Bạn đang xem bài viết Nghệ Thuật Văn Xuôi Của Truyện Ngắn “Lão Hạc” được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Phải đến khi truyện Lão Hạc khép lại, ta mới thấy ớn lạnh: thì ra toàn bộ câu chuyện là một cuộc chuẩn bị để chết của một con người! Lão Hạc cứ âm thầm làm nốt những phần việc cuối cùng của một kiếp người để rồi tự sát! Vậy mà cả ông giáo và người đọc đều không hề hay biết. Cái chết của lão là một cú giáng vào thói hồ đồ, hờ hững, cố chấp vẫn cầm tù chúng ta. Khi ta sáng mắt lên hiểu ra tất cả những tính toán lo liệu gàn dở lấn thẩn của lão Hạc, thực chất lại chứa đựng một phẩm chất người nguyên sơ, thuần khiết, cao quý vô ngần, thì đã muộn, đã quá muộn rồi! Bản lĩnh lớn của Nam Cao có lẽ ở đấy. Cứ viết về những cuộc đời nhỏ mọn tầm thường, cứ viết những chuyện vặt vãnh, tun mủn không đâu của cái đời thường tẻ nhạt, ngán ngẩm này thôi, thế mà nó có thề dằn vặt cuộc đời, có thể làm đau tất cả chúng ta. Bởi dưới ngòi bút của Nam Cao cái nhỏ nhặt không đâu vụt trở nên thăm thẳm, cái hàng ngày dễ quên lại chứa đựng cái muôn đời, phát hiện càng sâu sắc bao nhiêu lại càng truyền cảm bấy nhiêu. Viết về cái tầm thường mà làm sống dậy những ý nghĩa không thể xem thường, ấy là giải pháp nghệ thuật độc đáo của Nam Cao vậy.
Lão hiện ra tự nhiên quá đỗi, cứ như thấy thế nào tả thế ấy. chẳng gia công sắp đặt, bài binh bố trận gì. Mà chắp nối từ toàn những chuyện không đâu vào đâu: nào đắn đo về bán hay không bán con chó Vàng và mảnh vườn, chuyện ốm đau tiêu lạm vào số tiền góp nhặt, chắt, bóp, dành dụm được, nào chuyện thằng con đi xa có đến hàng năm chẳng giấy má gì… được kể nhân lúc hút thuốc lào vặt của hai ông hàng xóm, thế thôi. Ấy thế nhưng, lão hiện lên là nhờ một chùm tương quan được giấu kín trong cái mạch đầy vẩn vơ, tùy tiện ấy, tựa như một “hệ vi mạch” bí mật và hoàn hảo. Mỗi tương quan là một luồng sáng, chúng hội tụ về từ khắp phía giúp nhà văn làm rạng ngời lên chân dung lão Hạc. Lão được miêu tả song song với ông giáo để đối sánh, làm bật nổi lên tâm lí nông dân bên cạnh tâm lí trí thức. Tương quan với Binh Tư để tạo ra một sự đối chọi gay gắt: một người lương thiện đến mức thánh thiện, một kẻ bất lương đã đến thành lưu manh: người này muốn trọn đạo làm người thì phải chết, kẻ kia cố bám lấy cái sống thì phải thủ tiêu phẩm chất con người. Còn tương quan với nhân vật vơ ông giáo là để lão Hạc hiện rõ lên trong một phản lập khác: một người dù có khổ đến thế nào cũng không tiêu diệt được lòng nhân hạu, Vị tha; kẻ kia vì quá khổ đã sinh ra vị kỉ. Nhưng dẫu sao, những luồng sáng kia sẽ trở nên mờ nhạt không đáng kể, nếu như không có hai tương quan cuối cùng đem lại cho nhân vật cả đường nét, vóc dáng và linh hồn: lão với đứa con trai và với con cho Vàng.
Với đứa con trai duy nhất. Nam Cao nhìn ra ở người cha xác xơ, còm cõi này một tình phụ tử nguyên sơ và vĩnh cửu. Không phải lão không biết quý sinh mệnh cua mình. Tuy nhiên, có một thứ lão còn quý hơn: ấy là đạo làm người, làm cha! Đối với lão, sống dường như chỉ có một nghĩa: sống cho con! Hoàn cảnh cùng cực đẩy lão đến trước một lựa chọn nghiệt ngã: Muốn sống thì phải lỗi đạo làm cha (phải xâm phạm vào mảnh vườn – tài sản duy nhất đáng giá mà lão đêm ngày gìn giữ để bù trì tạo lập cho giọt máu duy nhất của mình để lại chơ vơ trên cõi đời này), còn muốn trọn đạo làm cha thì phải chết. Và lão đã quyên sinh. Cái chết của lão khiến ta đau đớn nhận ra tình phụ tử mộc mạc ấy mới thăm thẳm và mới thiêng liêng làm sao! Nó xui ta nhớ đến cha con Chử Cù Vân và Chử Đồng Tử.
Người cha hấp hối cứ một mực dành cho con cái khố độc nhất còn mình chết có vùi không trong đất lạnh cũng xong! Thì ra cái dòng máu ấy vẫn chảy âm thầm và bền bỉ trong trái tim mỗi người Việt Nam suốt mấy nghìn năm nay, nó là vẻ đẹp bất diệt của dân tộc này!
