Xu Hướng 10/2023 # Một Số Giải Pháp Phát Triển Bền Vững Ngành Điện Việt Nam — Website Công Ty Cổ Phần Thủy Điện Miền Trung # Top 12 Xem Nhiều | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Một Số Giải Pháp Phát Triển Bền Vững Ngành Điện Việt Nam — Website Công Ty Cổ Phần Thủy Điện Miền Trung # Top 12 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Một Số Giải Pháp Phát Triển Bền Vững Ngành Điện Việt Nam — Website Công Ty Cổ Phần Thủy Điện Miền Trung được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Một số giải pháp phát triển bền vững ngành Điện Việt Nam

Để đảm bảo phát triển ngành Điện lực Việt Nam bền vững trong giai đoạn từ nay đến năm 2030, cần tập trung nỗ lực vào việc tăng cường khai thác tiềm năng sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, kiên định theo đuổi kịch bản tăng trưởng phát thải ít carbon và thúc đẩy đầu tư phát triển các dự án năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió, mặt trời và sinh khối.

8 đề xuất hoàn thiện Đề án điều chỉnh Quy hoạch điện VII

TS. NGUYỄN MẠNH HIẾN – Hội đồng Khoa học VEA

Phát triển điện lực nói riêng và phát triển năng lượng nói chung có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước. Vì vậy, để đảm bảo phát triển điện lực bền vững cần nghiên cứu triển khai các giải pháp chủ yếu sau:

Khai thác tiềm năng sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả

Có thể nói đây là giải pháp hữu hiệu nhất mà nhiều nước trên thế giới áp dụng, nhằm giảm nhu cầu điện năng để từ đó giảm chi phí đầu tư vào phát triển nguồn lưới cung cấp điện, giảm tác động xấu đến môi trường sinh thái (giảm phát thải ô nhiễm, chiếm dụng đất đai…) và giảm giá thành điện năng…

Theo nghiên cứu, đánh giá của một số chuyên gia năng lượng trong nước và quốc tế, giải pháp sử dụng năng lượng hiệu quả có thể giảm nhu cầu điện năng của cả nước khoảng 11-12% vào năm 2030.

Ví dụ: giả sử, tổng sản lượng điện yêu cầu của toàn quốc năm 2030 bình thường được dự báo khoảng 500 tỷ kWh, thì khi có tính đến khả năng thực khai thác tiềm năng sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, sản lượng điện có thể giảm được là khoảng 55-60 tỷ kWh (nghĩa là nhu cầu tổng sản lượng phát điện năm 2030 chỉ còn là 440 – 445 tỷ kWh), tương ứng giảm yêu cầu bổ xung công suất nguồn phát điện khoảng 9 đến 10 ngàn MW trong giai đoạn 2023-2030, kèm theo một khối lượng đáng kể lưới điện truyền tải và phân phối từ nguồn đến phụ tải điện. Tổng chi phí vốn đầu tư tiết kiệm được theo giải pháp ước tính tới vài trục tỷ USD.

Theo đuổi kịch bản phát triển năng lượng phát thải ít carbon

Khí carbon dioxyt (CO2) phát thải từ việc đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than trong năng lượng và dầu mỏ trong giao thông vận tải) được coi là tác nhân chính gây nên hiệu ứng nhà kính làm trái đất nóng lên. Vì vậy, hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới trong chiến lược phát triển của mình đều hết sức quan tâm đến cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu và theo đuổi các kịch bản tăng trưởng phát thải ít carbon. Đối với nước ta, hiện tại và trong tương lai, lượng phát thải CO2 từ các nhà máy nhiệt điện than chiếm tỷ trọng rất lớn, tiêu thụ than có thể lên đến trên dưới 100 triệu tấn vào năm 2030, trong khi đó lượng than khai thác trong nước có khả năng cung cấp cho sản xuất điện dự báo chỉ có thể hạn chế khoảng 40 triệu tấn/năm, khoảng 2/3 lượng than còn lại sẽ là than nhập.

Để đáp ứng yêu cầu giảm phát thải khí CO2, cần phải nghiên cứu xem xét giảm tỷ trọng cac nhà máy nhiệt điện than trong cơ cấu phát triển nguồn điện mà thay thế bằng các nguồn không/ít phát thải carbon như: tăng cường tỷ trọng nguồn điện từ năng lượng tái tạo và nhập khẩu; xây dựng các nhà máy điện nguyên tử và các nhà máy điện sử dụng khí hóa lỏng…

Việc giảm tỷ trọng nguồn nhiệt điện than còn có ý nghĩa hết sức quan trọng, là giảm bớt sự phụ thuộc quá nhiều vào nguồn than nhập khẩu, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.

Tăng cường phát triển nguồn điện từ năng lượng tái tạo

Như trên đã nêu, giải pháp hữu hiệu và chủ động nhất để bù đắp lượng nhiệt điện than suy giảm trong cơ cấu phát triển nguồn điện theo kịch bản tăng trưởng phát thải ít carbon là tăng cường phát triển nguồn điện từ năng lượng tái tạo, mà chủ yếu là thủy điện nhỏ, sinh khối, gió và mặt trời. Thời gian qua, trong các loại nguồn này, ngoài nguồn thủy điện nhỏ đã có truyền thống phát triển từ lâu và đang được tiếp tục duy trì tại các tỉnh miền núi, các loại nguồn khác vẫn chưa được quan tâm đúng mức về các cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển và ưu đãi trợ giá bán điện. Tuy nhiên, từ nay trở đi việc đầu tư phát triển các dự án điện từ năng lượng tái tạo sẽ có được các điều kiện thuận lợi, vì các lý do cơ bản sau:

Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định “Phê duyệt chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050”, trong đó đã nêu lên định hướng phát triển các dự án điện sinh khối, gió và mặt trời đến gần 90 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng khoảng 15% tổng sản lượng phát điện vào năm 2030. Chiến lược cũng đề xuất các cơ chế chính sách về ưu tiên, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các dự án năng lượng tái tạo, về xây dựng giá bán điện, đảm bảo thu hồi chi phí đầu tư và lợi nhuận hợp lý đối các dự án năng lượng tái tạo nối lưới.

