Xu Hướng 3/2023 # Một Số Giải Pháp Phát Triển Làng Nghề Truyền Thống Ở Tỉnh Quảng Ninh Hiện Nay * Tóm Tắt: – Trường Đại Học Hạ Long # Top 7 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Một Số Giải Pháp Phát Triển Làng Nghề Truyền Thống Ở Tỉnh Quảng Ninh Hiện Nay * Tóm Tắt: – Trường Đại Học Hạ Long # Top 7 View

Bạn đang xem bài viết Một Số Giải Pháp Phát Triển Làng Nghề Truyền Thống Ở Tỉnh Quảng Ninh Hiện Nay * Tóm Tắt: – Trường Đại Học Hạ Long được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Hiện nay, làng nghề truyền thống tại Quảng Ninh đang góp phần tạo ra công việc, thu nhập cho nhiều hộ gia đình trong tỉnh. Tuy nhiên, làng nghề cũng đang gặp phải những khó khăn, thách thức về nguồn vốn, quy mô sản xuất, thị trường hay vấn đề ô nhiễm môi trường, đầu tư công nghệ… Vì vậy, việc đưa ra một số giải pháp cụ thể sẽ giúp làng nghề truyền thống xây dựng được hướng đi hiệu quả và phát triển được trong xu hướng hội nhập quốc tế.

Th.s Lê Thanh Hoa, GV khoa Văn hóa

 1.Đặt vấn đề

 Quảng Ninh được đánh giá là một tỉnh có nhiều đột phá mạnh mẽ về các chính sách phát triển kinh tế trong cả nước. Bên cạnh đó, khi nói tới mảnh đất này, chúng ta không quên nhắc tới Quảng Ninh với nhiều giá trị văn hóa truyền thống lịch sử, danh lam thắng cảnh và những lễ hội đậm đà bản sắc dân tộc. Hiện nay, với chính sách phát triển kinh tế “chuyển từ nâu sang xanh”, tỉnh đang tập trung nghiên cứu, đầu tư các nguồn lực cho việc gìn giữ, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương. Trong đó, việc khai thác, phát triển làng nghề truyền thống đang trở thành một hướng đi hiệu quả. Tuy nhiên, thực tế cho thấy một số làng nghề truyền thống tại Quảng Ninh hiện nay đang gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì hoạt động, định hướng thị trường, khả năng cạnh tranh và giải pháp cho phát triển lâu dài. Đứng trước nhiều khó khăn và thách thức trên, việc đưa ra những giải pháp cụ thể sẽ giúp bảo tồn, phát huy, phát triển làng nghề truyền thống được hiệu quả hơn.

    Nội dung

    Một số khái niệm và tiêu chí công nhận làng nghề truyền thống

    Theo nghị định số 52/2018/NĐ-CP, ban hành ngày 12 tháng 4 năm 2018 về “phát triển ngành nghề nông thôn” thì nghề truyền thống và làng nghề truyền thống được hiểu như sau:

    – Nghề truyền thống là nghề đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền.

    – Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn.

    – Làng nghề truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời.

    Vậy từ đây, ta có thể hiểu làng nghề là 1 thiết chế kinh tế – xã hội ở nông thôn, được tạo bởi hai yếu tố “làng và nghề”, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định. Trong đó, bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống từ nguồn thu chủ yếu từ nghề thủ công, giữa họ có mối liên kết về kinh tế, xã hội và văn hóa. Đa số những người hoạt động tại làng nghề thường là thủ công, tiểu thủ công nghiệp, vì thế những sản phẩm làm ra thường mang đậm dấu ấn tay nghề, óc sáng tạo của con người trong từng sản phẩm.

    Cũng căn cứ theo điều 5 của nghị định số 52/2018/NĐ-CP, các nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống muốn được công nhận thì phải đạt các tiêu chí sau:

    * Tiêu chí công nhận nghề truyền thống:

    a) Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm và hiện đang tiếp tục phát triển tính đến thời điểm đề nghị công nhận.

    b) Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc.

    c) Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.

    * Tiêu chí công nhận làng nghề:

    a) Có tối thiểu 20% tổng số hộ trên địa bàn tham gia một trong các hoạt động hoặc các hoạt động ngành nghề nông thôn quy định tại Điều 4 Nghị định này.

    b) Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 02 năm liên tục tính đến thời điểm đề nghị công nhận.

    c) Đáp ứng các điều kiện bảo vệ môi trường làng nghề theo quy định của pháp luật hiện hành.

    * Tiêu chí công nhận làng nghề truyền thống:

    Làng nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề quy định tại khoản 3 Điều này và có ít nhất một nghề truyền thống theo quy định tại khoản 2 Điều này.

    Làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện nay

    Hiện nay, tính đến cuối năm 2017, cả nước có 5.407 làng nghề đang hoạt động, trong đó số làng nghề được công nhận theo tiêu chí làng nghề hiện nay của Chính phủ là 1.748, thu hút hơn 10 triệu lao động và mang lại giá trị kim ngạch xuất khẩu khoảng 1,7 tỉ USD/năm.