Nhưng không có con chó Vàng có lẽ truyện Lão Hạc không sâu lắng và cảm động đến thế. Dùng con vật như một đối sánh để khắc họa chân dung con người không còn là một thủ pháp nghệ thuật xa lạ nữa. Trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm Nam Cao, con chó đã thực sự là một tình tiết nghệ thuật đắt giá. Vậy mà ám ảnh hơn cả vẫn là cậu Vàng cùa ông lão này thôi, ở đây, con chó nào đâu chỉ sắm một vai truyện, cậu Vàng còn như một phần của lão Hạc. Liệu có thể hình dung đầy đù về lão Hạc không, nếu thiếu đi con chó ấy? Rõ ràng, Nam Cao có dụng ý đối chiếu ý thức sở hữu của anh trí thức và người nông dân. Ông giáo vô cùng quý những cuốn sách của mình. Nhưng với ông giáo, sách chỉ là một kỉ vật về một thời đầy mơ ước, và cũng chỉ thế thôi! Con chó Vàng với lão Hạc thì biết bao ý nghĩa. Nó là một tài sản (lão lẩm cẩm quy ra tiền), một vật nuôi (định bụng lúc cưới thằng con sẽ thịt), nó còn là kỉ vật của đứa con trai, một mối dây liên lạc lạ lùng giữa lão với đứa con vắng mặt. Song, phát hiện sâu sắc đến kì lạ của ngòi bút Nam Cao ở đây, vẫn là tư cách thứ tư của nó: một thành viên trong gia đình lão Hạc. Có một đứa con độc nhất thì đã bỏ lão mà đi. Sống cô quạnh trong một tuổi già trống trơ, lạnh lèo, lão có một nhu cầu rất tự nhiên: được làm cha, làm ông nội. Có bao nhiêu tình cảm chất chứa trong lòng, lão dồn hết vào con chó. Lão coi nó như một đứa con, rồi chăm chút cưu mang như một đứa cháu nội bé bỏng, côi cút: lão bắt rận, lão tắm, lão trò chuyện âu yếm, lão gọi là “cậu Vàng như bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự”, lão mắng yêu, lão cưng nựng, dấu dí. Cứ thế, ranh giới của sự phân đẳng người – vật (chủ sở hữu và vật bị chiếm hữu) đã bị xóa nhòa tự bao giờ. Dường như vật nuôi đã được người hóa. Ý thức chiếm hữu thông thường đã chuyển hóa, kết tinh thành một tình cảm thiết thân, máu thịt. Có phải đấy là bản tính tự nhiên xa xưa và bất diệt của con người? Bản tính ấy được và chỉ được bảo tồn nguyên vẹn trong những con người như lão Hạc? Và xem ra, chỉ khi nào con người tìm đến với những vật nuôi như cậu Vàng kia để thấy một sự chia sẻ và nương tưạ như là một đồng loại, khi ấy nó mới trở về với bản tính cội nguồn, về với cách sống thực sự nhân văn. Lão Hạc đã đến với con chó Vàng như thế! Cũng vì thế mà khi cuộc sống tàn ác buộc lão phải chà đạp, phải thủ tiêu quan hệ tình cảm này, lão đã rơi vào bi kịch. Lúc cùng đường, buộc phải trả con chó về địa vị thông thường của một vật nuôi, một tài sản, nghĩa là xóa bỏ tư cách một kỉ vật, một thành viên, một người bạn tận tụy trung thành, đối với lão là một tội tình không thể tha thứ. Lão coi đó là một sự lừa gạt phản phúc! Lão đã đau đớn, đã khóc như một đứa trẻ con. đã xưng tội trước ông giáo, những mong làm dịu bớt nỗi cào xé tâm can. Những giọt nước mắt của lão là những giọt nhân tính thanh khiết nhất mà cuộc vật lộn sinh tồn cứ lăm le cướp nốt của mỗi chúng ta! Rồi thì lão cũng dịu đi. Nhưng có lẽ không vì những lời an ủi của ông giáo. Nó tạm yên, chủ yếu vì lão cũng đang đi đến cái chết như cách lão giải thoát cho cậu Vàng thôi. Và thật kinh khủng, trên đời này có biết bao cách chết, vậy mà lão như muốn trừng phạt mình trước con chó Vàng yêu dấu: lão tự đánh bả chính mình! – Tự chọn cho mình một cái chết thê thảm của một con chó! Y như một sự chuộc tội, thanh minh với cậu Vàng của lão. Chao ôi! Có ngẫu nhiên không, khi Nam Cao viết cái kết cục đến với cậu Vàng là thằng Mục và thằng Xiên đè lên nó, kết cục với lão Hạc cũng là hai kẻ lực lưỡng đè trên lưng, còn lão thì rũ rượi, vật vã, sủi bọt? Một tương quan, thật tàn nhẫn, thật cay đắng! Con chó không chỉ làm hiện lên nguyên vẹn tính người tự nhiên sâu thẳng trong lão Hạc. Đằng sau đó, Nam Cao còn kín đáo kí thác một triết lí đau buồn về thân phận trớ trêu của con người trên mặt đất này.
Nội Dung Và Nghệ Thuật Trong Truyện Ngắn Hai Đứa Trẻ
a.Cốt truyện: HĐT là kiểu truyện dường như không có cốt truyện, cốt truyện khộng dựa trên những sự kiện, tình tiết mà dựa trên những diễn biến tâm trạng của nhân vật.
b. Về nhân vật: Không chú ý miêu tả ngoại hình và hành động mà quan tâm tới đời sống nội tâm, đời sống tình cảm.
c. Về miêu tả cành: Cảnh vật được miêu tả tinh tế với những hình ảnh, mầu sắc, âm thanh, mùi vị hòa quện vào nhau gợi cái hồn riêng của quê hương VN xưa. Đặc biệt hình ảnh bóng tối được gợi đi, gợi lại như một mô típ đầy ám ảnh. Cảnh lại được cảm nhận qua cái nhìn tâm trạng của nhân vật L: “Liên thấy”, “L mải nhìn”, “L nhớ lại”, “L tưởng”,” L lặng theo”.