Ngoài ra, theo nghiên cứu, đánh giá của các chuyên gia năng lượng quốc tế, chi phí đầu tư các dự án điện từ năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió và mặt trời có xu hướng ngày càng giảm mạnh, dẫn tới giá thành điện năng các dự án gió, mặt trời hoàn toàn có thể cạnh tranh được tại một số thị trường, ngay cả khi không có trợ giá và không chỉ vì có nguồn tài nguyên tốt. Theo khảo sát đánh giá của chuyên gia Ngân hàng Thế giới – Ts. Pierre Audinet trong báo cáo “Khảo sát con đường phát triển phát thải ít carbon cho Việt Nam” tại Hội nghị “Định hình tương lai phát triển bền vững điện lực Việt Nam”, Đà Nẵng, tháng 11/2023, hiện tại điện mặt trời trên mái nhà rẻ hơn giá điện bán lẻ tại ít nhất 11 quốc gia, điện gió cũng cạnh tranh được với điện than tại các nước: Australia, Chile, Mexico, New Zealand, Thổ Nhĩ Kỳ.

Tại một số nước hoặc khu vực có điện gió, mặt trời, giá cụ thể như sau: Ai Cập, giá điện gió 4cent/kWh; Ấn Độ, tại một số khu vực giá điện gió ở mức 6-10 cent/kWh, so với điện than là 5-8 cent/kWh; Brazil, điện gió 4,5 cent/kWh, rẻ hơn bất kỳ nguồn năng lượng nào khác; Hoa Kỳ, điện gió ở mức 5-8 cent/kWh, rẻ hơn nhiệt điện than mới; Nam Phi, điện gió 7 cent/kWh, rẻ hơn 30% so với nhiệt điện than mới; Các tiểu Vương quốc Ả Rập Thống Nhất (UAE), điện mặt trời 5,6 cent/kWh.

Kết luận

Để đảm bảo phát triển ngành Điện lực Việt Nam bền vững trong giai đoạn từ nay đến năm 2030, cần tập trung nỗ lực vào việc tăng cường khai thác tiềm năng sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và sinh hoạt; kiên định theo đuổi kịch bản tăng trưởng phát thải ít carbon trong Quy hoạch phát trển Điện lực với quy định bắt buộc áp dụng công nghệ than sạch (công nghệ lò hơi siêu tới hạn) đối với các dự án nhiệt điện than mới và thúc đẩy đầu tư phát triển các dự án năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió, mặt trời và sinh khối.

Huy P1 ST- NangluongVietnam Online

Tìm Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Bền Vững Ở Miền Trung Việt Nam Và Asean

Trong 2 ngày 8 và 9/6 tại Đà Nẵng diễn ra Hội thảo khoa học “Phát triển du lịch bền vững ở miền Trung Việt Nam và ASEAN” với sự tham gia của các chuyên gia, nhà nghiên cứu, học giả trong lĩnh vực du lịch đến từ nhiều quốc gia như Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, Philippin, Sri Lanka….

Hội thảo “Phát triển du lịch bền vững ở miền Trung Việt Nam và ASEAN”

Hội thảo nhằm đánh giá lại thực trạng phát triển du lịch tại khu vực miền Trung Việt Nam và các nước ASEAN thông qua những bài học, kinh nghiệm thực tế từ những điểm đến du lịch của các địa phương trong ASEAN. Từ đó đưa ra các giải pháp, đề xuất phát triển bền vững từng điểm đến cũng như trong liên kết toàn khu vực.

Nội dung của hội thảo tập trung vào 5 nhóm vấn đề chính bao gồm thực tiễn và kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam, khu vực ASEAN và trên thế giới; Khai thác và bảo tồn di sản văn hóa, bản sắc văn hóa các dân tộc trong phát triển du lịch bền vững; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh phát triển du lịch bền vững; thực trạng và những vấn đề đặt ra cho du lịch bền vững miền Trung Việt Nam trong bối cảnh hợp tác và cạnh tranh toàn cầu; Giải pháp phát triển du lịch bền vững khu vực miền Trung Việt Nam.

Hội thảo thu hút đông đảo các chuyên gia, nhà nghiên cứu, học giả về du lịch khu vực ASEAN và một số nước trên thế giới

Nguồn nhân lực du lịch là yếu tố được nhiều đại biểu tham gia hội thảo quan tâm hơn cả để phát triển du lịch bền vững khu vực ASEAN. Theo Thạc sĩ Christina G.Aquino, đại học Lyceum Philippin, cần phải có sự thừa nhận lẫn nhau về nhân lực trong khối ASEAN. Cần phải tập trung phát triển đội ngũ chuyên gia du lịch đủ năng lực cần thiết để duy trì phát triển du lịch ở bất kỳ điểm đến nào trong khu vực ASEAN. Tiếng Anh được chọn làm ngôn ngữ chung cho đội ngũ chuyên gia này. Để làm được điều này các quốc gia cần phải đạt được Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về lao động du lịch trong ASEAN (MRA-TP) được xác định trong Tầm nhìn 2023 của Cộng đồng ASEAN.

