Bạn đang xem bài viết Một Số Biện Pháp Rèn Kĩ Năng Viết Đúng Chính Tả Cho Học Sinh Lớp 5 được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
trong đó nhà trường là môi trường quan trọng bậc nhất đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện chuẩn hóa ngôn ngữ và chữ viết và môn học đảm nhận trọng trách to lớn này của trường Tiểu học là phân môn Chính tả. Bồi dưỡng cho học sinh những tư tưởng tình cảm tốt đẹp - trước hết là tôn trọng những quy tắc chính tả góp phần rèn luyện cho học sinh tính cẩn thận, chính xác. Rèn luyện cho học sinh viết đúng chữ Việt (chữ quốc ngữ). Là một giáo viên dạy lớp 5 nhiều năm liền, tôi luôn chú trọng và quan tâm rèn cho học sinh viết đúng chính tả. Đặc biệt là khi chấm bài tập làm văn của các em rất vất vả, bài văn thì không dài mà lỗi diễn đạt, lỗi chính tả khó mà diễn tả nổi. Chính vì thế , một bộ phận học sinh chất lượng học tập còn thấp môn tiếng Việt phần đa bị điểm thấp ở môn chính tả. Có viết đúng chính tả thì các em mới học tốt môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác, việc dạy học sinh viết đúng chính tả là một việc làm vô cùng khó khăn, nó đòi hỏi sự kết hợp vận dụng linh hoạt và sáng tạo nhiều yếu tố, nhiều biện pháp, phương pháp và hình thức dạy học. Nhưng việc gì càng khó khăn thì nó lại càng quan trọng. Mà đã là quan trọng thì chúng ta lại càng phải làm và quyết tâm làm bằng được. Cũng vì những lí do trên mà tôi đã chọn đề tài Sáng kiến kinh nghiệm là: Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 5. Mong rằng những biện pháp mà tôi đã làm và đã thành công sẽ được nhiều thầy cô biết đến và cùng chia sẻ. III. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Chính tả là phân môn nhằm rèn cho học sinh kĩ năng viết, nghe, đọc và làm các bài tập chính tả, rèn luyện các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Kĩ năng chính tả thực sự cần thiết không chỉ đối với học sinh tiểu học mà còn với tất cả mọi người. Khi đọc một văn bản viết đúng chính tả, người đọc có cơ sở để hiểu đúng nội dung văn bản đó. Trái lại, một văn bản mắc nhiều sai sót về chính tả, người đọc khó nắm bắt nội dung và có thể hiểu sai hoặc không hiểu đầy đủ văn bản. Viết chính tả đúng còn giúp học sinh học tốt các phân môn khác, là cơ sở cho việc học bộ môn Tiếng Việt ở tiểu học. Chính tả còn bồi dưỡng cho học sinh một số đức tính và thái độ cần thiết trong công việc như: cẩn thận, chính xác, óc thẩm mĩ, lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm. IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN: 1. Học sinh chưa có ý thức viết đúng chính tả. Cụ thể là những tiếng, từ có sẵn trong SGK hoặc giáo viên đã ghi trên bảng và những từ thường xuyên sử dụng nhưng vẫn viết sai. 2. Học sinh đọc còn yếu, nhiều tiếng phải dừng lại đánh vần, tốc độ đọc chỉ đạt 60 đến 70 tiếng / phút. Vì thế các em không nhớ chữ ghi âm, tiếng và từ, dẫn đến việc thông hiểu nội dung còn hạn chế. 3. Học sinh không nhớ các qui tắc chính tả đã học nên viết tùy tiện, nghĩ sao viết vậy, có em còn sáng tạo thêm các vần mới lạ như: unh, ing, âch, 4. Học sinh không nắm nghĩa của từ, vốn từ ngữ tích lũy được còn rất hạn chế nên hay viết lẫn lộn các âm đầu, âm cuối, vần và thanh. 5. Hiện nay, với sự phát triển nhanh về kinh tế, văn hóa và xã hội; việc nghe, nói, đọc xem của học sinh thì rất nhiều nhưng viết thì ngày càng giảm. V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: Thông qua các giờ học trên lớp tôi nhận thấy học sinh không những mắc lỗi nhiều trong bài chính tả mà ngay cả trong bài tập làm văn, nhiều học sinh viết chậm, viết sai, viết dư nét chữ, thiếu nét chữ. Mặt khác, có nhiều bài nội dung phong phú mà chữ viết khó đọc, do viết sai lỗi. Giờ tập đọc cũng vậy, đa số học sinh đọc còn ê, a, đánh vần, phát âm sai lại rơi vào những em yếu chính tả. Chất lượng các bài chính tả của học sinh trong 2 tuần đầu : Số lỗi Bài 1(tuần 1) Bài 2(tuần 2) 1-2 3-4 5 - 6 Trên 5 9,1% 27,3% 24,2% 39,4% 12,1% 27,3% 30,3% 30,3% Căn cứ vào các nguyên nhân trên, tôi đề ra các biện pháp thực hiện sau đây: * Phát huy tính tự ý thức học chính tả. * Rèn kĩ năng đọc đi đôi với luyện viết chính tả. * Kết hợp ghi nhớ hình thức chữ viết của từ và nghĩa của từ. * Ôn tập giúp học sinh nắm vững các qui tắc chính tả, cung cấp cho học sinh một số mẹo luật chính tả đơn giản, dễ nhớ * Hướng dẫn học sinh tự phát hiện lỗi và sửa lỗi. * Tuyên dương khen thưởng kịp thời những học sinh có nhiều tiến bộ trong học tập. 1. Phát huy tính tự ý thức học chính tả Học sinh tự nghiên cứu trước ở nhà, tự tìm từ khó trong bài chính tả : Trước giờ chính tả, giáo viên cho học sinh về nhà viết bài chính tả vào vở rèn chữ ở nhà và yêu cầu các em xem kĩ trong bài đó, từ nào là từ khó viết, khó đọc và khó hiểu thì các em liệt kê ra, tập đánh vần, tập viết từ khó đó một lần nữa. Khi đến lớp, giáo viên giảng từ khó, các em đem các từ mình liệt kê ở nhà ra để trước mặt, đối chiếu xem từ đó cô đọc như thế nào, viết ra sao. Còn đối với các em rụt rè, nhút nhát thì giáo viên phải thường xuyên gọi các em đó tập phân tích từ khó, luyện đọc nhiều lần cũng để khích lệ tính mạnh dạn cho các em. 2. Rèn kĩ năng đọc đi đôi với luyện viết chính tả Có thể giảm bớt phần trả lời một số câu hỏi tìm hiểu nội dung bài viết, dành thời gian cho học sinh đọc kĩ bài chính tả và luyện viết những tiếng, từ khó hoặc dễ lẫn lộn theo đặc điểm phát âm của học sinh trong lớp. (Thực hiện theo yêu cầu chỉ đạo trong Công văn số 896/ GDTH -BGD và ĐT). Phần đọc chính tả cho học sinh viết, cần căn cứ vào tốc độ viết cụ thể của học sinh trong lớp để điều chỉnh tốc độ đọc của giáo viên và từng bước nâng dần tốc độ viết cho đạt chuẩn. Giáo viên phải phát âm cho thật chuẩn xác. Hằng ngày trên lớp, tôi chú ý rèn đọc cho các em bằng cách: - Gọi các em đọc bài nhiều lần không chỉ ở phân môn tập đọc mà cả ở các môn học khác, kiên trì sửa lỗi cho từng em. - Tổ chức cho các em đọc bài nhóm đôi trong 15 phút đầu giờ (2 lần/ tuần). - Phân công học sinh giỏi đọc bài cùng các em khi luyện đọc trong nhóm. - Khuyến khích các em học thuộc lòng một đoạn văn hay một vài khổ thơ, rồi nhớ- viết đoạn văn