L là thiếu nữ mới lớn, dịu hiền nhân hậu và đa cảm. Điều này có ý nghĩa đặc biệt vì nó làm cho cảnh vật thấm đượm cảm xúc, làm cho cảnh vật vốn đơn sơ, tẻ nhạt vẫn mang cai thi vị riêng của nó, làm cho TG được lạ hóa qua cảm tưởng, qua cảm giác của HĐT. Tương xứng với khung cảnh là tâm trạng và cảm xúc của nhân vật L như những nấc thanh tâm lí: L man mác buồn thương trước cảnh chiều tàn, L buồn khắc khoải và thấm thía hơn khi bóng đêm khi bóng đêm buông xuống, L buồn nuối tiếc, ngơ ngẩn mơ tưởng khát khao khi đoàn tầu đi qua. Cách miêu tả đoàn tầu từ xa đến gần, quan sát bằng nhiều giác quan: thính giác, thị giác và bằng nhiều sắc thái cảm giác: hồi ức, thực tại, tương lai.
Hình ảnh đoàn tầu tương phản với các cảnh vật nơi phố huyện càng thấm thìa niềm mong ước khiêm nhường mà trong sáng, tốt đẹp. Một nét tâm lí rất thật, rất điển hình của những người dân quanh quẩn nơi thôn quê nghèo xưa mà cuộc sống bị trim khuất, mỏi mòn trong tăm tối.
d. Về ngôn ngữ: Ngôn ngữ truyện giầu cảm xúc, giọng văn điềm tĩnh, nhẹ nhàng như ẩn chứa một tâm sự kín đáo có sức gợi và khơi sâu và cảm xúc người đọc. Nó như một thứ thơ bằng văn xuôi.
+ Truyện là một bức tranh chân thực và đượm buồn về một miền đất, một miền đời bị lãng quên: Một phố huyện nghèo xa vắng với phiên chợ nghèo xơ xác, tiêu điều; những ngọn đèn tù mù như đang lụi dần; những kiếp đời lụi tàn như mẹ con chị Tí, những đứa trẻ nghèo, gia đình bác Xẩm, bà cụ Thi điên và HĐT. Họ sống nghèo khổ, tăm tối như trim trong cái ao đời tù túng .Những cảnh vật qua ngòi bút của TL lại gợi cảm vô cùng.
+ Ngòi bút hiện thực của TL đậm chất trữ tình. TL đã viết bằng chính kí ức tuổi ấu thơ của mình gắn với phố huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. Mỗi chi tiết, hình ảnh đều chân thật, xúc động vô cùng.
+ Truyện thể hiện niềm thương cảm sâu sắc của nhà văn dành cho nhưng con người nhỏ bé, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội cũ. Ở mảnh đất đó, những số phận con người sống trong tăm tối, không biết tới niềm vui và hạnh phúc, họ cũng ước mơ nhưng ước mơ của họ thật nhỏ nhoi, tội nghiệp. Ước mơ chỉ là nhìn thấy con tầu qua phố huyện trong giây lát rồi phố huyện lại trim vào bóng tối. TL không chỉ thấu hiểu, thương cảm mà còn rung lên tiếng chuông cảnh tỉnh: những con người bé nhỏ, thiệt thòi dễ bị XH lãng quên và vùi lấp trong tăm tối, xã hội cần quan tâm đến họ. Họ có thể vô danh nhưng đừng để họ trở thành vô nghĩa.
+ Truyện khẳng định, đề cao ước mơ hạnh phúc, khát vọng đổi đời của con người. Thông điệp mà nhà văn muốn gửi đến với người đọc là tư tưởng nhân đạo sâu sắc này: Những con người phố huyện đêm đêm thức chờ đoàn tầu để được sống trong không khí sôi động và luồng ánh sáng rực rỡ. Dù con tầu chỉ xuất hiện trong giây lát nhưng cũng đủ khuấy lên một niềm mơ ước. HĐT thật đáng thương mà cũng thật đáng trọng: chúng đáng thường vì chúng như hai mầm cây mới lớn mà đã còi cọc trên mảnh đất khô cằn; chúng đáng trọng vì những mầm cây còi cọc ấy vẫn cố vươn lên, vẫn hi vọng đươm hoa, kết trái. Truyện HĐT đã đem đến trong lòng người đọc khát vọng yêu thương và tin tưởng vào cuộc sống.
+ HĐT còn là bước phát triển của tư tưởng nhân đạo của văn học 1930 – 1945. Đó là sự thức tỉnh ý thức cá nhân (VD Tỏa nhị Kiều – Xuân Diệu; Đời thừa – Nam Cao). HĐT đã tiếp tục tư tưởng nhân đạo này để bênh vực cho quyền sống tốt đẹp của những con người bé nhỏ, thiệt thòi.
Phân Tích Hệ Thống Các Biện Pháp Nghệ Thuật Thể Hiện Nhân Vật Chí Phèo Trong Truyện Ngắn “Chí Phèo”
Đề bài: Anh (chị) hãy vận dụng cách tiếp cận đối tượng theo quan điểm hệ thống để phân tích hệ thống các biện pháp nghệ thuật thể hiện nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao.
