Bạn đang xem bài viết Một Số Giải Pháp Khắc Phục Tồn Tại, Hạn Chế Trong Thực Hiện Chức Năng, Nhiệm Vụ, Quyền Hạn Của Thanh Tra Chính Phủ Về Pctn được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Điều 76 Luật PCTN quy định: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm sau đây: 1. Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn công tác thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về PCTN; trường hợp phát hiện hành vi tham nhũng thì đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý; 2. Xây dựng hệ thống dữ liệu chung về PCTN”. Đồng thời, Khoản 1 Điều 75 Luật PCTN cũng quy định, trong Thanh tra Chính phủ có đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng.
Kế thừa các quy định của Luật PCTN, Điều 14 Luật Thanh tra năm 2010 quy định rõ: “Thanh tra Chính phủ là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và PCTN trong phạm vi cả nước…”.
Nhằm thực hiện Luật PCTN, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1424/QĐ-TTg ngày 31/10/2006 về việc thành lập Cục Chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ.
Tiếp đó, sau khi Nghị định số 83/2012/NĐ-CP ngày 9/10/2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ có hiệu lực, Tổng Thanh tra Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1877/QĐ-TTCP ngày 19/8/2013 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức, hoạt động của Cục Chống tham nhũng để triển khai các nhiệm vụ về PCTN được giao cho Thanh tra Chính phủ. Theo quyết định này, Cục Chống tham nhũng là đơn vị thuộc Thanh tra Chính phủ, có chức năng giúp Tổng Thanh tra Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về công tác PCTN; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra theo thẩm quyền khi được giao. Như vậy, có thể thấy, việc thành lập Cục Chống tham nhũng là nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn về PCTN của Thanh tra Chính phủ.
Như đề cập ở trên, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính phủ trong PCTN được quy định trong Luật PCTN, Luật Thanh tra và các Nghị định quy định chi tiết một số điều của các Luật. Căn cứ vào các quy định này, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính trong PCTN bao gồm: Quản lý Nhà nước về công tác PCTN trên phạm vi cả nước; thực hiện chức năng kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các biện pháp về PCTN và các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng theo thẩm quyền.
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, thời gian qua, Thanh tra Chính phủ đã có nhiều nỗ lực, cố gắng nhằm nâng cao hiệu quả công tác PCTN.
Kết quả tổng kết 10 năm thi hành Luật PCTN cho thấy, công tác PCTN đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước; giúp cải thiện môi trường kinh doanh và đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội.
Nỗ lực PCTN của Việt Nam cũng đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận trong khuôn khổ thực thi Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên và các diễn đàn quốc tế khác.
Luật PCTN từng bước giúp tạo ra môi trường thể chế ngày càng công khai, minh bạch; từng bước tăng cường sự tham gia của người dân vào công tác PCTN; cơ chế kiểm soát đối với cán bộ, công chức, viên chức và chế độ công vụ cũng ngày càng được cải thiện; việc xử lý người có hành vi tham nhũng và tài sản tham nhũng cũng được chú trọng và nâng cao hiệu quả; bộ máy cơ quan PCTN bước đầu được củng cố, kiện toàn.
Kết quả này cho thấy, việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Chính phủ trong PCTN đã có những hiệu quả tích cực. Trong đó, đáng chú ý, Thanh tra Chính phủ đã tham mưu cho Chính phủ trong việc chỉ đạo các cấp, các ngành khẩn trương tổ chức thực hiện Luật PCTN. Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành “Chương trình Hành động của Chính phủ thực hiện Luật PCTN”, cụ thể hóa các nhiệm vụ, biện pháp PCTN được quy định trong Luật PCTN, trình Chính phủ ban hành “Chiến lược Quốc gia PCTN đến năm 2023”; trình Chủ tịch nước phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng và ban hành Kế hoạch Thực thi Công ước.
Kể từ khi Luật PCTN có hiệu lực, Thanh tra Chính phủ cũng đã trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền gần 30 văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các quy định của Luật PCTN, giúp Chính phủ, Quốc hội tiến hành sơ kết 05 năm và tổng kết 10 năm làm cơ sở sửa đổi, bổ sung Luật PCTN vào năm 2007, 2012 và kể từ năm 2023 đến nay (sửa đổi toàn diện). Đồng thời, Thanh tra Chính phủ đã tổ chức nhiều đợt kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật về PCTN. Qua công tác này, Thanh tra Chính phủ cũng sửa đổi, bổ sung và trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về PCTN cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống; đưa vào kế hoạch thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về PCTN đối với các bộ, ngành, địa phương để kịp thời chấn chỉnh việc tổ chức thực hiện pháp luật…
Bên cạnh đó, Thanh tra Chính phủ đã tham mưu cho Chính phủ trong việc tổ chức, chỉ đạo các cơ quan quản lý Nhà nước khẩn trương triển khai việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về PCTN gắn với việc “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Đưa nội dung PCTN vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và cơ quan Trung ương xây dựng chương trình, tài liệu giảng dạy; tập huấn cho giảng viên giảng dạy các môn học có lồng ghép nội dung về PCTN từ cấp THPT trở lên. Từ năm học 2013 – 2014, việc giảng dạy nội dung PCTN tại các cơ sở giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng (từ cấp THPT trở lên) đã được triển khai rộng khắp trên phạm vi cả nước.