    Những năm qua, sản phẩm từ các làng nghề truyền thống đã mang lại nhiều lợi nhuận, góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước, nâng cao đời sống cho người dân. Không chỉ vậy, sản phẩm từ các làng nghề truyền thống còn thể hiện việc giữ gìn, bảo tồn những nét văn hóa đặc sắc của vùng miền, dân tộc. Đặc biệt, nhiều làng nghề bị thất truyền trong lịch sử thì nay đã được khôi phục, phát triển trở lại.

    Nói tới Quảng Ninh, hiện tỉnh đang có khoảng 20 làng nghề lớn nhỏ, trong đó nổi bật lên hoạt động của một số làng nghề truyền thống như: làng nghề đan ngư cụ Hưng Học tại phường Nam Hoà; đóng tàu, thuyền vỏ gỗ Cống Mương, phường Phong Hải của TX Quảng Yên; làng nghề nuôi cấy ngọc trai, đánh bắt thuỷ hải sản huyện Vân Đồn; làng nghề gốm sứ Đông Triều… Với quy mô phát triển của những làng nghề đã giúp đem lại công việc cho khoảng 15.000 lao động địa phương, chiếm khoảng 5% tổng số lao động nông thôn. Giá trị sản xuất của những làng nghề đạt bình quân trên 250 tỷ đồng/năm, chiếm tỷ trọng khoảng 29% giá trị sản xuất công nghiệp bình quân của các địa phương. Có thể nhận thấy, việc khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống đã giúp khôi phục lại không gian văn hóa làng, tạo công ăn việc làm, thu nhập ổn định cho nhiều hộ dân trong vùng.

    Bên cạnh những thành công về phát triển làng nghề thì hiện nay, các làng nghề truyền thống cũng không tránh khỏi câu chuyện gặp rất nhiều khó khăn trong cơ chế thị trường, phải cạnh tranh với nhiều sản phẩm, thương hiệu hàng hóa công nghiệp. Một số vấn đề chung mà các làng nghề truyền thống ở Quảng Ninh đang gặp như:

    – Quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún: Thực trạng này đang tồn tại không chỉ ở Quảng Ninh nói riêng mà các làng nghề cả nước cũng đang mắc phải. Đa số, nguồn tài chính đầu tư cho quy mô vốn chưa nhiều, chỉ mới dừng lại ở con số khiêm tốn là vài chục triệu, vài trăm triệu hoặc trên dưới vài tỉ đồng. Quy mô vốn nhỏ, làng nghề lại xuất phát phổ biến từ hộ gia đình nên quy hoạch mặt bằng sản xuất cũng không thể đầu tư lớn, mặt bằng sản xuất chật hẹp, không trang sắm được thiết bị sản xuất mới, hiện đại. Ví dụ như làng nghề đan ngư cụ Hưng Học, làng nghề đóng tàu thuyền vỏ gỗ ở Quảng Yên, làng nghề gốm sứ Đông Triều…

    Tuy nhiên, đối với làng nghề truyền thống thì việc chưa hình thành được quy mô sản xuất lớn lại đến từ một lý do khác mang yếu tố tâm lý cá nhân, đó là tâm lý sợ bị ăn cắp mẫu mã, bí quyết sản xuất khi nhân rộng việc truyền nghề cho người lao động. Vì vậy, việc truyền nghề truyền thống đôi khi chỉ dừng lại trong mối quan hệ họ hàng, huyết thống. Đây là câu chuyện cũng đòi hỏi các tổ chức quản lý và đơn vị sản xuất luôn luôn quan tâm, hiểu biết hơn về việc xây dựng và bảo hộ thương hiệu đối với sản phẩm.

    – Công nghệ sản xuất chưa hiện đại: Hiện nay, các làng nghề truyền thống ở Quảng Ninh chủ yếu sản xuất thủ công bằng tay, các thiết bị máy móc đơn giản và hầu như cập nhật chậm chạp yếu tố công nghệ vào sản xuất. Ví dụ như làng nghề gốm sứ Đông Triều, với đặc thù là các sản phẩm đôn, chậu, lục bình… to, lớn nên phải nung ở nhiệt độ cao tuy nhiên, đến nay các hộ gia đình, doanh nghiệp vẫn sử dụng công nghệ sản xuất cũ là đốt bằng lò bầu, dùng chất đốt than, củi. Trên địa bàn hiện chỉ có Công ty TNHH Quang Vinh nổi bật nhất khi đã nghiên cứu và được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt Dự án “Hoàn thiện quy trình công nghệ và dây chuyền thiết bị sản xuất gốm sứ mĩ nghệ cao cấp ở quy mô công nghiệp”.