Bài làm
“Chí Phèo” là tác phẩm xuất sắc nhất của Nam Cao góp phần khẳng định tài năng và vai trò của ông trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Tác phẩm được coi là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt đổi mới về nghệ thuật trong nền văn xuôi nước nhà. Kể từ khi truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời cho đến nay đã thu hút rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nó trên nhiều lĩnh vực, từ chuyên ngành văn học hiện đại, văn học dân gian cho đến lí luận văn học. Đây còn là mảnh đất màu mỡ trong các lĩnh vực nghệ thuật khác như điện ảnh, hội họa,…Và, có lẽ nhân vật được bạn đọc biết đến nhiều nhất, ấn tượng nhất, yêu thích trong “Chí Phèo” nói riêng và các tác phẩm của Nam Cao nói riêng chính là Chí Phèo. Thậm chí, Chí Phèo còn vượt tầm thời đại , trở thành nhân vật đi cùng năm tháng trong nền văn học Việt Nam. Để có được sự thành công này không phải tự nhiên mà có. Vậy những yếu tố nào đã khiến cho Chí Phèo có sức hút và sức bền trong lòng độc giả như vậy? Đã có nhiều công trình, nhiều nhà nghiên cứu đã đi tìm hiểu về vấn đề này theo các phương pháp, các hướng tiếp cận khác nhau và việc tiếp cận đối tượng theo quan điểm hệ thống phân tích các biện pháp nghệ thuật thể hiện nhân vật cũng là một hướng đi được vận dụng rộng rãi trong văn chương.
Phương pháp hệ thống là phương pháp có đối tượng nghiên cứu là các hệ thống trong thiên nhiên hoặc xã hội, hoặc là một phương pháo dùng mô hình hệ thống để nghiên cứu các sự vật. Phương pháp sáng tác theo quan điểm hệ thống luôn xem các yếu tố trong quan hệ tương tác qua lại, chi phối lẫn nhau, yếu tố này dựa vào yếu tố kia để tạo nên chỉnh thể hệ thống. Các biện pháp nghệ thuật được Nam Cao sử dụng để thể hiện nhân vật Chí Phèo gồm có các yếu tố: tả , kể, đối thoại, độc thoại, tâm tình…Ta xét đến mối quan hệ tương tác qua lại giữa các yếu tố đó với nhau và rộng hơn với là kết cấu, ngôn từ của tác phẩm. Tất cả chúng cộng gộp, phối hợp một cách nhuần nhuyễn để tạo nên hình ảnh một Chí Phèo vô cùng sinh động.
Chí Phèo là nhân vật điển hình cho người nông dân bị lưu manh hóa , tiêu biểu cho số phận cực khổ của người nông dân bị đè nén bóc lột vừa tiêu biểu cho sự tha hoá phổ biến trong xã hội tàn phá tâm hồn con người – ngòi bút Nam Cao đã đạt tới một sức mạnh phê phán mãnh liệt, sâu sắc, ít có. Vẽ nên hình ảnh người nông dân lưu manh đầy thú tính, “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” hung hãn chuyên gây sự “giở toàn những giọng uống máu người không tanh”, Nam Cao đã miêu tả , ví con so sánh Chí Phèo với loài vật, đồ vật : “Hắn về lần này trông khác hẳn , mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế..“; ” Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay là ngoài bốn mươi ? Cái mặt hắn không trẻ cũng không già: nó không còn phải là mặt người: nó là mặt của một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi ? Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là vết sẹo…” Cái hình dạng xấu xí, dị dạng này không phải tự dưng từ lúc đẻ ra mà có, đây là lúc hắn mới đi tù về. Chí Phèo đã bị hoàn cảnh làm méo mó đến mất cả nhân hình. Không chỉ được miêu tả về cái hình dáng, nhà văn Nam Cao còn miêu tả hành động của hắn. Bắt đầu là từ tiếng chửi : ” Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời. Có hề gì ? Trời có của riêng nhà nào ? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Ðại… Ðã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này ? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo”. Tiếng chửi của một kẻ say rượu mở đầu cho một tác phẩm đã gợi cho người đọc sự tò mò. Tiếng chửi thoạt nghe như vô ý, tiếng chửi càn của kẻ bất mãn, của kẻ say nhưng lại vô cùng logic. Tiếp đó Nam Cao miêu tả một loạt hành động của Chí Phèo: đốt quán, rạch mặt ăn vạ, đòi tiền Binh Chức…Chí Phèo ngày càng trượt dài trên con đường tha hóa, trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến, vô tình phá hoại hạnh phúc bao gia đình mà không hay. Chí Phèo làm mất nhân hình lẫn cả nhân tính. Người đọc dễ dàng nhận ra điều ấy qua sự miêu tả các hành động của hắn. Nhìn Chí Phèo lúc này thì mấy ai nghĩ rằng trước đây hắn từng là một anh nông dân hiền lành, chất phác. Nam Cao lại sử dụng bút pháp miêu tả, chỉ một câu miêu tả trạng thái của Chí khi bóp đùi cho bà ba: “vừa bóp đùi cho bà ba vừa run run” mà cái bản chất hiền lành như đất của anh Chí trước đây hiện lên đầy đủ. Một kẻ suốt ngày chìm trong men say như Chí Phèo lại có lúc sợ rượu: “Hắn thấy nôn nao, chân tay bủn rủn như đến ba ngày nhịn đói. Thế mà bụng lại phinh phính đầy, hình như bụng hơi đau…..