Xu Hướng 4/2023 # Những Biện Pháp Hạn Chế Và Giáo Dục Học Sinh Cá Biệt # Top 10 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 4/2023 # Những Biện Pháp Hạn Chế Và Giáo Dục Học Sinh Cá Biệt # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Những Biện Pháp Hạn Chế Và Giáo Dục Học Sinh Cá Biệt được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

1- Giáo dục HS thông qua giờ sinh hoạt trường :

– Để cho HS nắm bắt được việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm (HK) tức là những chuẩn mực các em đạt được trong quá trình rèn luyện hạnh kiểm của mình, nhà trường cần phải thông báo cho các em biết được các mức độ xếp loại HK ( tốt, khá, trung bình, yếu ) theo Thông tư 40, Điều lệ trường PT . Hiểu được thì các em sẽ tránh được vi phạm mà các em mắc phải, để rồi các em khỏi phải bị xếp loại HK yếu, khỏi phải liệt vào danh sách HSCB

– Trong buổi chào cờ đầu tuần, cần phải đánh giá nhận xét chu đáo, nêu gương người tốt, việc tốt để các em noi theo, hạn chế những vi phạm nội qui lớp học , trường học .

2- Giáo dục HS thông qua giờ sinh hoạt lớp :

Ngoài việc giáo dục HS thông qua giờ sinh hoạt trường, giờ sinh hoạt lớp (SHL) cũng rất quan trọng trong vấn đề này. Bởi vì thông qua giờ SHL, GVCN, CB lớp kịp thời uốn nắn những sai trái khuyết điểm của HS khi bị vi phạm, lấy tình cảm bạn bè, lấy nghĩa thầy trò làm cho các em thấy được khuyết điểm của mình. Đồng thời với sự chân thành của GVCN, HS trong lớp, HS khi vi phạm sẽ sớm nhận ra lỗi lầm của mình mà sửa chữa .

Những biện pháp hạn chế và giáo dục học sinh cá biệt : 1- Giáo dục HS thông qua giờ sinh hoạt trường : - Để cho HS nắm bắt được việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm (HK) tức là những chuẩn mực các em đạt được trong quá trình rèn luyện hạnh kiểm của mình, nhà trường cần phải thông báo cho các em biết được các mức độ xếp loại HK ( tốt, khá, trung bình, yếu ) theo Thông tư 40, Điều lệ trường PT . Hiểu được thì các em sẽ tránh được vi phạm mà các em mắc phải, để rồi các em khỏi phải bị xếp loại HK yếu, khỏi phải liệt vào danh sách HSCB - Trong buổi chào cờ đầu tuần, cần phải đánh giá nhận xét chu đáo, nêu gương người tốt, việc tốt để các em noi theo, hạn chế những vi phạm nội qui lớp học , trường học . 2- Giáo dục HS thông qua giờ sinh hoạt lớp : Ngoài việc giáo dục HS thông qua giờ sinh hoạt trường, giờ sinh hoạt lớp (SHL) cũng rất quan trọng trong vấn đề này. Bởi vì thông qua giờ SHL, GVCN, CB lớp kịp thời uốn nắn những sai trái khuyết điểm của HS khi bị vi phạm, lấy tình cảm bạn bè, lấy nghĩa thầy trò làm cho các em thấy được khuyết điểm của mình. Đồng thời với sự chân thành của GVCN, HS trong lớp, HS khi vi phạm sẽ sớm nhận ra lỗi lầm của mình mà sửa chữa . Trong khi giáo dục các em, GVCN không nên nặng về kiểm điểm, phê bình, mà phải tìm ra và xác định đúng nguyên nhân đã tác động đến các em làm cho các em mắc sai lầm, vi phạm, vận dụng những điều khoản trong nội qui, trong qui định xếp loại của TT40 làm cho các em thấy được phạm vi vi phạm ở mức độ nào và nêu ra hướng cho các em khắc phục. GVCN nêu những việc làm tốt, những cố gắng nổ lực của các thành viên trong lớp để xây dựng tập thể lớp thành lớp tiên tiến với thành tích như vậy thì không được bất cứ thành viên nào trong lớp phá vỡ . 3- Kết hợp với Hội PHHS để giáo dục HS : Hội PHHS là cầu nối giữa nhà trường, GVCN với gia đình HS. Tổ chức Hội ngoài việc giúp nhà trường xây dựng CSVC còn góp phần cùng nhà trường giáo dục HSCB . Thực tế, những năm qua Thường trực Hội PHHS đã giúp cho nhà trường, GVCN bằng cách tác động với PH để giáo dục HS từ chỗ bỏ học, trốn học đến đi học chuyên cần và học tập nghiêm túc. Mặt khác, TT Hội PHHS đã tác động đến gia đình các em để cha mẹ các em quan tâm và có trách nhiệm đối với con cái của họ hơn, từ đó sẽ hạn chế được HS hoang nghịch . 4- Phối hợp với các Đoàn thể và các lực lượng khác trong xã hội : Hiện nay ở địa phương đã hình thành các khu dân cư và nhiều nơi đã xây dựng khu dân cư, thôn văn hóa, đó là điều kiện tốt để các Đoàn thể cùng với nhà trường, qua đó giáo dục HS. Các đoàn thể, chính quyền địa phương giúp cho các thành viên xây dựng gia đình văn hóa, hạn chế tình trạng cha mẹ bỏ mặc con cái đi làm ăn, những mối bất hòa trong gia đình dần dần chấm dứt, từ đó cha mẹ sẽ có điều kiện chăm sóc giáo dục con cái tốt hơn . 5- Dùng phương pháp kết bạn : Thường lứa tuổi HS dễ bị ảnh hưởng những thói hư tật xấu nhưng cũng dễ tiếp thu những điều hay lẽ phải, dễ hòa mình vào những trò chơi có tính tập thể, tính giáo dục cao . Do đó GVCN nên phân công một nhóm bạn tốt, cùng hoàn cảnh, cùng sở thích, uớc mơ ... sinh hoạt, học tập với đối tượng này dần dần lôi kéo các em hòa nhập vào các cuộc chơi bổ ích, từ đó xóa bỏ các mặc cảm là HS hư để rồi cùng với các thành viên trong lớp xây dựng tập thể vững mạnh . Mặt khác, thông qua nhóm bạn tốt, GVCN giao cho HSCB thực hiện một số công việc, tạo những điều kiện để những HS này hoàn thành và động viên khích lệ các em để các em xóa những tự ti, mặc cảm là HSCB để hòa mình với bạn bè. Ngoài ra có thể vận động gia đình của nhóm bạn tốt tham gia vào việc giúp đỡ những HS này bằng cách tạo cho các em tâm lý xem gia đình của bạn như gia đình mình, tạo điều kiện cho các em cùng tham gia học tập với con em mình để tách dần ra khỏi nhóm bạn chưa ngoan. Việc làm này cả là một cố gắng trong đó vai trò của GVCN rất quan trọng và sự tham gia của Hội PHHS là rất cần thiết . V- Kết luận : Trong thực tế , các nhà trường , thầy cô giáo cũng đã từng vận dụng những biện pháp nêu trên và một số biện pháp khác, nhưng vì chưa nắm được nguyên nhân và chưa phân tích các đối tượng cụ thể. Đồng thời, việc phối hợp giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường chưa chặt chẽ, đồng bộ nên việc giáo dục HS chưa có hiêụ quả cao. Nếu chúng ta phân tích được các nhóm đối tượng HSCB và tìm hiểu, phân tích kỹ những nguyên nhân dẫn đến HS hoang nghịch đồng thời biết kết hợp và vận dụng các biện pháp trên phù hợp cho từng đối tượng thì sẽ hạn chế và giáo dục HSCB trở thành con ngoan, trò giỏi .