    – Doanh nghiệp, cơ sở sản xuất chưa được hưởng chế độ, chính sách ưu đãi trong việc tiếp cận nguồn vốn, mở rộng quy hoạch sản xuất. Đây là vấn đề đang tồn tại ở các làng nghề truyền thống như đóng tàu thuyền ở Quảng Yên, gốm sứ Đông Triều và nhiều làng nghề khác.

    – Sản phẩm chưa đa dạng về mẫu mã, kiểu dáng; hoạt động marketing còn hạn chế. Có thể thấy, các sản phẩm của làng nghề truyền thống chủ yếu được sản xuất thủ công, khá đơn điệu và lặp đi lặp lại kiểu những kiểu dáng mẫu mã truyền thống, chưa tạo nên sự sáng tạo, mới lạ. Ví dụ như mặt hàng gốm sứ Đông Triều chủ yếu vẫn là đôn, chậu cảnh, bình, lư..; làng nghề ngư cụ Hưng Học là lờ, đó, dậm hoặc thuyền nan; đến như làng nghề ngọc trai ở Vân Đồn với cơ sở sản xuất hiện đại cũng đang xuất khẩu thô sản phẩm vớí giá trị kinh tế chưa cao. Và hiện nay, một thực tế để có thể tăng nhanh đầu ra cho sản phẩm chính là hoạt động marketing thì các làng nghề truyền thống cũng ít quan tâm hoặc làm chưa tới. Hầu hết, việc sản xuất gói gọn trong nhu cầu sinh hoạt sử dụng, doanh nghiệp chưa đầu tư cho việc nghiên cứu thị trường, cải tiến mẫu mã, đa dạng sản phẩm, giá cả và xây dựng kế hoạch marketing phù hợp.

    – Môi trường sản xuất ô nhiễm: Môi trường là vấn đề nhức nhối hiện nay ở tất cả các cơ sở sản xuất làng nghề. Câu chuyện chưa quy hoạch được địa bàn sản xuất và ý thức kém của mỗi hộ dân lao động đều ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường. Có thể kể đến làng nghề đóng tàu thuyền gỗ ở Quảng Yên, làng nghề gốm sứ ở Đông Triều hiện nay vẫn sử dụng phương thức sản xuất truyền thống nên ảnh hưởng lớn đến môi trường xung quanh. Nếu người dân hoặc khách tham quan đi đến gần nơi sản xuất của làng nghề sẽ thấy rất nhiều hình ảnh của khói bụi, rác sản xuất, nguồn nước ô nhiễm. Quảng Ninh là một tỉnh có nguồn tài chính đầu tư mạnh về yếu tố công nghệ cho việc bảo vệ môi trường tuy nhiên, hoạt động của các làng nghề truyền thống hiện nay cũng đang ảnh hưởng chung đến hình ảnh du lịch của tỉnh. Vì vậy, các cấp quản lý và hộ sản xuất cũng phải nghiên cứu, tìm giải pháp bảo vệ môi trường làng nghề truyền thống khẩn trương để không gặp câu chuyện đau lòng như ở Nghệ An, 67 làng nghề được liệt kê trong danh sách những làng nghề không khuyến khích tiếp tục phát triển trong thời gian tới.

    Giải pháp cho phát triển làng nghề truyền thống của tỉnh trong giai đoạn hiện nay

    Quảng Ninh là địa phương có số lượng làng nghề truyền thống ít so với các tỉnh, thành phố trong cả nước. Tuy nhiên, số lượng ít nhiều không quan trọng mà trên hết là cần tạo hướng đi, phát triển bền vững cho các làng nghề truyền thống để đem lại công việc, thu nhập, phát triển kinh tế chung cho toàn tỉnh. Đứng trước những thực trạng của làng nghề truyền thống hiện nay, chúng ta nên tập trung vào một số hướng giải pháp sau:

    – Tuyên truyền, giáo dục để người dân hiểu được vai trò của việc kế thừa, phát triển nghề truyền thống là nhiệm vụ, trách nhiệm các cá nhân, cộng đồng trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Đặc biệt là đối tượng thanh thiếu niên, khi các em không còn sự yêu thích, đam mê với các công việc tay chân truyền thống thì càng cần phải tuyên truyền cho các em hiểu được ý nghĩa, mục đích tốt đẹp của hoạt động truyền nghề. Điều này không chỉ góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú cho các giá trị văn hóa địa phương mà còn tạo công việc, thu nhập, phát triển kinh tế cho cộng đồng nhân dân.

    – Mở các lớp dạy nghề, các lớp đào tạo về kĩ năng, công nghệ của người lao động tiếp cận, học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm sản xuất. Hiện nay, hầu hết lao động ở các làng nghề là lao động phổ thông, được truyền nghề từ các nghệ nhân lớn tuổi nên đôi khi tính hội nhập chưa được phát huy. Vì vậy, việc mở các lớp đào tạo về thiết kế, marketing doanh nghiệp, kĩ năng bán hàng, ứng dụng công nghệ… là điều vô cùng cần thiết trong thời kì công nghiệp 4.0.

