc tỉnh; 118 phòng, đơn vị, đầu mối trực thuộc các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh và các địa phương; chuyển chức năng quản lý nhà nước của Ban Quản lý Vịnh Hạ Long về UBND TP. Hạ Long… Đồng thời, thực hiện kiêm nhiệm, cơ bản nhất thể hoá bí thư cấp huyện, xã đồng thời là chủ tịch HĐND hoặc UBND; trong đó, nhất thể hoá các chức danh người đứng đầu cấp uỷ và UBND, tạo sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, thống nhất giữa chủ trương, nghị quyết của cấp uỷ với chương trình hành động và việc triển khai tổ chức thực hiện của UBND. Cùng với đó, tỉnh cũng rà soát, điều chỉnh quy mô đơn vị y tế; sắp xếp lại các trường, điểm trường; sắp xếp các đơn vị thuộc ngành nông nghiệp. Sau hơn 2 năm triển khai, trên toàn tỉnh đã thực hiện bí thư đồng thời là chủ tịch UBND cấp huyện tại 2/14 địa phương; bí thư đồng thời là chủ tịch UBND cấp xã ở 33,87% địa phương; đồng thời chuẩn bị để thực hiện nhất thể hoá chức danh bí thư kiêm chủ tịch UBND ở khoảng 50% đơn vị cấp xã; bí thư chi bộ kiêm trưởng thôn, bản, khu phố và bí thư chi bộ kiêm trưởng ban công tác mặt trận ở 499 (31,83%) thôn, bản, khu phố…
Trao đổi với chúng tôi, bà Lê Thị Hạnh, Giám đốc Sở Nội vụ, cho biết: “Việc sắp xếp, điều chỉnh các đơn vị và tinh giản biên chế được Quảng Ninh thực hiện một cách thận trọng, phù hợp với thực tiễn của từng địa phương, đơn vị. Đi kèm với đó là các cơ chế, chính sách cụ thể để tránh giảm “cơ học” mà quan trọng là hướng tới nâng cao chất lượng thực thi công vụ, xây dựng bộ máy tinh gọn, hiệu quả”. Chính vì lẽ đó, tỉnh đã ban hành hàng loạt cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ như: Ban hành bộ tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm, làm căn cứ đánh giá, tuyển dụng, bổ nhiệm và thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng; xây dựng quy hoạch và đề án nâng cao chất lượng toàn diện nguồn nhân lực; dành nguồn lực lớn để bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, kể cả cán bộ cơ sở và lao động nông thôn ở trong, ngoài nước. Hiện, tỉnh đã hoàn thành Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Đề án phát triển toàn diện nguồn nhân lực đến năm 2020 và dành nguồn lực hơn 2.000 tỷ đồng để triển khai thực hiện đề án. Đặc biệt, qua rà soát, tinh giản biên chế, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ phù hợp với tiêu chuẩn, chức danh, vị trí việc làm, toàn tỉnh đã tinh giản hơn 1.600 công chức, viên chức và hợp đồng lao động; giảm phụ cấp thường xuyên đối với gần 19.000 vị trí không chuyên trách ở cơ sở.
Đặc biệt, sáng kiến của Quảng Ninh về xây dựng cơ quan tham mưu, giúp việc chung trong khối MTTQ và các đoàn thể chính trị – xã hội cấp huyện đã nhận được sự đồng ý của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Đến nay, 12/14 địa phương đã xây dựng cơ quan tham mưu, giúp việc chung trong khối MTTQ và các đoàn thể chính trị – xã hội. Hoạt động của các khối bước đầu tránh được sự chồng chéo, trùng lắp; bộ máy cơ quan tham mưu giúp việc chung từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả tham mưu và hoạt động, tạo ra sức mạnh tổng hợp, thống nhất; tăng cường vai trò liên minh chính trị của MTTQ. Đồng chí Nguyễn Văn Hưởng, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh uỷ, cho biết: “Việc xây dựng và đưa cơ quan tham mưu, giúp việc chung trong khối MTTQ và các đoàn thể chính trị – xã hội cấp huyện vào hoạt động đã khắc phục tình trạng “hành chính hoá”, tạo chuyển biến về cơ chế hoạt động nhằm thống nhất triển khai thực hiện nhiệm vụ toàn khối, hướng về cơ sở để giải quyết lĩnh vực yếu, địa bàn yếu, địa bàn trọng điểm; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức bảo đảm chất lượng, cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị. Quan trọng hơn, việc xây dựng cơ quan khối đã tránh được sự trùng chéo trong thực hiện nhiệm vụ; tạo sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, đoàn thể, đồng thời thúc đẩy xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân”.