hay khổ thơ đã thuộc. Ngoài ra, mỗi tuần, vào tiết luyện Tiếng việt tổ chức cho các em luyện đọc, luyện viết. 3. Kết hợp ghi nhớ hình thức chữ viết của từ và nghĩa của từ Việc nắm nghĩa từ rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một trong những cơ sở giúp học sinh viết đúng chính tả. Đó là đặc trưng quan trọng về phương diện ngôn ngữ của chính tả Tiếng Việt, nó sẽ giúp học sinh giải quyết được những lỗi chính tả do ảnh hưởng cách phát âm theo phương ngữ. Vì vậy có thể nói rằng chính tả Tiếng Việt còn gọi là chính tả ngữ nghĩa. - Hiểu nghĩa của từ, phân biệt từ này với từ khác để các em ghi nhớ cách viết của mỗi từ. Ví dụ: Nếu tôi đọc một từ có hình thức ngữ âm là " dành " thì học sinh sẽ lúng túng trong việc xác định hình thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu tôi đặt nó vào một ngữ cảnh hay gắn cho nó một nghĩa xác định như : Em để dành tiền mua sách truyện Thiếu nhi./ Trong trận đấu bóng đá ngày mai, các em phải giành lấy chiến thắng./ Các em đọc rõ ràng, rành mạch để cả lớp cùng nghe. Như vậy học sinh sẽ dễ dàng viết đúng chính tả. - Khi đọc chính tả cho học sinh viết, tôi đọc từng cụm từ ( diễn đạt một ý nhỏ); tôi luôn nhắc nhở các em chú ý lắng nghe , hiểu nghĩa từ để viết đúng chính tả - Trong giờ tập đọc, khi luyện đọc từ khó, giáo viên chọn những từ học sinh khó phát âm và cũng là những từ học sinh dễ viết sai lỗi chính tả, phải phát âm từ đó thật chuẩn xác và đưa nó vào trong văn cảnh của bài học để giải thích, có thể so sánh từ đó với một từ ở trong văn cảnh khác để học sinh hiểu sâu sắc hơn về nghĩa. Khi học sinh luyện phát âm, giáo viên chú ý theo dõi, uốn nắn kịp thời. Cũng như trong bài tập làm văn của học sinh, ngoài việc chấm lỗi về diễn đạt, giáo viên chú trọng cho học sinh về chính tả, thường là các em hay viết theo cách phát âm của mình. Khi trả bài viết (phần chữa lỗi chính tả), giáo viên phải phát âm cho đúng những từ bị học sinh viết sai phổ biến để các em có dịp so sánh và nhớ lâu hơn. - Khi học sinh làm bài tập chính tả, tôi chọn các bài theo phương ngữ Nam Bộ, tập trung vào các " trọng điểm chính tả" để khắc phục các lỗi chính tả do cách phát âm của địa phương. Ngoài việc hướng dẫn các học sinh làm các bài tập trong SGK, tôi còn thay đổi hình thức và nội dung bài tập bằng cách vận dụng nguyên tắc phối hợp giữa phương pháp tích cực với phương pháp tiêu cực. Nghĩa là tôi hướng dẫn học sinh làm các bài tập chính tả theo hướng loại bỏ cái sai, xác định cái đúng. Theo cách này, tôi đã điều chỉnh và thay đổi nội dung và hình thức một số bài tập trong SGK nhưng vẫn bám sát yêu cầu cần đạt của bài học. Ví dụ: Bài tập chính tả tuần 16- TV5- tập 1 ( SGK trang 155 ) yêu cầu tìm các từ ngữ chứa các tiếng vàng- dàng; vào-dào, vỗ- dỗ. Thay vì cho các em tìm từ chứa các tiếng đã cho, tôi cho sẵn các từ và yêu cầu các em tìm các từ viết sai chính tả, rồi sửa lại cho đúng. vàng- dàng vào- dào vỗ- dỗ màu vàng dàng bạc dội dàng dễ dàng dềnh dàng ra dào vào học dồi dào dạt dào dào lớp dỗ tay vỗ về sóng dỗ dỗ dành dạy dỗ 4. Nắm vững qui tắc chính tả và một số mẹo luật chính tả đơn giản, dễ nhớ Ở những lớp dưới, các em đã được cung cấp một số qui tắc chính tả. Lên lớp 5, các em vẫn thường xuyên được ôn lại nhưng không phải em nào cũng nhớ và vận dụng để viết đúng chính tả. Việc ghi nhớ và vận dụng đúng các qui tắc chính tả không phải là điều dễ dàng. Nếu cứ nói, cứ giảng mãi thì rồi các em cũng vẫn cứ quên. Để giúp các em nắm vững các qui tắc chính tả đã học một cách khái quát có hệ thống, tôi đã chọn lọc, tổng hợp các qui tắc và một số "mẹo" chính tả ở mức độ đơn giản để các em dễ nhớ, dễ thuộc, thậm chí khi nào quên các em có thể giở ra xem để viết đúng chính tả. Qui tắc và mẹo luật chính tả này chỉ nằm trong 2 mặt của một tờ giấy A4 nên học sinh rất dễ học, dễ nhớ và nhanh thuộc. MỘT SỐ QUI TẮC CHÍNH TẢ TT Các qui tắc chính tả Cách viết Ví dụ 1 Ghi phụ âm đầu a) Qui tắc viết k /c /q b) Qui tắc viết g /gh và ng /ngh -Trước i, e, ê, được viết là k; trước âm đệm u được viết là q. -Viết c trong các trường hợp còn lại o, ô, ơ - Trước i, e, ê được viết là gh hay ngh. Viết g hay ng trong các trường hợp còn lại o, ô, ơ - kể chuyện, kiên cường, - quyển sách, quyên góp - co, cô - ghi nhớ, ghe xuồng, nghiên cứu, suy nghĩ -go, ngo, gô, ngô 2 Ghi âm i ,y - Viết i sau âm đầu - Viết y sau âm đệm - Khi nguyên âm này đứng một mình thì viết là i đối với từ thuần Việt ; viết là y đối với từ gốc Hán. - niềm tin, tiên tiến - truyện, chuyển, tuyết - âm ỉ, ầm ì, ì ạch, lợn ỉ, ỉ ôi, í ới, -y tá, y hệt, y phục, y tế, lương y, y dược, 3 Ghi dấu thanh các tiếng có nguyên âm đôi - Có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái thứ hai của nguyên âm đôi. - Không có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái đầu của nguyên âm đôi. - mượn , trườn, cuồn cuộn, chuối, muỗi - múa, mía, lửa, cứa, đĩa, chĩa, 4 Viết tên riêng Việt Nam a) Tên người và tên địa danh Việt Nam b) Tên các cơ quan, tổ chức, danh hiệu, -Viết hoa tất cả các chữ cái đầu của mỗi tiếng tạo thành tên riêng đó. - Viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận tạo thành tên riêng đó. - Võ Thị Sáu, Trần Quốc Toản, Nông Văn Dền, - Trường Tiểu học Tân Lập, Nhà Xuất bản Giáo dục,.. 5 Viết tên riêng nước ngoài: a) Trường hợp phiên âm qua âm Hán Việt. b) Trường hợp không phiên âm qua âm Hán Việt. - Viết hoa theo qui tắc viết hoa tên người, tên địa lí Việt Nam. - Viết hoa chữ cái đầu mỗi bộ phận tạo thành tên riêng và có gạch nối giữa các tiếng. - Mao Trạch Đông, Thái Lan, Hàn Quốc, - Lu-i Pa- xtơ, Pi- e Đơ -gây- tê, MỘT SỐ MẸO CHÍNH TẢ DỄ NHỚ a. Mẹo tương ứng thanh điệu trong từ láy: - Trong các từ láy đôi, các dấu thanh bao giờ cũng cùng một nhóm huyền- ngã- nặng hoặc không- sắc- hỏi. Học sinh dễ dàng nhớ mẹo này qua câu lục bát sau: Chị Huyền mang nặng, ngã đau Hỏi không sắc thuốc lấy đâu mà lành. b. Mẹo " Mình nên nhớ viết là dấu ngã" : - với m ( mình) : mẫn cảm, mãnh liệt, mạnh mẽ, mĩ thuật, mĩ mãn, mĩ lệ, - Với n ( nên) : nỗ lực, phụ nữ, noãn bào, nỗi niềm, - Với nh ( nhớ) : nhẫn nại, nhiễm bệnh, truyền nhiễm, tham nhũng, thổ nhưỡng,.. - Với v ( viết) : vĩ đại, vĩ nhân, vĩ tuyến, viễn thị, viễn cảnh, vỗ tay, cổ vũ, - Với d ( dấu) : dưỡng sinh, nuôi dưỡng, dũng cảm, dã thú, dã man, diễm phúc, - Với ng ( ngã) : té ngã, ngỡ ngàng, ngưỡng mộ, ngôn ngữ, ngữ nghĩa, đội ngũ, c. Mẹo nhóm nghĩa tr- ch: - Những từ chỉ quan hệ thân thuộc trong gia đình thì viết là ch chứ không viết là tr: cha, chú, chị, cháu, chắt, chồng, - Những từ chỉ đồ vật trong gia đình thì viết là ch chứ không viết là tr: chai, chum, chén, chổi, chão, chõng, chiếu,..