    – Đa dạng mẫu mã, sản phẩm, chất lượng làng nghề để kích thích, thu hút khách hàng mua sản phẩm. Để có thể làm được việc này thì các làng nghề truyền thống phải thường xuyên học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, kiến thức, kĩ năng để sáng tạo ra nhiều hàng hóa bền đẹp, đa dạng kiểu cách. Hiện nay, hầu hết các sản phẩm tại làng nghề Quảng Ninh chưa được đầu tư thiết kế, làm mới sản phẩm hay tạo ra những sản phẩm khác biệt, hấp dẫn người mua mà chủ yếu là cách sản xuất truyền thống, mẫu mã truyền thống, hay xuất khẩu thô với giá trị chưa cao. Vì vậy, việc kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong 1 sản phẩm để đáp ứng được nhu cầu khách hàng là điều rất cần thiết.

    – Nâng cao hiểu biết và ứng dụng marketing vào việc tiêu thụ sản phẩm. Giải pháp này có lẽ không mới đối với các làng nghề truyền thống nhưng việc hiểu và ứng dụng, làm tốt các bước trong hoạt động marketing thì các doanh nghiệp truyền thống đang rất vụng về. Và có thể, một số doanh nghiệp, hộ dân cũng chưa quan tâm tới hoạt động này vì hiện tại, sản phẩm vẫn đang tiêu thụ được hoặc tiêu thụ chậm và đầu tư nguồn tài chính cho marketing cũng tốn kém nên họ không làm để bảo toàn nguồn vốn của mình. Vậy nên, bản thân chính quyền, doanh nghiệp, hộ dân cần tìm hiểu và thấy được vai trò vô cùng quan trọng của marketing để kích thích tiêu thụ.

    – Xây dựng và phát triển làng nghề truyền thống thành thương hiệu sản phẩm hàng hóa và thương hiệu du lịch của tỉnh. Việc làm này giúp cho du khách khi đến với Quảng Ninh, họ sẽ không chỉ biết đến Vịnh Hạ Long, Chùa Yên Tử, Ẩm thực hấp dẫn… mà còn biết tới Quảng Ninh với các giá trị văn hóa làng nghề độc đáo, đặc sắc của vùng biển Đông Bắc. Ví dụ như các làng nghề ở Quảng Nam, làng nghề ở Hà Nội, làng nghề, làng nghề ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tâm lý chung của khách du lịch và đặc biệt là khách du lịch nước ngoài rất thích tìm hiểu, khám phá các giá trị văn hóa độc đáo tại nơi tham quan. Và làng nghề truyền thống sẽ là một kênh kết nối hiệu quả cho sự phát triển của du lịch tỉnh.

    – Hoạt động sản xuất song song với hoạt động bảo vệ môi trường làng nghề truyền thống. Môi trường là câu chuyện trăn trở, bức xúc của tất cả các làng nghề ở Việt Nam hiện nay và tỉnh Quảng Ninh cũng rất lo lắng cho câu chuyện ô nhiễm tại các làng nghề truyền thống. Bởi vậy, đi đôi với hoạt động sản xuất, các doanh nghiệp, hộ dân cũng cần có ý thức bảo vệ môi trường làm việc và môi trường cộng đồng xung quanh. Từ đó góp phần tạo nên không gian làng nghề an toàn cho mọi người cùng phát triển sản xuất và đồng thời, cơ hội giới thiệu, quảng bá cho làng nghề truyền thống sẽ đạt hiệu quả hơn.

      Kết luận

      Tóm lại, xây dựng và phát triển làng nghề truyền thống là một việc làm cần thiết và chung tay của các cấp chính quyền và cộng đồng xã hội. Việc làm này không chỉ giúp bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương mà đồng thời, nó cũng tạo ra nguồn thu kinh tế cho tỉnh. Vì vậy, trong bất kì chính sách nào ban hành về hoạt động sản xuất ở giai đoạn hiện nay cũng cần quan tâm, hỗ trợ nhiều hơn để người lao động luôn tự hào, tâm huyết với nghề và phát triển được kinh tế gia đình bằng nghề truyền thống.

      Phạm Bích Huyền-Đặng Hoài Thu (2014), Các ngành Công nghiệp Văn hóa, Nxb Lao động, Hà Nội.

      Nguyễn Thị Lan Thanh (2012), Marketing văn hóa nghệ thuật, NXB Lao Động, Hà Nội.

      Kế thừa và phát huy thương hiệu gốm Đông Triều, (2009), Báo Quảng Ninh – số 7257 – ngày 29/04/2009.

      Lịch sử hình thành huyện Đông Triều – Quảng Ninh (1995), Quảng Ninh.

      Nguyễn Đức Tý (2006), Kinh tế xã hội Quảng Ninh, Sở Văn hoá thông tin, Quảng Ninh.

      Bùi Văn Vượng (2002), Làng nghề truyền thống Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin.