Được lòng dân
Đồng chí Trần Văn Lâm, Bí thư Thành uỷ Uông Bí chia sẻ: “Đến nay, chúng tôi đã thực hiện bí thư đồng thời là chủ tịch UBND tại 4/11 xã, phường; bí thư đồng thời là chủ tịch HĐND ở 5/11 xã, phường; bí thư chi bộ kiêm trưởng thôn, khu phố và bí thư chi bộ kiêm trưởng ban công tác mặt trận ở 87/101 thôn, khu phố, bằng 86,2%. Từ năm 2015 đến nay, thành phố đã tinh giản biên chế gần 200 người, thực hiện việc không chi trả phụ cấp thường xuyên từ ngân sách cho cán bộ bán chuyên trách xã, phường và thôn, khu: 1.436 định suất… Khi bắt tay vào thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế theo tinh thần Đề án 25, TP. Uông Bí đã gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Đây là nội dung rất dễ xảy ra va chạm nên đòi hỏi sự phối hợp, quyết tâm cao và dám “hi sinh”. Chính vì thế, khi thực hiện chúng tôi rất thận trọng. Không chỉ tuyên truyền sâu rộng, bàn bạc kỹ mà lãnh đạo thành phố còn gặp gỡ, trao đổi, lấy ý kiến với các đơn vị, cán bộ các cấp, kể cả những người thuộc diện tinh giản, vị trí cần sáp nhập, nhất thể hoá… Việc tinh giản bộ máy, biên chế đều được thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật nhưng vẫn mang tính nhân văn, đúng lý, đúng tình, đảm bảo mục tiêu đề ra nhưng vẫn giữ vững sự ổn định, đoàn kết, nhất trí cao và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao”.
Không chỉ riêng TP. Uông Bí mà cả tỉnh Quảng Ninh đã có những bước đột phá trong đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng đối với công tác tổ chức và cán bộ theo “cẩm nang” Đề án 25. Trong đó, đã chủ động làm tốt công tác nhân sự trước, trong và sau Đại hội đại biểu Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020 và bầu cử HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021; đổi mới công tác đánh giá, bố trí sử dụng cán bộ đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan, công tâm, toàn diện, đề cao thẩm quyền trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị; thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức và lãnh đạo ở từng cơ quan, các ngành, đơn vị theo nhiều hình thức như: “Từ trên xuống”; “từ dưới lên” và “sang ngang”. Bên cạnh việc đưa những người không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ra khỏi bộ máy, Quảng Ninh cũng thực hiện nhiều giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ. Đồng thời, mạnh dạn lựa chọn và đưa những cán bộ được đào tạo bài bản, có lập trường tư tưởng vững vàng, có năng lực đang công tác để đưa vào các chức danh thực hiện nhất thể hoá, nhất là ở cơ sở. Qua cách làm này, người có năng lực thực sự, có khát vọng cống hiến có dịp được tiếp cận cơ sở, hiểu hơn đời sống từ cơ sở và qua đó thử thách phẩm chất và năng lực điều hành của người lãnh đạo. Từ đó học tập, tích luỹ vốn sống, có nhiều kinh nghiệm lãnh đạo để trưởng thành hơn. Và Đảng cũng từ đó có nguồn cán bộ tốt, dồi dào để kế cận…
Anh Nguyễn Cao Khải Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch UBND xã Yên Than (Tiên Yên) cho biết: “Là một cán bộ thực hiện nhất thể hoá các chức danh, tôi xác định phải nỗ lực phấn đấu, nỗ lực cống hiến để xứng đáng với niềm tin của Đảng và nhân dân. Đây là cơ hội lớn để những cán bộ trẻ như tôi có những đóng góp, đưa chủ trương của Đảng vào thực tiễn cuộc sống…”.
Đến nay, cơ bản những cán bộ giữ các chức danh nhất thể hoá đều phát huy năng lực, chuyên môn, có nhiều đổi mới, sáng tạo trong công tác tham mưu, thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, địa phương. Qua theo dõi, đánh giá, các đồng chí được giao trọng trách giữ các chức vụ nhất thể hoá từ tỉnh đến cơ sở đều tích cực học hỏi nâng cao trình độ, phát huy được năng lực, trình độ chuyên môn, áp dụng các giải pháp sáng tạo vào thực tiễn công tác và bước đầu đã tạo được những chuyển biến tích cực trong việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, địa phương mình. Điển hình như đồng chí Vũ Văn Diện, Phó Chủ tịch UBND tỉnh. Trước khi nhận trọng trách này, đồng chí là Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện Tiên Yên. Mặc dù gánh “hai vai” nhưng đồng chí Vũ Văn Diện đã làm tốt cả hai vị trí: Vừa đứng đầu cấp uỷ vừa đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước và đã tạo sự nhất quán giữa lãnh đạo của cấp uỷ với quản lý điều hành của chính quyền, giảm thiểu các công việc trung gian, không cần thiết. Đồng thời, xây dựng được một tập thể đoàn kết, nỗ lực cống hiến, tạo sự đồng thuận của nhân dân. Dưới sự điều hành, chỉ đạo của người đứng đầu này, tình hình chính trị, kinh tế – xã hội ở Tiên Yên đã có bước khởi sắc đáng kể. Vai trò lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, hiệu lực quản lý của chính quyền, khả năng tập hợp, vận động quần chúng của MTTQ và các đoàn thể nhân dân được khẳng định. Có thể nói, với việc thực hiện nhất thể hoá chức danh Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện Tiên Yên, người đảng viên Vũ Văn Diện đã ghi dấu ấn rõ rệt, khẳng định năng lực, uy tín, vai trò người đứng đầu. Điều này không chỉ được Đảng bộ, chính quyền, nhân dân huyện Tiên Yên thừa nhận mà còn được các đại biểu HĐND tỉnh tín nhiệm bầu giữ chức vụ cao hơn ở tỉnh.
Lan Hương – Thuỳ Linh
Thị xã Quảng Yên công bố quyết định thành lập cơ quan tham mưu, giúp việc chung trong khối MTTQ và các đoàn thể chính trị – xã hội.