Cũng trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay, Thanh tra Chính phủ đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị theo chương trình, kế hoạch và theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Mặc dù đạt được nhiều kết quả, song vẫn phải thẳng thắn nhìn nhận việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính phủ trong quản lý Nhà nước về PCTN chưa toàn diện, còn thiếu hiệu quả, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát sinh; việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn về kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về PCTN, vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, việc minh bạch tài sản, thu nhập và xử lý đơn thư tố cáo về tham nhũng còn chưa hiệu quả. Do đó, để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính phủ trong PCTN, cần tập trung vào những giải pháp sau:
Một là, giải pháp về hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, cần tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định về nguyên tắc công khai, nội dung công khai, hình thức công khai và trách nhiệm công khai, gắn với việc phát huy trách nhiệm giải trình của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị; thực hiện nghiêm chế độ họp báo, phát ngôn và cung cấp thông tin làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp xử lý khi thanh tra, kiểm tra.
Thứ hai, thực hiện các biện pháp đánh giá về thực trạng tham nhũng và công tác PCTN dựa trên hệ thống tiêu chí khoa học, khách quan, toàn diện nhằm nhận diện chính xác thực trạng tham nhũng và hiệu quả PCTN, qua đó giúp phản ánh được một cách khách quan về thực trạng tham nhũng và chủ đồng đề xuất các biện pháp, phương thức đấu tranh phù hợp.
Thứ ba, xây dựng, duy trì chế độ liêm chính trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị dựa trên những giá trị đạo đức cốt lõi và coi đây là một trụ cột quan trọng nhằm phòng ngừa tham nhũng, bao gồm: Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức; những việc cán bộ, công chức, viên chức không được làm; các quy định về tặng quà và nhận quà tặng, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, đạo đức kinh doanh, kèm theo trách nhiệm, thẩm quyền tổ chức thực hiện và xử lý khi có hành vi vi phạm.
Thứ tư, tiếp tục quy định các biện pháp nhằm từng bước kiểm soát biến động về thu nhập và chi tiêu trong xã hội, như: Thực hiên thanh toán qua tài khoản đối với các khoản thu, chi có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên; quy định việc bắt buộc áp dụng thanh toán qua tài khoản đối với một số trường hợp nhất định làm cơ sở đưa ra các hình thức xử lý vi phạm phát hiện qua thanh tra, kiểm tra.
Thứ sáu, bổ sung các quy định về xử lý vi phạm Luật PCTN nhằm thể hiện sự nghiêm minh trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về PCTN, tăng cường hiệu quả thực thi Luật PCTN và hiệu quả của công tác PCTN, bao gồm các quy định về hành vi vi phạm, thẩm quyền xử lý và hình thức xử lý cụ thể.
Hai là, giải pháp về tổ chức thực hiện
Cần đẩy mạnh và chủ động việc tiến hành công tác thanh tra theo kế hoạch, tăng cường thanh tra đột xuất khi phát hiện dấu hiệu vi phạm, kết luận thanh tra khách quan, chính xác, nội dung thanh tra tập trung vào những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực nhằm phát hiện, chấn chỉnh những sơ hở, bất cập trong quản lý, xử lý các hành vi vi phạm, tiêu cực cũng như kiến nghị sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách cho phù hợp. Chú trọng thực hiện công tác xử lý sau thanh tra có biện pháp kiên quyết thu hồi triệt để tài sản tham nhũng.
Cần thể chế hóa quy trình tiếp nhận đơn thư tố cáo về hành vi tham nhũng, trên cơ sở đó kiện toàn tổ chức bộ máy và cơ sở vật chất nhằm tiếp nhận một cách có hiệu quả, thực chất thông tin về tham nhũng, nhất là đơn thư, tố cáo và thông tin của dư luận, báo chí; tăng cường phối hợp giữa báo chí, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị – xã hội với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để ngăn chặn và phát hiện kịp thời hành vi nhũng nhiễu, đòi hối lộ của cán bộ, công chức. Từ đó, tiến hành thanh tra vụ việc có dấu hiệu tham nhũng hoặc chuyển cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
Tăng cường thực hiện các cuộc thanh tra theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật về thanh tra; đổi mới nội dung, phương pháp chỉ đạo, điều hành, tác nghiệp, nâng cao hiệu quả công tác thanh tra. Trong đó: Tập trung triển khai thanh tra trách nhiệm về quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội gắn với công tác PCTN; thanh tra việc thực hiện các biện pháp PCTN, đặc biệt là trong thực hiện kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai theo quy định của pháp luật và coi đây là nhiệm vụ thường xuyên nhằm tăng cường tính kỷ luật, kỷ cương trong thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện tham nhũng của các bộ, ngành và địa phương.
Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác tổng hợp thông tin, báo cáo và quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu về PCTN, đặc biệt là trong quản lý dữ liệu bản kê khai tài sản, thu nhập; qua đó giúp từng bước sử dụng các dữ liệu sẵn có nhằm phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước về PCTN, tiến tới theo dõi được biến động tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai thuộc thẩm quyền quản lý của Thanh tra Chính phủ phục vụ cho công tác PCTN.
Tăng cường hợp tác quốc tế song phương và đa phương để tiếp thu, học tập những kinh nghiệm về công tác PCTN theo hướng tiếp tục duy trì quan hệ với các nước, hiệp định mà Việt Nam đã ký kết, tham gia đồng thời nghiên cứu mở rộng quan hệ với các nước triển khai tốt công tác PCTN, gắn với thực hiện có hiệu quả Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng./.
