Xu Hướng 4/2023 # Một Số Giải Pháp Chủ Yếu Về Phát Triển Kinh Tế Những Tháng Cuối Năm 2011 # Top 5 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 4/2023 # Một Số Giải Pháp Chủ Yếu Về Phát Triển Kinh Tế Những Tháng Cuối Năm 2011 # Top 5 View

Bạn đang xem bài viết Một Số Giải Pháp Chủ Yếu Về Phát Triển Kinh Tế Những Tháng Cuối Năm 2011 được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Với sự đồng thuận của toàn xã hội, nỗ lực, cố gắng vượt bậc của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, tình hình kinh tế nước ta 7 tháng đầu năm 2011 đã đạt được những kết quả tích cực.

Kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng cao; tổng kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2011 đạt 51,5 tỷ USD, tăng 33,5% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ nhập siêu trong 7 tháng là 6,64 tỷ USD, bằng 12,9% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu (thấp hơn bình quân 6 tháng là 15,72%). Các ngành, các cấp đã triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để kiểm soát nhập siêu cả năm 2011 không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu. Các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch tiếp tục đà tăng trưởng; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 7 tháng ước đạt 1065,8 nghìn tỷ đồng, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2010. Thu ngân sách tiếp tục tăng khá, bảo đảm nguồn chi ngân sách và góp phần giảm bội chi ngân sách nhà nước. Tổng thu ngân sách nhà nước 7 tháng đầu năm 2011 ước đạt khoảng 386,8 nghìn tỷ đồng, bằng 65% dự toán năm. Tổng chi ngân sách nhà nước 7 tháng đầu năm 2011 ước khoảng 420,3 nghìn tỷ đồng, bằng 58,8% dự toán năm.

Trong bối cảnh nền kinh tế trong và ngoài nước còn nhiều khó khăn, thách thức, đạt được kết quả trên đã thể hiện quyết tâm, nỗ lực rất lớn của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân. Bên cạnh những kết quả tích cực, tình hình kinh tế nước ta đang đứng trước những khó khăn rất lớn như:

Lạm phát tuy có xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao. Giá tiêu dùng tháng 7/2011 so với tháng 12/2010 tăng 14,61% và tăng tới 34,62% so với cùng kỳ năm 2010. Nguyên nhân của lạm phát cao có yếu tố bên ngoài như giá lương thực, xăng dầu quốc tế tăng, tình hình lạm phát cao đang diễn ra ở nhiều nước trên thế giới và yếu tố bên trong do tác động của việc sử dụng gói kích thích kinh tế từ năm 2008 đến năm 2010 cũng như từ việc tăng giá điện, xăng dầu, tăng lương cán bộ, công chức.

Mặt bằng lãi suất vẫn ở mức cao, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay khá lớn. Việc vay vốn tín dụng của một bộ phận doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn khó khăn.

Nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu đã có cải thiện nhưng mức nhập siêu vẫn còn cao, 7 tháng đầu năm 2011 ước khoảng 6,64 tỷ USD. Nhập siêu của nước ta chủ yếu từ các nước trong khu vực, nhất là từ Trung Quốc. Do vậy, cần tiếp tục có các giải pháp phù hợp để cải thiện tình hình, giảm sức ép đối với tỷ giá, thị trường ngoại hối và lãi suất cho vay.

Mô hình phát triển kinh tế của nước ta còn một số bất cập; hiệu quả công tác dự báo chưa cao; công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa thu được nhiều kết quả. Một số cơ quan, địa phương có lúc, có nơi còn chưa thực sự triển khai quyết liệt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Do ảnh hưởng của lạm phát, lãi suất cao, khu vực sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn, lợi nhuận sụt giảm, một số phải thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh, thậm chí đã có không ít doanh nghiệp bị phá sản. Đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm so với cùng kỳ. Thị trường chứng khoán khó khăn, thị trường bất động sản suy giảm. Xu hướng này sẽ ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội trong năm 2011 và các năm sau.

Nhìn chung, tình hình kinh tế những tháng cuối năm 2011 và năm 2012 còn diễn biến phức tạp và nhiều khó khăn do tác động, ảnh hưởng của cả những tồn tại, hạn chế nội tại của nền kinh tế và tác động do diễn biến khó lường từ bên ngoài. Lạm phát, mặt bằng lãi suất vẫn ở mức cao; khu vực sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn do phải tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tài khoá, tiền tệ và kiềm chế lạm phát. Trước tình hình trên đòi hỏi cần tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo điều hành kiên trì, quyết liệt các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội trong những tháng cuối năm 2011 và một số năm tiếp theo.