Bài 3: Chính quyền kiến tạo, phục vụ nhân dân
5 năm trở lại đây cả nước nhìn nhận, đánh giá về Quảng Ninh như một hiện tượng của sự đổi mới và đột phá trong cả phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng hệ thống chính trị. Những việc mà Quảng Ninh chủ động xây dựng và đề xuất Trung ương cho phép được thực hiện như: Đề án Đặc Khu kinh tế Vân Đồn, Đề án “Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế”, thành lập Ban Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư, Trung tâm Hành chính công… không chỉ vì sự phát triển của riêng Quảng Ninh mà còn là một cách thể nghiệm mô hình phát triển mới của đất nước, đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn.
Khi khát vọng sáng tạo được thăng hoa
3 năm liền (2012-2014) Quảng Ninh liên tục báo cáo Trung ương, xin ý kiến các bộ, ngành, các chuyên gia về những đề án phát triển của tỉnh. Đã có những ý kiến băn khoăn rằng Quảng Ninh có lý thuyết quá không khi dày công xây dựng những đề án lớn với những ý tưởng quá táo bạo, không chỉ là chưa có tiền lệ mà thậm chí phải là thay đổi đến Hiến pháp mới có thể thực hiện được… Nhưng thực tế đã chứng minh Quảng Ninh đã chọn đúng điểm chốt để đột phá. Điển hình như Đề án xây dựng Đặc Khu kinh tế Vân Đồn – năm 2012, nếu Quảng Ninh không quyết tâm xây dựng và chủ động thực hiện từng phần việc theo đề án thử hỏi “chú sư tử ngủ quên” – (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói khi đến thăm Vân Đồn năm 2014) cả chục năm (kể từ khi Chính phủ có Quyết định xây dựng Khu Kinh tế năm 2004) đến bao giờ mới thức giấc? Và đến bao giờ Vân Đồn mới có được một cảng hàng không để đón chuyến bay đầu tiên vào năm 2017 mà ngân sách không phải bỏ ra vài nghìn tỷ đồng để đầu tư? Đến bao giờ cái tên Vân Đồn mới là sự lựa chọn hàng đầu của các nhà đầu tư khi “ngắm” vào Quảng Ninh cũng như khu vực phía Bắc? Điều quan trọng hơn tất cả là chính từ Đề án Đặc Khu kinh tế Vân Đồn của Quảng Ninh mà khái niệm về Khu hành chính – kinh tế đặc biệt (hay Đặc khu kinh tế) đã được đưa vào Hiến pháp năm 2013 và chương trình xây dựng luật của Quốc hội. Quyết định này đã được các chuyên gia nghiên cứu trong nước và quốc tế khẳng định, đây là sự đổi mới mạnh mẽ, cởi mở của Việt Nam về mặt thể chế và không ai phủ nhận khởi nguồn của sự đổi mới đó là từ những ý tưởng đề xuất rất sáng tạo của Quảng Ninh.
Cùng với xây dựng các Đề án chiến lược, Quảng Ninh tập trung nghiên cứu, vận dụng sáng tạo những chỉ đạo của Trung ương để xây dựng chính quyền kiến tạo và phục vụ như: Thay đổi quy trình giải quyết các thủ tục đầu tư “từ trên xuống thay vì từ dưới lên” thông qua thành lập Ban Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư (IPA) trực thuộc UBND tỉnh (mô hình đầu tiên trong cả nước). Trước đây khi chưa vận hành mô hình mới này các dự án đầu tư vào Quảng Ninh sẽ phải từ các sở, ngành tham mưu, đề xuất mới đến lãnh đạo tỉnh. Chính vì cán bộ, chuyên viên sở, ngành được trao quyền quyết định ban đầu nên đã có những dự án bị “ngâm tôm” cả năm trời, sự nhũng nhiễu doanh nghiệp, nhà đầu tư từ đó mà ra. Chọn cách giải quyết vấn đề là đổi ngược quy trình làm việc, tỉnh Quảng Ninh quyết định dự án đầu tư sẽ được lãnh đạo tỉnh xem trước, sau đó mới chuyển cho các sở, ngành giải quyết chuyên môn và thời hạn quy định cụ thể. Với cách làm này Quảng Ninh đã rút ngắn được thời gian cấp phép đầu tư từ 25 ngày xuống còn 7 ngày, thậm chí có dự án được cấp phép trong vòng 24 giờ sau khi hoàn thiện thủ tục. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Thành cho biết: Cái được trong đổi mới quy trình đầu tư của Quảng Ninh không chỉ là số vốn đầu tư vào địa bàn đạt 7 tỷ USD, môi trường đầu tư minh bạch, chỉ số năng lực cạnh tranh luôn đứng trong top đầu cả nước mà điều quan trọng hơn cán bộ, công chức, viên chức đã “ngoan” hơn trong một chính quyền phục vụ, các dự án đầu tư, nhà đầu tư vào Quảng Ninh đều là những tập đoàn hàng đầu trong nước, có tiếng trên thế giới như Vingroup, Sun Group, FLC, BIM Group, Him Lam, My Way, Texhong, Rent A Port…
Chính quyền phục vụ nhân dân, doanh nghiệp không gì tốt hơn là làm những việc có lợi cho dân, theo đó Quảng Ninh đã tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng tách dần dịch vụ công ra khỏi quản lý nhà nước thông qua thành lập trung tâm hành chính công cấp tỉnh và 14 địa phương cấp huyện, liên kết đến cấp xã gắn với xây dựng chính quyền điện tử, đào tạo công dân điện tử để giải quyết thủ tục hành chính theo nguyên tắc “tiếp nhận, thẩm định và phê duyệt tại trung tâm” bảo đảm thuận tiện, công khai, minh bạch. Đây là mô hình duy nhất ở Quảng Ninh đã được Thủ tướng Chính phủ cho thí điểm thành lập theo Quyết định số 1831/QĐ-TTg ngày 28-10-2015. Đồng thời rà soát và công bố thủ tục hành chính của ba cấp chính quyền, chuẩn hoá và đưa vào thực hiện. Đến nay, 95% các thủ tục được thực hiện trực tiếp tại Trung tâm Hành chính công, 99,5% số hồ sơ được giải quyết trước và đúng hạn, cắt giảm 40% thời gian giải quyết so với quy định. Qua khảo sát bằng nhiều hình thức, trên 98% người dân và doanh nghiệp có ý kiến hài lòng về hành chính công của Quảng Ninh.