Đề Tài Biện Pháp Giáo Dục Học Sinh Cá Biệt

TRƯỜNG TIỂU HỌC SƠN BAO ————–™&˜————- ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM —————————–™&˜—————————– TÊN ĐỀ TÀI BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT Người viết: Ngô Thị Kim Lan Đơn vị : Trường tiểu học Sơn Bao THÁNG 9 NĂM 2006 ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM —————————–™&˜—————————– TÊN ĐỀ TÀI BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT PHẦN I : PHẦN MỞ ĐẦU 1/ Mục đích ý nghĩa : Xuất phát từ mục đích ý nghĩa của Nhà trường xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người mới phát triển toàn diện , con người mới có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước . Muốn tạo nên những con người mới thì Nhà trường phải là nơi trực tiếp đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người toàn diện nhất , những con người đó chính là Học sinh , mà đặc biệt là Học sinh tiểu học , các em là những người chủ tương lai của đất nước , vì vậy chúng ta phải biết cách rèn luyện và Giáo dục từ bước đầu . Trong thực tế mỗi Học sinh đều có một hoàn cảnh khác nhau , hoàn cảnh sẽ có tác động trực tiếp đến sự hình thành nhân cách của Học sinh , chính vì thế mà phương pháp Giáo dục Học sinh cá biệt sẽ giúp cho một số Học sinh cá biệt trở thành Học sinh bình thường hoà nhập với cộng đồng xã hội và trở thành những người hữu ích cho Đất nước . 2/ Lý do chọn đề tài : Nền Giáo dục nước ta đang trên đà phát triển , tuy nhiên vẫn càng nhiều hiện tượng mà đặc biệt là Học sinh cá biệt ngày càng tăng ở các trường học nói chung và đối với trường tiểu học Sơn Bao nói riêng . đây là vấn đề bứt thiết , là tiếng kêu của toàn xã hội mà đặc biệt là ngành Giáo dục đóng vai trò chủ chốt trong việc Giáo dục thế hệ trẻ . Trong thực tế hiện nay , nhiều gia đình gặp không ít khó khăn , không đủ điều kiện nuôi con ăn học cho nên đã cho con ở nhà giúp việc gia đình và cho đi làm ăn xa , một số gia đình có nhận thức kém nên không quan tâm gì đến việc học của con em , giao hẳn cho Nhà trường . Mặc khác Sơn Bao là một xã vùng cao của huyện Sơn Hà , kinh tế của người dân càng quá nghèo , tỉ lệ hộ đói – hộ nghèo chiếm 70% , việc kiểm soát học hành của con em ở một số phụ huynh chưa đúng mức , từ dó đã làm cho các em đi học tuỳ theo sở thích , có nhiều em chán nản , quậy phá hoặc làm ra vẽ cho mình nổi bật trước lớp . Đứng trước thực trạng này , bản thân tôi là một Giáo viên chủ nhiệm cho nên có cảm nghỉ mình phải làm sao đó và phải có trách nhiệm Giáo dục các em trở thành người Học sinh ngoan , vì đa số các em chưa ý thức được việc của mình làm. Vậy chúng ta là Giáo viên có hiểu nguyên nhân dẫn đến những việc làm đó không ? Tại sao chúng ta không tìm ra biện pháp Giáo dục Học sinh các biệt . Từ những câu hỏi đặc ra đó tôi đã quyết định tìm hiểu và viết sáng kiến kinh nghiệm mà đã chọn đề tài nêu ở trên . Đề tài này đã áp dụng từ năm học 2002-2003. PHẦN II : NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Bản thân tôi đưqợc trường phân công giảng dạy lớp hai nhiều năm , nhìn chung ở lớp hai , các em Học sinh càng nhỏ , thơ ngây . Chính vì thế mà chúng ta phải ra sức rèn luyện và Giáo dục từ bước đầu . Thực tế trong mỗi lớp học có nhiều đối tượng Học sinh , trong đó cũng không thể không nói đến Học sinh cá biệt . qua đây tôi xin trình bày những suy nghĩ và những việc mình đã làm trong công tác chủ nhiệm , đó là Giáo dục Học sinh cá biệt . Vậy Học sinh có biểu hiện như thế nào gọi là Học sinh cá biệt và chúng ta có những biện pháp Giáo dục ra sao để các em trở thành những Học sinh bình thường như bao Học sinh khác , đó là nội dung của sáng kiến kinh nghiệm tôi xin trình bày sau đây . 1/ Đặc điểm của Học sinh cá biệt : đối với những Học sinh cá biệt luôn luôn có tính hiếu động , thích tìm tòi và luôn gây sự chú ý cho người khác ở bất kỳ nơi nào , thời điểm nào . Trước hết chúng ta nên nói đến tính cách của trẻ là sự kết hợp độc đáo giữa đặc điểm tâm sinh lý của trẻ với điều kiện hoàn cảnh sống nhất định . Biểu hiện của trẻ là nhanh nhẹn , hoạt bát cùng với sự nghịch ngợm , bất ổn định kèm theo , bên cạnh đó học tập có thể là học yếu hoặc trung bình , vì các em đó trong lớp ít chú ý hoặc thậm chí không chú ý khi cô giáo giảng bài , luôn quậy phá các bạn ngồi bên cạnh , gây mất trật tự trong lớp . Biểu hiện về mặt thái độ của trẻ với chung quanh và bản thân , những đứa trẻ hiếu động này thuộc kiểu thần kinh mạnh , cân bằng và linh hoạt . biểu hiện của trẻ là ham hoạt động , ham hiểu biết , linh hoạt , thường vui vẻ , vô tư , cảm xúc của trẻ bất ổn định , rung cảm nhưng không sâu , nhanh nhớ , mau quên . Biểu hiện rõ nét nhất của đặc tính này là bất cứ điều gì hấp dẫn , thích thú vừa sức thì các em sẽ làm ngay , tập trung chú ý rất tích cực , càng trong học tập thì đòi hỏi phải kiên trì , chịu khó động não để làm bài , chiếm lĩnh kiến thức thì các em đâm ra chán nản , ít chú ý hoặc không chú ý nên kết quả học tập thấp . Chính vì điều đó , bản thân tôi là một Giáo viên chủ nhiệm , đặc biệt là Giáo viên tiểu học , khi các em đến trường tôi luôn tạo cho các em và có cảm giác tôi giống như một người mẹ , luuôn có trách nhiệm theo sát các em từng giờ và trong mỗi buổi học để hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của từng em thì mới có hình thức , phương pháp , biện pháp dạy học phù hợp với các em thì mới đem lại kết quả cao . Đặc biệt cũng cần tạo không khí lớp học , trường học như chính ở nhà của các em , khi đo các em mới có cảm giác được quan tâm chăm sóc và tình yêu thương thật sự để học tập tốt . 