Trước những bất ổn vĩ mô đang hiện hữu cho thấy việc thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ kinh tế của năm 2011 đang là thách thức lớn. Việc lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành những tháng cuối năm phải tiếp tục kiên trì bám sát các nội dung Kết luận của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội, quyết liệt, đồng bộ trong chỉ đạo điều hành triển khai thực hiện các giải pháp; trong đó tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội là mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm. Đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm của một số năm tiếp theo để tạo đà phát triển bền vững cho việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011 – 2015 và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2011 – 2020.

Để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tiềm năng tăng trưởng những tháng cuối năm, một số giải pháp cần tập trung triển khai thực hiện, đó là:

Về chính sách tiền tệ: Tiếp tục thực hiện điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng; điều hành tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý theo quý, tháng phù hợp với diễn biến thị trường, đặc biệt là vào các thời điểm mùa vụ sản xuất, kinh doanh khi nhu cầu vốn tăng cao. Tiếp tục sử dụng linh hoạt, hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ để giảm sức ép lạm phát, giảm lãi suất xuống mức phù hợp nhằm hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, bảo đảm thanh khoản của hệ thống tín dụng, ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.

Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nợ xấu và chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng; kiểm soát để tỷ lệ và mức cho vay tín dụng vào lĩnh vực phi sản xuất, bất động sản, chứng khoán giảm so với hiện nay; tập trung vốn cho vay lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp, nông thôn, sản xuất những sản phẩm thiết yếu với đời sống nhân dân, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ. Tiếp tục thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn tài chính của các tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư, công ty tài chính; xác định tiêu chí và thực hiện phân loại các tổ chức tín dụng để có biện pháp giám sát và xử lý kịp thời.

Tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt, hợp lý để bình ổn thị trường và tăng dự trữ ngoại hối; tăng cường kiểm tra, giám sát việc tuân thủ quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng. Kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền là mục tiêu trung và dài hạn của chính sách tiền tệ, tạo tiền đề cho việc kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.

Về chính sách tài khoá: Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách tài khóa thắt chặt, phối hợp hài hoà với việc thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng nhằm giảm tổng cầu, giảm sức ép lạm phát năm 2011 và năm 2012. Tiếp tục tập trung thực hiện các giải pháp tăng thu, phấn đấu vượt 7 – 8% dự toán thu năm 2011; tiết kiệm chi để giảm bội chi ngân sách thấp hơn mức Quốc hội quyết định; tiếp tục rà soát, cắt giảm vốn đầu tư của Nhà nước vào những công trình, dự án không hiệu quả, chưa thật sự cần thiết, tiến độ chậm, kéo dài, tập trung vốn cho các công trình sắp hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2011, công trình an sinh xã hội, giảm nghèo, phòng tránh thiên tai; kiểm soát chặt chẽ đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.

Quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn dự phòng ngân sách, nguồn tăng thu năm 2011 và nguồn tiết kiệm chi thường xuyên năm 2011; ưu tiên dùng các nguồn này cho phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, thực hiện chính sách an sinh xã hội. Các Bộ, ngành và địa phương chủ động sắp xếp, bố trí trong phạm vi dự toán được giao để xử lý các nhiệm vụ đột xuất phát sinh trong năm. Tăng cường quản lý, giám sát nợ nước ngoài của khu vực doanh nghiệp; tăng cường kiểm soát nợ Chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài quốc gia, bảo đảm trong giới hạn phù hợp, an toàn.

Về chính sách thương mại, giá cả, thị trường: Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ thị trường, giá cả, bảo đảm ổn định cung – cầu hàng hoá, dịch vụ thiết yếu. Tập trung chỉ đạo quản lý thị trường, giá cả, chủ động phương án ứng phó trước những biến động của tình hình thị trường hàng hóa thế giới và trong nước, không để xảy ra đột biến giá các mặt hàng thiết yếu; ổn định nguồn cung trong nước, bảo đảm cân đối cung – cầu hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống. Thực hiện điều hành giá điện, xăng dầu, than theo cơ chế thị trường phù hợp với tình hình và mục tiêu kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội; thực hiện công khai, minh bạch trong điều hành giá cả theo cơ chế thị trường để các doanh nghiệp và người dân hiểu rõ, có sự chuẩn bị về tâm lý và biện pháp ứng xử.

Các ngành, các cấp tiếp tục chỉ đạo thực hiện các biện pháp bình ổn giá cả, thị trường, tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật về giá, nhất là đăng ký, kê khai, niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, ngăn chặn đầu cơ, găm hàng, thao túng thị trường, tăng giá bất hợp lý, buôn lậu qua biên giới; chống đầu cơ tăng giá, cạnh tranh không lành mạnh; xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về giá cả, thị trường. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, vận động cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương trong quản lý, kiểm tra, giám sát giá cả, bình ổn thị trường. Nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành hàng; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành với các Hiệp hội ngành hàng để tạo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành, phối hợp tổ chức mạng lưới thông tin dự báo tình hình thị trường, giá cả.