Khơi mạch nguồn thành công
Năm 2017 Quảng Ninh sẽ có tuyến đường cao tốc đầu tiên kết nối tuyến cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, cũng năm này Cảng hàng không Quảng Ninh sẽ cất cánh chuyến bay đầu tiên để kết nối Quảng Ninh với quốc tế và cũng năm 2017, Quảng Ninh sẽ có Công viên Đại Dương Hạ Long (được ví như Disneyland của Việt Nam) nằm ngay bên bờ Vịnh Hạ Long – Di sản thiên nhiên thế giới… Ai đã đem đến cho Quảng Ninh những dấu ấn tuyệt vời này – đó là sự nỗ lực, quyết tâm và đoàn kết của cả hệ thống chính trị khi là tỉnh đầu tiên trong cả nước xây dựng cơ chế, đề nghị Chính phủ cho phép tự đầu tư xây dựng đường cao tốc, sân bay, hạ tầng du lịch bằng nguồn vốn tự huy động. Với gần 10.000 tỷ đồng từ ngân sách và trên 32.500 tỷ đồng huy động đầu tư theo hình thức PPP, Quảng Ninh đã làm được Cảng hàng không, gần 100km đường cao tốc, các trụ sở liên cơ quan của tỉnh, địa phương và 36 dự án đầu tư khác đang được triển khai. Chủ động xây dựng mô hình và vận dụng sáng tạo hình thức đối tác công – tư (PPP) để huy động nguồn lực phát triển hạ tầng đồng bộ theo nguyên tắc Nhà nước không trực tiếp làm những gì nhân dân, doanh nghiệp làm được và làm tốt hơn, PPP của Quảng Ninh đã là cơ sở thực tiễn để Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14-2-2015 về đầu tư theo hình thức đối tác công – tư.
Không chỉ khẳng định hiệu quả của cách làm trong thực hiện đột phá chiến lược của Đảng về hạ tầng, Quảng Ninh cũng là một trong những tỉnh đầu tiên của cả nước thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh (theo tinh thần Kết luận Hội nghị T.Ư 3 khoá XI). Lấy du lịch, dịch vụ làm trọng tâm phát triển, đã giảm được tỷ lệ thu ngân sách nhà nước từ than và đất từ 67% năm 2011 xuống 47% năm 2015; giảm cơ cấu công nghiệp năm 2010 từ 53,4% xuống 50,9%; tăng tỷ trọng dịch vụ từ 39,3% lên 43,4% năm 2015. Và Quảng Ninh cũng là tỉnh đầu tiên của cả nước quyết tâm về trước cả nước 5 năm trong xây dựng nông thôn mới. Đến hết năm 2015, Quảng Ninh cơ bản trở thành tỉnh nông thôn mới. Toàn tỉnh đã có 82 xã cơ bản đạt tiêu chí xã nông thôn mới, có 6/10 huyện, thị xã, thành phố cơ bản đạt tiêu chí nông thôn mới; 23 xã đạt chuẩn nông thôn mới cao hơn so với mức bình quân cả nước (đạt 13,6% số xã so với 9,36% số xã của cả nước); 2 huyện đạt chuẩn nông thôn mới là Cô Tô và Đông Triều. Thu nhập của người dân khu vực nông thôn tăng từ 11 triệu đồng/năm (2010) lên gần 30 triệu đồng/năm (2015).
“Góp phần xây dựng nhà nước kiến tạo, chính quyền phục vụ, từ thực tiễn ở địa phương Quảng Ninh đã đổi mới tư duy theo hướng đột phá, nâng cao tầm nhìn mang tính chiến lược, hành động hiệu quả và quyết liệt, chỉ đạo và tập trung nguồn lực thực hiện hiệu quả, dứt điểm với phương châm “việc gì có lợi cho dân, cho nước thì phải hết sức làm”. Những kết quả mà Quảng Ninh đạt được trong phát triển kinh tế, xây dựng hệ thống chính trị khẳng định năng lực lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh – Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đức Long khẳng định.