Ths. Nguyễn Tuấn Anh
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế
Những Khó Khăn, Hạn Chế Trong Việc Thực Hiện Chức Năng, Nhiệm Vụ, Quyền Hạn Của Thanh Tra Chính Phủ Trong Phòng Ngừa,…
Thanh tra Chính phủ là cơ quan cao nhất trong hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước, là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng và tiến hành phòng, chống tham nhũng theo thẩm quyền. Với vị trí là cơ quan cao nhất trong hệ thống các cơ quan thanh tra, Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm từ việc xây dựng cơ chế chính sách, pháp luật nhằm phòng, chống tham nhũng đến việc triển khai, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc để những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng chủ động tích cực phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng.
1. Quy định pháp luật hiện hành về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính phủ trong phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng
1.1. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính phủ trong phòng ngừa tham nhũng
Là cơ quan nhà nước, Thanh tra Chính phủ phải có trách nhiệm thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng tại cơ quan mình theo quy định của pháp luật. Đồng thời, với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định, Thanh tra Chính phủ còn có trách nhiệm trực tiếp thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị khác. Đồng thời, Thanh tra Chính phủ còn thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng.
Luật Thanh tra năm 2010 quy định: Thanh tra Chính phủ là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; thực hiện hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật (Điều 14).
Hiện nay, Luật Phòng, chống tham nhũng 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2007 và năm 2012) và các văn bản hướng dẫn thi hành không có chế định riêng về quản lý nhà nước trong phòng, chống tham nhũng nhưng cũng có nhiều điều khoản quy định về vai trò, chức năng của Thanh tra Chính phủ. Ví dụ như: quy định về đơn vị chuyên trách trong phòng, chống tham nhũng (Điều 75) hoặc quy định về trách nhiệm thực hiện hợp tác quốc tế (Điều 90). Tại Khoản 1, Điều 76, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, TTCP có trách nhiệm: “Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn công tác thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; trường hợp phát hiện hành vi tham nhũng thì đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý”. Khoản 2, Điều 26, Nghị định số 59/2013/NĐ-CP quy định: “Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm giúp Chính phủ xây dựng báo cáo hằng năm về phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước”….
Thêm vào đó, với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về công tác thanh tra, phòng, chống tham nhũng, Thanh tra Chính phủ còn có thể yêu cầu bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo tình hình, kết quả công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Đây là cơ sở để Thanh tra Chính phủ nắm bắt tình hình thực tiễn của việc thực hiện công tác thanh tra cũng như công tác phòng, chống tham nhũng.
Thanh tra Chính phủ còn là đầu mối tập trung hệ thống dữ liệu quốc gia về PCTN (Điều 76, Luật Phòng, chống tham nhũng), đây vừa là thẩm quyền, đồng thời là nhiệm vụ của Thanh tra Chính phủ. Việc khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu chung này không chỉ giúp Thanh tra Chính phủ theo dõi, nắm bắt được tình hình, thực tiễn công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm tham nhũng mà còn nhằm cung cấp thông tin cho cơ quan chức năng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng, pháp luật hiện hành đã quy định Thanh tra Chính phủ có nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng, cụ thể như sau:
– Phối hợp trong theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của nhà nước về phòng, chống tham nhũng;
– Phối hợp tham mưu, đề xuất xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng;
– Phối hợp trong việc trao đổi thường xuyên thông tin, tài liệu, kinh nghiệm về phòng, chống tham nhũng.
Như vậy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về thanh tra nói chung và chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra nói riêng là cơ hội để Thanh tra Chính phủ phát hiện những biểu hiện, dấu hiệu, kịp thời xử lý hành vi tham nhũng, ngăn chặn đến mức tối đa và giảm thiểu những rủi ro do hành vi tham nhũng gây ra.
1.2. Quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính phủ trong phát hiện, xử lý TN
Thứ nhất, Thanh tra Chính phủ phát hiện hành vi tham nhũng thông qua hoạt động thanh tra:
Điều 62, Luật Phòng, chống tham nhũng quy định, để phát hiện, xử lý tham nhũng, Thanh tra Chính phủ nói riêng, thông qua hoạt động thanh tra, có trách nhiệm chủ động phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị việc xử lý theo quy định pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. Theo đó, Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn công tác thanh tra việc thực hiện quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng, trường hợp phát hiện hành vi tham nhũng thì đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý.
Thứ hai, Thanh tra Chính phủ phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động giải quyết khiếu nại ,tố cáo
Thứ ba, Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm chuyển hồ sơ cho cơ quan tố tụng để xử lý hành vi tham nhũng
2.1. Về tổ chức, hoạt động của Thanh tra Chính phủ
Thứ nhất, quy định về thẩm quyền của Thanh tra Chính phủ chưa đủ mạnh để thực hiện có hiệu quả các biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Cụ thể là:
– Trong thực hiện quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng, việc kết luận về trách nhiệm của người đứng đầu trong các kết luận thanh tra cũng gặp vướng mắc. Bởi lẽ, việc kết luận trách nhiệm của người đứng đầu cần phải căn cứ vào việc xác định có hành vi tham nhũng xảy ra ở các mức độ khác nhau như quy định tại Nghị định số 107/2006/NĐ-CP. Trong khi đó, việc xác định có tội phạm tham nhũng hay không lại phụ thuộc vào thẩm quyền và hoạt động của các cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án.
Thứ hai, quyền hạn của các cơ quan thanh tra trong bộ máy hành chính nhà nước chưa được xác định tương xứng với nhiệm vụ được giao, việc đảm bảo thực hiện quyền cũng còn hạn chế.