Về thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng: Thực hiện các biện pháp tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh, trong tiếp cận vốn đối với dự án hiệu quả, có đầu ra của sản phẩm; khuyến khích tiết giảm chi phí, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Tập trung nguồn lực đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn để bảo đảm an ninh lương thực và tăng xuất khẩu nông sản, bảo đảm đời sống nông dân; có giải pháp cụ thể giúp nông dân qua hỗ trợ về kỹ thuật, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu… và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tiếp tục đầu tư phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn, có lợi thế so sánh, sản phẩm đầu ra có chất lượng, giá trị gia tăng cao và các ngành công nghiệp hỗ trợ để tạo đà phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại. Phát triển mạnh, ổn định các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao; phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, chất lượng cao. Có biện pháp phù hợp để khuyến khích, tăng cường vai trò của khu vực kinh tế ngoài nhà nước trong định hướng phát triển các ngành kinh tế và các lĩnh vực dịch vụ. Bảo đảm đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân đi đôi với tiết kiệm điện.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xây dựng cơ chế ưu đãi về thuế, vốn, đất đai, nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; chú trọng công tác quy hoạch, tăng cường công tác quản lý, bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đất đai, tài nguyên và nhân lực. Khuyến khích và tạo điều kiện để doanh nghiệp sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, tài nguyên, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tiếp tục triển khai thực hiện từng bước, có hiệu quả chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tăng cường tính minh bạch, nâng cao hiệu quả của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản để tạo kênh huy động hiệu quả, bền vững các nguồn lực tài chính, đất đai phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.

Xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể thúc đẩy xuất khẩu, sử dụng hàng sản xuất trong nước và kiểm soát nhập khẩu đối với từng loại mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu có kim ngạch lớn. Thực hiện nghiêm chủ trương sử dụng hàng hóa, vật tư, thiết bị sản xuất trong nước; xây dựng quy trình, nguyên tắc kiểm soát nhập khẩu hàng hóa, vật tư, thiết bị của các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn do Chính phủ bảo lãnh, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu hàng tiêu dùng, đặc biệt là hàng ảnh hưởng đến sức khoẻ, môi trường, hàng xa xỉ, hàng không thiết yếu, hàng không khuyến khích nhập khẩu; hạn chế xuất khẩu tài nguyên, nguyên liệu thô.

Chỉ đạo điều hành xuất khẩu gắn với yêu cầu bình ổn giá cả, thị trường trong nước. Điều chỉnh, bổ sung chính sách thuế theo hướng tạo động lực khuyến khích sản xuất các mặt hàng trong nước có khả năng thay thế nhập khẩu và hạn chế nhập khẩu, nhất là đối với các mặt hàng xa xỉ, hàng không thiết yếu. Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại cấp cao, thúc đẩy hợp tác, đầu tư và buôn bán giữa Việt Nam với các nước. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách cơ cấu và quản trị doanh nghiệp, làm rõ trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Triển khai thực hiện nghiêm túc và có kết quả việc sắp xếp, đổi mới, cổ phần hoá, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý về cơ chế cảnh báo sớm đối với doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi về nguồn nhân lực, đất đai, vốn, hỗ trợ pháp lý để khuyến khích phát triển các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế ngoài nhà nước./.

Theo Báo Điện tử Đảng Cộng sản

Nguồn:http://dangcongsan.vn/CPV/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30066&cn_id=471867

Một Số Nhiệm Vụ, Giải Pháp Chủ Yếu Phát Triển Kinh Tế Tư Nhân

Ngày 03 tháng 6 năm 2017, Ban chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, theo đó có một số giải pháp chủ yếu sau đây để thực hiện:

1- Thống nhất nhận thức, tư tưởng, hành động trong triển khai các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân

– Thống nhất nhận thức của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội về khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân.

– Phát huy thế mạnh và tiềm năng to lớn của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế – xã hội phải đi đôi với khắc phục có hiệu quả những mặt trái phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân.

– Phòng, chống có hiệu quả các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân.

2- Tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân

Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô

– Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.

– Chủ động, linh hoạt điều hành chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường, kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý. Phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Bảo đảm lãi suất và tỉ giá hối đoái ổn định, phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô và thị trường. Đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu; cơ cấu lại ngân sách nhà nước gắn với giảm bội chi ngân sách, bảo đảm an toàn nợ công và nâng cao hiệu quả đầu tư công; khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư tư nhân và bảo đảm hoạt động của kinh tế tư nhân theo cơ chế thị trường

– Thể chế hóa đầy đủ và bảo đảm thực hiện nghiêm minh quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, các quyền, nghĩa vụ dân sự của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.