Lan Hương – Thuỳ Linh
Bài 4: Làm những việc có lợi cho dân, cho nước
Thực hiện 2 nhiệm vụ trọng tâm về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII đã cụ thể hoá thành 3 đề án trong Chương trình làm việc toàn khoá của Trung ương để trình ra các hội nghị Trung ương khoá XII. Trong đó, Đề án “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn với xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”, sẽ được trình tại Hội nghị Trung ương 6, tháng 10-2017. Từ đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng của Quảng Ninh sẽ cung cấp cho Đảng những luận cứ khoa học để “đưa tổng kết thực tiễn lên trước nghiên cứu lý luận”.
Chinh phục đỉnh cao mới
Bước vào nhiệm kỳ 2011-2015, trước bối cảnh suy thoái của tình hình kinh tế, những bất ổn về chính trị trên thế giới, GDP chung của cả nước, một số tỉnh, thành phố đã phải có sự điều chỉnh, Quảng Ninh chủ động nhận diện rõ hơn tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh, nhận thức rõ hơn những mâu thuẫn, thách thức để xác định rõ hơn mục tiêu và định hướng phát triển đến năm 2020 trở thành tỉnh có cơ cấu kinh tế dịch vụ, công nghiệp, trung tâm du lịch quốc tế, một trong những đầu tàu kinh tế của miền Bắc và cả nước. Theo đó, trên lĩnh vực phát triển kinh tế – xã hội, tỉnh đã quy hoạch lại không gian phát triển theo hướng “một tâm – hai tuyến – đa chiều – hai mũi đột phá”, lập 7 quy hoạch chiến lược làm căn cứ định hướng phát triển bền vững, lâu dài, xây dựng các đề án chiến lược, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh”, từ bề rộng sang chiều sâu để phát triển đột phá… Trên lĩnh vực xây dựng Đảng, hệ thống chính trị là xây dựng Đề án “Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế”, nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa đổi mới hệ thống chính trị chưa tương xứng phù hợp với đổi mới kinh tế và tình hình thực tiễn diễn ra. Đồng thời mở rộng dân chủ trong sinh hoạt Đảng và công tác tổ chức cán bộ, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, giảm đầu mối, tránh trùng chéo, thực hiện tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, tăng cường phân cấp gắn với phân công, quy định rõ trách nhiệm người đứng đầu…
Đỉnh cao mới mà Quảng Ninh chinh phục được đó là, 3 năm gần đây tốc độ phát triển vẫn nằm trong top địa phương cao nhất của cả nước, trong đó tăng trưởng kinh tế luôn đạt trên 10%/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ; tổng thu ngân sách nhà nước năm 2015 trên địa bàn đạt gần 35.000 tỷ đồng (tăng 3,5% so cùng kỳ và tăng gấp đôi so với năm 2011), trong đó thu nội địa cao nhất từ trước tới nay, đạt gần 20.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 57,5% tổng thu ngân sách nhà nước. Điều đặc biệt Quảng Ninh đã tự làm mới mình, thay đổi hoàn toàn cách nhìn nhận, đánh giá của các nhà đầu tư trong nước, quốc tế về một địa bàn chỉ có than và đất bằng sự đổi mới đột phá ngoạn mục về thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh từ đột phá vào lĩnh vực du lịch, dịch vụ. Khoảng 100.000 tỷ đồng của các tập đoàn như Sun Group, Vingroup, FLC… đổ vào đang biến Quảng Ninh thành “thiên đường” du lịch của Việt Nam là minh chứng cụ thể nhất cho kết quả chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Quảng Ninh.
Trong lĩnh vực xây dựng đảng, Quảng Ninh đã thực hiện thành công việc bầu bí thư trực tiếp tại đại hội ở trên 80% đảng bộ cơ sở và cấp trên cơ sở, 100% đảng bộ cấp huyện, 100% các chức danh chủ chốt được bầu với số phiếu tín nhiệm từ 80% trở lên, bí thư cấp uỷ trúng cử với tỷ lệ 90% trở lên. Đặc biệt trong thực hiện quy trình Đảng giới thiệu nhân sự để nhân dân lựa chọn bầu vào chức danh (trưởng thôn, bản, khu phố) sau đó cấp uỷ mới phân công theo phương châm “dân tin đảng mới cử” đã được nhân dân rất đồng tình, đánh giá cao. Đối với cơ chế tuyển dụng cán bộ, công chức được đổi mới theo hướng khách quan, công khai minh bạch, có sự giám sát của người dân và xã hội. Thông qua thi tuyển chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý Quảng Ninh đã bổ nhiệm 89 chức danh, trong đó có trên 70% tuổi trẻ, 100% được đào tạo từ thạc sĩ, tiến sĩ, hai bằng đại học trở lên.
Đồng chí Cao Tường Huy, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ cho rằng: Thành quả Quảng Ninh đạt được trong cả phát triển kinh tế, xây dựng đảng, hệ thống chính trị khẳng định năng lực lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh không chỉ được đổi mới, nâng tầm mà còn bắt nhịp kịp với thực tiễn phát triển và những yêu cầu đặt ra của quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Quảng Ninh đã lập thêm “chiến công” mới trong chinh phục lòng dân, đó là niềm tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng được nâng lên, từ 52% lên 73,5% kể từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI).
Việc gì có lợi cho dân, cho nước phải làm!