( ngoại trừ cái tráp, đồ vật này giờ ít dùng). d. Mẹo nhóm nghĩa s- x: - Tên thức ăn và đồ dùng nấu ăn viết là x: xôi, xa lát, xúc xích, xì dầu, xoong, - Các động từ, tính từ thường viết là x: xách, xẻ, xay, xát, xào, xoa, xúc, xanh, - Hầu hết các danh từ còn lại đều viết là s: + Chỉ người : sứ giả, đại sứ, sư sãi, giáo sư, gia sư, + Chỉ cây cối: sen, sung, sấu, sắn, si, sim, ... + Chỉ đồ vật: sọt, sợi dây, sợi vải, + Chỉ sự vật, hiện tượng: sao, sương, sông, suối, sấm, sét, Có một số trường hợp ngoại lệ là danh từ nhưng lại viết là x: xe, xuồng, xoan, xoài, túi xách, xương, xô, xẻng, xưởng, xã, trạm xá, bà xơ, mùa xuân. Học sinh có thể ghi nhớ các trường hợp ngoại lệ trên bằng cách học thuộc câu văn sau: Mùa xuân, bà xơ đi xuồng gỗ xoan, mang một xe xoài đến xã đổi xẻng ở xưởng, đem về trạm xá cho bệnh nhân đau xương. e. Mẹo viết d, r, gi: - Trong những từ láy đôi, nếu tiếng đầu có phụ âm l thì tiếng thứ hai có phụ âm là d, chứ không thể là r hay gi: lò dò, lai dai, lắc dắc, - Đối với các trường hợp khác, muốn xác định cách viết đúng phải dựa vào sự đối lập về nghĩa: + gia(tăng thêm): gia hạn, gia vị, gia tăng, tăng gia, tham gia, + gia ( nhà): gia đình, gia tài, gia sản, gia sư, gia trưởng, quản gia, gia phong,.. + da ( lớp vỏ bên ngoài): da thịt, da dẻ, da trời, da mặt, + ra ( sự di chuyển) : ra vào, ra ngoài, ra sân, ra chơi, Nhờ có bảng tổng hợp các qui tắc và mẹo luật chính tả này mà học sinh lớp tôi trở nên sôi nổi học tập, em nào cũng thuộc những câu thơ về mẹo luật chính tả, lỗi chính tả đã giảm đi đáng kể. Nhưng chỉ nắm các qui tắc và các" mẹo" chính tả thì vẫn chưa khắc phục được triệt để các lỗi chính tả. Vì vậy, khi dạy chính tả , tôi phải phối hợp vận dụng cả qui tắc " Kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không ý thức". Phương pháp có ý thức vẫn được coi là chủ yếu như ghi nhớ các qui tắc, các mẹo chính tả,Nhưng trong một số trường hợp ghi nhớ các hiện tượng chính tả có tính chất võ đoán, không gắn với một qui luật, qui tắc nào thì tôi dạy các em cách " nhớ từng chữ một" ( cách không óc ý thức), đây cũng là giải pháp hữu hiệu, hợp lí. Bởi vì, phần lớn những người viết đúng chính tả hiện nay đều dựa vào cách nhớ từng từ một.Theo cách này, tôi hướng dẫn học sinh chỉ cần tập trung nhớ mặt chữ của những từ dễ viết sai. Những từ dễ viết sai này chiếm tỉ lệ không nhiều, do đó học sinh có thể ghi nhớ được. Chẳng hạn như: rượu, hươu, khướu, ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, xoong, quần xoóc, xe goòng, hoặc từ những chỉ viết ngã chứ không viết hỏi, từ để chỉ viết hỏi chứ không viết ngã, từ kể chỉ viết hỏi chứ không viết ngã, 5.Hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi Sau khi viết xong bài chính tả, giáo viên cho học sinh đổi vở chéo để chấm bài nhau. Đây là khâu mà đa số giáo viên bỏ qua vì sợ tốn thời gian, ảnh hưởng thời gian dạy tiết học tiếp theo và nghĩ rằng trước sau gì giáo viên cũng chấm lại. Tuyệt đối phải thực hiện nghiêm túc khâu này. Học sinh tự chấm bài bạn được thực hiện theo việc đọc từng câu của giáo viên để soát lỗi, kết hợp chỉ dẫn các chữ dễ viết sai. Sau đó, giáo viên chấm lại bài của lớp, so sánh số lỗi mà học sinh chấm và số lỗi của giáo viên chấm để thấy được học sinh chấm bài của bạn có cẩn thận, chu đáo không ? Và cũng thông qua việc chấm bài của bạn, học sinh lại một lần nữa được nắm bài chắc hơn. 6. Tuyên dương, khen thưởng những học sinh có tiến bộ trong học tập Học sinh Tiểu học rất thích được khen thưởng, tuyên dương. Các em rất thích được chấm điểm, rất thích được cô phê những lời khen vào vở để về nhà khoe với cha mẹ. Có thể, có em chưa ý thức được tầm quan trọng của việc học chính tả nhưng các em rất thích được thầy cô, cha mẹ khen. Nhờ những lời khen đó mà các em vui sướng, thích đến trường; tích cực, cố gắng, tự giác hơn trong học tập. Hiểu đặc điểm tâm lí của các em như vậy nên tôi luôn động viên, khuyến khích các em; tôi luôn theo dõi sát quá trình học tập của học sinh , dù chỉ một tiến bộ nhỏ của các em về thái độ học tập cũng như kết quả học tập , tôi đều khen ngợi kịp thời. - Đối với những học sinh khá, giỏi, bài viết sạch đẹp, ít sai chính tả, tôi thường ghi nhận xét vào vở, và biểu dương các em trước lớp. - Đối với những học sinh viết sai chính tả nhiều, tôi luôn dành thời gian hướng dẫn các em sữa lỗi ngay tại lớp. Cứ nửa học kì, tôi chọn ra 5 em có tiến bộ nhất để khen thưởng. Phần thưởng chỉ là hai cuốn vở có chữ kí của tôi và được tôi bao bìa, dán nhãn cẩn thận hoặc một cây viết( loại có thể thay ngòi), Phần thưởng tuy nhỏ nhưng các em rất vui, rất hãnh diện. VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bằng các biện pháp, các hình thức tổ chức phù hợp nói trên, tôi đã từng bước hình thành ở học sinh năng lực và thói quen viết đúng chính tả; các em viết chính tả một cách có ý thức chứ không tùy tiện như trước. Đầu năm ½ số học sinh không có điểm chính tả ( sai trên 10 lỗi, tôi không chấm điểm ), nhưng đến cuối học kì I, các em đã có sự tiến bộ rõ rệt, chỉ còn vài em viết sai nhiều, có bài vẫn phải chép lại. Nhưng so với đầu năm, các em vẫn có tiến bộ rất nhiều. Các em không chỉ có ý thức viết đúng chính tả mà còn có ý thức rèn luyện chữ viết. Sang học kì II, các em càng tiến bộ hơn. Những em mất căn bản về chính tả thì lại vững vàng hơn, ít mắc lỗi thông thường hơn, chữ viết cẩn thận và đẹp hơn. Số lỗi Kết quả bài KTCK I 1-2 3-4 5 - 6 Trên 5 30,3% 48,5% 18,2% 3% VII. KẾT LUẬN Tôi có được thành công trong dạy học phân môn Chính tả là do các nguyên nhân chính sau đây: 1. Hiểu học sinh, nắm được đặc điểm tâm lí và nhu cầu sở thích của từng