Theo Luật Thanh tra 2010, các cơ quan thanh tra nhà nước được giao nhiệm vụ thanh tra các cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc quyền quản lý của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Tuy nhiên, Luật Thanh tra quy định, các cơ quan thanh tra nhà nước là cơ quan tham mưu hoặc là cơ quan chuyên môn của cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp nghĩa là, cơ quan thanh tra chỉ có vị trí tương đương với các cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra. Thủ trưởng các cơ quan thanh tra cũng chỉ tương đương với thủ trưởng các cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra, thậm chí trong một số trường hợp còn kém vị thế hơn (không phải là cấp ủy viên). Do vậy, khi triển khai nhiệm vụ, quyền hạn gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, vị thế của người đứng đầu cơ quan thanh tra còn hạn chế so với nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Theo quy định của Luật Thanh tra, các cơ quan thanh tra có nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp; thanh tra lại những vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật… Tuy nhiên, vị thế của người đứng đầu cơ quan thanh tra cũng tương tự như người đứng đầu cơ quan là đối tượng thanh tra (thậm chí thấp hơn trong trường hợp Thanh tra bộ thanh tra đối với Tổng cục thuộc Bộ) cũng gây ra những khó khăn trong quá trình thanh tra và kết luận, kiến nghị xử lý về thanh tra.
Thứ tư, cơ quan thanh tra chủ yếu chỉ có thẩm quyền kiến nghị xử lý.
2.2. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính phủ trong phòng ngừa tham nhũng
Quy định của pháp luật đối với nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng chưa xác định được nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan thanh tra trong quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng. Ngành Thanh tra được giao chức năng quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng nhưng thẩm quyền được trao chưa tương xứng với nhiệm vụ nên khó triển khai thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng. Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra chỉ là một trong số những biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Thanh tra Chính phủ được giao chức năng quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng nhưng các quy định cụ thể về chức năng này còn chưa rõ ràng, đặc biệt là quy định về vai trò quản lý nhà nước trong phòng, chống tham nhũng đối với hoạt động của Quốc hội, cơ quan tư pháp, các cơ quan, tổ chức của Đảng; quy định về sự phối hợp với cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong phát hiện, xử lý tham nhũng còn mờ nhạt, vướng mắc. Pháp luật hiện hành cũng chưa quy định những nội dung cụ thể và trách nhiệm thực hiện những nội dung đó trong quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng. Vì vậy, nhiều hoạt động của Thanh tra Chính phủ bị vướng.
Cục Chống tham nhũng của Thanh tra Chính phủ là đơn vị có chức năng tham mưu và giúp Tổng Thanh tra Chính phủ trong quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, địa vị pháp lý của Cục IV hiện nay được xác định cũng như các cục, vụ, đơn vị khác của Thanh tra Chính phủ, chưa thể hiện rõ tính đặc thù về địa vị pháp lý, cơ cấu tổ chức và lực lượng cán bộ để đáp ứng được các yêu cầu của quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng.
2.3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính phủ trong phát hiện, xử lý tham nhũng
2.3.1. Phát hiện, xử lý tham nhũng thông qua hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
Thứ nhất, quy định của pháp luật về quyền hạn của Thanh tra Chính phủ trong phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động thanh tra còn rất nhiều vướng mắc khi thực hiện:
Điều 62, Luật Phòng, chống tham nhũng. quy định cơ quan thanh tra, thông qua hoạt động thanh tra chủ động phát hiện và xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. Thực tiễn hoạt động phòng, chống tham nhũng. đã cho thấy quy định này là một trong những rào cản đối với Thanh tra Chính phủ nếu muốn xử lý kịp thời và triệt để hành vi tham nhũng. Bởi nhiều vụ việc được Thanh tra Chính phủ phát hiện, kiến nghị xử lý, nhưng nhiều cơ quan, đơn vị không thực hiện hoặc thực hiện không triệt để, nghiêm túc. Không những thế, trường hợp Thanh tra Chính phủ đưa ra kiến nghị xử lý, nhưng cơ quan có thẩm quyền xử lý nhận định kiến nghị này không có căn cứ, Thanh tra Chính phủ sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. Điều này cho thấy cơ quan thanh tra phải đấu tranh chống tham nhũng mà không có cơ chế đảm bảo.
Thứ hai, tương tự như vậy, Thanh tra Chính phủ cũng gặp nhiều vướng mắc trong việc phát hiện, xử lý tham nhũng thông qua thực hiện chức năng giải quyết khiếu nại, tố cáo:
2.3.2. Phát hiện, xử lý tham nhũng thông qua hoạt động phối hợp giữa Thanh tra Chính phủ và cơ quan tố tụng
– Phối hợp trong trao đổi thông tin về tình hình vi phạm pháp luật:
Sự phối hợp trong trao đổi thông tin về tình hình vi phạm pháp luật giữa Thanh tra Chính phủ và cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực sự hiệu quả, thông suốt và kịp thời. Gần như hoạt động này chỉ diễn ra một chiều, do phía Thanh tra Chính phủ cung cấp, trong khi hoạt động cung cấp thông tin, trao đổi, xác minh theo chiều ngược lại thì chưa được nhiều. Với lý do bảo mật thông tin, trong nhiều trường hợp, sau khi kết thúc điều tra, giải quyết xong vụ án Thanh tra Chính phủ mới được cung cấp thông tin. Hoặc trường hợp không khởi tố vụ án, cơ quan điều tra cũng có thông báo ngược trở lại cho Thanh tra Chính phủ, tuy nhiên cũng chỉ được thực hiện một cách hình thức. Lượng thông tin Thanh tra Chính phủ nhận được từ cơ quan tiến hành tố tụng không bảo đảm để theo sát quá trình giải quyết kiến nghị khởi tố.