– Có các cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập doanh nghiệp tư nhân; thu hẹp những lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực, địa bàn mà pháp luật không cấm, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ.

– Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động, tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc chuyển đổi sang hoạt động kinh doanh theo mô hình doanh nghiệp thông qua các chính sách như: Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền sử dụng đất trong những năm đầu hoạt động; tư vấn, hướng dẫn thủ tục thành lập doanh nghiệp, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh; tổ chức công tác tài chính, kế toán; cung cấp thông tin; hướng dẫn quản trị doanh nghiệp và tư vấn pháp luật.

– Hoàn thiện và bảo đảm thực thi minh bạch, hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, phong trào khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; tạo tiền đề hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân sở hữu hỗn hợp, bao gồm cả việc góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước có tiềm lực vững mạnh, đủ sức cạnh tranh, tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, điện tử, nông nghiệp.

– Có chính sách khuyến khích sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp theo hướng chủ yếu dựa vào doanh nghiệp, hợp tác xã và trang trại có quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho nông dân.

– Bảo đảm các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân phù hợp với cơ chế thị trường và thúc đẩy tính tự chủ, cạnh tranh của kinh tế tư nhân; không biến các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân thành bao cấp, phục vụ “lợi ích nhóm” dưới mọi hình thức. Không biến việc chấp thuận, xác nhận, chứng nhận đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn kỹ thuật thành giấy phép con, gây cản trở hoạt động của kinh tế tư nhân.

– Hoàn thiện và bảo đảm cơ chế thực thi nghiêm minh, có hiệu quả pháp luật về hợp đồng. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của các thiết chế giải quyết tranh chấp kinh tế, dân sự, trọng tâm là các hoạt động thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án nhân dân các cấp, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp.

Mở rộng khả năng tham gia thị trường và thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng

– Phát triển mạnh mẽ, thông suốt, đồng bộ các thị trường, hệ thống lưu thông, phân phối hàng hóa, dịch vụ trên cả nước, đặc biệt là thị trường tư liệu sản xuất; đồng thời có biện pháp bảo vệ có hiệu quả thị trường trong nước gắn với đẩy mạnh phát triển thị trường quốc tế phù hợp với các cam kết quốc tế. Bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Làm tốt công tác quy hoạch mạng lưới phân phối phù hợp với quy mô dân số và đặc điểm địa phương. Định hướng phát triển sản xuất phù hợp với nhu cầu trong nước và tốc độ mở rộng thị trường ngoài nước. Có biện pháp hiệu quả ổn định thị trường tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là đối với hàng nông sản. Tăng cường công tác phòng, chống gian lận thương mại, thao túng, chi phối thị trường, bóp méo giá cả, quan hệ cung – cầu hàng hóa, dịch vụ.

– Xoá bỏ các rào cản, chính sách, các biện pháp hành chính can thiệp trực tiếp vào thị trường và sản xuất kinh doanh tạo ra bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực xã hội, trọng tâm là vốn và đất đai, cơ hội kinh doanh ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của kinh tế tư nhân. Tăng cường tính minh bạch và kiểm soát độc quyền kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.

– Xây dựng chính sách tạo điều kiện để kinh tế tư nhân tham gia vào quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước thông qua việc góp vốn, mua cổ phần; thúc đẩy liên kết theo chuỗi giá trị giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp của tư nhân… Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ công.

– Có chính sách ưu tiên thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các dự án đầu tư có công nghệ cao, các công ty đa quốc gia lớn, gắn với yêu cầu chuyển giao và lan tỏa rộng rãi công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị với các doanh nghiệp của tư nhân trong nước, nhất là trong phát triển ngành chế biến, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, nông nghiệp công nghệ cao.

– Hoàn thiện thể chế quản lý tài chính doanh nghiệp và minh bạch thông tin tài chính doanh nghiệp của tư nhân.

Phát triển kết cấu hạ tầng

– Tập trung phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ, hiện đại, nhất là giao thông, năng lượng, viễn thông, đô thị, cấp, thoát nước, thủy lợi, xử lý chất thải, dịch vụ hậu cần và tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận, sử dụng bình đẳng, với chi phí hợp lý.

– Sớm hoàn thiện thể chế để đẩy mạnh thực hiện cơ chế hợp tác công – tư trong đầu tư, khai thác, sử dụng, kinh doanh các dự án, công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – kỹ thuật. Kiểm soát chặt chẽ chi phí đầu tư, việc vận hành và thu hồi vốn của các dự án kết cấu hạ tầng để giảm chi phí sản xuất, kinh doanh cho người dân và doanh nghiệp.

– Tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu vận tải đa phương tiện cho các doanh nghiệp dựa trên hệ thống giao thông đồng bộ, có trọng điểm, kết nối giữa các trung tâm kinh tế lớn và giữa các trục giao thông đầu mối. Mở rộng đầu tư và hiện đại hóa giao thông đường bộ, đường sắt, hàng hải, thủy nội địa và đường hàng không; tăng cường kết nối các hệ thống giao thông liên kết vùng và địa phương, kết nối hệ thống giao thông trong nước với quốc tế; phát triển dịch vụ hậu cần, lưu thông, phân phối hàng hóa, dịch vụ thuận tiện, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế.

– Rà soát, hoàn thiện quy hoạch và đẩy mạnh đầu tư phát triển đồng bộ các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của doanh nghiệp về mặt bằng sản xuất, kinh doanh với hạ tầng kinh tế – kỹ thuật, dịch vụ hỗ trợ đầy đủ và chi phí hợp lý.

Tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lực

– Cơ cấu lại và phát triển nhanh, an toàn, hiệu quả các thị trường tài chính, nhất là thị trường tiền tệ và thị trường vốn; tạo điều kiện bình đẳng, thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận vay vốn ngân hàng, huy động vốn trên thị trường chứng khoán, nhất là phát hành trái phiếu doanh nghiệp và sử dụng các dịch vụ tài chính với chi phí hợp lý.

– Phát triển đa dạng các định chế tài chính, các quỹ đầu tư mạo hiểm, các quỹ bảo lãnh tín dụng, các tổ chức tài chính vi mô, các tổ chức tư vấn tài chính, dịch vụ kế toán, kiểm toán, thẩm định giá, xếp hạng tín nhiệm… Đẩy mạnh cơ cấu lại và phát triển đồng bộ thị trường chứng khoán, thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp và các thị trường chứng khoán phái sinh để thị trường chứng khoán thực sự trở thành một kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng của các doanh nghiệp tư nhân.

– Phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng an toàn, lành mạnh; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, khách hàng và của bản thân tổ chức tín dụng. Phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng các dịch vụ ngân hàng, nhất là dịch vụ tín dụng và thanh toán cho nền kinh tế. Nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách tín dụng phù hợp với các phương thức sản xuất kinh doanh, đối tượng khách hàng, tăng cường kết nối các khâu trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị.

– Phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ bảo hiểm để góp phần giảm thiểu rủi ro, tổn thất và ổn định sản xuất, kinh doanh, đời sống của người dân và doanh nghiệp. Chú trọng phát triển bảo hiểm trong lĩnh vực nông nghiệp.

– Có cơ chế, chính sách tạo điều kiện để kinh tế tư nhân tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hỗ trợ kinh tế tư nhân tiếp cận, khai thác các cơ hội trong hội nhập quốc tế, mở rộng thị trường, đẩy mạnh đầu tư và thương mại quốc tế; xóa bỏ các rào cản bất hợp lý đối với kinh tế tư nhân khi tham gia thương mại, đầu tư quốc tế. Tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển, nâng cao năng lực từng bước tham gia sâu, vững chắc vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

3- Hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động

– Khuyến khích, hỗ trợ kinh tế tư nhân đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến. Hoàn thiện và bảo đảm thực thi hiệu quả pháp luật về sở hữu trí tuệ. Phát triển các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ. Áp dụng chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi phù hợp với hoạt động nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ. Kết nối doanh nghiệp, ý tưởng khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo với các nhà đầu tư, quỹ đầu tư.

– Ưu tiên phát triển các khu công nghệ cao, các vườn ươm công nghệ cao và các doanh nghiệp khoa học – công nghệ. Đẩy mạnh đầu tư, phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học – công nghệ, đội ngũ các nhà khoa học. Tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế trong nghiên cứu phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ; mua bán, chuyển giao các sản phẩm khoa học, công nghệ mới. Đẩy mạnh thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu khoa học, công nghệ.

– Đẩy mạnh thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực. Đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nhất là đào tạo nghề, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng đủ nhu cầu số lượng và chất lượng nhân lực cho phát triển kinh tế tư nhân. Tăng cường hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo; quy hoạch và phát triển đào tạo theo nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp và thị trường.

– Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ doanh nhân có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng quản lý, quản trị hiện đại, đạo đức kinh doanh và tinh thần trách nhiệm đối với quốc gia, dân tộc. Xây dựng và triển khai rộng rãi các chuẩn mực đạo đức, văn hóa của doanh nhân Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

– Khuyến khích, động viên tinh thần kinh doanh, ý chí khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, nhất là trong cộng đồng doanh nghiệp. Đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền, giáo dục kiến thức kinh doanh, khởi nghiệp trong toàn xã hội.

4- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước

– Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phát triển đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính, có tư tưởng chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao.

– Nâng cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật, cơ chế, chính sách, kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn cho kinh tế tư nhân phát triển lành mạnh, đúng định hướng.

– Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, trách nhiệm giải trình của các bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp đối với việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo gánh nặng tâm lý đối với người dân và doanh nghiệp. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, thương mại, dân sự.

– Đẩy mạnh cải cách hành chính mà trọng tâm là tạo bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính. Đơn giản hóa, rút ngắn thời gian xử lý các thủ tục hành chính, nhất là về thành lập doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh, cấp phép, thuế, xuất khẩu, nhập khẩu, giải quyết tranh chấp, tố tụng, xét xử, thi hành án, phá sản,…

– Nâng cao năng lực, hiệu quả phối hợp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực và địa phương đối với kinh tế tư nhân, bao gồm cả việc bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức xã hội – nghề nghiệp. Đẩy mạnh phân cấp đi đôi với bảo đảm sự quản lý thống nhất, phối hợp liên thông, gắn kết giữa các cơ quan hành chính cùng cấp, giữa Trung ương và địa phương.

– Hoàn thiện và công khai, minh bạch hệ thống thông tin kinh tế – xã hội, cơ sở dữ liệu, văn bản quy phạm pháp luật, các quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển, cơ chế, chính sách quản lý để tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận khai thác và sử dụng. Khẩn trương xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung, thống nhất, tích hợp về khu vực kinh tế tư nhân.

5- Đổi mới nội dung, phương thức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp đối với kinh tế tư nhân

– Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức đảng trong khu vực kinh tế tư nhân phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các cấp ủy đảng tăng cường chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về chủ trương nhất quán trong phát triển kinh tế tư nhân của Đảng và Nhà nước; lãnh đạo thực hiện có hiệu quả, công khai, minh bạch các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân. Có giải pháp thực hiện chủ trương phát triển đảng trong khu vực kinh tế tư nhân. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết thực hiện các chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân.

– Bảo đảm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với khu vực kinh tế tư nhân trên cơ sở phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.

– Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp trong phát triển kinh tế tư nhân. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xã hội – nghề nghiệp, làm tốt vai trò tổ chức đại diện, tích cực phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước để cung cấp thông tin, hỗ trợ liên kết, hợp tác kinh doanh, đào tạo kỹ thuật và tư vấn cho các hội viên.

Phương Thảo

8 Nhóm Giải Pháp Chủ Yếu Phát Triển Kinh Tế

Trình bày báo cáo của Chính phủ tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ nhất Quốc hội Khóa XIII ngày 21/7, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng đã nêu rõ 8 nhóm giải pháp chủ yếu phát triển KT-XH 6 tháng cuối năm, nhằm hoàn thành các chỉ tiêu năm 2011 ở mức cao nhất.

Báo cáo của Chính phủ đã chỉ ra những khó khăn, thách thức của tình hình trong nước và quốc xuất hiện ngay từ đầu năm 2011. Kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, bất ổn chính trị tại một số khu vực. Trong khi đó, nền kinh tế trong nước đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn hơn dự báo cuối năm 2010.

“Nguy cơ lạm phát cao, bất ổn kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội đã trở thành thách thức lớn đối với nền kinh tế nước ta trong năm 2011”, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho biết.

Kết quả bước đầu đáng mừng

Nhận diện được tình hình nêu trên, tháng 2/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP, đưa ra 6 nhóm giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.

Chính phủ đã báo cáo Bộ Chính trị cho ý kiến chỉ đạo và ra Kết luận 02/KL-TW về tình hình KT-XH năm 2011 cũng như báo cáo Quốc hội và Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 59/2011/QH12.

Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, các Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, các ngành, các cấp đã khẩn trương xây dựng chương trình hành động, tổ chức thực hiện quyết liệt giải pháp đề ra.

Báo cáo cho biết, tình hình KT-XH 6 tháng đầu năm đã đạt kết quả tích cực, toàn diện. Có thể kể tới một số “điểm sáng” như mức tăng giá tiêu dùng chậm lại và có xu hướng giảm. Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm ước đạt 42,33 tỷ USD, tăng 30,3% so với cùng kỳ, gấp 3 lần chỉ tiêu kế hoạch Quốc hội thông qua (10%).

Nhập siêu bằng 15,72% tổng kim ngạch xuất khẩu (chỉ tiêu Quốc hội là không quá 18%). Thị trường ngoại hối chuyển biến tích cực. Đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã mua bổ sung gần 4 tỷ USD dự trữ ngoại hối.