Đau thật, đau mỗi lúc một dữ! Nó cứ cuồn cuộn lên. À mà trời lành lạnh. Hễ có gió thì kinh kinh. Mỗi lần gió, hắn thấy rươn rướn người. chúng tôi đầu nặng quá mà chân thì lẩy bẩy. Mắt hắn hoa lên. Bụng quặn lại, đau gò người…”; “Hắn đờ hai mắt ra khẽ rên”. Tác giả miêu tả rất kĩ tình trạng , cảm nhận của Chí Phèo khi say rượu. Ông còn tả rất kĩ, rất đẹp cảnh sắc thiên nhiên “trời lành lạnh”, “trăng rắc bụi trên sông và sông gợn biết bao nhiêu vàng”. Đây là lần đầu tiên Chí Phèo được hưởng hạnh phúc, biết đến cuộc sống gia đình là như thế nào. Trước đây hắn chưa khi nào tỉnh, cũng chẳng muốn tỉnh: “Những cơn say cuả hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài mênh mông.. Chưa bao giờ hắn tỉnh.. để nhớ rằng có hắn ở trên đời.. Hắn cũng không biết hắn là con quỷ dữ làng Vũ Đại, tác quái cho bao nhiêu dân làng…”. Tỉnh làm gì rồi để thấy mình cô độc, để thấy mình đã bị cộng đồng đào thải, xa lánh. Có lẽ vì thế Nam Cao đã miêu tả rất chậm cái quãng thời gian ngắn ngủi năm ngày Chí Phèo, Thị Nở bên nhau, dùng những hình ảnh đẹp nhất tạo nên một bức tranh tình yêu và hạnh phúc, ấm áp của gia đình. Năm ngày so với thời gian của một đời người chẳng đáng là bao nhưng lại là quãng thời gian có ý nghĩa nhất với Chí Phèo. Con quỷ gớm ghiếc đó ai mà tin rằng cũng có những lúc lại mềm yếu, có những giây phút suy tư về cuộc đời mình, về những ước mơ một thuở xa xăm. Lần đầu tiên hắn tỉnh rượu kể từ khi ra tù:”hắn bâng khuâng như tỉnh dậy, hắn thấy miệng hắn đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!” Hiện tại lay thức lương tâm thành tiếng thở dài não nuột ” Chao ôi là buồn!”.. Một nỗi buồn đáng quý, bởi nó đã khơi lại những giấc mơ giản dị của một thời lương thiện: “Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm” . Nam Cao lại dùng những dòng miêu tả tâm lí nhân vật để làm nổi bật nên cái bản chất sâu xa từ bên trong của nhân vật, cho bạn đọc thấy được những biến đổi tinh tế trong tâm hồn “con quỷ” ấy.” Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt”. Chí Phèo đã có dấu hiệu của sự khao khát sống, sống như một con người đích thực. Hắn mong được trở về với nhân loại và dồn hết hi vọng nơi Thị Nở. Bát cháo hành giống như một liều thuốc kích thích khiến con quỷ trong hắn biến mất hoàn toàn. Chí Phèo từ ngạc nhiên chuyển sang cảm động. Đây là tâm lí của một người chưa bao giờ được yêu thương và nhất là bàn tay chăm sóc của một người phụ nữ. Rồi hắn thấy say thị, hắn thấy thị vậy mà lại có duyên, hắn thèm lương thiện, hắn cười nghe thật hiền… hắn khóc rồi làm nũng với Thị Nở như một đứa trẻ con… Qua việc miêu tả : miêu tả ngoại hình, hành động, tâm trạng của Chí Phèo, Nam Cao đã dựng lên hình ảnh một Chí Phèo sống động tới mức có thể sờ thấy, cảm thấy.
Những diễn biến tâm lí của Chí Phèo còn được làm sinh động và rõ ràng hơn qua hệ thống độc thoại. Ngay từ lúc đầu vào tác phẩm, tiếng chửi của Chí Phèo cũng có thể coi là một độc thoại, tuy chỉ có nội dung tiếng chửi, không cụ thể thành lời trong ngoặc kép. Tiếng chửi ấy đã cho thấy sự cô đơn, lạc loài của Chí Phèo sau 7, 8 năm ở tù ra. Rồi những suy nghĩ nội tâm khi hắn đến rạch mặt ăn vạ ở nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến dùng lời lẽ dụ hoặc: “hắn lại hơi ngần ngại: biết đâu cái lão cáo già này nó chả lại lừa hắn và nhà rồi lôi thôi ? Ồ mà thật, có thể như thế lắm! Này nó hãy lôi ngay mấy cái mâm cái nồi hay đồ vàng, đồ bạc ra khoác vào cổ hắn, rồi cho vợ ra kêu làng lên rồi cột cổ hắn vào, chần cho một trận om xương, rồi vu cho là ăn cướp thì sao ? Cái thằng bá Kiến này, già đời đục khoét, còn đớp cái nước gì mà phải chịu lép như trấu thế ? Thôi dại gì mà vào miệng cọp, hắn cứ đứng đây này, cứ lăn ra đây này, lại kêu toáng lên xem nào. Nhưng nghĩ ngợi một tí, hắn lại bảo: kêu lên cũng không nước gì! Lão bá vừa nói một tiếng, bao nhiêu người đã ai về nhà nấy, hắn có lăn ra kêu nữa, liệu có còn ai ra ? Vả lại bây giờ rượu nhạt rồi, nếu lại phải rạch mặt thêm mấy nhát thì cũng đau. Thôi cứ vào! Vào thì vào, cần quái gì. Muốn đập đầu thì vào ngay giữa nhà nó mà đập đầu còn hơn ở ngoài. Cùng lắm, nó có giở quẻ, hắn cũng chỉ đến đi ở tù. Ở tù thì hắn coi là thường. Thôi cứ vào”…Đặc biệt, độc thoại tâm tưởng diễn ra khi mà “thị ngoay ngoáy cái mông đít bỏ đi” về với bà cô thị sau năm ngày sống chung với Chí Phèo. Hắn nghĩ sẽ ” tự phải đến cái nhà con đĩ Nở kia. Ðến để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó. Nếu không đâm được, lúc ấy hãy đập đầu kêu làng” rồi hắn tự nói “Tao phải đâm chết nó!“. Ở đây, sự nhập thân của tác giả vào tâm trạng nhân vật bộc lộ những suy nghĩ nội tâm, sự đau khổ nghiệt ngã của một con người bị đẩy vào bước tha hóa, lưu manh hóa nhưng không chịu tha hóa đến cùng, muốn trở lại làm người lương thiện nhưng phải trả bằng cái giá rất đắt: chính là mạng sống của mình. Hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh, hắn nhận ra bi kịch cuộc đời mình rõ hơn bao giờ hết. Tiếng khóc bật ra , hắn ôm mặt khóc rưng rức. Hắn ngửi thấy hơi cháo hành. Chí Phèo đã đặt niềm tin rất lớn vào Thị Nở có thể cứu vớt hắn thoát khỏi kiếp sống như một con quỷ bị mọi người xa lánh. Nhưng Thị Nở đã cự tuyệt hắn, từ chối hắn, niềm tin đổ vỡ, đó là nỗi đau không gì bù đắp nổi trong hắn. Miêu tả tâm lí nhân vật cùng với độc thoại , độc thoại nội tâm được tài hoa của nhà văn Nam Cao kết hợp ăn ý từ đó giúp khắc họa nên bản chất tính cách thực của nhân vật đồng thời giúp thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn.