– Phối hợp trong việc giải quyết kiến nghị khởi tố của cơ quan thanh tra:
Thông tư liên tịch số 02/2012/TTLT-VKSTC-TTCP-BCA-BQP cũng đưa ra nhiều phương thức và tình huống phối hợp giữa cơ quan thanh tra và cơ quan điều tra. Thông tư này đã không xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan. Theo chúng tôi, một khi đã xác định vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan điều tra cần trực tiếp tiến hành điều tra theo trình tự tố tụng. Hồ sơ, tài liệu do cơ quan thanh tra chuyển sang phải được cơ quan điều tra thẩm định theo quy định để có giá trị chứng minh hành vi phạm tội. Việc đề nghị “cơ quan thanh tra phối hợp thu thập thêm tài liệu, chứng cứ bổ sung vào hồ sơ kiến nghị khởi tố” là không hợp lý.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính phủ trong phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng
– Về tổ chức cơ quan thanh tra:
Một là, tổ chức cơ quan thanh tra theo hướng tập trung nhằm tăng cường tính độc lập của cơ quan thanh tra, bảo đảm hiệu quả phát hiện tham nhũng. Hiện nay, tổ chức và hoạt động thanh tra phụ thuộc rất nhiều vào người đứng đầu cơ quan quản lý. Điều đó cũng có nghĩa là các kết luận của cơ quan thanh tra luôn thể hiện ý chí của thủ trưởng cơ quan quản lý. Vì vậy, việc thiết lập một hệ thống cơ quan thanh tra theo hướng tập trung, không phụ thuộc vào cơ quan hành chính cùng cấp sẽ là yếu tố quan trọng để thanh tra bảo đảm tính độc lập, sẵn sàng đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những vụ việc qua thanh tra phát hiện có dấu hiệu tội phạm.
Hai là, nghiên cứu chuyển đổi mô hình Cục Chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ hiện nay từ đơn vị chuyên trách chống tham nhũng thành cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng tương đương cấp Tổng cục. Cơ quan chuyên trách này sẽ có chức năng giúp Tổng Thanh tra Chính phủ tổ chức, điều phối việc thực hiện nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước và tổ chức các hoạt động phối hợp với cơ quan, tổ chức khác.
Ba là, tăng cường mối quan hệ phối hợp trong nội bộ Thanh tra Chính phủ, nhất là giữa Vụ giám sát, Thẩm định và Xử lý sau thanh tra với Cục Chống tham nhũng để tham mưu giúp lãnh đạo Thanh tra Chính phủ theo dõi chặt chẽ, đôn đốc thường xuyên các vụ việc mà Thanh tra Chính phủ đã phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật, chuyển cơ quan điều tra. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Vụ Kế hoạch, Tài chính và Tổng hợp với Cục Chống tham nhũng để xây dựng, hướng dẫn thống nhất các tiêu chí theo dõi, đánh giá việc phát hiện, xử lý tham nhũng qua hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước nói chung và của Thanh tra Chính phủ nói riêng.
– Về quản lý nhà nước trong phòng, chống tham nhũng:
Luật Phòng, chống tham nhũng cần quy định rõ hơn về quản lý nhà nước trong phòng, chống tham nhũng:
+ Thể hiện rõ những nội dung về quản lý nhà nước trong phòng, chống tham nhũng và quy định rõ nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực này. Đặc biệt là phân định rõ thẩm quyền của Thanh tra Chính phủ trong phòng, chống tham nhũng với thẩm quyền của các cơ quan nhà nước khác như: Kiểm toán, Công an, Kiểm sát, Tòa án. Bên cạnh đó, do công tác phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, vì vậy cũng cần có sự phân định về thẩm quyền của Thanh tra Chính phủ trong phòng, chống tham nhũng với thẩm quyền của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Nội chính Trung ương.
+ Quy định rõ thẩm quyền của Thanh tra Chính phủ trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Ví dụ trong việc thực hiện biện pháp minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, cần quy định tăng thẩm quyền cho Thanh tra Chính phủ trong hướng dẫn việc kê khai, quản lý bản kê khai, xác minh tài sản, thu nhập, xử lý đối với người kê khai không trung thực. Chế định về minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn nên mở thẩm quyền của Thanh tra Chính phủ đối với một số nhóm đối tượng là người có chức vụ, quyền hạn ở cả Trung ương và địa phương. Trong trường hợp này, cần có sự phân định giữa thẩm quyền của Thanh tra Chính phủ với các cơ quan của Đảng và các cơ quan nhà nước ở địa phương.
– Về thẩm quyền của Thanh tra Chính phủ trong công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng:
Quy định bổ sung và chi tiết thẩm quyền của Thanh tra Chính phủ trong công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng; Thanh tra Chính phủ cần tiếp tục chủ động trong việc xây dựng kế hoạch thanh tra, đặc biệt là tập trung vào thanh tra các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, tăng cường thanh tra trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Trong xây dựng kế hoạch thanh tra, cần tổ chức nhiều cuộc thanh tra chuyên đề về thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Hình thức tiến hành các cuộc thanh tra này có thể tiến hành thanh tra, kiểm tra đối với việc thực hiện một hoặc một số nội dung, một hoặc một số biện pháp mà xã hội quan tâm nhưng đối tượng thanh tra thực hiện trên diện rộng, có thể thực hiện đồng thời ở nhiều tỉnh, thành phố, nhiều bộ ngành.