2/ Biện pháp thực hiện : Đối với những trẻ nghịch ngợm , hay nói chuyện riêng , sau mỗi lần giảng bài xong , hoặc các em đã làm xong bài tập , các em không biết làm gì nên hay trêu chọc các bạn gây mất trật tự trong lớp Cô giáo nói không nghe , theo tôi cần giáo dục các em như sau : + Thường xuyên quan tâm sâu sát hoạt động của các em + Thường xuyên nhắc nhở động viên kịp thời + Khích lệ khi em có tinh thần tập thể và lòng vị tha + Không nên phê bình , trách phạt + Không nên sĩ nhục , xúc phạm đến các em + Tránh hình thức áp đặc doạ dẫm , buột các em phải làm theo vì điều đó sẽ không đem lại kết quả gì + đặc biệt Giáo viên không nên để các em có thời gian rỗi + Kết hợp giữa ba môi trường Giáo dục Gia đình – Nhà trường và Xã hội Sỡ dĩ tôi áp dụng các biện pháp nêu trên , vì như tôi đã nói lứa tuổi các em càng nhỏ và rất thơ ngây , các em luôn xem thầy – cô như một hình tượng , luôn làm theo cô, theo thầy . Mặt khác Giáo dục Học sinh không phải chỉ mang lại cho các em kiến thức , kĩ năng , mà còn phải Giáo dục cho các em về sự hình thành nhân cách , về lối sống , cách cư xử trong cuộc sống đời thường , vì vậy trước hết Giáo viên phải mẫu mực , lời lẽ phải chuẩn xác , trong sáng , gần gũi các em , tránh những lời nói thô tục , hành động thô bạo . Đặc biệt Giáo viên cần vạch rõ ranh giới giữa các việc , khi cấm các em không được làm việc gì đó thì phải nêu rõ nguyên nhân để các em hiểu được việc đó là sai , không nên làm . còn đối với những việc các em được làm , Giáo viên cũng cần giới hạn khung cảnh và những việc nên làm , dù đó là những việc rất nhỏ , vì làm như thế giúp các em hiểu rõ vì sao phải làm như thế này mà không làm như thế kia , và cũng không nên bắt buộc các em phải làm những điều mà các em không hiểu làm để làm gì . Khi các em đã hiểu được những yêu cầu của Giáo viên , khi ấy Giáo viên đưa ra tình huống để các em làm một cách thường xuyên . Việc làm đó được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ từng bước tạo thành thói quen , nề nếp , nhu cầu và không cảm thấy khó chịu thì các em dần dần sẽ trở nên tiến bộ , hoà nhập với cộng đồng . Tuy nhiên công việc này không thể chỉ có Giáo viên làm mà cần phải phối hợp nhịp nhàng , đồng bộ giữa Giáo viên chủ nhiệm và gia đình Học sinh , Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên gần gũi với phụ huynh Học sinh để tìm hiểu trao đổi các hoạt động của các em xảy ra hằng ngày hoặc báo cáo những tiến bộ và nảy sinh những cái gì mới ngoài dự kiến của chúng ta thì khi đó Giáo viên chủ nhiệm cùng phụ huynh Giáo dục , uốn nắn ngay từ đầu và kịp thời . Trong học tập Giáo viên phải có kế hoạch cụ thể , ở lớp phải chú ý đến việc sắp xếp , bố trí chỗ ngồi cho hợp lý . Học sinh yếu nên bố trí cho ngồi ở bàn trên , bố trí ngồi cạnh bạn học giỏi hơn để Giáo viên dể theo dõi , giúp đỡ các em trong từng môn học . Giáo viên cần dành sự quan tâm đến việc học tập của những Học sinh này nhiều hơn , thường xuyên kiểm tra bài về nhà , học tập ở lớp , kết quả tiếp thu bài sau mỗi buổi dạy . Giáo viên cần phân công giao nhiệm vụ cho bạn Học sinh giỏi giúp bạn học yếu bằng cách : Truy bài trước giờ vào lớp , kiểm tra bài về nhà , nhắc nhở bạn , giảng giải thêm khi bạn chưa hiểu được bài , chưa biết cách làm bài , không trách ,sĩ nhục bạn . Cứ tiến hành như thế , Giáo viên sẽ theo dõi được sự tiến bộ hoặc không tiến bộ của Học sinh để phối hợp với gia đình Học sinh cùng hướng dẫn thêm việc học ở nhà của các em đồng thời Giáo viên cũng có kế hoạch điều chỉnh hợp lý . Ngoài việc học ở nhà , ở lớp , Giáo viên càng tổ chức phụ đạo cho những Học sinh yếu ở ngoài giờ để nâng cao trình độ cho các em . Trong những buổi phụ đạo Giáo viên giảng lại kiến thức cũ đã học trong tuần để giúp các em nắm chắc bài và làm bài tốt hơn . Tuy nhiên Giáo viên tiến hành từng bước yêu cầu thấp đến yêu cầu cao , không nên vội vàng sẽ gây chán nản cho các em . Khi nhận thấy các em có sự tiến bộ cần khuyến khích kịp thời , khi các em làm sai hoặc không tiến bộ cần động viên chỉ bảo nhẹ nhàng , tránh nói những lời nặng nề xúc phạm đến nhân cách của Học sinh , đặc biệt là không nên bình phẩm Học sinh “Sao em học dốt thế” . Ngoài việc Giáo dục Học sinh cá biệt về đạo đức và học tập , Giáo viên chủ nhiệm cũng cần chú ý đến chữ viết của các em , vì thông qua chữ viết nó thể hiện được tính nết của con người . Rèn chữ viết đúng mẫu , đúng chính ta û , đúng tốc độ quy định và giữ vở sạch . Muốn rèn chữ viết trước hết phải rèn đọc đúng , phát âm đúng các phụ âm đầu , tập các em có đức tính cẩn thận ở tất cả các môn học . Để thực hiện được điều này Giáo viên phải mẫu mực khi viết và trình bày bảng , vì vậy cần rèn chữ viết cho Học sinh lớp 1; 2 đó là góp phần vào phong trào giữ vở sạch đẹp và trong sáng của tiếng việt mà tôi tin chắc chúng ta ai cũng làm được việc này . Tóm lại : Để Giáo dục Học sinh cá biệt tốt , trước hết người Giáo viên chủ nhiệm phải mẫu mực để Học sinh noi theo , luôn gần gũi , thương yêu và tôn trọng Học sinh , phải dành nhiều thời gian cho các em , đôn đốc nhắc nhở , tạo niềm tin cho các em , phải là người nhiệt tình với nghề nghiệp , tôn trọng với công việc , tất cả vì Học sinh thân yêu , vì tương lai của các em . Có như thế mới