Nói đến độc thoại thì không thể không nhắc đến đối thoại trong truyện ngắn “Chí Phèo”. Có các đoạn đối thoại giữa Chí Phèo – Bá Kiến, Chí Phèo – người bán rượu, Chí Phèo – Tam Lãng, Chí Phèo – Thị Nở. Và, ngôn ngữ mà Nam Cao sử dụng trong các đoạn đối thoại cũng góp một phần không kém quan trọng làm nên thành công cho tác phẩm. Ngôn ngữ giữa các nhân vật được lựa chọn phù hợp với tính cách từng nhân vật. Ngôn ngữ của bọn Bá Kiến, Lí Cường là ngôn ngữ của bọn bề trên khi mềm mỏng khi đanh rắn rất biến hoá. Ngôn ngữ của các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở thì rất quê mùa có khi là tục tằng thô lỗ. Nhìn chung tác phẩm viết về đề tài người nông dân nên ngôn ngữ mà tác giả sử dụng trong tác phẩm là loại ngôn ngữ bình dân chân quê, rất phù hợp với cảnh và tình của tác phẩm.
Bá Kiến cũng dõng dạc hỏi:— Anh Chí đi đâu đấy ?Hắn chào to:— Lạy cụ ạ. Bẩm cụ… Con đến cửa cụ để kêu cụ một việc ạ! Giọng hắn lè nhè và tiếng đã gần như méo mó. Nhưng bộ điệu thì lại như hiền lành; hắn vừa gãi đầu gãi tai, vừa lải nhải:— Bẩm cụ từ ngày cụ bắt đi ở tù, con lại sinh ra thích đi ở tù, bẩm có thế, con có nói gian thì trời tru đất diệt, bẩm quả đi ở tù sướng quá! Ði ở tù còn cơm để mà ăn, bây giờ về làng về nước, một thước cắm dùi không có, chả làm gì nên ăn. Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi ở tù… Những đoạn đối thoại giữa các nhân vật góp phần rất lớn trong việc thể hiện tính cách nhân vật. Bá Kiến hiện rõ là một con cáo già khôn ranh. Chí Phèo thì lộ rõ bản chất của một tên lưu manh chỉ biết rạch mặt ăn vạ. Khi đối thoại với Thị Nở, lúc này tâm lí, tính cách các nhân vật có sự chuyển biến, ngôn ngữ giữa các nhân vật cũng vô cùng thân mật, đáng yêu, rõ giọng điệu quan tâm, làm nũng của những kẻ đang yêu :
— Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế anh cần gì ?Hắn dõng dạc:— Tao muốn làm người lương thiện !Bá Kiến cười ha hả:— Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.Hắn lắc đầu:— Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách… biết không ! Chỉ có một cách là… cái này biết không ! Nam Cao đã để cho Chí trong giờ phút ấy cất lên những lời đau đớn : ” Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những vết mảnh chai trên mặt này?”. Đó là nỗi đau đớn của một người đã bị chặn mất nẻo về với thế giới thân thuộc của Con Người, bởi những định kiến khắt khe của xã hội.
Với một truyện ngắn thì nhắc đến nghệ thuật của nó ta không thể bỏ qua nghệ thuật kể chuyện, xây dựng tình huống truyện. Nam Cao sử dụng kết cấu vòng tròn để kể lại trọn vẹn câu chuyện cuộc đời Chí Phèo. Mở đầu là hình ảnh Chí bị bỏ rơi trong chiếc váy đụp, mặt xám ngắt bên cái lò gạch cũ. Hai mươi tuổi đi làm thuê cho nhà Bá Kiến, hứng chịu cơn ghen tuông của Bá Kiến và nỗi nhục bị bắt bóp chân, bóp lên mãi cho bà ba. Hắn vào tù, khi trở về làng thì hắn biến thành một con quỷ. Chí Phèo gặp Thị Nở và cuộc tình năm ngày chóng vánh đã cho hắn trở lại làm người, trở lại thành anh Chí hiền lành của năm nào. Thế nhưng, Thị Nở đã từ chối hắn, những định kiến đã ngăn không cho hắn trở về thành Con Người. Hắn vác dao đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Và kết thúc lại là hình ảnh cái lò gạch cũ hiện ra một lần nữa. Hình ảnh đấy sức liên tưởng về một thế hệ Chí Phèo con sẽ ra đời, lại cũng sẽ có một Bá Kiến nào khác nếu như xã hội không thay đổi.