+ Bổ sung quy định về trách nhiệm giải quyết các vụ việc, hồ sơ có dấu hiệu tham nhũng do cơ quan thanh tra gửi sang, trong đó, cần xác định rõ, cơ quan điều tra phải có văn bản trả lời, nêu rõ lý do trong trường hợp không khởi tố vụ án, điều tra theo thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu vụ việc được kết luận là có dấu hiệu tham nhũng của cơ quan tiến hành tố tụng khác.
+ Bổ sung quy định về thẩm quyền điều tra ban đầu đối với vụ việc có dấu hiệu tội phạm tham nhũng của cơ quan thanh tra trong trường hợp cơ quan này đã chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật, nhưng không được xử lý thỏa đáng và Thanh tra Chính phủ không đồng tình với cách giải quyết của cơ quan điều tra.
+ Bổ sung quy định về thẩm quyền điều tra của đơn vị chuyên trách về phòng, chống tham nhũng của Thanh tra Chính phủ sau khi đã thông báo cho viện kiểm sát cùng cấp hoặc cơ quan điều tra cấp trên trong trường hợp không đồng ý với cơ quan điều tra, theo đó, kết luận thanh tra của cơ quan này có giá trị đặc biệt như kết luận điều tra, và được chuyển trực tiếp cho viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố.
+ Quy chế phối hợp giữa Thanh tra Chính phủ với cơ quan chức năng khác trong phòng, chống tham nhũng cần cụ thể hơn, hoàn thiện hơn ở các nội dung sau: phương thức tiếp cận thông tin về các vụ việc đã tiến hành thanh tra; về yêu cầu cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ khi chuyển vụ việc có dấu hiện tham nhũng cho cơ quan điều tra; đồng thời cần có hướng dẫn chung về những trường hợp có dấu hiệu tội phạm và thời điểm cơ quan thanh tra chuyển vụ việc cho cơ quan điều tra… Ngoài ra, cần quy định cơ chế giám sát, kiểm tra và rút kinh nghiệm định kỳ về công tác phối hợp giữa các cơ quan thanh tra và cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ ba, nghiên cứu giao cho cơ quan Thanh tra Chính phủ thực hiện quản lý thống nhất hồ sơ kê khai tài sản cán bộ, công chức nhằm sớm phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng.
Việc quản lý bản kê khai tài sản của cán bộ, công chức sẽ có sự phân cấp với các đối tượng thuộc diện cấp ủy quản lý trong mối quan hệ phối hợp với cơ quan Kiểm tra Đảng. Do vậy, cơ quan Kiểm tra Đảng sẽ thực hiện việc kiểm soát những đối tượng cán bộ cao cấp và do các văn bản của Đảng quy định. Đơn vị thực hiện quản lý bản kê khai tài sản của cán bộ, công chức không thuộc diện cấp ủy quản lý có thể đặt tại Thanh tra Chính phủ và thanh tra cấp tỉnh làm đầu mối.
Một là, trao cho cơ quan thanh tra quyền điều tra ban đầu như một số cơ quan hành chính khác (hải quan, kiểm lâm), khi đó thông tin, tài liệu do cơ quan thanh tra thu thập được sẽ có giá trị chứng minh để phục vụ cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hai là, quy định một trình tự thật đơn giản để “tố tụng hóa” các thông tin, tài liệu mà cơ quan thanh tra thu thập được, bằng cách xác định những giá trị chứng minh của nó đối với hoạt động của cơ quan điều tra. Khi đó sẽ tránh được sự thiếu rõ ràng, làm đi làm lại và ảnh hưởng đến hoạt động quản lý vừa làm chậm quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm tham nhũng./.
ThS. Phạm Thị Thu Hiền Phó Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra
Ban Hành Chức Năng, Nhiệm Vụ, Quyền Hạn Của Thanh Tra Chính Phủ
Chính phủ vừa quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ (TTCP).
Chính phủ quy định, TTCP là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; thực hiện hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
TTCP thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị định số 123/2023/NĐ-CP ngày 1.9.2023 của Chính phủ.
TTCP còn có nhiệm vụ kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của các kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và của Chánh Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, Chánh Thanh tra cấp tỉnh khi cần thiết.
Quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Bộ trưởng kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Thủ tướng Chính phủ giao; quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra tỉnh kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật…
Về phòng, chống tham nhũng, TTCP có nhiệm vụ tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn công tác thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và phòng, chống tham nhũng trong công tác thanh tra; thanh tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng tại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo thẩm quyền hoặc chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; chủ động phối hợp với các cơ quan, tổ chức trong việc phát hiện hành vi tham nhũng; thanh tra vụ việc có dấu hiệu tham nhũng; đôn đốc việc xử lý người có hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật và theo phân cấp quản lý cán bộ của Đảng và Chính phủ…
Về cơ cấu tổ chức, Chính phủ quy định TTCP gồm có 19 đơn vị.
9 Nhiệm Vụ Khắc Phục Hạn Chế, Tồn Tại Trong Quản Lý Đất Đai
“Nhiều lĩnh vực được giao quản lý đất đai và sử dụng đất lâu nay được coi là vùng cấm, đó là đất quốc phòng, an ninh thiếu sự giám sát, buông lỏng quản lý, quản lý yếu kém đã xảy ra sai phạm lớn không chỉ gây thất thoát lãng phí về tài nguyên đất mà còn tác động xấu tới uy tín, lĩnh vực của ngành”, đại biểu thẳng thắn nêu vấn đề.