Tổng vốn đầu tư phát triển đạt 409,7 tỷ đồng, bằng 38,3% GDP. Mặc dù tăng trưởng GDP 6 tháng chỉ đạt 5,57%, thấp hơn cùng kỳ và chỉ tiêu cả năm 2011 Quốc hội thông qua nhưng đây là nỗ lực rất lớn của cả nước trong bối cảnh còn nhiều khó khăn.

Trong điều kiện ngân sách khó khăn, phải phấn đấu giảm bội chi, Chính phủ vẫn đặc biệt quan tâm bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội. 6 tháng, đã tạo việc làm cho khoảng 724,36 ngàn người, trong đó xuất khẩu lao động 45,86 ngàn người. Đã xuất dự trữ quốc gia cứu trợ 56,2 ngàn tấn gạo và các vật tư, thiết bị thiết yếu với tổng giá trị khoảng 512 tỷ đồng.

Khó khăn 6 tháng cuối năm còn lớn

Đánh giá những kết quả tích cực trên chỉ là bước đầu, Chính phủ đã chỉ ra khó khăn, thách thức mà nước ta đối diện trong 6 tháng cuối năm vẫn còn lớn. Đó là lạm phát, mặt bằng lãi suất vẫn ở mức cao. Lãi suất huy động bình quân tăng khoảng 2,9% so với cuối năm 2010.

Khu vực sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn do phải tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tài khóa, tiền tệ và kiềm chế lạm phát. Sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng chậm lại. Đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm so với cùng kỳ. Thị trường chứng khoán khó khăn, thị trường bất động sản suy giảm.

Mô hình phát triển kinh tế của nước ta còn một số bất cập. Tai nạn giao thông, tội phạm, vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn đang là vấn đề bức xúc của xã hội. Tình hình trên sẽ tác động trực tiếp tới việc thực hiện mục tiêu phát triển KT-XH năm 2011 và cả các năm tiếp theo.

Một số chỉ tiêu cơ bản để định hướng chỉ đạo, điều hành

Trên cơ sở tình hình thực tiễn và dự báo xu hướng biến động kinh tế trong nước và thế giới, Chính phủ đưa ra một số chỉ tiêu cơ bản năm 2011 để định hướng chỉ đạo điều hành. Cụ thể, nỗ lực phấn đấu để tăng trưởng GDP cả năm ở mức hợp lý khoảng 6%. Phấn đấu, GDP năm 2012 đạt 6,5%.

Thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát để CPI năm 2011 tăng ở mức 15-17%, phấn đấu năm 2012 và các năm tiếp theo lạm phát thấp hơn, trở về mức một con số và thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng cả năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán tăng trưởng 15-16%, kiểm soát nhập siêu không quá 15-16% kim ngạch xuất khẩu, giảm bội chi ngân sách xuống dưới 5% GDP.

8 nhóm giải pháp chủ yếu

Chính phủ đã đưa ra 8 nhóm giải pháp chủ yếu cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, triển khai thực hiện trong 6 tháng cuối năm.

Đó là các nhóm giải pháp về: chính sách tiền tệ; chính sách tài khóa; chính sách thương mại, giá cả, thị trường; thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng; bảo đảm an sinh xã hội; về giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội; về quốc phòng, an ninh, đối ngoại và bảo đảm trật tự an toàn xã hội; công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền.

Trong đó, mỗi nhóm đều đưa ra các biện pháp, chương trình hành động cụ thể. Đơn cử, về chính sách tiền tệ, tiếp tục được điều hành chặt chẽ, thận trọng, giảm lãi suất ở mức phù hợp, bảo đảm thanh khoản của hệ thống tín dụng, kiểm soát nợ xấu. Ổn định giá trị đồng tiền là một trong những mục tiêu trung và dài hạ của chính sách này.

Chính sách tài khóa tiếp tục được thực hiện thắt chặt. Phấn đấu vượt 7-8% dự toán thu ngân sách, tiết kiệm chi, sử dụng hiệu quả ngân sách.

Về chính sách thương mại, giá cả, thị trường, đảm bảo cung cầu hàng hóa, dịch vụ, không để xảy ra đột biết giá các mặt hàng thiết yếu, ngăn chặn đầu cơ, găm hàng, thao túng thị trường…

Tại kỳ họp này, Chính phủ trình Quốc hội quyết định việc miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa và thuế thu nhập cá nhân đối với một số trường hợp khó khăn, bảo đảm thực hiện chính sách an sinh xã hội trong năm 2011 và 2012. Theo báo cáo của Chính phủ, khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý về cơ chế cảnh báo sớm đối với doanh nghiệp nhà nước.