xứng đáng với câu “ mỗi thầy giáo – cô giáo là một tấm gương sáng cho Học sinh noi theo”, dạy học không chỉ đem lại kiến thức mà phải kết hợp cả dạy người . Đối tượng Học sinh cá biệt phần lớn là những Học sinh nghèo , thiếu giáo dục , ít được sự quan tâm của gia đình chính vì thế mà chúng ta cần phải luôn quan tâm , theo sát và tìm hiểu hoàn cảnh của từng Học sinh để tạo điều kiện học tập cho các em , luôn trao dồi đạo đức cho các em bằng chính lòng thương yêu thực sự của mình , từ đó sẽ cảm hoá được các em để các em hiểu và hoà nhập vào cộng đồng như bao nhiêu đứa trẻ bình thường khác trong xã hội . Công việc này tuy lúc đầu rất vất vả , tốn nhiều công sức , nhưng để theo dõi , uốn nén các em từng li , từng tí , khi các em đã tiếp thu những cái mới , nhận biết được nhiệm vụ của Học sinh dần dần đưa các em vào nề nếp học tập , có thời khoá biểu học ở nhà , các em trở thành thói quen , từ đó các em sẽ tiến bộ và bắt đầu ham học , kết quả học tập sẽ khả quan hơn . Cần phải kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường Giáo dục thì mới thực sự đem lại hiệu quả cao . Sáng kiến này tôi đã áp dụng từ bao năm qua nhưng đặc biệt nhất là năm học 2002 – 2003 sáng kiến này mới thật sự có hiệu quả và áp dụng mãi đến nay . Cụ thể năm học 2002 – 2003 tôi dạy lớp 2A đó là năm đầu tiên áp dụng chương trình thay sách , lớp tôi có một Học sinh là Đinh Văn Vẹt , em là dân tôc H rê , em có đặc điểm là nghịch ngợm ít chú ý . nhưng lại học được , khi nhận lớp tôi đã phát hiện ra ngay diều này , càng hoàn cảnh gia đình em thì rất khó khăn , Mẹ mất sớm , Bố thì lấy vợ khác , và lúc nào cũng hay nhậu nhặc . Thời gian đầu em ở với bố mẹ , sau đó em về ở với anh trai , gần nhà của tôi . Đến lớp em chép bài chỉ là đối phó , chữ viết cẩu thả , biết làm toán nhưng không làm , nghĩa là thích thì làm , không thích thì thôi và luôn nói bằng tiếng của người địa phương . Từ đó tôi đã thực hiện như sau : + Ở miền núi Học sinh được phát vở nên vở của em không thiếu nhưng viết của em thì không có , trong lớp học tôi thấy em không chép bài nên liền lại hỏi vfa em đã cho biết là không có bút , thế là tôi đã lấy bút của mình để cho em và dặn dò nhắc nhở . Nhìn anh mắt của em ngơ ngác nhìn tôi , lúc này tôi cảm nhận được niềm vui sướng tràn ngập trong lòng của em , tôi hướng dẫn cho em viết và thường xuyên kiểm tra vở , việc này tôi thực hiện suốt cả một tuần và tôi đã nhận thấy em đã có sự tiến bộ rõ rệt , em đã ngoan hơn và không có nghịch như trước nữa , đặc biệt là giờ học toán em đã bắt đầu giơ tay xin lên bảng làm , có lúc em làm đúng , cũng có lúc làm sai , tôi luôn luôn khen ngợi và động viên . Bằng những câu nói nhẹ nhàng , những lời chỉ bảo tận tình của tôi , em đã ý thức được việc học của mình . Bên cạnh đó thời gian ngoài giờ tôi thường sang nhà để gặp phụ huynh và phối hợp với phụ huynh để cùng giáo dục em , thường xuyên động viên , khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em tham gia học tập tốt . Thực sự là tôi rất mừng khi thấy em tiến bộ , nhưng niềm vui mừng lại tăng lên gấp bội vì kết quả học kì I của em là Học sinh khá , đến học kì II em là Học sinh giỏi của lớp . Kể từ đó em thật sự đã trưởng thành và luôn làm gương cho các Học sinh khác noi theo , từ năm học đó về sau em đều là Học sinh giỏi của lớp . Tôi là Giáo viên chủ nhiệm , tôi cảm thấy rất mừng và tràn đầy hạnh phúc khi nhìn thấy sản phẩm của mình sáng kiến , cải tiến lại có chất lượng cao như thế và đó cũng chính là kết quả lớn nhất của tôi trong những năm qua . 3/ kết quả đạt được : Trong suốt thời gian qua bản thân tôi luôn mẫu mực trong mọi công tác , hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao , đặc biệt là công tác chủ nhiệm , tuy vùng cao nhưng tôi luôn đảm bảo duy trì sĩ số Học sinh , về Giáo dục Học sinh cá biệt có được ngững kết quả cao tỉ lệ Học sinh khá , giỏi nhiều , đảm bảo chỉ tiêu Học sinh lên lớp 100% PHẦN III : KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 1/ Kết luận : Tự hào về nghề nghiệp của mình là người ươm mầm non cho Tổ quốc , là người Giáo dục thế hệ trẻ trở thành người chủ tương lai của đất nước . Một thế hệ mà Bác Hồ hết sức chăm lo , quan tâm : “ Non sông Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không , phần lớn là nhờ vào công học tập của các cháu” . Vâng lời Bác dạy , bản thân tôi là người ươm mầm cho đất nước , tôi nguyện ra sức phấn đấu hết sức mình để tạo cho các em một tương lai tốt đẹp , góp một phần công sức của mình vào việc xây dựng quê hương đất nước . 2/ Kiến nghị – đề xuất : Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp thực hiện công tác này , do đó phải nắm vững đặc điểm của từng em và điều kiện hoàn cảnh gia đình để tạo điều kiện cho các em học tập và rèn luyện . Nhà trường nên thường xuyên tổ chức các phong trào thi đua học tập , để các em được tham gia và phải có khen thưởng kịp thời nhằm khuyến khích , động viên các em . Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên liên hệ với gia đình học sinh để báo cáo kết quả học tập và rèn luyện của học sinh cho phụ huynh nắm . Lập kế hoạch dạy phụ đạo cho Học sinh yếu kém . Nhà trường cần phải quan tâm bồi dưỡng đội ngũ Giáo viên của trường về công tác chủ nhiệm lớp để đưa phong trào của nhà trường ngày càng vững mạnh hơn , không có Học sinh cá biệt , xứng đáng là nhà trường xã hôi chủ nghĩa . Sơn Bao, ngày :.././ Người viết