Trong khi đó, đại biểu Nguyễn Thanh Hiền – Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Nghệ An cho rằng cần làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm tham mưu, quản lý Nhà nước và làm rõ năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ được giao trực tiếp trong lĩnh vực này để làm rõ đâu là năng lực yếu, đâu là có sự lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, đâu là sự buông lỏng trong công tác quản lý.
Dẫn ra thực trạng “giật mình” tại sân bay Bạch Mai tại Hà Nội, như một thí dụ điển hình việc quản lý lỏng lẻo đất quốc phòng, đại biểu Lưu Bình Nhưỡng (Bến Tre) cho biết “Nói thật với Quốc hội là rất nhiều các công trình dân sinh, dân sự trong đó, sân golf cũng có, sân bóng đá cũng có, vũ trường, sàn nhảy cũng có”, ông Nhưỡng nói và nêu quan điểm: “Báo cáo giám sát của Quốc hội ghi rất rõ là nghiêm cấm sử dụng đất quốc phòng để làm kinh tế, đặc biệt là kinh tế thuần túy…Do đó, cần phải xem xét, đánh giá lại, định nghĩa lại cho các cơ quan, đơn vị quốc phòng họ có sơ sở để thực hiện đúng các quy định của pháp luật để tránh tình trạng vi phạm”…
Bên cạnh đó, cũng có một số ý kiến về vấn đề quản lý đất tại các đô thị lớn vẫn chưa thực sự đạt hiệu quả.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thực hiện chính sách pháp luật về quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai tại đô thị, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã nêu 9 nhóm nhiệm vụ mà Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương phải tập trung thực hiện trong thời gian tới.
Thứ hai, nâng cao chất lượng quy hoạch, thường xuyên rà soát, cập nhật, bổ sung, điều chỉnh kịp thời quy hoạch theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm tính kế hoạch và phát triển phù hợp với đòi hỏi thực tiễn của từng thời kỳ, bảo đảm đúng quy chuẩn và tiêu chuẩn theo quy định. “Phải thực hiện công khai các thông tin về quy hoạch để người dân biết, tham gia giám sát”, Phó Thủ tướng yêu cầu.
Đồng thời, phải lựa chọn các dự án ưu tiên để đầu tư xây dựng, khắc phục tình trạng đầu tư tự phát, phong trào, không có kế hoạch. Kiểm soát bảo đảm thị trường bất động sản phát triển lành mạnh.
Thứ tư, thực hiện tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư, bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và đặc biệt là lợi ích của người dân.
Thứ năm, tăng cường kiểm soát chặt chẽ việc lựa chọn nhà đầu tư phát triển các dự án đô thị, khu công nghiệp, dịch vụ theo đúng quy định của pháp luật. Song song với đó, xây dựng cơ chế kiểm soát việc xác định giá đất bảo đảm công khai, minh bạch, theo cơ chế thị trường, tránh thiệt hại cho Nhà nước. Có kế hoạch về vốn ngân sách Nhà nước để bồi thường, giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch để đấu giá đất.
Thứ sáu, có các giải pháp hữu hiệu để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các nhiệm vụ được cử tri quan tâm như đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội, đặc biệt là nhà ở cho công nhân các khu công nghiệp, khu kinh tế; cải tạo chung cư cũ xuống cấp nguy hiểm tại các đô thị; chuyển các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường, cơ sở đông người ra khỏi khu dân cư tập trung ở nội đô.
Thay vào đó bằng cơ cấu sử dụng đất hợp lý để tăng không gian công cộng cho người dân; rà soát quy hoạch, bảo đảm các không gian công cộng cho người dân; rà soát các công trình sử dụng nhiều đất đai để khắc phục tình trạng lãng phí đất đai; quy hoạch sử dụng không gian ngầm; nghĩa trang…; quản lý chặt chẽ việc người nước ngoài sử hữu nhà ở tại Việt Nam theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ bảy, tăng cường công tác quản lý, kiểm soát sử dụng đất đai và phát triển đô thị. Trong đó, tập trung vào công tác thanh tra, kiểm tra, các dự án đầu tư phát triển đô thị. Xử lý nghiêm các vi phạm theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ tám, tổ chức bộ máy quản lý đất đai, quản lý phát triển đô thị tinh gọn, hiệu quả. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức trong lĩnh vực quản lý đất đai, phát triển đô thị.
Cuối cùng, Phó Thủ tướng đặc biệt nhấn mạnh vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, trong đó có vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp tại các địa phương, đặc biệt là vai trò của các vị ĐBQH và Quốc hội.
Quân Vương
Chức Năng, Nhiệm Vụ, Quyền Hạn Của Thanh Tra Huyện
1. Thanh tra huyện là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi quản lý Nhà nước của UBND huyện; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
2. Thanh tra huyện có con dấu, tài khoản riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân cấp huyện mà trực tiếp là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện; đồng thời chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về nghiệp vụ của Thanh tra tỉnh.
Điều 2. Nhiệm vụ, quyền hạn
1. Trình Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định, chỉ thị về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được giao.
2. Trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện kế hoạch thanh tra hàng năm và các chương trình, kế hoạch khác theo quy định của pháp luật.
3. Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch sau khi được Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt.
4. Thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lĩnh vực thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng cho cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.
5. Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.
6. Phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc ViệtNamcùng cấp hướng dẫn nghiệp vụ công tác cho các Ban Thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn.