Giáo sư Joseph Lema, Đại học Stockton thì đặt vấn đề về ứng dụng của công nghệ đối với nhân sự du lịch bởi ngày càng có nhiều du khách áp dụng và chấp nhận các công nghệ mới từ đơn giản đến phức tạp để tăng thêm trải nghiệm trong chuyến du lịch của họ. Giáo sư Joseph Lema cho rằng để duy trì một lực lượng lao động mang tính cạnh tranh thì việc phát triển các kỹ năng truyền tải nhằm thực hiện và dẫn dắt sự thay đổi là điều cần thiết. Các khía cạnh của dịch vụ tự định hướng xuất hiện cho phép du khách có sự kiểm soát các trải nghiệm của họ tốt hơn.

Ngoài ra, các đại biểu cũng trao đổi về du lịch cộng đồng trong phát triển du lịch nông thôn, kết hợp di sản với cảnh quan bản địa trong các dự án du lịch nông thôn, vai trò của ẩm thực, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể đối với phát triển du lịch, khai thác du lịch tri thức, tác động của các mô hình homestay đối với du lịch, phát triển du lịch y tế cho người già, và vai trò của các khách sạn trong du lịch bền vững.

Sau thời gian hội thảo, các đại biểu đã thực hiện nghiên cứu thực địa tại khu Dự trữ sinh quyền Cù Lao Chàm.

Nguồn: baocongthuong.com.vn

Công Ty Cổ Phần Điện Tam Long Thủy Điện Hòa Phú

Cấu tạo của một nhà máy thủy điện

Khi chúng ta nhìn một dòng sông cuồn cuộn chảy, chúng ta thật khó để tưởng tượng ra được năng lượng mà nó mang lại. Nếu bạn đã từng đi bè vượt những con thác tung bọt nước trắng xóa thì bạn có thể cảm nhận thấy một phần nhỏ năng lượng của con sông. Những thác nước trắng xóa được tạo ra bởi dòng sông, mang theo một số lượng lớn nước đổ xuống dốc thông qua một lối nhỏ. Khi dòng sông buộc phải chảy thông qua lối hẹp này này, dòng chảy của nó trở nên nhanh hơn. Lũ lụt là một ví dụ khác thể hiện năng lượng mà một khối lượng lớn nước có thể có.

Nhà máy thủy điện khai thác năng lượng nước và sử dụng máy móc đơn giản để chuyển đổi năng lượng này thành điện năng. Đây là những thành phần cơ bản của một nhà máy thủy điện thông thường:

1. Đập (Dam) – Hầu hết các nhà máy thủy điện dựa vào một con đập chứa nước lại, tạo ra một hồ chứa lớn. Thông thường, hồ chứa này được sử dụng như một hồ giải trí như hồ Roosevelt tại đập Grand Coulee tại tiểu bang Washington.

2. Ống dẫn nước (Penstock) – Cửa trên đập mở và lực hấp dẫn đẩy nước chảy qua các đường ống chịu áp. Đường ống dẫn nước đến tuabin. Nước làm tăng dần áp lực khi nó chảy qua đường ống này.

3. Tua bin (Turbine) – Nước hướng về và làm quay các cánh lớn của tuabin, tuabin này gắn liền với máy phát điện ở phía trên nó nhờ một trục. Loại phổ biến nhất của tua bin dùng cho nhà máy thủy điện là Turbine Francis, trông nó giống như một đĩa lớn có những cánh cong. Một tua bin có thể cân nặng khoảng 172 tấn và quay với tốc độ 90 vòng mỗi phút .

Ảnh: Trục kết nối các tua-bin và máy phát điện

4. Máy phát điện (generator) – Khi các cánh tua-bin quay, một loạt các nam châm trong các máy phát điện cũng quay theo. Những nam châm khổng lồ này quay quanh cuộn dây đồng, sản sinh ra dòng điện xoay chiều (AC).

5. Biến áp (Transformer)- Máy biến áp được đặt bên trong nhà máy điện tạo ra dòng điện xoay chiều AC và chuyển đổi nó thành dòng điện có điện áp cao hơn.

6. Đường dây điện (Power Lines) – Trong mỗi nhà máy điện có đến bốn dây : ba dây pha của năng lượng điện được sản xuất đồng thời với một dây trung tính.

7. Cống xả (Outflow) – Đưa nước chảy qua các đường ống – gọi là kênh , và chảy vào hạ lưu sông .

Ý tưởng khai thác các dòng nước để tạo ra điện có từ rất sớm. Ban đầu là các bánh xe lớn đặt thẳng đứng có gắn các gàu múc để đưa nước lên cao. Vào cuối những năm 1820, con người đã biến bánh xe thành tuabin và 50 năm sau, con người đã gắn nó với một máy phát điện ở hạ lưu của một đập giữ nước hồ.

Ngày nay, có khoảng 45000 con đập rải rác trên địa cầu, cung cấp khoảng 1/5 lượng điện tiêu thụ trên toàn thế giới, tức khoảng 2,4 triệu mêga oát. Tại Pháp, khoảng 15% điện là thủy điện. Tại châu Âu, Mỹ, Canada, tiềm năng thủy điện đã được khai thác đến 70%.