Sáng Kiến Kinh Nghiệm: Biện Pháp Giáo Dục Học Sinh Cá Biệt

1/ Mục đích ý nghĩa :

Xuất phát từ mục đích ý nghĩa của Nhà trường xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người mới phát triển toàn diện , con người mới có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước . Muốn tạo nên những con người mới thì Nhà trường phải là nơi trực tiếp đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người toàn diện nhất , những con người đó chính là Học sinh , mà đặc biệt là Học sinh tiểu học , các em là những người chủ tương lai của đất nước , vì vậy chúng ta phải biết cách rèn luyện và Giáo dục từ bước đầu . Trong thực tế mỗi Học sinh đều có một hoàn cảnh khác nhau , hoàn cảnh sẽ có tác động trực tiếp đến sự hình thành nhân cách của Học sinh , chính vì thế mà phương pháp Giáo dục Học sinh cá biệt sẽ giúp cho một số Học sinh cá biệt trở thành Học sinh bình thường hoà nhập với cộng đồng xã hội và trở thành những người hữu ích cho Đất nước .

PHÒNG GD SƠN HÀ TRƯỜNG TIỂU HỌC SƠN BAO --------------™&˜------------- ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM -----------------------------™&˜----------------------------- TÊN ĐỀ TÀI BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT Người viết: Ngô Thị Kim Lan Đơn vị : Trường tiểu học Sơn Bao THÁNG 9 NĂM 2006 ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM -----------------------------™&˜----------------------------- TÊN ĐỀ TÀI BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT PHẦN I : PHẦN MỞ ĐẦU 1/ Mục đích ý nghĩa : Xuất phát từ mục đích ý nghĩa của Nhà trường xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người mới phát triển toàn diện , con người mới có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước . Muốn tạo nên những con người mới thì Nhà trường phải là nơi trực tiếp đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người toàn diện nhất , những con người đó chính là Học sinh , mà đặc biệt là Học sinh tiểu học , các em là những người chủ tương lai của đất nước , vì vậy chúng ta phải biết cách rèn luyện và Giáo dục từ bước đầu . Trong thực tế mỗi Học sinh đều có một hoàn cảnh khác nhau , hoàn cảnh sẽ có tác động trực tiếp đến sự hình thành nhân cách của Học sinh , chính vì thế mà phương pháp Giáo dục Học sinh cá biệt sẽ giúp cho một số Học sinh cá biệt trở thành Học sinh bình thường hoà nhập với cộng đồng xã hội và trở thành những người hữu ích cho Đất nước . 2/ Lý do chọn đề tài : Nền Giáo dục nước ta đang trên đà phát triển , tuy nhiên vẫn càng nhiều hiện tượng mà đặc biệt là Học sinh cá biệt ngày càng tăng ở các trường học nói chung và đối với trường tiểu học Sơn Bao nói riêng . đây là vấn đề bứt thiết , là tiếng kêu của toàn xã hội mà đặc biệt là ngành Giáo dục đóng vai trò chủ chốt trong việc Giáo dục thế hệ trẻ . Trong thực tế hiện nay , nhiều gia đình gặp không ít khó khăn , không đủ điều kiện nuôi con ăn học cho nên đã cho con ở nhà giúp việc gia đình và cho đi làm ăn xa , một số gia đình có nhận thức kém nên không quan tâm gì đến việc học của con em , giao hẳn cho Nhà trường . Mặc khác Sơn Bao là một xã vùng cao của huyện Sơn Hà , kinh tế của người dân càng quá nghèo , tỉ lệ hộ đói - hộ nghèo chiếm 70% , việc kiểm soát học hành của con em ở một số phụ huynh chưa đúng mức , từ dó đã làm cho các em đi học tuỳ theo sở thích , có nhiều em chán nản , quậy phá hoặc làm ra vẽ cho mình nổi bật trước lớp . Đứng trước thực trạng này , bản thân tôi là một Giáo viên chủ nhiệm cho nên có cảm nghỉ mình phải làm sao đó và phải có trách nhiệm Giáo dục các em trở thành người Học sinh ngoan , vì đa số các em chưa ý thức được việc của mình làm. Vậy chúng ta là Giáo viên có hiểu nguyên nhân dẫn đến những việc làm đó không ? Tại sao chúng ta không tìm ra biện pháp Giáo dục Học sinh các biệt . Từ những câu hỏi đặc ra đó tôi đã quyết định tìm hiểu và viết sáng kiến kinh nghiệm mà đã chọn đề tài nêu ở trên . Đề tài này đã áp dụng từ năm học 2002-2003. PHẦN II : NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Bản thân tôi đưqợc trường phân công giảng dạy lớp hai nhiều năm , nhìn chung ở lớp hai , các em Học sinh càng nhỏ , thơ ngây . Chính vì thế mà chúng ta phải ra sức rèn luyện và Giáo dục từ bước đầu . Thực tế trong mỗi lớp học có nhiều đối tượng Học sinh , trong đó cũng không thể không nói đến Học sinh cá biệt . qua đây tôi xin trình bày những suy nghĩ và những việc mình đã làm trong công tác chủ nhiệm , đó là Giáo dục Học sinh cá biệt . Vậy Học sinh có biểu hiện như thế nào gọi là Học sinh cá biệt và chúng ta có những biện pháp Giáo dục ra sao để các em trở thành những Học sinh bình thường như bao Học sinh khác , đó là nội dung của sáng kiến kinh nghiệm tôi xin trình bày sau đây . 1/ Đặc điểm của Học sinh cá biệt : đối với những Học sinh cá biệt luôn luôn có tính hiếu động , thích tìm tòi và luôn gây sự chú ý cho người khác ở bất kỳ nơi nào , thời điểm nào . Trước hết chúng ta nên nói đến tính cách của trẻ là sự kết hợp độc đáo giữa đặc điểm tâm sinh lý của trẻ với điều kiện hoàn cảnh sống nhất định . Biểu hiện của trẻ là nhanh nhẹn , hoạt bát cùng với sự nghịch ngợm , bất ổn định kèm theo , bên cạnh đó học tập có thể là học yếu hoặc trung bình , vì các em đó trong lớp ít chú ý hoặc thậm chí không chú ý khi cô giáo giảng bài , luôn quậy phá các bạn ngồi bên cạnh , gây mất trật tự trong lớp . Biểu hiện về mặt thái độ của trẻ với chung quanh và bản thân , những đứa trẻ hiếu động này thuộc kiểu thần kinh mạnh , cân bằng và linh hoạt . biểu hiện của trẻ là ham hoạt động , ham hiểu biết , linh hoạt , thường vui vẻ , vô tư , cảm xúc của trẻ bất ổn định , rung cảm nhưng không sâu , nhanh nhớ , mau quên . Biểu hiện rõ nét nhất của đặc tính này là bất cứ điều gì hấp dẫn , thích thú vừa sức thì các em sẽ làm ngay , tập trung chú ý rất tích cực , càng trong học tập thì đòi hỏi phải kiên trì , chịu khó động não để làm bài , chiếm lĩnh kiến thức thì các em đâm ra chán nản , ít chú ý hoặc không chú ý nên kết quả học tập thấp . Chính vì điều đó , bản thân tôi là một Giáo viên chủ nhiệm , đặc biệt là Giáo viên tiểu học , khi các em đến trường tôi luôn tạo cho các em và có cảm giác tôi giống như một người mẹ , luuôn có trách nhiệm theo sát các em từng giờ và trong mỗi buổi học để hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của từng em thì mới có hình thức , phương pháp , biện pháp dạy học phù hợp với các em thì mới đem lại kết quả cao . Đặc biệt cũng cần tạo không khí lớp học , trường học như chính ở nhà của các em , khi đo các em mới có cảm giác được quan tâm chăm sóc và tình yêu thương thật sự để học tập tốt . 2/ Biện pháp thực hiện : Đối với những trẻ nghịch ngợm , hay nói chuyện riêng , sau mỗi lần giảng bài xong , hoặc các em đã làm xong bài tập , các em không biết làm gì nên hay trêu chọc các bạn gây mất trật tự trong lớp Cô giáo nói không nghe , theo tôi cần giáo dục các em như sau : + Thường xuyên quan tâm sâu sát hoạt động của các em + Thường xuyên nhắc nhở động viên kịp thời + Khích lệ khi em có tinh thần tập thể và lòng vị tha + Không nên phê bình , trách phạt + Không nên sĩ nhục , xúc phạm đến các em + Tránh hình thức áp đặc doạ dẫm , buột các em phải làm theo vì điều đó sẽ không đem lại kết quả gì + đặc biệt Giáo viên không nên để các em có thời gian rỗi + Kết hợp giữa ba môi trường Giáo dục Gia đình - Nhà trường và Xã hội Sỡ dĩ tôi áp dụng các biện pháp nêu trên , vì như tôi đã nói lứa tuổi các em càng nhỏ và rất thơ ngây , các em luôn xem thầy - cô như một hình tượng , luôn làm theo cô, theo thầy . Mặt khác Giáo dục Học sinh không phải chỉ mang lại cho các em kiến thức , kĩ năng , mà còn phải Giáo dục cho các em về sự hình thành nhân cách , về lối sống , cách cư xử trong cuộc sống đời thường , vì vậy trước hết Giáo viên phải mẫu mực , lời lẽ phải chuẩn xác , trong sáng , gần gũi các em , tránh những lời nói thô tục , hành động thô bạo . Đặc biệt Giáo viên cần vạch rõ ranh giới giữa các việc , khi cấm các em không được làm việc gì đó thì phải nêu rõ nguyên nhân để các em hiểu được việc đó là sai , không nên làm . còn đối với những việc các em được làm , Giáo viên cũng cần giới hạn khung cảnh và những việc nên làm , dù đó là những việc rất nhỏ , vì làm như thế giúp các em hiểu rõ vì sao phải làm như thế này mà không làm như thế kia , và cũng không nên bắt buộc các em phải làm những điều mà các em không hiểu làm để làm gì . Khi các em đã hiểu được những yêu cầu của Giáo viên , khi ấy Giáo viên đưa ra tình huống để các em làm một cách thường xuyên . Việc làm đó được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ từng bước tạo thành thói quen , nề nếp , nhu cầu và không cảm thấy khó chịu thì các em dần dần sẽ trở nên tiến bộ , hoà nhập với cộng đồng . Tuy nhiên công việc này không thể chỉ có Giáo viên làm mà cần phải phối hợp nhịp nhàng , đồng bộ giữa Giáo viên chủ nhiệm và gia đình Học sinh , Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên gần gũi với phụ huynh Học sinh để tìm hiểu trao đổi các hoạt động của các em xảy ra hằng ngày hoặc báo cáo những tiến bộ và nảy sinh những cái gì mới ngoài dự kiến của chúng ta thì khi đó Giáo viên chủ nhiệm cùng phụ huynh Giáo dục , uốn nắn ngay từ đầu và kịp thời . Trong học tập Giáo viên phải có kế hoạch cụ thể , ở lớp phải chú ý đến việc sắp xếp , bố trí chỗ ngồi cho hợp lý . Học sinh yếu nên bố trí cho ngồi ở bàn trên , bố trí ngồi cạnh bạn học giỏi hơn để Giáo viên dể theo dõi , giúp đỡ các em trong từng môn học . Giáo viên cần dành sự quan tâm đến việc học tập của những Học sinh này nhiều hơn , thường xuyên kiểm tra bài về nhà , học tập ở lớp , kết quả tiếp thu bài sau mỗi buổi dạy . Giáo viên cần phân công giao nhiệm vụ cho bạn Học sinh giỏi giúp bạn học yếu bằng cách : Truy bài trước giờ vào lớp , kiểm tra bài về nhà , nhắc nhở bạn , giảng giải thêm khi bạn chưa hiểu được bài , chưa biết cách làm bài , không trách ,sĩ nhục bạn . Cứ tiến hành như thế , Giáo viên sẽ theo dõi được sự tiến bộ hoặc không tiến bộ của Học sinh để phối hợp với gia đình Học sinh cùng hướng dẫn thêm việc học ở nhà của các em đồng thời Giáo viên cũng có kế hoạch điều chỉnh hợp lý . Ngoài việc học ở nhà , ở lớp , Giáo viên càng tổ chức phụ đạo cho những Học sinh yếu ở ngoài giờ để nâng cao trình độ cho các em . Trong những buổi phụ đạo Giáo viên giảng lại kiến thức cũ đã học trong tuần để giúp các em nắm chắc bài và làm bài tốt hơn . Tuy nhiên Giáo viên tiến hành từng bước yêu cầu thấp đến yêu cầu cao , không nên vội vàng sẽ gây chán nản cho các em . Khi nhận thấy các em có sự tiến bộ cần khuyến khích kịp thời , khi các em làm sai hoặc không tiến bộ cần động viên chỉ bảo nhẹ nhàng , tránh nói những lời nặng nề xúc phạm đến nhân cách của Học sinh , đặc biệt là không nên bình phẩm Học sinh "Sao em học dốt thế" . Ngoài việc Giáo dục Học sinh cá biệt về đạo đức và học tập , Giáo viên chủ nhiệm cũng cần chú ý đến chữ viết của các em , vì thông qua chữ viết nó thể hiện được tính nết của con người . Rèn chữ viết đúng mẫu , đúng chính ta û , đúng tốc độ quy định và giữ vở sạch . Muốn rèn chữ viết trước hết phải rèn đọc đúng , phát âm đúng các phụ âm đầu , tập các em có đức tính cẩn thận ở tất cả các môn học . Để thực hiện được điều này Giáo viên phải mẫu mực khi viết và trình bày bảng , vì vậy cần rèn chữ viết cho Học sinh lớp 1; 2 đó là góp phần vào phong trào giữ vở sạch đẹp và trong sáng của tiếng việt mà tôi tin chắc chúng ta ai cũng làm được việc này . Tóm lại : Để Giáo dục Học sinh cá biệt tốt , trước hết người Giáo viên chủ nhiệm phải mẫu mực để Học sinh noi theo , luôn gần gũi , thương yêu và tôn trọng Học sinh , phải dành nhiều thời gian cho các em , đôn đốc nhắc nhở , tạo niềm tin cho các em , phải là người nhiệt tình với nghề nghiệp , tôn trọng với công việc , tất cả vì Học sinh thân yêu , vì tương lai của các em . Có như thế mới xứng đáng với câu " mỗi thầy giáo - cô giáo là một tấm gương sáng cho Học sinh noi theo", dạy học không chỉ đem lại kiến thức mà phải kết hợp cả dạy người . Đối tượng Học sinh cá biệt phần lớn là những Học sinh nghèo , thiếu giáo dục , ít được sự quan tâm của gia đình chính vì thế mà chúng ta cần phải luôn quan tâm , theo sát và tìm hiểu hoàn cảnh của từng Học sinh để tạo điều kiện học tập cho các em , luôn trao dồi đạo đức cho các em bằng chính lòng thương yêu thực sự của mình , từ đó sẽ cảm hoá được các em để các em hiểu và hoà nhập vào cộng đồng như bao nhiêu đứa trẻ bình thường khác trong xã hội . Công việc này tuy lúc đầu rất vất vả , tốn nhiều công sức , nhưng để theo dõi , uốn nén các em từng li , từng tí , khi các em đã tiếp thu những cái mới , nhận biết được nhiệm vụ của Học sinh dần dần đưa các em vào nề nếp học tập , có thời khoá biểu học ở nhà , các em trở thành thói quen , từ đó các em sẽ tiến bộ và bắt đầu ham học , kết quả học tập sẽ khả quan hơn . Cần phải kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường Giáo dục thì mới thực sự đem lại hiệu quả cao . Sáng kiến này tôi đã áp dụng từ bao năm qua nhưng đặc biệt nhất là năm học 2002 - 2003 sáng kiến này mới thật sự có hiệu quả và áp dụng mãi đến nay . Cụ thể năm học 2002 - 2003 tôi dạy lớp 2A đó là năm đầu tiên áp dụng chương trình thay sách , lớp tôi có một Học sinh là Đinh Văn Vẹt , em là dân tôc H rê , em có đặc điểm là nghịch ngợm ít chú ý . nhưng lại học được , khi nhận lớp tôi đã phát hiện ra ngay diều này , càng hoàn cảnh gia đình em thì rất khó khăn , Mẹ mất sớm , Bố thì lấy vợ khác , và lúc nào cũng hay nhậu nhặc . Thời gian đầu em ở với bố mẹ , sau đó em về ở với anh trai , gần nhà của tôi . Đến lớp em chép bài chỉ là đối phó , chữ viết cẩu thả , biết làm toán nhưng không làm , nghĩa là thích thì làm , không thích thì thôi và luôn nói bằng tiếng của người địa phương . Từ đó tôi đã thực hiện như sau : + Ở miền núi Học sinh được phát vở nên vở của em không thiếu nhưng viết của em thì không có , trong lớp học tôi thấy em không chép bài nên liền lại hỏi vfa em đã cho biết là không có bút , thế là tôi đã lấy bút của mình để cho em và dặn dò nhắc nhở . Nhìn anh mắt của em ngơ ngác nhìn tôi , lúc này tôi cảm nhận được niềm vui sướng tràn ngập trong lòng của em , tôi hướng dẫn cho em viết và thường xuyên kiểm tra vở , việc này tôi thực hiện suốt cả một tuần và tôi đã nhận thấy em đã có sự tiến bộ rõ rệt , em đã ngoan hơn và không có nghịch như trước nữa , đặc biệt là giờ học toán em đã bắt đầu giơ tay xin lên bảng làm , có lúc em làm đúng , cũng có lúc làm sai , tôi luôn luôn khen ngợi và động viên . Bằng những câu nói nhẹ nhàng , những lời chỉ bảo tận tình của tôi , em đã ý thức được việc học của mình . Bên cạnh đó thời gian ngoài giờ tôi thường sang nhà để gặp phụ huynh và phối hợp với phụ huynh để cùng giáo dục em , thường xuyên động viên , khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em tham gia học tập tốt . Thực sự là tôi rất mừng khi thấy em tiến bộ , nhưng niềm vui mừng lại tăng lên gấp bội vì kết quả học kì I của em là Học sinh khá , đến học kì II em là Học sinh giỏi của lớp . Kể từ đó em thật sự đã trưởng thành và luôn làm gương cho các Học sinh khác noi theo , từ năm học đó về sau em đều là Học sinh giỏi của lớp . Tôi là Giáo viên chủ nhiệm , tôi cảm thấy rất mừng và tràn đầy hạnh phúc khi nhìn thấy sản phẩm của mình sáng kiến , cải tiến lại có chất lượng cao như thế và đó cũng chính là kết quả lớn nhất của tôi trong những năm qua . 3/ kết quả đạt được : Trong suốt thời gian qua bản thân tôi luôn mẫu mực trong mọi công tác , hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao , đặc biệt là công tác chủ nhiệm , tuy vùng cao nhưng tôi luôn đảm bảo duy trì sĩ số Học sinh , về Giáo dục Học sinh cá biệt có được ngững kết quả cao tỉ lệ Học sinh khá , giỏi nhiều , đảm bảo chỉ tiêu Học sinh lên lớp 100% PHẦN III : KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ 1/ Kết luận : Tự hào về nghề nghiệp của mình là người ươm mầm non cho Tổ quốc , là người Giáo dục thế hệ trẻ trở thành người chủ tương lai của đất nước . Một thế hệ mà Bác Hồ hết sức chăm lo , quan tâm : " Non sông Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không , phần lớn là nhờ vào công học tập của các cháu" . Vâng lời Bác dạy , bản thân tôi là người ươm mầm cho đất nước , tôi nguyện ra sức phấn đấu hết sức mình để tạo cho các em một tương lai tốt đẹp , góp một phần công sức của mình vào việc xây dựng quê hương đất nước . 2/ Kiến nghị - đề xuất : Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp thực hiện công tác này , do đó phải nắm vững đặc điểm của từng em và điều kiện hoàn cảnh gia đình để tạo điều kiện cho các em học tập và rèn luyện . Nhà trường nên thường xuyên tổ chức các phong trào thi đua học tập , để các em được tham gia và phải có khen thưởng kịp thời nhằm khuyến khích , động viên các em . Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên liên hệ với gia đình học sinh để báo cáo kết quả học tập và rèn luyện của học sinh cho phụ huynh nắm . Lập kế hoạch dạy phụ đạo cho Học sinh yếu kém . Nhà trường cần phải quan tâm bồi dưỡng đội ngũ Giáo viên của trường về công tác chủ nhiệm lớp để đưa phong trào của nhà trường ngày càng vững mạnh hơn , không có Học sinh cá biệt , xứng đáng là nhà trường xã hôi chủ nghĩa . Sơn Bao, ngày :.././ Người viết