7. Về thanh tra:
b) Thanh tra vụ việc khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giao;
c) Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Thanh tra huyện và của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.
8. Về giải quyết khiếu nại, tố cáo:
a) Hướng dẫn Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc quyền quản lý của Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc tiếp công dân, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, giải quyết khiếu nại, tố cáo;
b) Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc quyền quản lý của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; kiến nghị các biện pháp tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc phạm vi quản lý của Chủ tịch Ủy ban nhân cấp huyện;
c) Xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện khi được giao;
d) Xem xét, kết luận việc giải quyết tố cáo mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật thì kiến nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, giải quyết lại theo quy định;
đ) Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý tố cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện;
e) Tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
9. Về phòng, chống tham nhũng:
a) Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và các cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của Ủy ban nhân dân cấp huyện;
b) Phối hợp với cơ quan Kiểm toán nhà nước, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân trong việc phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng;
c) Tiến hành xác minh kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; tổng hợp kết quả kê khai, công khai, xác minh, kết luận, xử lý vi phạm về minh bạch tài sản, thu nhập trong phạm vi địa phương mình; định kỳ báo cáo kết quả về Thanh tra tỉnh;
d) Kiểm tra, giám sát nội bộ nhằm ngăn chặn hành vi tham nhũng trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.
11. Tổ chức ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; xây dựng hệ thống thông tin, lưu trữ phục vụ công tác quản lý nhà nước và chuyên môn, nghiệp vụ của Thanh tra huyện.
12. Tổng hợp, thông tin, báo cáo kết quả công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Thanh tra tỉnh.
13. Quản lý biên chế, công chức, thực hiện các chế độ, chính sách, chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo và bồi dưỡng đối với công chức thuộc phạm vi quản lý của Thanh tra huyện theo quy định của pháp luật và theo phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp huyện.
14. Quản lý, sử dụng tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp luật và phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp huyện.
15. Thực hiện nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân cấp huyện giao và theo quy định của pháp luật.
UBND huyện
Chức Năng, Nhiệm Vụ Và Quyền Hạn Của Thanh Tra Sở
Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh Uỷ, HĐND, UBND Tỉnh, Bộ Tài chính, Thanh tra Tỉnh và Ban giám đốc sở.
Nắm vững các chế độ, chính sách qui định hiện hành, nội dung quy trình các công việc trong công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo với thời gian ngắn nhất, đạt được hiệu quả cao nhất.
Thực hiện nghiêm chỉnh qui chế làm việc của Sở Tài chính theo Quyết định số 265/QĐ-STC ngày 01/10/2023 của Giám đốc Sở Tài chính tỉnh Điện Biên và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được Ban Giám đốc sở giao.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục, phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
* Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra sở
Thanh tra sở là bộ phận chuyên môn giúp giám đốc sở thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng theo quy định của pháp luật và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc sở.
Thanh tra, kiểm tra đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của Sở Tài chính về việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ do cấp có thẩm quyền giao.
Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách pháp luật về lĩnh vực tài chính, ngân sách, kế toán, giá cả và quản lý tài sản nhà nước đối với UBND các huyện, thành phố, xã, phường, thị trấn, các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội, doanh nghiệp theo qui định của pháp luật.
Giúp giám đốc sở thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật.
Thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về chống tham nhũng.
Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc sở thực hiện các qui định về công tác thanh tra, kiểm tra.
Tổng hợp báo cáo kết quả về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý của Sở Tài chính.
Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Tham mưu giúp Ban Giám đốc sở tổ chức thực hiện công tác pháp chế tại cơ quan Sở Tài chính theo quy định hiện hành.
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo qui định của pháp luật và phân công của Giám đốc Sở Tài chính.
. – Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh thanh tra
Điều hành chung, giúp giám đốc sở lãnh đạo, chỉ đạo công tác thanh tra, tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi quản lý của Sở Tài chính.
Xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra trình giám đốc sở phê duyệt và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch khi được giám đốc sở phê duyệt.
Trình giám đốc sở quyết định việc thanh tra, kiểm tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc quyết định việc thanh tra, kiểm tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và chịu trách nhiệm trước Giám đốc sở về quyết định của mình.
Xử phạt vi phạm hành chính theo qui định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
– Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, kiểm tra thuộc quyền quản lý của Sở Tài chính.
– Báo cáo giám đốc Sở Tài chính, Chánh thanh tra tỉnh và Chánh thanh tra Bộ Tài chính về công tác thanh tra, tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng trong phạm vi trách nhiệm của mình.
– Tổ chức thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra theo qui định của pháp luật.
– Tham mưu giúp Ban Giám đốc sở tổ chức thực hiện công tác pháp chế tại cơ quan Sở Tài chính theo quy định hiện hành.
– Nhiệm vụ, quyền hạn của Phó Chánh thanh tra
– Trực tiếp giúp việc cho Chánh thanh tra và chịu trách nhiệm trước Chánh thanh tra về các mặt công tác được phân công.
– Tham mưu, đề xuất với Chánh thanh tra xử lý các nội dung công việc thuộc phạm vi được phân công phụ trách và báo cáo Chánh thanh tra kết quả thực hiện nhiệm vụ được phân công.
– Chủ động triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.
– Điều hành công việc của thanh tra sở khi được Chánh thanh tra sở giao.
Cập nhật thông tin chi tiết về Một Số Giải Pháp Khắc Phục Tồn Tại, Hạn Chế Trong Thực Hiện Chức Năng, Nhiệm Vụ, Quyền Hạn Của Thanh Tra Chính Phủ Về Pctn trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!