em. 2. Vận dụng những kiến thức về ngữ âm học Tiếng Việt vào việc phân loại lỗi chính tả, tìm hiểu đặc điểm của từng loại lỗi, xác định được " trọng điểm chính tả" cần dạy, và xây dựng được các qui tắc chính tả, các" mẹo" chính tả, giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng; tôi vận dụng linh hoạt 3 nguyên tắc cơ bản trong dạy học chính tả. 3. Nghiên cứu thêm các tài liệu khác, tìm đọc các bài diễn đàn về Dạy chính tả trong cuốn" Sách Giáo dục &Thư viện trường học" và đã bắt gặp được những ý tưởng của đồng nghiệp trùng với ý tưởng của mình, 4.Luôn ân cần chỉ bảo, động viên khích lệ học sinh làm cho các em tự tin, hứng thú , tạo ra động lực thúc đẩy sự tiến bộ của các em. VIII. ĐỀ NGHỊ Việc dạy chính tả ở trường Tiểu học cần tập trung vào các " trọng điểm chính tả", tránh sự dàn trải, tản mạn thì sẽ khắc phục được các lỗi chính tả do ảnh hưởng của cách phát âm theo phương ngữ; chất lượng, hiệu quả dạy-học chính tả sẽ được nâng cao. Không chỉ giáo viên dạy phân môn Tiếng Việt mới quan tâm đến lỗi chính tả, cách phát âm đối với học sinh mà kể cả các giáo viên dạy chuyên (Hát, Thể dục, Mĩ thuật, Khoa học, Lịch sử, Địa lí) cũng cần quan tâm đến lỗi chính tả và cách phát âm đối với các em. Người viết Nguyễn Thị Thúy Vân IX. TÀI LIÊU THAM KHẢO: Tên tác giả Tên tài liệu tham khảo Nhà xuất bản Năm xuất bản 1.Nguyễn Kỉnh 2.Lê Trung Hoa Để viết đúng chính tả Mẹo luật chính tả Nhà xuất bản Giáo dục Sở VHTT Long An 1996 1984 X. MỤC LỤC Thứ tự Tiêu đề Trang 1. Tên đề tài 1 2. Đặt vấn đề 1 3. Cơ sở lý luận 2 4. Cơ sở thực tiễn 2 5. Nội dung nghiên cứu 2 6. Kết quả nghiên cứu 9 7. Kết luận 9 8. Đề nghị 10 9. Tài liệu tham khảo 11 10. 12Biện Pháp Rèn Kĩ Năng Học Sinh Viết Đúng Chính Tả, Đúng Quy Tắc, Đúng Âm
Như tôi đã trình bày ở trên, bên cạnh những em đọc chuẩn, viết đúng theo nghĩa của từ, tiếng còn có một số em viết sai vì phương ngữ, nhất là địa bàn vùng ven Đà Nẵng. Tại địa bàn này, học sinh thường sai, cụ thể như sau:
Những tỉếng có nguyên âm i/iê: kim/kiêm; chim/chiêm.
Những tiếng có âm cuối:
– i/y: hay/hai; tay/tai.
– n/ng: uốn/uống; nắn(nắn nót)/nắng(trời nắng);trườn/trường.
– c/t: mặt/mặc;chiếc/chiết; tiết/tiếc.
Những từ có thanh điệu hỏi, ngã: sẻ/sẽ; rủ/rũ;
Còn học sinh ở nơi khác chuyển đến, đa số các em từ miền Bắc và Bắc Trung Bộ nên các em thường sai, cụ thể:
– Âm đầu l/n: long/năm; là/nà
– Âm đầu ch/tr: chuyện/truyện; châu/trâu; che/tre
– Âm đầu s/x: sương/xương; song/xong; sa/xa
– Thanh hỏi, thanh ngã, thanh nặng: rả/rã/rạ.
A PHẦN MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài: Trong một văn bản, dù ngắn hay dài để người đọc dể hiểu, hiểu đúng ý, đúng nghĩa của câu thì điều cần nhất là gì ? Nhất là ở thời đại thông tin này, tất cả các văn bản được in, được trình bày cân đối, rõ, đẹp. Nhưng hãy tưỏng tượng xem, nếu như trong văn bản đó, một từ, một ngữ nào in sai chính tả ( dù là một con chữ, một vần, một thanh...) thì điều gì sẽ xảy ra? Nhất định người đọc sẽ không hiểu ý nội dung mà văn bản muốn diễn đạt. Và muốn hiểu ý diễn đạt của văn bản, người đọc phải đọc lại dòng trên, phải suy ngẫm...Nói chung việc này vừa mất thời gian, lại vừa không có thẩm mĩ. Vì vậy, ta có thể nói, việc dạy chính tả trong nhà trường, nhất là ở bậc Tiểu học, có vị trí vô cùng quan trọng. Phân môn này giúp học sinh hình thành năng lực thói quen viết đúng Tiếng Việt văn hoá, Tiếng Việt chuẩn mực. Chính tả là phân môn có tính chất công cụ. Nó cung cấp cho trẻ em những quy tắc sử dụng hệ thống chữ viết, làm cho trẻ em nắm những quy tắc đó và hình thành kĩ năng viết( và đọc, hiểu chữ viết) thông thạo Tiếng Việt. Phân môn chính tả còn có nhiệm vụ giải quyết vấn đề dạy cho trẻ em biết chữ để học tiếng, dùng chữ để học các môn học khác và để sử dụng trong giao tiếp. Nên có thể nói chính tả là môn học có tính chất thực hành. Bởi lẽ để hình thành kỹ năng, kỹ xảo chính tả cho học sinh phải cho các em thông qua việc thực hành luyện tập. Do đó, trong phân môn này, các quy tắc, các quy tắc chính tả, các đơn vị kiến thức mang tính chất lí thuyết không được bố trí trong tiết dạy riêng mà dạy lồng trong hệ thống bài tập chính tả. Về cơ bản, chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm, nghĩa là mỗi âm vị được ghi bằng một con chữ. Hay nói cách khác, giữa cách đọc và cách viết phải thống nhất với nhau. Đọc như thế nào phải viết như thế ấy. Nhưng giữa đọc và viết có quy trình hoạt động trái ngược nhau dù chúng có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu tập đọc là sự chuyển hoá văn bản viết thành âm thanh thì chính tả lại là sự chuyển hoá dưới dạng âm thanh thành văn bản viết. Như trên đã nói, giữa cách đọc và cách viết phải thống nhất với nhau là nguyên tắc chung. Nhưng trong thực tế mối quan hệ giữa đọc và viết khá phong phú, đa dạng. Cụ thể, chính tả Tiếng Việt không dựa hoàn toàn vào cách phát âm thực tế của một phương ngữ nhất định nào vì cách phát âm thực tế của một phương ngữ đều có những sai lệch so với chính âm, nên không thể thực hiện phương châm " Nói thế nào viết như thế đó" nhất là học sinh ở Đà Nẵng nói chung và nói riêng là ở địa phương nơi tôi đang công tác. Vì thế tôi đã chọn đề tài " Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3/3 viết đúng chính tả" để rèn học sinh viết đúng từng chữ, từng từ, từng câu không nhất thiết là học sinh yếu. II. Đối tượng nghiên cứu : Việc rèn kĩ năng học sinh viết đúng chính tả, đúng quy tắc, đúng âm, thanh, vần...tôi sẽ thực hiện ở lớp 3/3 trong năm học 2008-2009 này với các biện pháp đề ra III. Nhiệm vụ của đề tài: Với các biện pháp đề ra để hướng dẫn học sinh đọc đúng, viết đúng nhất là những em yếu hoặc những em nói sai về phương ngữ và như trên đã trình bày: "Không nhất thiết là học sinh yếu". Các em phải nắm được cơ bản hệ thống qui tắc chuẩn, thống nhất chính tả trong Tiếng Việt quy tắc liên kết khi viết các chữ, quy tắc nhận biết và thể hiện chức năng của chữ viết... Cùng với các phân môn khác của Tiếng Việt như: Tập viết, Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn...Chính Tả cũng góp phần bồi dưỡng những tình cảm và phẩm chất tốt đẹp qua sử dụng ngôn ngữ: Tính khoa học, tính chính xác, tính thẩm mĩ... Từ đó các em dễ áp dụng vào thực tế như viết(đọc) đúng các yêu cầu đề, đặt câu trong tiết luyện từ và câu, đặc biệt là bài làm(nói và viết) trong bài tập làm văn... IV. Vai trò của giáo viên Tiểu học: Chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm học nhưng thực tế cho thấy, muốn viết đúng chính tả thì việc nắm nghĩa từ rất quan trọng " vì hiểu nghĩa từ" là một trong những cơ sở giúp người học viết đúng chính tả. Qua nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy, trong thực tế sự lĩnh hội kiến thức của các em hoàn toàn không giống nhau. Hơn nữa cách phát âm từng vùng, phương ngữ chính đều còn có những chỗ chưa chuẩn xác mà sai lệch. Như ở địa bàn Hoà Hiệp Bắc, ngoài học sinh địa phương(Thuỷ Tú, Kim Liên...) còn có học sinh từ nơi khác chuyển đến do hoàn cảnh phải theo bố mẹ chuyển công tác từ nơi khác đến nơi này làm việc. Vì thế cho nên trong một lớp học, trong giờ học một số em rất lúng túng do chưa phân biệt rõ âm đầu, vần, hoặc thanh điệu khi nghe giáo viên nói hoặc đọc chính tả. Nên muốn các em viết đúng không riêng giáo viên văn hoá mà các giáo viên bộ môn cũng phải tham gia trong việc rèn cho các em nói đúng, nghe đúng, đọc đúng, viết đúng, đúng theo nghĩa của từ viết trong văn bản, trong văn cảnh...do đó trước khi dạy chính tả giáo viên cần nắm rõ lỗi chính tả phổ biến của học sinh để lựa chọn nội dung thích hợp. B. PHẦN NỘI DUNG I. Thực trạng viết chính tả của học sinh: Như tôi đã trình bày ở trên, bên cạnh những em đọc chuẩn, viết đúng theo nghĩa của từ, tiếng còn có một số em viết sai vì phương ngữ, nhất là địa bàn vùng ven Đà Nẵng. Tại địa bàn này, học sinh thường sai, cụ thể như sau: Những tỉếng có nguyên âm i/iê: kim/kiêm; chim/chiêm... Những tiếng có âm cuối: - i/y: hay/hai; tay/tai... - n/ng: uốn/uống; nắn(nắn nót)/nắng(trời nắng);trườn/trường... - c/t: mặt/mặc;chiếc/chiết; tiết/tiếc... Những từ có thanh điệu hỏi, ngã: sẻ/sẽ; rủ/rũ; Còn học sinh ở nơi khác chuyển đến, đa số các em từ miền Bắc và Bắc Trung Bộ nên các em thường sai, cụ thể: - Âm đầu l/n: long/năm; là/nà - Âm đầu ch/tr: chuyện/truyện; châu/trâu; che/tre - Âm đầu s/x: sương/xương; song/xong; sa/xa - Thanh hỏi, thanh ngã, thanh nặng: rả/rã/rạ... Còn phải kể đến những học sinh khuyết tật hoà nhập, nói lắp, nói ngọng và cả những em tiếp thu bài chậm...những em này một phần bị ảnh hưởng tâm lí, một phần có thể gia đình chưa quan tâm đúng mức nên việc rèn đọc, rèn viết thật khó. Vì vậy thời gian dành cho các em phải kiên trì, phải xuyên suốt trong từng tiết học và thực hiện cả năm học. Năm nay, tôi được Ban Giám Hiệu phân công chủ nhiệm lớp 3/3. Sĩ số 32 học sinh(có 14 nữ). Lớp có những mặt ưu sau: - Ngày từ đầu năm các em đủ đồ dùng học tập - Các em biết đọc biết viết - Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học của con em mình Tồn tại: - Đa số học sinh là dân địa phương nên dễ viết sai chính tả vì phương ngữ. Ngay đầu năm, qua một tuần thực dạy và khảo sát chất lượng tôi đã chú ý đến các em và lập danh sách để phụ đạo như sau: - Huỳnh Thị Phượng yếu Toán và Tiếng Việt - Đặng Thị Như Mỹ yếu Toán và Tiếng Việt - Đinh Văn Lực đọc chậm viết sai nhiều lỗi chính tả - Lý Minh Tuấn phát âm sai(ngọng) - Trần Phước Thiện (khuyết tật học hoà nhập) Khi chấm bài trong các tiết chính tả, tôi đã chú ý, điều tra cơ bản để nắm rõ lỗi chính tả phổ biến của học sinh. Nhất là bài viết của các em thường mắc nhiều lỗi(dù mỗi em sai mỗi lỗi khác nhau) cũng như cách đọc của các em, có những từ ngữ mà các em phát âm sai không giống nhau. II. Các biện pháp rèn học sinh viết đúng chính tả: Như trên đã trình bày, chính tả Tiếng Việt là loại chính tả ngữ nghĩa. Đây là một đặc trưng quan trọng về phương diện ngôn ngữ của chính tả Tiếng Việt. Nên trong tiết dạy mỗi giáo viên cần linh hoạt để giúp học sinh nhanh chóng làm quen với hình thức của các câu chữ vì học sinh Tiểu học có khả năng ghi nhớ máy móc rất tốt. Nắm được tâm lí nầy, tôi đã vận dụng nhiều nguyên tắc, nhiều phương pháp, nhiều hình thức trong giờ dạy. Biết được em nào thường viết sai chính tả, lỗi sai thường gặp là gì, tôi chú ý chọn lựa, sử dụng để xây dựng các quy tắc chính tả giúp học sinh ghi nhớ cách viết một cách khái quát, một cách có hệ thống. Với những em viết sai các âm cuối, trong các tiết dạy tôi chú ý giúp các em hiểu nghĩa từ và nhận xét cách viết của từ, để từ đó giúp các em nhớ và viết đúng. Ví dụ: mặc và mặt: - mặc(âm cuối c):được viết trong các từ mặc áo quần, mặc cả... - mặt(âm cuối t) :được viết trong các từ mạt trời, mặt trăng, khuôn mặt,,, Những em thường sai khi viết các chữ ghép với âm ng/ ngh tôi giúp các em nhớ bằng cách luôn cho các em nhớ: - ng ghép với các âm: a, ă ,â,o, ô,ơ u, ư - ngh ghép với các âm: e,ê, i Với những em nói ngọng(như em Lý Minh Tuấn) thường sai âm đầu th(thành âm kh: VD: chiến thắng em phát âm thành chiến khắng). Giờ tập đọc( phần luyện đọc tôi luôn gọi em đọc và hướng dẫn em đọc đúng các tiếng, các từ có âm đầu "th". Và trong giờ viết chính tả tôi yêu cầu em tìm và viết bảng con các từ, tiếng em dễ viết sai đó. Còn một số em từ nơi khác chuyển đến như em Hoàng Long và em Tươi( là học sinh từ miền Bắc chuyển vô),các em hay sai âm đầu l và n.Đây là những em tiếp thu bài nhanh nên dù chưa phát âm đúng( VD: miền Nam=miền lam; cái lá=cái ná...) nhưng trong bài chính tả các em viết ít sai (có thể nói là không sai) lỗi nào. Riêng em Thiện là học sinh khuyệt tật hoà nhập nên việc viết sai chính tả không phải là điều lạ. Em tiếp thu bài chậm nhưng việc học thì lại tuỳ hứng và thích dỗ dành. Nên với em, tôi thường nhỏ nhẹ để hướng dẫn em viết từ em thường viết sai trên bảng, sau đó hướng dẫn em đọc đúng. Những từ khó, thì cho em đánh vần. Tuy nhiên, vẫn còn chờ kết quả cuối kỳ I và cuối năm. III. Biện pháp thực hiện: Để thực hiện tốt việc giúp học sinh viết đúng chính tả, tôi đã soạn ra các biện pháp sau để áp dụng trong các tiết dạy. 1. Lập đôi bạn cùng tiến: Đầu năm, sau một tuần thực dạy, tôi đã sắp xếp chỗ cho các em theo "đôi bạn cùng tiến"". Một em giỏi(khá) ngồi với em học yếu, thuận lợi hơn các em trong nhóm ở gần nhà nhau để các em dễ dàng giúp nhau trong học tập. 2. Chuẩn bị bài ở nhà: Trong một tuần có hai tiết chính tả - thứ ba và thứ sáu . Ở lớp ba có hai loại bài chính tả : Chính tả nghe đọc và Chính tả nhớ viết(Loại bài Chính tả tập chép chỉ có vài tiết ở đầu năm học), ở loại bài chính tả nào, tôi cũng cho các em về nhà đọc lại bài viết tiết trước rồi đọc bài viết tiết sau ba hoặc bốn lần. Để chuẩn bị bài tiết sau, các em tập viết các từ khó hoặc các em viết cả bài viết vào vở nháp hay viết vào vở luyện viết ở nhà. Lên lớp trong sinh hoạt 15 phút đầu giờ, lớp phó học tập sẽ kiểm tra và báo cáo giáo viên chủ nhiệm . 