Trong chuyến thăm và làm việc với Đảng bộ, chính quyền, nhân dân tỉnh Quảng Ninh vào tháng 4-2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Thực tiễn Quảng Ninh đang rất sôi động, sự phát triển nhanh, mạnh, toàn diện, sự năng động, sáng tạo, những ý tưởng đổi mới trong phát triển kinh tế, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị đang đưa Quảng Ninh trở thành hiện tượng cần được nghiên cứu, xem xét, đánh giá một cách đầy đủ, để đúc rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện đổi mới của Đảng, Nhà nước ta. Tổng Bí thư cho rằng: Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo là vấn đề mà Trung ương chủ trương nhất quán từ nhiều nhiệm kỳ, nhiều nghị quyết của Đảng đã đề cập. Và sự năng động, sáng tạo, luôn suy nghĩ, tìm tòi những ý tưởng mới, cách làm mới như mạch ngầm được truyền từ thế hệ lãnh đạo trước cho thế hệ lãnh đạo sau của tỉnh Quảng Ninh. Những đổi mới về mô hình phát triển kinh tế, về hệ thống chính trị không chỉ khơi gợi tiềm năng phát triển của một địa phương mà còn là hình mẫu trong cả nước, Trung ương gửi gắm niềm tin, sự kỳ vọng ở Quảng Ninh.
Như biểu dương, ghi nhận của đồng chí Tổng Bí thư, trong những năm qua bám sát Cương lĩnh xây dựng đất nước, xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, Quảng Ninh đã đề xuất và thực hiện nhiều sáng kiến chính trị hành chính nổi bật. Tỉnh đã vận dụng và cụ thể hoá các nghị quyết, kết luận của Trung ương, nhất là triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI với nhiều quan điểm đổi mới về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế… Đến nay, Quảng Ninh đã có thể tự hào về sự nỗ lực hết sức để thực hiện mục tiêu nâng tầm năng lực lãnh đạo của Đảng, mang lại những thành tựu ấn tượng trong phát triển. Hơn 50 đoàn của các tỉnh, thành phố trong cả nước đã đến thăm và học hỏi kinh nghiệm của Quảng Ninh trong phát triển kinh tế, trong triển khai các mô hình cụ thể là một minh chứng rõ rệt cho niềm tự hào này. Trong chặng đường mới, thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, về đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng sau bước đầu thực hiện hiệu quả Đề án 25 trong tinh giản biên chế, nhất thể hoá chức danh lãnh đạo cấp cơ sở và cấp huyện, cấp phòng, ban ở huyện đạt hiệu quả, Quảng Ninh đã tiếp tục thực hiện thí điểm mô hình cơ quan tham mưu, giúp việc chung trong khối Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cấp huyện, lựa chọn cán bộ đủ năng lực, đủ tầm để thực hiện tiếp việc nhất thể hoá chức danh…
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách thẳng thắn thì những sáng tạo của tỉnh bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật và quy chế của Trung ương ban hành chưa theo kịp với yêu cầu phát triển hoặc không còn phù hợp với thực tiễn nhưng chậm được đổi mới, thay thế. Mặt khác, có những vấn đề thực tiễn đặt ra nhưng thiếu quy định pháp lý như mô hình thí điểm “cơ quan tham mưu, giúp việc chung trong khối Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cấp huyện” còn vướng mắc sử dụng ngân sách và chế độ quản lý tài chính theo Luật Công đoàn) khiến cho nỗ lực của Quảng Ninh chưa đạt được như mong muốn. Hay trong thực hiện nhất thể hoá chức danh do chưa có hướng dẫn của Trung ương, hệ thống chính sách, thể chế, văn bản hiện hành chưa “nhất thể hoá” nên giữa tổ chức và hoạt động chưa đồng bộ, khó kiểm soát. Bên cạnh đó còn nhiều vấn đề được tổ chức thực hiện trong thực tiễn có hiệu quả nhưng Trung ương chậm cho tổng kết, đánh giá bổ sung vào lý luận và điều chỉnh các quy định pháp luật. Các khó khăn, kiến nghị của địa phương chậm được xử lý, tháo gỡ, nhất là những đề xuất, kiến nghị có tính đổi mới, đột phá.
Lan Hương – Thuỳ Linh
Vai Trò Của Người Lãnh Đạo Trong Hệ Thống Quản Lý Xã Hội
Khi nói về hệ thống quản lý xã hội, chúng ta thường phân tích quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý, vai trò và vị trí của chủ thể quản lý trong hệ thống đó. Nhưng trong hệ thống tổ chức hoạt động sản xuất cũng như mọi hoạt động khác, chúng ta không thể không nói đến người lãnh đạo, cơ quan lãnh đạo, vị trí và vai trò của nó trong hệ thống quản lý, quan hệ của nó với chủ thể quản lý. Vấn đề này càng trở nên cấp bách đối với những nước đang trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội như nước ta hiện nay. Vì ở đây, người lãnh đạo luôn đóng vai trò chủ đạo trong quá trình quản lý, và hiệu quả của mọi hoạt động quản lý sẽ phụ thuộc rất lớn vào trình độ thông thạo nghiệp vụ và khả năng biết vận dụng nhưng thành tựu khoa học vào công tác thực tế của người lãnh đạo.
Để hiểu rõ vai trò của lãnh đạo trong công tác quản lý, trước hết ta hãy phân biệt hai khái niệm “quản lý” và “lãnh đạo”, “người lãnh đạo” và “người quản lý”. Như nhiều tác giả đã nhận định, khi xét xã hội như một chỉnh thể, một hệ thống duy nhất hoạt động theo cơ chế nội tại của nó thì nội dung của hai khái niệm này là đồng nhất, bởi chúng đều là sự tác động tự giác của chủ thể xã hội, chủ thể lịch sử lên hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, vấn có của hệ thống xã hội đó. Cả hai đều có chung về phương hướng và mục đích là đảm bảo duy trì cho sự hoạt động bình thường của hệ thống. Hơn nữa, trong thực tế hoạt động của các tổ chức xã hội, giữa hoạt động quản lý và hoạt động lãnh đạo không tách rời nhau và trong rất nhiều tổ chức, người lãnh đạo cung đồng thời là người quản lý hệ thống đó.
Tuy vậy, hai khái niệm này lại có sự khác nhau về nội dung hoạt động và chủ yếu là về hình thức, cách thức tác động lên đối tượng. Nếu xét quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo thì phương thức tác động chủ yếu là các mệnh lệnh và sức lôi cuốn của người lãnh đạo, mà sức lôi cuốn này có được là do tài năng, uy tín và phẩm chất vốn có của người lãnh đạo tạo nên. Còn ở người quản lý chính là ở khâu ra quyết định quản lý và sự giám sát, điều chỉnh kịp thời các quyết định quản lý của mình cho phù hợp với yêu cầu của đối tượng quản lý. Ở đây, hiệu quả của sự tác động lại phụ thuộc chủ yếu vào tài năng của người quản lý, còn các phẩm chất khác tuy có ảnh hưởng đến hiệu quả công việc nhưng không có tính quyết định.
Nếu xét về cấu trúc hệ thống thì khái niệm “lãnh đạo” có nội hàm hẹp hơn khái niệm “quản lý”. Trong hệ thống xã hội hay một tổ chức nào đó, lãnh đạo là dạng cao nhất, chung nhất, là nòng cốt của quản lý. Như vậy, ở xã hội ta, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là cao nhất và chính sách của Đảng khi đã được nhân dân thấu hiểu sẽ trở thành cơ sở sống còn của sự phát triển xã hội. Xét toàn bộ hệ thống xã hội ta, sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố cao nhất, chung nhất và căn bản nhất của quản lý. Đó chính là sự lãnh đạo chính trị do Đảng Cộng sản thực hiện. Với vị trí đó, vai trò của Đảng Cộng sản đối với sự phát triển của đất nước ta hiện nay không có gì cần phải bàn cãi.
Nhưng ở đây, như vấn đề đã đặt ra, khi nói về lãnh đạo, người lãnh đạo là xét từ góc độ quản lý. Vì vậy có thể thấy, khi nói về vai trò của người lãnh đạo là xét ở hiệu quả quản lý của người đó và tác đụng của người đó trong hệ thống quản lý. Nếu trong một hệ thống tổ chức thì có người quản lý mà không có người lãnh đạo thì là một điều khó hình dung. Vì như vậy, vô hình trung ta đã tách hệ thống đó khỏi hệ thống lớn hơn. Nhưng, nếu xét về hoạt động của một tổ chức, cũng khó chấp nhận sự tồn tại song song của cả người lãnh đạo lẫn người quản lý. Như ở nước ta hiện nay, trong hệ thống tổ chức hành chính, ở các cơ quan Nhà nước đều tồn tại song song người bí thư chi bộ (lãnh đạo về chính trị) và người thủ trưởng cơ quan (người quản lý cao nhất ở cấp đó). Nhưng điều đó không có nghĩa là tồn tại song song người lãnh đạo và người quản lý. Vì trong tổ chức đó, mỗi người đều có chức năng riêng và phương thức tác động đến tố chức hoàn toàn khác nhau.
Từ đó, có thể thấy khía cạnh lãnh đạo, hay yếu tố lãnh đạo cửa người quản lý. Tức là khi nói đến sự lãnh đạo của người quản lý sẽ là nhấn mạnh đến các phẩm chất khác của anh ta ngoài tài năng (đương nhiên, tài năng là cái buộc phải có, nhưng nó chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ). Nhưng nếu chỉ xét ở tài năng, anh ta vẫn có thể trở thành người quản lý giỏi, nhưng hiệu quả và yếu tố tích cực của công việc sẽ giảm rất nhiều so với công sức và tài năng mà anh ta đã bỏ ra. Bởi lẽ, con người (đối tượng bị lãnh đạo, bị quản lý) có thể tiếp nhận những mệnh lệnh quản lý, tuân theo chúng và cũng có thể không tiếp nhận hay tiếp nhận không đúng với mức độ mà người lãnh đạo đòi hỏi.
Như vậy, lãnh đạo là một khía cạnh quan trọng của quản lý. Và như đã phân tích, khả năng lãnh đạo có hiệu quả là một trong những chìa khoá cho ai đó trở thành một nhà quản lý giỏi. Một nhà quản lý chỉ trở thành một nhà lãnh đạo có hiệu quả khi anh ta có đầy đủ nhưng phẩm chất của người lãnh đạo. Những phẩm chất đó là: khả năng nhận thức đầy đủ đối tượng quản lý, khả năng khích lệ, khả năng hành động nhằm tạo ra bầu không khí hữu ích (chẳng hạn như sự vui vẻ, tình anh em, tình gia đình…) cho sự hưởng ứng đáp lại và khơi dậy nhưng động cơ thúc đẩy hành động bên trong của mỗi con người nằm trong tổ chức đó.