Thông Tin Công Ty Cổ Phần Giải Pháp Sáng Tạo Phát Triển Bền Vững

Thông tin chung Địa chỉ thông tin liên hệ Địa Chỉ:

Nhà số 6 dãy B9, Tổ 7, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội

Tình trạng hoạt động – nơi đăng ký thuế Tình trạng hoạt động:

Người nộp thuế đang hoạt động (đã được cấp GCN ĐKT)

Nơi đăng ký quản lý:

Chi cục Thuế Quận Cầu Giấy

Ngày cấp giấy phép:

08-01-2023

Ngành nghề kinh doanh Ngành nghề kinh doanh:

Xây dựng công trình đường sắt và đường bộ

Xây dựng công trình công ích

Phá dỡ khác

Chuẩn bị mặt bằng khác

Lắp đặt hệ thống điện khác

Lắp đặt hệ thống xây dựng khác khác

Hoàn thiện công trình xây dựng chưa được phân vào đâu

Hoạt động xây dựng chuyên dụng khác chưa được phân vào đâu

Đại lý, môi giới, đấu giá

Bán buôn đồ dùng cho gia đình

Bán lẻ nhiên liệu động cơ trong các cửa hàng chuyên doanh chưa được phân vào đâu

Bán lẻ thuốc, dụng cụ y tế, mỹ phẩm và vật phẩm vệ sinh trong các cửa hàng chuyên doanh

Nhà hàng và các dịch vụ ăn uống phục vụ lưu động

Cung cấp dịch vụ ăn uống theo hợp đồng không thường xuyên với khách hàng khác

Dịch vụ ăn uống khác khác

Dịch vụ phục vụ đồ uống

Hoạt động của các trung tâm, đại lý tư vấn, giới thiệu và môi giới lao động, việc làm chưa được phân vào đâu

Cung ứng lao động tạm thời chưa được phân vào đâu

Cung ứng và quản lý nguồn lao động

Hoạt động dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác còn lại chưa được phân vào đâu khác

Giáo dục trung học cơ sở và trung học phổ thông

Đào tạo trung cấp

Đào tạo đại học khác

Đào tạo thạc sỹ khác

Giáo dục thể thao và giải trí khác

Giáo dục văn hoá nghệ thuật khác

Giáo dục khác chưa được phân vào đâu khác

Dịch vụ hỗ trợ giáo dục chưa được phân vào đâu

Lưu ý:

Quý khách có thể liên hệ trực tiếp với CÔNG TY CỔ PHẦN GIẢI PHÁP SÁNG TẠO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG tại địa chỉ Nhà số 6 dãy B9, Tổ 7, Phường Dịch Vọng Hậu, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội hoặc Chi cục Thuế Quận Cầu Giấy để có thông tin chính xác nhất.

Giải Pháp Cho Ngành Dệt May Việt Nam Phát Triển Bền Vững

Dệt May là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam (VN). Xuất khẩu dệt may nước ta đang nằm trong top những nước xuất khẩu dệt may cao nhất thế giới và được kỳ vọng là sẽ tiếp tục tăng tốc khi VN đã tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA.

Nguồn cung nguyên liệu chính là “nút thắt” lớn nhất của ngành Dệt May Việt Nam

Tuy nhiên, để có thể tận dụng được các lợi thế mang lại từ những hiệp định này, các chuyên gia cho rằng, ngành Dệt May của VN phải đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về quy tắc xuất xứ, mà giải pháp bền vững cần chú trọng xây dựng là CNHT dành cho ngành Dệt May trong nước.

Tiềm năng còn rất lớn

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, ngành Dệt May VN đóng góp 10% giá trị sản xuất công nghiệp toàn quốc, tạo công ăn việc làm cho khoảng 2,7 triệu lao động, chiếm tỷ lệ 25% tổng số lao động trong ngành công nghiệp, là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 2 cả nước. Trong giai đoạn 2009 – 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may liên tục tăng trưởng với tốc độ trung bình ở mức 13,06%.

Năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may ước đạt 39 tỷ USD, tăng 7,55% so với năm 2023, trong đó, tỷ trọng xuất khẩu của các DN đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 59% tổng giá trị. Thị trường xuất khẩu chủ lực là Mỹ, EU, Hàn Quốc và Nhật Bản.

         

Với những tiềm năng sẵn có trong bối cảnh hội nhập, cùng với việc VN đã ký và tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do, ngành Dệt May được đánh giá là một trong những ngành sẽ được hưởng lợi nhiều từ các hiệp định này. Các chuyên gia cho rằng, nhờ hưởng lợi thuế quan từ CPTPP và EVFTA, hàng dệt may VN sẽ trở nên cạnh tranh hơn, tổng giá trị xuất khẩu có thể tăng thêm 4,04% và nhập khẩu tăng thêm 3,8% vào năm 2035, tổng số việc làm tăng thêm hàng năm khoảng 20.000 đến 26.000 lao động, đặc biệt, trong trường hợp đáp ứng được các điều kiện về nguyên tắc xuất xứ, Dệt May VN dự kiến tăng gấp đôi thị phần tại thị trường các nước CPTPP sau khi FTA này có hiệu lực kể từ năm 2023.

Tuy nhiên, theo TS.Võ Trí Thành – Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh, mức độ tận dụng được những ưu đãi trên của VN đã được cải thiện rất nhiều những vẫn khá thấp. Tính tất cả các FTA thì VN mới chỉ vận dụng được khoảng 39% giá trị hàng xuất khẩu. Qua đó thấy rằng, tiềm năng của ngành này còn rất lớn.