3. Trong giờ tập đọc: 4. Tiết chính tả: Tiết học này, tôi chú ý nội dung bài dạy với tình hình thực tế mắc lỗi của học sinh. Tôi sử dụng phương pháp "Nhớ từng chữ một". Ở lớp ba, các em đã học cơ bản về cách viết tên riêng nước ngoài và các vần khó như: ui/uôi ; iêc/ iêt ; ong/ ông...( và các từ học sinh dễ viết sai vì phương ngữ) Với tên riêng nước ngoài (thường là các phiên âm), tôi hướng dẫn cho các em cách đọc và cách viết hoa( Vì tên riêng nước ngoài có nhiều tiếng, mỗi tiếng lại có nhiều bộ phận như: Mat-xcơ-va, En-ri-cô...và giữa các bộ phận có gạch nối). Để các em đọc đúng, viết đúng, tôi đã gọi các em yếu đọc nhiều lần để hướng dẫn các em nhận biết, sửa chữa và đọc đúng hơn sau đó cho các em viết vào bảng con-viết và đọc lại. Trong quá trình hướng dẫn tôi hoặc gọi học sinh nhắc lại cách viết hoa tên nước ngoài khác với tên Việt Nam. Còn các vần khác, những vần các em dễ sai và sai nhiều do phương ngũ ngoài hình thức viết bằng bảng con tôi còn rèn các em viết đúng bằng trò chơi. 5.Vận dụng trong trò chơi: Đa số các bài tập chính tả thường được vận dụng trong trò chơi, dù có nhiều dạng bài tập như: Tìm từ qua gợi ý; điền âm hoặc vần vào chỗ trống; tìm tiếng với các vần, âm cho sẵn...Ở mỗi dạng bài tập tôi thường tổ chức cho các em chơi trò chơi khác nhau như: "Tìm nhanh tìm đúng; Bắt vần; Đố chữ... Với phương pháp trò chơi này sẽ gây cho các em sự hứng thú, tính nhanh nhẹn và qua hoạt động trò chơi kiến thức kỹ năng viết đúng chính tả của các em sẽ được góp phần củng cố. 6. Phần dặn dò: Trong một tuần có hai tiết chính tả vào thứ ba và thứ sáu. Chương trình lớp ba có ba loại bài chính tả( Chính tả tập chép, Chính tả nghe viết và Chính tả nhớ viết). Loại bài Chính tả tập chép chỉ có hai đến ba tiết ở đầu năm để các em làm quen. Còn CT nhớ viết cũng có nhưng chủ yếu chính vẫn là loại bài CT nghe viết nhiều nhất trong cả năm học. Với những em yếu viết sai nhìêu lỗi chính tả tôi dặn các em ở nhà phải đọc bài tiết trướcvà bài viết tiết sau và viết bài viết đó vào vở ở nhà vừa kết hợp giúp các em rèn chữ viết, vì thường những em học yếu thường viết chữ cẩu thả. Ngày hôm sau, tôi hoặc lóp phó học tập kiểm tra và hỏi để biết các em thấy khó viết từ nào để hướng dẫn các em viết đúng hơn, riêng loại bài CT nhớ viết thì yêu cầu học sinh tái hiện lại hình thức chữ viết của một văn bản đã được học thuộc. Tuy trong giờ tập đọc, các em đã được luyện học thuộc bài nhưng trước khi viết chính tả, tôi cũng cho học sinh đọc lại văn bản hai, ba lượt để tạo tâm thế viết bài và có cơ sở tái hiện lại văn bản. Tôi cũng không quên lưu ý các em đọc và tập viết đúng các từ khó, các từ mà các em thường viết sai. 7. Trao đổi cùng phụ huynh: IV. Kết quả đạt được : Với sự nhiệt tình trong công tác giảng dạy, với sự mong mỏi các em mau có tiến bộ cùng với các kế hoạch và các biện pháp đã đề ra để thực hiện, tôi thấy các bài viết chính tả của các em dần có tiến bộ dù chưa nhiều. Đến cuối kỳ I, em Lực đã viết khá hơn, những từ sai vì " nói thế nào viết như thế ấy do phương ngữ" em đã nhận ra (VD: các từ có âm cuối như i-y, các từ có vần mà âm cuối là c-t, n-ng, các từ có âm giữa và nguyên âm đôi i-iê...). Còn em Tuấn, dù phát âm vẫn còn ngọng nhưng em đã khắc phục được trong bài viết, bài viết ít lỗi hơn, những từ sai của em chỉ là những từ khó. Và em Thiện( HSKTHN) bài viết chưa phải hoàn toàn như mong muốn nhưng tôi tin em sẽ tiến bộ vì em rất thích được điểm cao và thích được khen trước lớp. Nói chung, việc rèn viết chính tả ở lớp tôi như vậy là đạt kết quả tuy chưa mỹ mãn nhưng tôi sẽ cố gắng tiếp tục rèn thêm cho các em trong suốt kỳ II để các em đạt kết quả cao hơn, vì đây là việc làm không phải một ngày, một tháng mà là thời gian dài, có thế suốt trong thời gian các em ngồi dưới mái trường Tiểu học. C. PHẦN KẾT LUẬN Trước kết quả đạt được ở lớp tôi đang chủ nhiệm trong năm học 2008-2009, tôi nghĩ tôi sẽ áp dụng trong những năm học tới và tôi sẽ càng cố gắng nhiều hơn để kinh nghiệm nhỏ này thêm đầy đủ, hoàn thiện, để có thêm những biện pháp mới thực hiện áp dụng, hướng đẫn giúp các em nhớ và nắm kỹ, nắm đúng cách viết chính tả(các quy tắc chính tả), để bài viết của các em cũng như cách diễn đạt của các em trong giao tiếp đúng hơn, làm cho người nghe và người đọc hiểu ý các em diễn đạt hơn. Vậy tôi rất mong nhận được sự hỗ trợ chân thành từ Ban giám hiệu, từ các bạn đồng nghiệp để đề tài này được hay hơn, trọn vẹn hơn, phong phú hơn. Tôi xin ghi nhận và chân thành cảm ơn.Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Viết Đúng Chính Tả
Trong trường tiểu học, chính tả là phân môn của Tiếng Việt. Chính tả có một vị trí quan trọng là hình thành năng lực, thói quen viết đúng chính tả, nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng Tiếng Việt văn hóa, Tiếng Việt chuẩn mực. Cũng như các môn học khác trong Tiếng Việt, tính chất nổi bật của phân môn chính tả là thực hành. Vì vậy nó có một vị trí đặc biệt. Nếu từ đầu HS đã mắc lỗi chính tả thì sau này rất khó sửa. Từ vị trí trên phân môn chính tả có nhiệm vụ cung cấp cho HS các kĩ năng viết đúng chính tả. Ngoài ra chính tả còn rèn luyện cho HS các phẩm chất như : tính cẩn thận, tính thẩm mĩ, … Từ vấn đề trên có thể khẳng định rằng : muốn học tốt Tiếng Việt ngoài việc đọc, HS cần phải viết đúng. Vì vậy viết đúng là nhu cầu cần thiết đối với mỗi HS. Nó giúp các em nhận thức được mình tiếp cận đúng hay sai và sai (lỗi) chỗ nào? tiếng nào ?, đồng thời giúp các em học tốt các môn học khác.