      Báo Quảng Ninh (2016), Hướng đi nào cho bảo tồn và phát huy giá trị các làng nghề truyền thống, http://baoquangninh.com.vn, truy cập ngày 10/4/2019.

      Báo Quảng Ninh (2017), Giải pháp phát triển bền vững làng nghề truyền thống, http://baoquangninh.com.vn, truy cập ngày 10/4/2019.

      Báo Nhân dân (2016), Phát triển nuôi cấy ngọc trai thành ngành công nghiệp, http://www.nhandan.com.vn, truy cập ngày 08/4/2019.

      Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Làng Nghề Truyền Thống Tại Tiền Giang

      Khắc phục những yếu kém

      Tìm và xác định nguyên nhân khiến các làng nghề truyền thống lâm vào cảnh khó khăn để cùng tìm hướng tháo gỡ và đầu tư để phát triển là việc làm cấp thiết hiện đang được các cấp, các ngành trong tỉnh quan tâm. Thời gian qua, Chi cục Phát triển nông thôn đã tham mưu UBND tỉnh ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh.

      Thực hiện chính sách này, hàng năm, chi cục làm việc với các địa phương có làng nghề về tình hình đầu tư, phát triển làng nghề, tình hình sản xuất kinh doanh, nắm những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động của các làng nghề để tham mưu đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn.

      Hướng dẫn địa phương thành lập tổ chức đại diện cho làng nghề như tổ hợp tác, hợp tác xã để làm đầu mối tổ chức sản xuất, cung ứng nguyên liệu, thu mua, tiêu thụ, quảng bá sản phẩm cho làng nghề và tiếp nhận các chính sách hỗ trợ của nhà nước; hướng dẫn các làng nghề xây dựng kế hoạch đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng, lồng ghép vào đồ án quy hoạch, đề án xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã.

      Sở NN&PTNT đã tổ chức cho các hợp tác xã, doanh nghiệp trong làng nghề như: Nón bàng buông Thân Cửu Nghĩa; dệt chiếu Long Định; tủ thờ Gò Công; Hợp tác xã Quang Minh tham gia Hội chợ triển lãm “Làng nghề Việt Nam năm 2013” tại Huế. Qua đó, giúp cho các cơ sở làng nghề giao lưu trao đổi thông tin, giới thiệu và quảng bá các sản phẩm, tạo điều kiện mở rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh.

      Trong năm 2014, ngành chức năng sẽ đầu tư xây dựng mới hệ thống xử lý nước thải tập trung ở các làng nghề có nguy cơ gây ô nhiễm cao như: bánh phồng Cái Bè, bánh tráng Hậu Thành, bánh bún hủ tiếu Mỹ Tho. Tổ chức đào tạo 9 lớp dạy nghề, với 285 lao động để nâng cao tay nghề tại các làng đan lát ở ấp Tân Hội, xã Tân Phong (huyện Cai Lậy); làng nghề bó chổi Hòa Định, xã Hòa Định (huyện Chợ Gạo); làng nghề dệt chiếu Long Định, xã Long Định (huyện Châu Thành); làng nghề truyền thống thủ công mỹ nghệ xã Tân Lý Đông (huyện Châu Thành).

      Đào tạo nâng cao kiến thức sản xuất, kinh doanh và hội nhập cho chủ doanh nghiệp, cơ sở trong làng nghề. Hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở làng nghề tham gia các hội chợ, triển lãm, quảng bá sản phẩm làng nghề trong và ngoài tỉnh. Hỗ trợ đăng ký nhãn hiệu hàng hóa cho sản phẩm làng nghề như: bánh tráng Hậu Thành, bánh phồng Cái Bè, dệt chiếu Long Định, sản phẩm thủ công mỹ nghệ Tân Lý Tây; đẩy mạnh quảng bá 2 làng nghề đã được công nhận nhãn hiệu là làng nghề bánh bún hủ tiếu và làng nghề truyền thống tủ thờ Gò Công.

      Tổ chức cho cơ sở làng nghề Tủ thờ Gò Công, làng nghề Chạm khắc gỗ Lương Hòa Lạc tham quan, học tập kinh nghiệm tại các doanh nghiệp sản xuất, chế biến sản phẩm từ gỗ hoặc các làng nghề có cùng sản phẩm ở các tỉnh bạn.

      Ngoài ra, tỉnh cũng có kế hoạch đầu tư 5 máy cắt, máy liên hợp, máy hơi cho làng nghề đan lát Tân Phong, với kinh phí 70 triệu đồng; 40 máy dệt chiếu cho làng nghề dệt chiếu Long Định, với kinh phí 1,2 tỷ đồng; 5 máy tráng bánh công nghệ mới cho làng nghề bánh tráng Hậu Thành, với kinh phí 150 triệu đồng; đầu tư 500 triệu đồng để nâng cấp và cải tiến trang thiết bị cho làng nghề bánh phồng Cái Bè; nghiên cứu thực hiện dự án chế tạo máy tuốt que dừa cho làng nghề bó chổi que dừa Hòa Định; đầu tư 1,5 tỷ đồng mua máy móc, thiết bị chạm khắc cho làng nghề chạm khắc gỗ Lương Hòa Lạc.