Điểm nghẽn của ngành Dệt May

Rõ ràng triển vọng phát triển ngành Dệt May là rất tích cực, tuy nhiên, ngành này cũng sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn, chưa thể hưởng lợi nhiều ngay lập tức từ các hiệp định bởi các hàng rào phi thuế quan như: Chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ…, đặc biệt là chưa đáp đứng được yêu cầu quy định về nguyên tắc xuất xứ.

Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt May VN cho rằng, nguồn cung nguyên liệu ngành Dệt May chính là nút thắt lớn trong việc hưởng cơ hội mà EVFTA mang lại. Bởi ngành Dệt May VN chủ yếu chỉ thực hiện những công đoạn đơn giản như gia công và đến 90% nguyên phụ liệu cho ngành Dệt May đang phải nhập khẩu từ những thị trường chưa ký hiệp định FTA với EU. Do vậy, các tiêu chuẩn về quy tắc xuất xứ cao của EVFTA sẽ là thách thức rất lớn với các DN dệt may VN, đặc biệt là khâu dệt, nhuộm hoàn tất.

Ngành Dệt May sẽ khó phát triển bền vững nếu thiếu CNHT

Phát triển CNHT phải là trọng tâm ưu tiên

Các chuyên gia cho rằng, để thao gỡ nút thắt giúp ngành Dệt May có thể tự chủ hơn về nguyên phụ liệu, cần coi phát triển CNHT là một ưu tiên trọng tâm. Phải có quy hoạch quốc gia về xây dựng những vùng nguyên liệu, chiến lược về phát triển các vùng nguyên liệu hoặc các nguồn nguyên liệu nhập khẩu thay thế. Song song với đó là chú trọng việc đào tạo nguồn nhân lực.

Bà Nguyễn Thị Xuân Thúy – Phó Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ phát triển CNHT Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương cho rằng, thời gian qua, ngành Dệt May đã đạt được nhiều mục tiêu quan trọng, tuy nhiên cũng có những mục tiêu chưa đạt được, trong đó, quan trọng nhất là việc hình thành chuỗi giá trị và đáp ứng nhu cầu vải sử dụng trong nước cũng như xuất khẩu. Để giải quyết vấn đề này và nâng giá trị của Dệt May VN cao hơn trong chuỗi giá trị, cần tập trung vào việc xây dựng năng lực của các DN trong nước xuyên suốt toàn bộ chuỗi giá trị, bao gồm từ khâu kéo sợi, dệt vải đến khâu thiết kế nhằm liên kết toàn bộ ngành Dệt May. Cùng với đó là tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời, phải giải quyết được vấn đề môi trường. Ngoài ra, những vấn đề về thuế và hoàn thuế, khả năng tiếp cận nguồn vốn; quỹ đất của các DN dệt may, đặc biệt là đối với các DN dệt nhuộm, cũng cần quan tâm.

Có thể thấy, phát triển CNHT là yêu cầu tất yếu cho sự phát triển của ngành Dệt May VN trong bối cảnh hội nhập. Chỉ khi CNHT phát triển, các DN dệt may trong nước mới có thể tự chủ về nguyên phụ liệu, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa trong các sản phẩm xuất khẩu, đáp ứng được yêu cầu về quy tắc xuất xứ. Đây cũng chính là cơ sở để các DN dệt may VN tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu./.

Minh Vũ

Một Số Giải Pháp Góp Phần Phát Triển Bền Vững Các Đô Thị Du Lịch Biển Việt Nam

Thế kỷ 21 là “Thế kỷ của biển và đại dương”. Khai thác vùng biển đã trở thành chiến lược của hầu hết các quốc gia nhằm tìm hiểu và bảo đảm các nhu cầu về nguyên, nhiên vật liệu, thực phẩm, phát triển du lịch và không gian sinh tồn cho tương lai.Việt Nam là quốc gia bên bờ tây của Biển Đông có vùng biển lớn, bờ biển dài và rộng.Theo công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, thì Việt Nam có một vùng biển gấp ba diện tích đất liền, khoảng một triệu km2. Vùng biển Việt Nam có một vị trí địa kinh tế chính trị rất quan trọng và giàu tiềm năng phát triển, đặc biệt là ngành du lịch.Kiến Việt xin giới thiệu tới quý bạn đọc những tham luận sâu sắc được trình bày tại Hội nghị Ban chấp hành và hội thảo Kiến trúc du lịch biển đảo Việt Nam tại Phú Quốc vừa qua.

Việc khai thác biển ngày càng được tăng cường, nhưng còn mang tính tự phát, cát cứ, bộc lộ nhiều nhược điểm và tiềm ẩn những nguy cơ phát triển không bền vững. Nhiều dự án quy hoạch du lịch sinh thái biển đã được lập, nhưng còn thiếu sự kết nối và không có hệ thống theo một chiến lược thống nhất.

Quy hoạch chi tiết khu đô thị du lịch Cái Giá – Đảo Cát Bà – Hải Phòng

Tổ chức lãnh thổ và quy hoạch các đô thị biển, trong đó có những đô thị du lịch biển là một trong những đề tài lớn nhằm thiết lập công cụ điều tiết vĩ mô và biện pháp quan trọng nhất trong chiến lược khai thác và phát triển bền vững, toàn diện vùng biển Việt Nam trong thế kỷ chúng tôi nhiên, các cơ sở khoa học của công tác này còn hạn chế và chưa được quan tâm đúng mức.