Ở khúc ngoặt thứ nhất, nhà văn đã đưa ra hai hình tượng Năm Thọ và Binh Chức – những nhân vật phụ không trực tiếp tham gia vào diễn biến câu chuyện – để làm sáng tỏ nhiều điều. Trong lời kể nhẩn nha, những nhân vật này như tiện thể được nhắc đến, nhưng thực chất, vai trò giải thích, cắt nghĩa của chúng đã được phát huy tối đa. Nếu như nhân vật Năm Thọ ngầm lý giải đầy đủ cho cái nguyên cớ Chí Phèo bị đẩy vào tù (cái nguyên cớ vốn rất mù mờ trong con mắt người dân làng Vũ Đại), thì nhân vật Binh Chức lại rọi sáng cái quá trình biến chất của Chí Phèo. Nhờ sự xuất hiện của những nhân vật ngoài cốt truyện ấy mà tính tất yếu trong mọi biến cố của số phận nhân vật chính được bộc lộ sắc nét, rõ ràng hơn. Từ hai nhân vật bên lề của truyện Chí Phèo, ta càng hiểu rõ hơn điều mà Roland Bathes khẳng định khi nghiên cứu cấu trúc truyện kể: “Chỉ có một con đường duy nhất: hoặc trong văn bản, mọi thứ đều có ý nghĩa hoặc không có ý nghĩa nào hết… Trong tác phẩm nghệ thuật không có yếu tố thừa, cho dù sợi chỉ xâu chuỗi đơn vị cốt truyện với các đơn vị khác có thể rất dài, mong manh hay mảnh mai”.
Ở bước ngoặt thứ hai, tất cả bắt đầu từ tình huống gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở – một tình huống có tính quyết định cho sự đột biến. Tình huống gặp gỡ này thoạt nhìn có vẻ là hoàn toàn ngẫu nhiên, nhưng quan sát kỹ, ta sẽ thấy Nam Cao đã ngầm chuẩn bị khá chu đáo mọi phương diện.
Qua việc tiếp cận đối tượng theo quan điểm hệ thống, đi vào lần lượt các biện pháp nghệ thuật mà nhà văn Nam Cao đã sử dụng để thể hiện nhân vật Chí Phèo, các nét tính cách, sự chuyển biến trong tâm hồn, cuộc đời, số phận nhân vật đã hiện lên một cách rõ ràng và sinh động. Cái chân thật đến ngỗ ngược rồi cả đáng yêu của Chí Phèo được bạn đọc cảm nhận và ghi lại ấn tượng về một nhân vật văn học đặc sắc, một nông dân tha hóa điển hình. Chí Phèo xứng đáng trở thành nhân vật được bạn đọc mọi thời đại yêu thích.
Phong Cầm Diendankienthuc.net
Phân Tích Giá Trị Của Các Biện Pháp Nghệ Thuật Trong Truyện Lão Hạc
C1 : Phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật và cái nhìn nhân đạo của nhà văn Nam Cao qua truyện ngắn ” Lão Hạc”. TL : Nhắc đến Nam Cao là nhắc đến cây bút truyện ngắn hiện thực xuất sắc đẩu thế kỉ XX của văn học Việt Nam. Qua các tác phẩm viết về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945, Nam Cao đã bộc lộ một cái nhìn nhân đạo, đầy yêu thương, trân trọng về những người đồng bào lao khổ của mình. Tư tưởng ấy cũng được thể hiện sâu sắc qua truyện ngắn Lão Hạc . Giá trị nhân đạo của tác phẩm trước hết được khẳng định qua tấm lòng đồng cảm của nhà văn đối với những số phận bất hạnh của các nhân vật trong tác phẩm. Những con người trong tác phẩm này đều là nạn nhân của xã hội phong kiến nửa thực dân. Họ phải gồng mình chống lại nạn đói, những hủ tục phong kiến,… Và mỗi người lại có những nỗi khổ riêng. Nhân vật chính, lão Hạc, là một người có hoàn cảnh vô cùng bi đát. Vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất bỏ đi cao su. Một mình lão phải đối mặt với tuổi già, bệnh tật, cái đói và sự cô đơn. Nhà văn hay chính là nhân vật ông giáo trong tác phẩm đã không nén được những lời thương cảm: “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”. Con trai lão Hạc cũng là một người đáng thương. Vì nhà nghèo, anh không lấy được người con gái mình yêu. Phẫn chí, anh bỏ làng đi cao su, cái đất cao su “đi dễ khó về”, “khi đi trai tráng khi về bủng beo”. Anh rời cha già luôn mấy năm, thiên truyện khép lại nhưng hình bóng anh người đọc cũng chưa được mục kích, câu hỏi về số phận của anh đành rơi vào câm lặng… Ông giáo, một nhân vật có uy tín ở làng, trong thời buổi ấy cũng túng thiếu dặt dẹo, đang sống cái đời “sống mòn”, “rỉ ra, mốc lên”. Có thể nói, “Lão Hạc” đã thể hiện lòng thương, sự đồng cảm với tất thảy những lớp người bần cùng trong xã hội Việt Nam khi ấy. Nhưng sống trong nghèo đói mà không bị cái bần hàn bài mòn nhân phẩm, đó là một đặc điểm đáng quý của người nông dân Việt Nam. Và một biểu hiện quan trọng khác của giá trị nhân đạo trong tác phẩm là nhà văn đã