      Tỉnh cũng đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất trong làng nghề có điều kiện phát triển, giao lưu hàng hóa giữa các vùng, địa phương trong cả nước; góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và xây dựng nông thôn mới. Ưu tiên đầu tư hệ thống đường giao thông, công trình cấp thoát nước, nâng cấp hệ thống điện ở các làng nghề trên địa bàn tỉnh.

      Bên cạnh đó, tỉnh sẽ hỗ trợ vốn vay cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, hộ trong làng nghề để đầu tư máy móc, thiết bị, xây dựng nhà xưởng, mua nguyên liệu. Đề nghị hỗ trợ vốn tín dụng cho các làng nghề trên 4,7 tỷ đồng.

      Tuyên truyền, vận động các cơ sở, hộ trong làng nghề tham gia mô hình kinh tế tập thể theo hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã để có pháp nhân làm đầu mối tổ chức sản xuất, cung ứng nguyên liệu, thu mua, tiêu thụ và quảng bá sản phẩm ở các làng nghề: chạm khắc gỗ Lương Hòa Lạc, đan lát Tân Phong, bó chổi Hòa Định, bánh phồng Cái Bè, bánh tráng Hậu Thành, chế biến thủy sản Vàm Láng.

      Giải pháp để “vực dậy” làng nghề

      Theo Quy hoạch phát triển làng nghề Tiền Giang giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến năm 2020, mục tiêu hàng đầu là khôi phục và khuyến khích phát triển làng nghề một cách bền vững, gắn với quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới.

      Phát triển làng nghề phải gắn với thu hút và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn theo hướng công nghiệp và dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho nông dân; đồng thời gắn với bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa địa phương thông qua các sản phẩm phục vụ phát triển du lịch, cũng như bảo vệ môi trường sinh thái bền vững.

      Để bảo tồn và phát triển có hiệu quả những làng nghề truyền thống, thiết nghĩ cần triển khai đồng bộ các giải pháp như: khẩn trương rà soát, khảo sát xây dựng quy hoạch tổng thể về phát triển ngành nghề nông thôn nằm trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh; tổ chức lập quy hoạch chi tiết xây dựng làng nghề, ngành nghề nông thôn phù hợp nhằm khai thác, phát huy những ngành nghề lợi thế của từng vùng, từng địa phương. Muốn phục hồi và duy trì phát triển bền vững của các làng nghề thì vấn đề quan trọng nhất là nguồn kinh phí.

      Theo Đề án phát triển làng nghề thì chúng ta từng bước củng cố, phát triển các nghề, làng nghề hiện có; du nhập nghề mới nhằm tạo thêm việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn.

      Cụ thể, tỉnh sẽ đầu tư 141,1 tỷ đồng (giai đoạn 2011-2015), đầu tư 296,8 tỷ đồng (giai đoạn 2016-2020) để bảo tồn và phát triển làng nghề; phát triển làng nghề gắn với du lịch, tỉnh đầu tư 26,5 tỷ đồng (giai đoạn 2011-2015), đầu tư 66,6 tỷ đồng (giai đoạn 2016-2020); phát triển nghề mới giai đoạn 2011-2015 là 31 tỷ đồng, giai đoạn 2016-2020 trên 50 tỷ đồng.

      Theo đánh giá của Chi cục Phát triển nông thôn, các dự án thuộc chương trình này khi được triển khai sẽ góp phần thúc đẩy phát triển ngành du lịch của tỉnh. Do đó, một số dự án được lồng ghép với “Chương trình phát triển du lịch” của tỉnh như: Khu du lịch cù lao Thới Sơn, Đồng Tháp Mười, Cù lao Tân Phong, Công viên du lịch Vĩnh Tràng, du lịch sinh thái vườn, sông nước…

      Nằm trong chương trình đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển ngành nghề nông thôn, tỉnh còn đầu tư 22,4 tỷ đồng (giai đoạn 2011-2015), 44,8 tỷ đồng (giai đoạn 2016-2020) để đào tạo cán bộ quản lý; đầu tư 35,8 tỷ đồng (giai đoạn 2011-2015), trên 64 tỷ đồng (giai đoạn 2016-2020) để đào tạo và tập huấn kỹ thuật cho người lao động; đầu tư 67,1 tỷ đồng (giai đoạn 2016-2020) để hỗ trợ các cơ sở đào tạo nghề ở nông thôn; đầu tư 19,2 tỷ đồng (giai đoạn 2016-2020) để tổ chức hội thi các tay nghề giỏi.