Vùng biển Việt Nam nằm ở vị trí chiến lược quan trọngnằm ở rìa bán đảo Đông Dương, có chiều dài bờ biển 3260 km, ôm ba mặt lãnh thổ: Đông, Nam, TâyNam; bình quân 100 km 2 đất liền /1km bờ biển (gấp 6 lần tỷ lệ trung bình của thế giới).Trên một số tuyến hàng hải quốc tế chính qua biển Đông, trong đó có tuyến qua eo biển Malayxia, có tàu bè qua lại nhiều nhất thế giới. Trong tương lai, nếu kênh KRA ở Thái Lan được xây dựng, sẽ thu hút một số thuyền biển lớn qua đây. Vùng biển Việt Nam sẽ trở thành “Cầu nối” quan trọng để phát triển thương mại và giao thương quốc tế. (Dẫn theo Biển và đảo ViệtNam, tr.59)

Về tài nguyên du lịch, vùng biển Việt Nam có tiềm năng vô cùng lớn với hơn 300 bãi biển lớn, trong đó có 25 bãi biển đạt quy mô quốc tế, trong đó đang khai thác trên 30 bãi thu hút 14 triệu khách quốc tế, cảnh quan thiên nhiên đẹp, khí hậu ôn hòa, môi trường văn hóa xã hội đa dạng phong phú. Có nhiều di sản văn hóa lịch sử có giá trị: Vịnh Hạ Long, Nha Trang, tài nguyên khoáng sản đa dạng: Than (Cẩm Phả); sắt (Thạch Khê); Titan (Kỳ Anh); cát (Khánh Hòa, Văn Hải, Ba Đồn, Nam Ô, Hòn Gốm, Thủy Triều); đá vôi xi măng (Hoành Bồ, Kim Sơn, Hoàng Mai, Bố Trạch, Hà Tiên).

Là địa bàn thu hút đầu tư và thúc đẩy hậu phương phát triển:

Hình 2- Sơ đồ đường cơ sở tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam(Theo Cục Đo đạc và bản đồ Nhà nước vẽ tháng 7 năm 1982)

Thực trạng phát triển các đô thị du lịch biển Việt Nam

Các đô thị bố trí tại vùng biển của Việt Nam là 129 đô thị trong đó:

– Đô thị cấp quốc gia (thành phố Hồ Chí Minh, Hải phòng, Đà Nẵng): (03);– Đô thị cấp vùng (Hạ Long, Huế, Nha Trang, Phan Thiết, Vũng Tàu, Quy Nhơn):(06) ;– Đô thị cấp khu vực (Móng Cái, Cẩm Phả, Uông Bí, Sầm Sơn, Cửa Lò, Hà Tĩnh, Đồng Hới, Đông Hà, Hội An, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Tuy Hòa, Cam Ranh, Phan Rí, Hàm Tầm, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Gía, Hà Tiên):(22);– Đô thị cấp cơ sở (thị trấn): (80);– Đô thị mới (Vân Đồn, Nhơn Hội, Long Hải, Chu Lại, Vân Phong, Điện Nam- Điện Ngọc, Vạn Tường, Chân Mây, Kỳ Anh, Nghi Sơn, Quảng Yên, Phát Diệm, Vạn Tường): (13);– Đô thị đảo (Phú Quốc, Côn Đảo, Cát Bà, Trường Sa, Hoàng Sa):(05);

Hình 3- Bản đồ mạng lưới các đô thị Việt NamNhận xét1. Phân bổ và phát triển các đô thị biển khá đồng đều dọc theo 3260 km bờ biển.2. Địa điểm xây dựng: Tại vùng cửa sông ven biển, vịnh, nơi có điều kiện xây dựng hải cảng, phát triển du lịch, khai thác tài nguyên biển và quĩ đất dồi dào.3. Chức năng:– Đô thị du lịch biển: 16- (12%)– Đô thị có chức năng tổng hợp, trong đó có tính chất du lịch biển: 115- (87%)– Đô thị di sản quốc gia, quốc tế: 03 (2%)4. Phần lớn các đô thị du lịch biển đã được lập quy hoạch và được quản lý xây dựng, phát triển theo qui hoạch được duyệt.5. Tại vùng biển khơi, các đô thị du lịch chưa phát triển.Những vấn đề còn tồn tại và một số giải pháp góp phần phát triển bền vững đô thị du lịch biển Việt Nam

Sự phát triển bền vững các đô thị du lịch biển Việt Nam còn nhiều vấn đề tồn tại.

1.Các nhóm tiêu chí đánh giá của WB

– Chất lượng cuộc sống;

– Sự lành mạnh về tài chính;

– Khả năng cạnh tranh;

4- Năng lực quản lý đô thị.

2.Các vấn đề còn tồn tại

– Chưa có một nhận thức đầy đủ và một khái niệm rõ ràng về đô thị du lịch cũng như các điều kiện để công nhận đô thị du lịch: Điều 31,32,33. Mục 2_Luật Du lịch năm 2005; Điều 11_Nghị định số 92/2007/NĐ_CP ngày 01tháng 06 năm 2007 của Chính phủ. Nghị định số 42/2009/NP-CP ngày 07 tháng 05năm 2009 về phân loại đô thị của Chính phủ.

– Thiếu một chiến lược thống nhất về tổ chức lãnh thổ và phát triển hệ thống đô thị du lịch biển

– Không có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lọai qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, qui hoạch phát triển du lịch, qui hoạch sử dụng đất đai, qui hoạch môi trường với qui hoạch đô thị.