Công tác đảm bảo an sinh xã hội sẽ được tập trung làm tốt hơn nữa. Chính phủ quyết tâm giữ vững và thực hiện các mục tiêu an sinh xã hội đã đề ra năm 2011 như tạo việc làm cho 1,6 triệu lao động, giảm tỷ lệ hộ nghèo 2% theo chuẩn mới, riêng 62 huyện nghèo giảm 4%…

Về quốc phòng, an ninh, tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực này, đặc biệt, trước tình hình và diễn biến phức tạp, chúng ta cần hành động kiên quyết, kịp thời, phù hợp với pháp luật quốc tế, đúng chủ trương của Đảng, Nhà nước, huy động sức mạnh toàn dân để bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia.

Về công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền thì chủ động thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, đồng thời tăng cường đối thoại.

Chính phủ tin tưởng, với quyết tâm cao, đoàn kết, đồng thuận về tư tưởng, nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất định sẽ tranh thủ được thuận lợi, vượt qua được thách thức, nỗ lực phấn đấu thực hiện thành công mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững.

Thực Trạng Và Một Số Giải Pháp Chủ Yếu Phát Triển Kinh Tế Hộ Tại Xã Triệu Nguyên

Đất nước đang trong thời kỳ đổi mới, đời sống người dân đang ngày càng được nâng cao. Trong cơ chế thị trường, với sự cạnh tranh đầy nghiệt ngã, mỗi con người đều lựa chọn cho mình một cách làm giàu chính đáng, đối với bà con nông dân, tài sản quý giá trong tay không có gì hơn ngoài những tấc đất, mảnh vườn, mẫu ruộng. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế còn đang có nhiều diễn biến phức tạp như hiện nay, nông nghiệp – nông dân – nông thôn tiếp tục được khẳng định là một động lực quan trọng để giữ vững sự ổn định và phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta.

Nước ta có trên 13 triệu hộ nông dân, lực lượng này là nền tảng của nền kinh tế, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, giữ vững an ninh chính trị – xã hội. Kinh tế hộ gia đình đã có đóng góp lớn cho kinh tế nông nghiệp, sản xuất lúa gạo đạt tỷ suất hàng hóa khoảng trên 50%, cà phê 45%, cao su 85%, chè trên 60%, điều trên 90%. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ hộ gia đình đang loay hoay trong cảnh sản xuất tự cấp, tự túc, thậm chí còn nhiều hộ sản xuất tự nhiên, nhất là ở vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nền kinh tế hàng hóa phát triển cũng đồng thời dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo. Về lương thực, thực phẩm tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 28,9%, trong đó nông thôn là 35,7% (thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ 22%, cao nhất là vùng Tây Bắc 68,7%). Hiện nay, cả nước vẫn còn trên 1 triệu hộ nghèo. Vì vậy, việc nghiên cứu vận dụng các mô hình kinh tế hộ gia đình sản xuất hàng hóa nhằm nâng cao năng lực sản xuất của các hộ kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay là rất cấp thiết.

Mặc dù trong những năm qua kinh tế hộ đã đạt được những thành tựu to lớn, song chính trong bản thân nó vẫn đang tồn tại những mâu thuẫn cơ bản cần giải quyết đó là:

– Sản xuất trong kinh tế hộ hiện nay chủ yếu là hoạt động sản xuất nông nghiệp, yêu cầu ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất bị kìm hãm bởi diện tích đất manh mún, quy mô nhỏ do kết quả của việc chia đất bình quân.

– Mâu thuẫn giữa tăng dân số và thiếu việc làm, kết hợp với tính thời vụ trong nông nghiệp tạo ra hiện tượng dư thừa lao động, dẫn đến năng suất lao động bình quân thấp.

– Tình trạng thiếu kiến thức, thiếu vốn đầu tư đang là tình trạng chung của các hộ gia đình nên khi có chính sách cho vay vốn hộ cũng không biết sử dụng sao cho có hiệu quả.

Những khó khăn này tồn tại chủ yếu ở các tỉnh miền núi, các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa,… đã gây nhiều trở ngại cho tiến trình phát triển của đất nước. Triệu Nguyên là một xã thuộc Huyện Nguyên Bình – Tỉnh Cao Bằng nền sản xuất của xã nói chung vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Kinh tế nông nghiệp nói chung và kinh tế hộ của xã nói riêng đang dần phát triển theo đà phát triển chung của cả nước nhưng nó cũng không tránh khỏi những mâu thuẫn tồn tại cần được giải quyết.

Xuất phát từ thực trạng em xin tiến hành nghiên cứu đề tài:“Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế hộ tại xã Triệu Nguyên – Huyện Nguyên Bình -Tỉnh Cao Bằng”.

Cập nhật thông tin chi tiết về Một Số Giải Pháp Chủ Yếu Về Phát Triển Kinh Tế Những Tháng Cuối Năm 2011 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!