      Bên cạnh đó, tỉnh còn đầu tư 172,3 tỷ đồng (giai đoạn 2016-2020) để ứng dụng, đổi mới khoa học công nghệ trong các lĩnh vực ngành nghề nông thôn; đầu tư 206,7 tỷ đồng (giai đoạn 2016-2020) để xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm ngành nghề, làng nghề nông thôn. 

      Hy vọng, với những đầu tư và có lộ trình cụ thể của các ngành chức năng, làng nghề truyền thống ở tỉnh ta sẽ tồn tại và phát triển để giữ lại cho thế hệ mai sau những tinh hoa văn hóa của dân tộc.

      Nguồn: baoapbac.vn BTV Hồng Nhung

       

      Thực Hiện Các Giải Pháp Phát Triển Làng Nghề

      Trong quá trình CNH, HĐH, sản phẩm của các làng nghề chịu sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, việc tìm giải pháp để phát triển bền vững các làng nghề là cần thiết…

      Năm 2005 làng nghề rèn Tất Tác, xã Tiến Lộc (Hậu Lộc) đã được quy hoạch thành cụm làng nghề rèn cơ khí Tiến Lộc với diện tích hơn 3,5 ha. Bên lò lửa rực hồng, anh Kiều Văn Quang, chủ cơ sở rèn Quang Tân, cho biết: Có thời gian, các sản phẩm làng nghề rèn gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm do phải cạnh tranh với các mặt hàng cùng chủng loại được nhập từ các nước như Thái Lan, Trung Quốc… Không những thế, mẫu mã của các sản phẩm này đa dạng, giá thành lại rẻ hơn. Cũng theo anh Quang, để duy trì và phát triển nghề truyền thống của gia đình, anh đã nghiên cứu, đầu tư máy móc, áp dụng khoa học – kỹ thuật để tiết kiệm chi phí đầu vào, giảm giá thành sản phẩm, lại không độc hại cho người lao động và bảo vệ môi trường; sản phẩm tạo ra có chất lượng và mẫu mã đẹp. Những khâu gia công yêu cầu nhiều sức lao động đã được máy móc thay thế, như: Rèn bằng búa máy… Nhờ vậy, số lượng và chất lượng sản phẩm đã được nâng lên rõ rệt. Cũng theo anh Quang, nhờ đầu tư máy móc, nhiều gia đình trong làng nghề đã mở rộng sản xuất với quy mô lớn.

      Ông Phạm Anh Khoa, Chủ tịch UBND xã Tiến Lộc, cho biết: Hiện nay, trên địa bàn xã Tiến Lộc có gần 1.500 hộ phát triển nghề rèn, tạo việc làm cho khoảng 2.500 lao động với thu nhập từ 4 đến 5 triệu đồng/tháng. Để phát triển làng nghề bền vững, bên cạnh hỗ trợ người dân về kỹ thuật rèn, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, UBND xã còn tích cực tuyên truyền, kêu gọi người dân thay đổi phương thức sản xuất từ thủ công sang máy móc, công nghệ hiện đại. Theo đó, toàn xã hiện có 6 tổ hợp máy cán rút thép, 20 xưởng sản xuất bánh lồng, 300 máy búa… Phát triển của các loại máy móc đã kéo theo sự thay đổi về hình thức sản xuất theo hướng chuyên môn hóa, liên kết sản xuất. Hiện nay, mỗi ngày người thợ rèn Tiến Lộc có thể mài hàng trăm con dao chất lượng cao cùng với rất nhiều các sản phẩm khác để bán rộng rãi trên khắp cả nước và xuất khẩu đi các nước Thái Lan, Lào, Campuchia… Nhờ hiệu quả kinh tế mang lại mà đời sống của người dân địa phương ngày càng được nâng lên.

      Hiện nay, một số làng nghề đang phát triển mạnh tại các địa phương trong tỉnh, như: Làng nghề đúc đồng Trà Đông, xã Thiệu Trung (Thiệu Hóa); làng nghề mây tre đan, xã Hoằng Thịnh, làng nghề mộc Đạt Tài, xã Hoằng Đạt, làng nghề nước mắm Khúc Phụ, xã Hoằng Phụ (Hoằng Hóa)… Tuy đa dạng, phong phú về số lượng, nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để bảo tồn và phát triển các làng nghề, sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường để tiếp tục tồn tại và phát triển. Khó khăn của các làng nghề truyền thống hiện nay là nguồn vốn đầu tư cho sản xuất còn hạn chế, hoạt động chủ yếu dựa trên kinh nghiệm cha truyền con nối, mang tính thủ công là chính nên chưa đầu tư máy móc thiết bị, thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực cũng đang là một bài toán khó đối với các làng nghề vì đa phần người lao động chọn làm công nhân ở các doanh nghiệp vì có nguồn thu nhập ổn định. Đồng thời, việc liên kết giữa các cơ sở, các làng nghề còn nhiều hạn chế, chủ yếu là kinh doanh hộ, ít mô hình doanh nghiệp và HTX.