– Sự chỉ đạo nhất quán của Chính phủ, cán bộ ngành và chính quyền của 28 tỉnh, thành phố trực thuộc TW có biển.

– Cơ sở khoa học để xây dựng mô hình và các giải pháp cấu trúc đô thị sinh thái du lịch biển Việt Nam.

– Thiếu những định hướng phát triển, và quản lý kiến trúc- cảnh quan, môi trường, khai thác tài nguyên biển dẫn đến diện mạo kiến trúc thiếu bản sắc, sự phát triển không gian tùy tiện mất trật tự về xây dựng và sử dụng đất dọc theo 3260 km ven biển và biển.

-Tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu: Nước biển dâng, ngập úng; Nhiệt độ tăng; Thiên tai;

– Có tài nguyên du lịch hấp dẫn trong ranh giới đô thị hoặc khu vực liền kề;

– Ngành du lịch có vị trí quan trọng trong việc tạo lập cơ sở kinh tế, trong đó tỷ lệ thu nhập từ du lịch trên tổng số thu nhập của các ngành dịch vụ;

– Tỉ lệ lao động làm việc trong ngành dịch vụ du lịch lớn;

– Tỉ lệ khách du lịch trên qui mô dân số tối thiểu là 40%

– Có cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đồng bộ phục vụ nhu cầu khách du lịch;

– Có các sản phẩm du lịch phong phú phục vụ cho nhu cầu đa dạng của khách du lịch.

(Tham luận trình bày tại Hội thảo Kiến trúc du lịch biển Việt Nam do Hội kiến trúc sư Việt Nam tổ chức tại Phú Quốc ngày 16/11/2012)Đề xuất 2: Tổ chức lãnh thổ và sắp xếp lại mạng lưới đô thị du lịch biển cả nước.

Dựa vào hệ thống các vùng kinh tế-xã hội;Qui hoạch phát triển du lịch;Định hướng qui hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam làm căn cứ đề xuất

+ Từ đó đề xuất hình thành bốn vùng du lịch biển:

– Vùng Bắc Bộ: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình;

– Vùng Bắc Trung Bộ: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế;

– Vùng Nam Trung Bộ: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Trung Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận;

– Vùng Nam Bộ: Barịa-Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang;

+ Quy hoạch sử dụng đất hợp lý các vùng du lịch biển, gồm 04 khu vực sau:

– Khu vực tiền phương gồm: Biển và thềm lục địa;

– Khu vực ven biển khoảng 1000m-1500m, gồm: bờ biển, cửa sông dành để bố trí cảng, nuôi trồng thủy sản, sản xuất muối, bãi tắm và vùng bảo vệ thiên nhiên;

– Khu vực xây dựng đô thị khoảng 3-5 km: dùng để bố trí các khu chức năng đô thị như: (các khu du lịch, nghỉ dưỡng, các khu nhà nghỉ cuối tuần, các khu trung tâm dịch vụ, các khu trung tâm chuyên nghành, các khu dân cư);

– Khu vực hậu phương bao gồm: Vùng trung chuyển giữa đô thị du lịch biển với hậu phương và hậu phương cảng, nơi dành để bố trí các đô thị vệ tinh, giao thông đối ngoại và vùng bảo vệ thiên nhiên – cân bằng sinh thái, các tour, trung tâm và đô thị du lịch đồng bằng, miền núi.

+ Sắp xếp lại mạng lưới đô thị du lịch biển theo 4 vùng du lịch biển, trong đó:

– Vùng Bắc Bộ:Thành phố Hạ Long; thành phố Hải Phòng là hạt nhân;

– Vùng Bắc Trung Bộ: Thành phố Huế, Đồng Hới, Vinh- Cửa Lò và Thanh Hóa-Sầm Sơn là hạt nhân;

– Vùng Nam Trung Bộ: Thành phố Đà Nẵng, Nha Trang, Qui Nhơn, Phan Thiết là hạt nhân;

– Vùng Nam Bộ: Thành phố Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cà Mau và Rạch Giá- Phú Quốc là hạt nhân;

Hình 6- Các Vùng du lịch Việt Nam – Các tuyến điểm chủ yếu3. Đề xuất 3. Mô hình cấu trúc đô thị du lịch sinh thái biển Việt Nam

– Dùng các chủ trương của Chính phủ: Phát triển bền vững trên nền tảng đô thị sinh thái và Kiến trúc xanh;Cấu trúc địa mạo và phong thổ các vùng ven biển và biển;Cấu trúc đô thị du lịch sinh thái biển phát triển tự nhiên trên cơ sở tổng kết 16 đô thị du lịch biển Việt Nam;

– Xu thế qui hoạch đô thị du lịch biển hiện đại.