5 Cách Giáo Dục Học Sinh Cá Biệt

GD&TĐ – Năm học nào cô Lê Nga Phương – giáo viên Trường THPT Hồ Tùng Mậu (Hà Nội) cũng được làm việc với HS cá biệt và các em luôn biết cách khiến cô mất đi khả năng tự chủ. Bằng kinh nghiệm của mình, cô Nga đã rút ra 5 giải pháp hiệu quả để giáo dục học sinh cá biệt.

Ảnh có tính chất minh họa/internet

1. Hãy trả lời câu hỏi: Vì sao? Theo cô Phương, không một đứa trẻ nào tự nhiên trở nên cá biệt. Luôn có ít nhất một lí do khiến chúng trở nên thù địch với mọi thứ xung quanh.

Những biểu hiện như: phá phách, ngủ trong giờ học, thậm chí gây gổ đánh nhau cũng chỉ là cách để các em chống trả một cách quyết liệt với cuộc đời mà theo các em là bất công, không đáng sống. Đôi khi, các em làm vậy là để thu hút sự chú ý của chúng ta, chúng muốn trở nên “đặc biệt”.

Lí do đó vô cùng đa dạng, có thể đến từ những kì vọng quá cao của cha mẹ, từ sự so sánh “con nhà mình” với “con nhà người ta”, từ hoàn cảnh gia đình, thậm chí từ một khoảng tối nào đó trong quá khứ mà HS không muốn đối diện.

“Việc của giáo viên là phải tìm được lí do tại sao? Khi tìm được lí do của tất cả mọi chuyện cũng có nghĩa là giáo viên đã tìm được chiếc chìa khoá mở cửa trái tim của những HS cá biệt này” – cô Phương cho biết.

2. Luôn đảm bảo nguyên tắc: Công bằng. Theo cô Phương, những đứa trẻ trở nên cứng đầu là bởi chúng mất lòng tin vào lẽ phải và công lí. Các em hoặc tìm cách phá bỏ thế giới đầy bất công, hoặc chiến đấu theo “niềm tin công lí” của riêng mình.

Đó là cách để các em khiến mình trở nên quan trọng hơn, trở thành người hùng trong mắt những đứa trẻ choai choai cùng trang lứa. Bất cứ khi nào bạn vi phạm vào nguyên tắc công bằng, cũng đồng nghĩa với việc các em sẽ xếp bạn vào nhóm cần phải “phòng trừ”, hoặc “loại bỏ”.

Để đảm bảo được công bằng, cô Phương cho rằng, giáo viên đừng xem thường sức mạnh của lời khen – chê. Đó chính là vũ khí để bạn trở thành một người hùng trong mắt trẻ. Bạn chỉ cần khen đúng và chê đúng. Nếu HS làm được một việc tốt, nếu các em bước thêm được một bước thì đừng tiếc lời khen.

Lời khen của giáo viên sẽ trở thành động lực, thành đôi cánh để các em nỗ lực hơn nữa. Mỗi lời khen sẽ là một chiếc Huân chương trên bảng thành tích “được công nhận” của các em. Chúng sẽ thấy mình có ích, mình đang tồn tại. Bạn sẽ sớm nhận ra lời khen có sức mạnh biến đổi con người.

Tuy nhiên theo cô Phương, điều đó không có nghĩa là giáo viên luôn khen ngợi HS của mình. Khi các em có hành vi sai trái, hãy góp ý – phê bình. Sự phê bình xuất phát từ lòng thiện tâm, từ mong muốn con thay đổi, sẽ giúp chúng biết sợ trước khi tiếp tục những hành vi sai trái. Đừng ngần ngại để HS biết: bạn đang thất vọng về mình như thế nào.

3. Hãy yêu thương học trò. Cô Phương trao đổi, giáo viên sẽ sớm nhận ra rằng, mọi lí do khiến HS trở nên cá biệt đều xuất phát từ những nguyên nhân bên ngoài, để rồi tạo ra những tổn thương sâu bên trong tâm hồn của đứa trẻ.

Phần lớn các em đều thiếu vắng tình yêu thương từ những người thân trong gia đình. Các em cô đơn và vô cùng khao khát tình yêu thương. Giáo viên chỉ cần trao đi một chút tình yêu của mình cho học trò, thì sẽ nhận được yêu thương vô điều kiện từ các em.

“Dostoevsky đã từng tin tưởng: Cái đẹp có thể cứu rỗi thế giới. Chẳng phải tình yêu thương chính là biểu hiện cao cả nhất của cái đẹp đó sao? Và hãy nhớ, trong hành trình trưởng thành sau này, những học sinh cá biệt luôn là những học sinh nhớ nhiều nhất tới những lời thầy cô đã dạy dỗ, bởi lẽ các em cảm nhận được tình yêu thương của thầy, cô trong mỗi bài học, thậm chí cả trong những hình phạt” – cô Phương bật mí.

4. Luôn nhớ: Bạn là tất cả. Theo kinh nghiệm của cô Phương, với học sinh cá biệt, để thầy, cô giáo trở thành chỗ dựa của lòng tin đồng nghĩa với việc thầy, cô phải trở thành tất cả như: Có thể thay thế cho cha mẹ; là chuyên viên tư vấn tình yêu; là y tá – biết băng bó vết thương nếu HS lao vào một cuộc ẩu đả, là bác sĩ tâm lí giúp các em thăng bằng sau những vết thương lòng…

Thầy, cô hãy sẵn sàng trả lời HS bất kể khi nào các em cần, thậm chí là 1-2 giờ sáng. Khi học trò tìm đến thầy, cô cũng là lúc các em cô đơn nhất, các cần một điểm tựa và thầy, cô hãy trở thành điểm tựa cho học trò của mình.

“Đó là lí do giáo viên nên chuẩn bị sẵn trong tủ đồ của mình một ít giấy lau, một vài cái kẹo, thậm chí cả … băng vệ sinh để đáp ứng bất kể nhu cầu nào của HS và để các em không kiếm được bất kể lí do nào phá phách hoặc bỏ trốn khỏi giờ học” – cô Phương chia sẻ.

5. Đừng xem các em là HS cá biệt. Cô Phương cho biết, nhiều giáo viên chia sẻ với cô rằng, trước khi nhận lớp, bao giờ họ cũng nghiên cứu kĩ hồ sơ, gặp giáo viên chủ nhiệm cũ của HS hoặc những người đã từng biết đế các em để tìm hiểu thật chi tiết về HS của mình.

Đó là một cách làm đúng, tuy nhiên, dẫu thầy, cô giáo không thừa nhận nhưng những thông tin tìm được trước đó vô tình “dán mác cá biệt” cho HS của mình. Trước khi tiếp cận những con người cụ thể, giáo viên đã mang sẵn tâm lí đề phòng: chúng là học sinh cá biệt , mình cần phải làm thế này, thế kia… Và ngay lập tức giáo viên vi phạm nguyên tắc công bằng.

“Tôi có cách làm khác và tôi thấy hiệu quả của việc làm này. Trước khi bước vào lớp, tôi mặc định rằng, tất cả HS giống nhau, đều là những đứa trẻ sẽ đồng hành cùng mình suốt một năm học. Việc của tôi là để chúng tự nói về mình.

Các em rất muốn mọi người nhìn mình như “những người bình thường” khác, không phải là học sinh cá biệt. Bởi vậy, hãy thay thế thuật ngữ học sinh cá biệt bằng học sinh đặc biệt, cần sự quan tâm chia sẻ nhiều hơn. Bạn sẽ thấy hiệu quả của nó” – cô Phương chia trao đổi.

“Không phải mọi điều tôi chia sẻ đều có thể áp dụng với tất cả mô hình lớp học và với tất cả những HS đặc biệt. Bởi lẽ điều thú vị nhất của sự nghiệp GD chính là việc chúng ta luôn được tiếp xúc với nhiều người khác nhau, mà ở đó mỗi một HS là một cá tính riêng. Sẽ có lúc chúng ta cảm thấy thất bại. Hãy chấp nhận thất bại và tiếp tục đứng lên để tìm ra được những phương pháp GD tối ưu nhất” – cô Lê Nga Phương.

Cập nhật thông tin chi tiết về Những Biện Pháp Hạn Chế Và Giáo Dục Học Sinh Cá Biệt trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!