      Đại diện lãnh đạo Chi cục Phát triển nông thôn Thanh Hóa cho biết: Nhận rõ thực trạng ấy, những năm gần đây, các cơ quan chức năng đã có một số biện pháp thiết thực tạo động lực cho phát triển làng nghề, như: Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển làng nghề gắn với xây dựng nông thôn mới; tăng cường nguồn vốn hỗ trợ xây dựng hạ tầng cụm công nghiệp, bảo tồn và phát triển làng nghề, kết hợp sản xuất gắn với du lịch làng nghề nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư. Bên cạnh đó, cần hỗ trợ các doanh nghiệp, cơ sở trong làng nghề ứng dụng khoa học – kỹ thuật, cải tiến thiết bị, đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Mở rộng quy mô đào tạo và đa dạng các hình thức dạy nghề nhằm tạo ra những người có trình độ sản xuất, kinh doanh giỏi, có khả năng tiếp nhận những nghề mới, khuyến khích các nghệ nhân, thợ giỏi dạy nghề, truyền nghề. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các làng nghề, cụm công nghiệp tham gia hoạt động xúc tiến thương mại để quảng bá các sản phẩm truyền thống của địa phương, các hội chợ triển lãm, khai thác thị trường tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, đơn giản hóa thủ tục vay vốn để các hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác trong lĩnh vực ngành nghề nông thôn được tiếp cận vốn để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh.

      Bài và ảnh: Lê Ngọc

      Luận Văn Phân Tích Chiến Lược Và Một Số Giải Pháp Nhằm Phát Triển Kinh Tế Làng Nghề Ở Tỉnh Thái Bình

      Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới kinh tế do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, giúp chúng ta đi tắt, đón đầu, tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước khác, đó là đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đậi hoá đất nước. Một trong những nội dung quan trọng của công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước là công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Lịch sử nông thôn Việt Nam gắn liền với phát triển nông nghiệp và các làng nghề. Đây là một trong những nét đặc trưng về truyền thống kinh tế, văn hoá của xã hội của nông thôn Việt Nam. Sự phát triển kinh tế làng nghề gắn liền với ngành nghề truyền thống, với trung tâm cụm, xã có các hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phi nông nghiêp. Theo đường lối chiến lược đó các làng nghề là một thực thể kinh tế ở nông thôn, là cầu nối giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa nông thôn và thành thị, giữa truyền thống và hiện đại, là một bộ phận, là một nấc thang phát triển quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá nông thôn. Việc đẩy mạnh các phát triển các làng nghề nói riêng và ngành nghề nông thôn nói chung có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tạo việc làm, tăng thu nhập, thu hẹp và tiến tới xoá bỏ đói nghèo, chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Tuy nhiên sự phát triển của các làng nghề, ngành nghề nông thôn đã trải qua những bước thăng trầm, có nhiều làng nghề đã tồn tại và phát triển khá mạnh, đồng thời còn lan toả sang các khu vực lân cận, tạo nên các cụm làng nghề, dần dần xuất hiện sự phân công chuyên môn hoá. Ngược lại có những làng nghề phát triển cầm chừng, không ổn định, gặp nhiều khó khăn, thậm chí đã và đang bị mai một. Chính vì thế việc thúc đẩy và khôi phục phát triển kinh tế làng nghề trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết. Đây là việc làm phù hợp với đường lối, chủ trương phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp, diện tích chật hẹp, dân số đông, tỷ lệ lao động nông thôn lớn. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, một trong số những trọng tâm cần tập trung đầu tư để tạo ra bước đột phá về tăng trưởng kinh tế là phát triển mạnh mẽ nghề và làng nghề. Đây cũng là một thế mạnh của tỉnh cần phải duy trì và phát triển, đúng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVI đã đề ra. Thời gian vừa qua đã có một số đề tài nghiên cứu về kinh tế làng nghề ở các phạm vi khác nhau, từng vùng hay từng tỉnh và nghiên cứu trên những khía cạnh, giác độ khác nhau. Song việc vận dụng các vấn đề lý luận về xây dựng chiến lược kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, việc áp dụng các mô hình phân tích chiến lược vào việc định hướng và phát triển kinh tế làng nghề thì chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách hệ thống. Mặt khác trong bối cảnh hiện nay chúng ta đang tăng tốc để thu hẹp khoảng cách về phát triển kinh tế so với các nước, chủ động hội nhập khu vực và toàn cầu. Việc nghiên cứu các giải pháp để phát triển công nghiệp nông thôn nói chung và kinh tế làng nghề nói riêng cần được tiếp tục. Xuất phát từ thực tế đó tôi đã chọn đề tài nghiên cứu : “Phân tích chiến lược và một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế làng nghề ở tỉnh Thái Bình”.

      Cập nhật thông tin chi tiết về Một Số Giải Pháp Phát Triển Làng Nghề Truyền Thống Ở Tỉnh Quảng Ninh Hiện Nay * Tóm Tắt: – Trường Đại Học Hạ Long trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!