+ Khái niệm du lịch sinh thái?° Dựa vào thiên nhiên; các hệ sinh thái tự nhiên có đa dạng sinh học cao ( Natural-based tourism)- (N)° Gắn với bản sắc văn hóa địa phương -(C)° Có sự tham gia của cộng đồng- (P)Hình 8- Ba trụ cột của du lịch sinh thái

+ Các dự án qui hoạch phát triển du lịch sinh thái biển hấp dẫn hàng đầu thế giới từ năm 1970 đến nay

Đảo Phú Kẹt (Thái Lan)Đảo Madivo,Bali(Indonesia)Hình 9- Hình ảnh các khu du lịch sinh thái biển Các nguyên tắc qui hoạch đô thị du lịch sinh thái biển hiện đại Hạn chế: Kiểm soát chặt chẽ; Bảo tồn và nuôi dưỡng.Các giải pháp qui hoạch theo kinh nghiệm thế giới Phân vùng cảnh quan môi trường: Vùng bảo vệ tuyệt đối từ 100-500 m; Khống chế phát triển bằng hai nhóm chỉ số: Sức chứa và thị trường thông qua các chỉ tiêu xây dựng các công trình phục vụ du lịch; Hạn chế chiều cao xây dựng, tăng diện tích cây xanh(40-60m2/người) và dành ít nhất 1/3 không gian cho bảo tồn; Phát triển và đa dạng hóa các loại hình du lịch sinh thái biển: Thể thao, nghỉ dưỡng, tắm biển, thăm quan, nghiên cứu; Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động du lịch và phát triển các sản phẩm du lịch; Tăng cường vai trò của các Hiệp Hội du lịch.Các nguyên tắc hoàn thiện mô hình cấu trúc đô thị du lịch sinh thái biển Việt Nam

+ Đô thị du lịch sinh thái biển là một hệ sinh thái gồm 2 phân hệ: Tự nhiên và Xã hội, được gắn kết với môi trường xung quanh tạo thành một thể thống nhất;

+ Đô thị du lịch là một hệ thống lãnh thổ du lịch gồm hai bộ phận chủ yếu cấu thành là: Môi trường với các điều kiện phát sinh nhu cầu du lịch (I) và hệ thống lãnh thổ du lịch(II);

1-Giao thông; 2- Khách du lịch; 3-Dân cư địa phương;4- Tài nguyên du lịch; 5- Hạ tầng cơ sở kỹ thuật và xã hội

Hình 10 – Hệ thống lãnh thổ du lịch (M.Buchovarop, 1975)

– Các nguyên tắc hình thành cấu trúc đô thị du lịch sinh thái biển trong các điều kiện của ViệtNam:

+ Hạt nhân hoặc hệ thống lãnh thổ, du lịch là vùng ưu tiên phát triển các bộ phận cấu thành du lịch gồm: Các khu du lịch, các khu dân cư, tài nguyên du lịch, dịch vụ công cộng, hạ tầng kỹ thuật, không gian bảo tồn.

+ Vành đai xanh;

+ Vùng dự trữ phát triển và cân bằng sinh thái;

+ Môi trường xung quanh với các điều kiện phát sinh du lịch và nuôi dưỡng đô thị du lịch.

+ Kết cấu hạ tầng giao thông diện rộng gắn kết với môi trường và thị trường du lịch

– Kiến nghị sơ đồ nguyên tắc hình thành cấu trúc đô thị du lịch sinh thái biển Việt Nam (hình11)

Đề xuất 4- Phát triển Kiến trúc đô thị du lịch biển có bản sắc riêng

Căn cứ đề xuất

– Thực trạng Kiến trúc đô thị du lịch biển;

– Định hướng phát triển kiến trúc ViệtNam;

– Lý luận và thực tiễn thiết kế đô thị.

Nội dung đề xuất

– Kiến nghị 1: Hình thành diện mạo kiến trúc tổng thể đô thị du lịch biển đặc trưng

– Kiến nghị 2: Tạo lập hình ảnh Kiến trúc đô thị du lịch biển: Dễ đọc, dễ tưởng tượng , dễ nhận dạng với cấu trúc riêng;

+ Các yếu tố cấu thành cần được sắp xếp theo trật tự:

+ Các điểm nhấn(mốc không gian)

+ Các trọng điểm(trung tâm thu hút các hoạt động công cộng)

+ Các lưu tuyến(đường bộ, sông ngòi…)

+ Các quần thể kiến trúc đồng nhất: Các khu chức năng: Nhà ở, công trình công cộng, công nghiệp, resort, công viên .v.v..

– Các ranh, ngưỡng: Đường phân định giới hạn giữa các vùng và khu chức năng hoặc không gian trung chuyển;

– Các mối quan hệ tương hỗ: Tỷ lệ xích và các mối quan hệ tương hỗ giữa các

Đề xuất 5: Đối với đảo Phú Quốc

Chiến lược phát triển Đảo là Ngành du lịch;

Du lịch sinh thái là nền tảng xây dựng và phát triển bền vững Đảo;

Không nên tập trung quá nhiều dân cư thường trú và tăng tỉ lệ đất phi nông nghiệp. Lưu ý đảm bảo 6 điều kiện để xây dựng Đảo thành đô thị du lịch sinh thái

Nghiên cứu vận dụng các kinh nghiệm và mô hình qui hoạch đô thị sinh thái biển nổi tiếng thế giới để xây dựng đảo Phú Quốc trở thành một ” Đô thị du lịch quốc tế tự do” nổi tiếng;

Nghiên cứu một đề án riêng về phát triển kiến trúc và cảnh quan cho đảo Phú Quốc.

(Nguồn: Báo cáo tóm tắt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam 1995-2010, tr 96. Tổng cục du lịch 1994)PGS.TS.KTS. Trần Trọng HanhTham luận tại Hội nghị Ban chấp hành và hội thảo Kiến trúc du lịch biển đảo Việt Nam tại Phú Quốc

Cập nhật thông tin chi tiết về Một Số Giải Pháp Phát Triển Bền Vững Ngành Điện Việt Nam — Website Công Ty Cổ Phần Thủy Điện Miền Trung trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!