Qua sự trình bày trên, có thể rút ra một cách khái quát, lãnh đạo như là sự tác động có nghệ thuật đến con người sao cho họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được những mục tiêu đã đề ra. Và do vậy, lãnh đạo là sự chỉ dẫn, điều khiển, ra lệnh và đi trước. Chính yếu tố đi trước này đòi hỏi rất nhiều phẩm chất ưu việt của người lãnh đạo mà những người bình thường không thể có được. Trách nhiệm cơ bản của người lãnh đạo không hoàn toàn ở việc thực thi quyết định quản lý, mà là ở chỗ bảo đảm cho hoạt động đúng hướng, có sự hợp đồng giữa các bộ phận, các phòng, ban riêng lẻ hay các cá nhân trong tổ chức để tạo thành một tập thể thống nhất trong việc thực hiện mục tiêu đã đề ra. Ngoài ra, người lãnh đạo còn cần biết sử đụng những khả năng của các cán bộ dưới quyền mình để chuẩn bị cho những giải pháp quản lý tối ưu. Đây cũng là điểm khác biệt giữa lãnh đạo và quản lý. Là người quản lý, việc tối quan trọng là sự nhận biết nội đung và tiến trình của công việc, thu thập thông tin và xử lý thông tin trước khi ra quyết định quản lý. Còn ở người lãnh đạo lại cần nắm rõ năng lực của từng cán bộ dưới quyền mà có sự sắp xếp, bố trí cũng như triển khai công việc có hiệu quả và khai thác được tối đa sức mạnh tiềm năng của mỗi con người nằm trong sự lãnh đạo của mình. Chính điều này đôi khi còn buộc người lãnh đạo không chỉ cần chú ý tới đặc điểm quan trọng của mỗi con người trong đời sống xã hội, mà còn phải lưu ý đến cả những chuyện riêng tư của họ. Từ đây có thể thấy, phẩm chất quan trọng nhất của người lãnh đạo là biết tìm cách tiếp xúc riêng với mỗi người cấp dưới, hoặc chung hơn là năng lực biết làm việc với con người.
Giữa người lãnh đạo và người quản lý trong một tổ chức, xét từ góc độ này, rõ ràng là không có sự phân cách. Bởi vì, xét cho cùng, nhiệm vụ của người quản lý và người lãnh đạo cùng đều nhằm duy trì và điều chỉnh cho hệ thống hoạt động bình thường và do vậy, tưởng là hai hoạt động khác nhau, nhưng chúng đều nằm trong một tiến trình thống nhất – tiến trình quản lý đối tượng. Vai trò của lãnh đạo ở đây được thể hiện chính trong vai trò của người quản lý như nhiều bài viết đã phân tích.
Tuy nhiên, ngoài những cái chung đó, ta còn thấy nét nổi bật của vai trò người lãnh đạo trong hệ thống chính là làm cho quyết định quản lý được thực hiện một cách tối ưu hơn, làm cho hệ thống tổ chức hoạt động được nhịp nhàng hơn, hiệu quả hơn và nhanh hơn về mặt thời gian để đạt tới mục tiêu. Chính điều này đã lý giải cho vấn đề là, trong một tổ chức, tại sao người quản lý giỏi mà hệ thống hoạt động lại chỉ bằng hoặc kém hơn hệ thống khác do người quản lý kém hơn nhưng lại có năng lực lãnh đạo tốt hơn. Nhất là hiện nay, trước sự phức tạp của nền kinh tế thị trường thì vai trò của người lãnh đạo càng to lớn. Bởi vì, người quản lý càng giỏi bao nhiêu thì tính năng động của anh ta càng tớn, chính vì thế mà anh ta càng dễ vượt rào bấy nhiêu và nhờ có năng lực lãnh đạo mà anh ta định hướng đúng con đường đi của mình và tuân thủ mọi điều luật do Nhà nước đề ra. Tức là ở anh ta đã biết kết hợp hài hoà giữa cộng đồng bé nhỏ của mình với cộng đồng lớn hơn về mặt hoạt động cũng như về mặt lợi ích.
Trong hệ thống quản lý xã hội người lãnh đạo luôn là người quản lý tổ chức của mình. Chính vì vậy mà khi đó và chỉ khi đó, vai trò của anh ta mới được thể hiện đầy đủ, tổ chức do anh ta quản lý hoạt động mới thực sự đạt hiệu quả tối đa. Như vậy, người lãnh đạo trong hệ thống quản lý luôn giữ vai trò nòng cốt cho các quyết định quản lý và các quan hệ quản lý. Vai trò này được thể hiện không chỉ ở khâu ra quyết định quản lý, mà nó còn xuyên suốt cả tiến trình thực hiện quyết định đó. Nếu không thấy rõ vai trò này, người quản lý sẽ dễ rơi vào chỗ mất phương hướng khi lựa chọn quyết định quản lý, cũng như con đường phát triển tiếp theo của đơn vị đó mình quản lý. Chính do có vai trò to lớn như vậy mà Đảng ta đã rất chú trọng đến khâu bồi dưỡng, cũng như tuyển chọn cán bộ lãnh đạo quản lý trong các cơ quan hành chính Nhà nước.
Cập nhật thông tin chi tiết về Những Năng Lực Quản Lý Của Người Lãnh Đạo Cần Thiết Nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!