biết khám phá để nâng niu trân trọng và ngợi ca phẩm chất ngời sáng trong tâm hồn những người đồng bào lao khổ của mình. Các nhân vật trong “Lão Hạc” hầu hết đều là những người giàu tình thương. Tình phụ tử ở nhân vật lão Hạc đặc biệt cảm động. Dù rất đau lòng nhưng lão chấp nhận nỗi cô đơn hờn tủi, đồng ý để con trai ra đi theo chí hướng của mình. Con đi rồi, lão chỉ còn con chó Vàng làm bạn. Lão Hạc yêu con chó Vàng đến độ gọi nó là “cậu” Vàng, ăn gì cũng cho nó ăn cùng, cho nó ăn ra bát như người… Có điều đó không đơn giản bởi lão là người yêu động vật. Hãy nghe lời tâm sự của lão với ông giáo: con chó ấy là của cháu nó để lại. Vậy là lão Hạc yêu con Vàng phần lớn bởi đó là kỉ vật duy nhất do con để lại. Lão đã dồn toàn bộ tình cha cho con chó ấy. Khi bán con Vàng, “lão khóc như con nít”, “mắt ầng ậng nước”…. Không chỉ vậy, lão thậm chí còn chấp nhận cái chết để giữ đất cho con. Cái đói rượt lão gần đến đường cùng. Vẫn còn một lối nhỏ khác là bán mảnh vườn để lấy tiền ăn nhưng lão nghĩ rằng: đó là mảnh vườn của mẹ cháu để lại cho cháu… Và lão chọn cái chết chứ nhất quyết không bán đất của con. Con trai lão Hạc vì phẫn chí mà đi cao su nhưng trước khi đi vẫn để lại cho cha ba đồng bạc. Cả ông giáo, dẫu gia đình vẫn bữa đói bữa no nhưng luôn cố gắng giúp đỡ, cưu mang người hàng xóm bất hạnh… Sống trong cái đói, cái nghèo nhưng không bị sự bần hàn làm cho quay quắt, hèn mọn, điều đáng quý nhất ở người nông dân Việt Nam trước Cách mạng là lòng tự trọng sáng ngời trong nhân phẩm. Lão Hạc thà nhịn đói chứ không chịu ăn không dù chỉ là củ khoai củ sắn của hàng xóm. Lão đã có thể bán vườn lấy tiền chống chọi với cái đói nhưng lão không làm vậy vì nhất quyết không ăn vào của con. Lão cũng có thể chọn con đường như Binh Tư đi đánh bả chó lấy cái ăn. Và lão không hề làm vậy. Con người ấy, đến lúc chết vẫn còn lo mình làm phiền hàng xóm nên dành dụm gửi gắm ông giáo tiền làm ma. Cảm động hơn cả là nỗi lòng quặn thắt của lão sau cái chết của con Vàng. Lão dằn vặt bởi nghĩ mình “đã đi lừa một con chó”. Lão Hạc ơi! Ẩn bên trong cái hình hài gầy gò, già nua của lão là một tâm hồn cao thượng và đáng trân trọng biết bao nhiêu! Đồng cảm với số phận của người lao động, đặc biệt là người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, đồng thời ngợi ca những phẩm chất cao quý của họ là những biểu hiện quan trọng của giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao. Viết về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, giọng văn Nam Cao lạnh lùng, bàng quan nhưng ẩn sâu trong đó là một tình thương sâu sắc và mãnh liệt. C2 : Chắc là phân tích phép tu từ, nghe mấy bà con cô bác khối 8 đi thi HSG Văn nói vậy ._. Chiệc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướm thân trắng bao la thâu góp gió TL:
* Về nội dung:– Chỉ nghệ thuật so sánh: “Chiếc thuyền hăng như con tuấn mã”.– Tác dụng”+ Diễn tả thật ấn tượng khí thế băng tới dũng mãnh của con thuyền ra khơi. + Toát nên sức sống mạnh mẽ, vẻ đẹp hùng tráng của con thuyền, đó cũng chính là khí thế lao động đầy hứng khởi, dạt dào sức sống của người dân làng chài.– Chỉ ra nghệ thuật nhân hóa được thể hiện qua các từ ngữ: “im, mỏi, trở về, nằm, nghe”.Tác dụng của biện pháp nhân hóa: + Biến con thuyền vô tri, vô giác trở nên sống động, có hồn như con người. + Các từ “im, mỏi, trở về, nằm” cho ta cảm nhận được giây phút nghỉ ngơi thư giãn của con thuyền, giống như con người, sau một chuyến ra khơi vất vả cực nhọc, trở về. + Từ “nghe” gợi cảm nhận con thuyền như một cơ thể sống, nhận biết chât muối của biển đang ngấm dần, lặn dần vào da thịt của mình; cũng giống như những con người từng trải, với con thuyền, vị muối càng ngấm vào nó thì nó như càng dày dạn lên. Hình ảnh con thuyền vất vả cực nhọc đống nhất với với cuộc sống người dân chài.* Về hình thức: Có sự liên kết đối chiếu làm nổi bật sự khác nhau trong hình ảnh con thuyền ở mỗi khổ thơ. Diễn đạt mạch lạc, trong sáng, không sai, mắc các lỗi câu.
Cập nhật thông tin chi tiết về Nghệ Thuật Văn Xuôi Của Truyện Ngắn “Lão Hạc” trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!