II/ Nội dung chuyên đề : 1/ Đối với giáo viên :
Ví dụ : Ở phương ngữ Bắc Bộ, chưa phát âm phân biệt rõ các cặp phụ âm đầu tr/ch, s/x, r/d/gi, … Ở Trung Bộ chưa phân rõ hai thanh điệu : thanh hỏi/thanh ngã nói chung. Riêng về phương ngữ ở địa phương chúng ta, HS chưa phân biệt rõ phụ âm đầu s/x, thanh hỏi/thanh ngã, âm, vần au/ao, en/ăn, …
Phân biệt phụ âm đầu r/d/gi hoặc v/d/gi và phụ âm cuối.
Để phát huy tính tích cực chủ động của HS trong việc luyện viết chính tả, chúng ta cần áp dụng các biện pháp :
Ngoài những biện pháp thiết thực cho việc dạy học chính tả, GV tổ chức cho các em củng cố kiến thức chính tả như sau :
+Ra bài về nhà : Sau mỗi tiết tập đọc đã học, tôi cho các em về chép lại bài tập đọc đã học. Những em viết bài mắc nhiều lỗi tôi yêu cầu các em về chép lại bài chính tả hoặc viết lại những lỗi chính tả viết sai ( mỗi lỗi một dòng ).
+Tổ chức ” Đôi bạn học tập”: -Để tiện cho việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thường xuyên trong việc luyện viết của các em. Thành lập “Đôi bạn học tập” với các em viết yếu chính tả được các em viết tốt kèm cặp, giúp đỡ. GV cần theo dõi thường xuyên các “Đôi bạn học tập” này.
Nguyễn Phi Long
Một Số Biện Pháp Rèn Kĩ Năng Đọc Cho Học Sinh Lớp 2
hải kiên trì. Khi học sinh đọc lẫn các tiếng có phụ âm đầu là l, giáo viên dừng lại sửa cho các em bằng cách: hướng dẫn các em đọc đầu lưỡi hơi cong, luồng hơi đi ra bị cản Ví dụ những tiếng có phụ âm đầu n đọc đầu lưỡi thẳng, môi trề, bụng hơi hóp lại. Những tiếng có âm quặt lưỡi như s - x; r - d- gi; tr- ch thì hướng dẫn các em nói tự nhiên cho hay, (không cố gắng đọc nhấn). Nhưng trong Tiếng Việt có phụ âm đầu là r (là phụ âm quặt lưỡi) thì chúng ta đọc không rung. Ví dụ: Như từ: ra vào, rang lạc, rực rỡ, rung rinh. Giáo viên đọc rung những tiếng là tiếng nước ngoài ,ví dụ: Ra đi ô, Ngoài việc sửa chữa trong mỗi tiết Tập đọc và các môn học khác, thì cuối mỗi buổi học tôi còn giao những bài tập đọc nhỏ để học sinh tự luyện đọc ở nhà và về nhà đọc trước bài của ngày hôm sau. Hàng ngày kiểm tra về cách đọc của học sinh và nhận xét. Qúa trình này tôi thực hiện thường xuyên và luôn khuyến khích các em. * Một số mẹo sửa lỗi phát âm l/n * Phát hiện lỗi phát âm: Lỗi thay thế phụ âm đầu /l/-/n/ xảy ra ở ba trường hợp: - Trường hợp 1: Thay thế âm cố định /l/ thành /n/ (ví dụ: "lạnh lẽo" thành 'nạnh nẽo"). - Trường hợp 2: Thay thế âm cố định /n/ thành /l/ (ví dụ: "núi non" thành "lúi lon"). - Trường hợp 3: Thay thế âm bất định, nghĩa là khi đúng khi sai, lẫn lộn không thể phân biệt, ví dụ: "lúa nếp làng" phát âm thành "núa lếp làng". * Cách chữa lỗi phát âm: Bàn về việc trị liệu, sửa chữa và luyện tập để phát âm chuẩn hai âm này, có nhiều cách phân biệt l-n khi nói và viết tiếng Việt. Trong bài viết này, xin giới thiệu một số kĩ thuật (thường được gọi là "mẹo") của một số nhà ngôn ngữ tiếng Việt đã gợi ý trong nhiều tài liệu ngôn ngữ tiếng Việt khác nhau. Ngoài ra, với chuyên môn về trị liệu âm ngữ, sẽ đề cập đến những cách phân biệt l-n trong khi nói và viết tiếng Việt dưới góc độ âm ngữ trị liệu tiếng Việt ở một bài viết khác. + Mẹo phân biệt viết con chữ l-n: Để cho dễ phân biệt về con chữ khi viết, mẹo "l cao, n thấp" được sử dụng để mô tả chiều cao của hai con chữ thể hiện hai âm này. Nhưng nhiều người đã biến tấu thành mẹo "n thấp, n cao" hoặc "l thấp, l cao" dựa vào cách phát âm của chính mình. Thực chất, mẹo này chỉ phần nào giúp phân biệt khi viết con chữ hơn là khi nói. Ngược lại, khi bị biến tấu, mẹo này lại làm cho người nói càng lẫn hơn khi phát ngôn + Mẹo phân biệt l-n khi nói và viết theo quy tắc cấu tạo âm tiết tiếng Việt Mẹo thứ nhất: Trong âm tiết, /l/ chỉ đứng trước âm đệm nhưng /n/ thì không (trừ trường hợp đặc biệt "noãn bào"). Ví dụ, những từ sau phải phát âm là l: cái loa, chói lòa, loan phượng, vết dầu loang, nói lưu loát, luẩn quẩn, loắt choắt, loanh quanh, luật pháp, luyến tiếc, Mẹo thứ hai: Khi không xác định được là /l/ hay /n/ trong một từ láy vần mà phụ âm này xuất hiện ở tiếng thứ nhất thì đó chắc chắn là phụ âm /l/. Có thể liệt kê ra các từ láy vần bắt đầu bằng phụ âm /l/ như sau: lệt bệt, lò cò, lộp độp,lúi húi, lai dai, lơ mơ, lã chã, lăng xăng, lon ton, lai rai, lởn vởn, lênh khênh, lăng nhăng, luẩn quẩn, lằng nhằng, loằng ngoằng, Theo danh sách đầy đủ thì kiểu láy vần bắt đầu bằng /l/ như trên có khoảng hơn 300 từ. Mẹo thứ ba: Khi không xác định được là /l/ hay /n/ trong một từ láy vần mà phụ âm đầu của tiếng thứ nhất là /z/ (gi,d) và phụ âm này xuất hiện ở tiếng thứ hai thì đó chắc chắn là phụ âm /n/, ví dụ: gian nan, gieo neo, Mẹo thứ tư: Khi không xác định được là /l/ hay /n/ trong một từ láy vần mà phụ âm này xuất hiện ở tiếng thứ hai và phụ âm đầu của âm tiết thứ nhất không phải là /z/ (gi, d) thì đó là phụ âm /l/ (trừ trường hợp: khúm núm, khệ nệ,), ví dụ: cheo leo, khoác lác, Mẹo thứ năm: Khi không xác định được là /l/ hay /n/ trong từ láy vần mà tiếng thứ nhất khuyết phụ âm đầu thì phụ âm đầu của tiếng thứ hai là /n/, ví dụ: ăn năn, ảo não, áy náy, Mẹo thứ sáu: Những từ không phân biệt được là /l/ hay /n/ nhưng đồng nghĩa với một từ khác viết với /nh/ thì viết là /l/, ví dụ: lăm le- nhăm nhe; lố lăng-nhố nhăng; lỡ làng - nhỡ nhàng;lài-nhài; lời-nhời; lầm-nhầm, Mẹo thứ bẩy: Trong từ láy phụ âm đầu thì cả hai tiếng trong từ láy đó phải cùng là một phụ âm. Do vậy, chỉ cần biết một tiếng bắt đầu bằng /l/ hay /n/ mà suy ra tiếng kia: Ví dụ: đều là l: lung linh, long lanh, lạnh lùng, Đều là n: no nê, nõn nà, núng nính, Mẹo liệt kê hệ thống từ vựng có phụ âm đầu /l/ và /n/ theo bẩy mẹo kể trên đã hệ thống hóa được một lượng từ vựng nhất định để người sử dụng không nhầm lẫn khi nói và viết. Đây còn là một nguồn tư liệu rất tiện ích cho các nhà trị liệu ngôn ngữ-lời nói, giáo viên và những người lớn khác sử dụng trong chương trình luyện tập phát âm hoặc chương trình phát triển ngôn ngữ cho cả trẻ em và người lớn. 2. Luyện đọc ngắt giọng Qua điều tra thực tế tôi thấy ở học sinh lớp 2 nói chung chưa biết cách đọc ngắt giọng. Để học sinh biết ngắt giọng trong khi đọc, trước hết phải hướng dẫn các em đọc đúng. Từ việc đọc đúng đó sẽ hướng dẫn các em đọc đúng cách ngắt giọng. Muốn đạt được điều đó cần phải dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc tuyệt đối không được tách từ ra làm hai, không tách từ chỉ loại với danh từ nó đi kèm theo. Không tách giới từ với danh từ đi sau nó, không tách quan hệ từ là với danh từ đi sau nó. Ví dụ: Không được đọc ngắt giọng: Tự xa/ xưa thủa nào Trong rừng/ xanh sâu thẳm (Gọi bạn - Tiếng Việt 2 tập 1 trang 28) Hay: Con ve cũng/ mệt vì hè nắng oi Mẹ là/ ngọn gió của con suốt đời. (Mẹ - Tiếng Việt 2 tập 1 trang 101) Mà phải đọc: Tự xa xưa / thủa nào Trong rừng xanh / sâu thẳm Con ve cũng mệt / vì hè nắng oi Mẹ là ngọn gió / của con suốt đời. Khi đọc các bài văn xuôi cũng vậy, việc ngắt giọng phải phù hợp với dấu câu. Nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm, trùng hợp với danh giới ngữ đoạn.Trên thực tế học sinh thường mắc lỗi ngắt giọng ở những câu văn dài có cấu trúc phức tạp hoặc mắc lỗi ngay ở câu ngắn. Nhưng các em chưa nắm được quan hệ ngữ pháp giữa các từ. Ví dụ: Ông già bẻ bó đũa một/ cách dễ dàng Dê trắng thương/ bạn quá Bàn tay mẹ/ quạt mẹ đưa gió về Vì vậy trước khi giảng một bài cụ thể giáo viên cần dự tính những chỗ học sinh hay ngắt giọng sai để xác định điểm cần luyện ngắt giọng. Ví dụ: Bài: Dậy sớm Tinh mơ / em thức dậy Rửa mặt / rồi đến trường Núi giăng hàng / trước mặt Phải lưu ý về cách ngắt nhịp vì theo dự tính học sinh sẽ ngắt Tinh mơ em / thức dậy Rửa mặt rồi / đến trường Núi giăng / hàng trước mặt Trong khi đó xét về mặt ý nghĩa và lí thuyết trọng âm hai câu đầu ngắt nhịp 2/3 và câu sau ngắt nhịp 3/2. Bên cạnh dạy học sinh ngắt giọng thể hiện đúng quan hệ ngữ nghĩa, ngữ pháp còn cần phải dạy ngắt giọng biểu cảm, nhằm gây ấn tượng về cảm xúc, nhằm tập trung sự chú ý của người nghe vào những từ ngữ mang trọng âm ngữ nghĩa. Ví dụ: Đó là chỗ ngừng lâu hơn trong các câu thơ cuối bài: Mẹ / là ngọn gió của con suốt đời. 3. Luyện đọc nhấn giọng Qua việc giảng dạy và thực tế trên lớp, để giúp học sinh đọc diễn cảm, đọc nhấn giọng người giáo viên cần phải thực hiện các nội dung sau: Chuẩn bị kĩ cho việc dạy nhấn giọng. Tìm hiểu kĩ nội dung bài dạy để hiểu rõ và cảm thụ sâu sắc bài, giúp học sinh đọc có hiệu quả hơn. Bài đọc trong sách giáo khoa của giáo viên cần nghi vắn tắt cách đọc, cách ngắt nhịp, cách nhấn giọng, sắc thái tình cảm đọc. Ví dụ : Bài: "Quà của Bố" ( Tiếng Việt 2- tập 1 trang 106) Đọc chậm rãi diễn tả hình ảnh về người bố, nhấn giọng ở các từ tả về món quà của người bố. Bài: Thương ông (Tiếng Việt 2- tập 1 trang 83) Ở bài này giáo viên hướng dẫn học sinh đều đọc ở nhịp 2/2, các câu thơ đọc giọng vui, cần ghi rõ từ nhấn mạnh (hoặc gạch chân) những đoạn câu cần ghi trọng âm, kí hiệu ngắt ( / ), nghỉ ( Trong từng bài giáo viên sẽ dự tính những lỗi học sinh sẽ mắc, giọng đọc cả bài, đoạn cần nhấn mạnh, tốc độ đọc. Giáo viên cần chuẩn bị đồ dùng dạyhọc. Phương tiện trực quan chủ yếu trong giờ Tập đọc là bài đọc và ngôn ngữ của giáo viên. Vì vậy, giáo viên cần sử dụng triệt để sách giáo khoa để học phân môn Tập đọc đạt kết quả tốt. Đồ dùng dạy học thông thường trong tiết Tập đọc là tranh mẫu và một số vật thực mô hình để giảng từ và ý. Ngoài ra giáo viên cần chuẩn bị bảng phụ để ghi nội dung bài, ý, câu thơ cần luyện đọc. Tuy nhiên khi lên lớp còn có nhiều tình huống mới mẻ cần xử lý. Song theo tôi sự chuẩn bị của giáo viên càng chu đáo thì lên lớp sẽ chủ động và sáng tạo hơn rất nhiều, giờ dạy sẽ đạt kết quả hơn mong đợi. Hướng dẫn học sinh cảm thụ văn học, đọc và cảm thụ là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau . Cảm thụ tốt giúp cho việc đọc của học sinh tốt hơn. Tuy nhiên , đối với học sinh lớp 2 đọc đúng, đọc diễn cảm chưa cao nên việc đọc đúng của học sinh cần chú trọng hơn. Ở đây viêc đọc ngắt giọng, nhấn giọng được chú ý vào những học sinh đã đọc tốt và yêu cầu đọc ở cuối kì I. Khi học sinh đã đọc chuẩn, nhanh thì trong mỗi tiết học tôi không cảm thụ thay học sinh, mà khêu gợi vốn hiểu biết sẵn có của học sinh phát huy tư tưởng của các em để tái hiện được bức tranh mà tác giả vẽ lên bằng ngôn ngữ sinh động. Ví dụ: Bài: Sáng kiến của bé Hà ( Tiếng Việt 2 tập 1 trang 78) Theo em bé Hà có những sáng kiến gì? Hà đã tặng ông món quà gì? Bé Hà trong truyện là một cô như thế nào? Với những câu hỏi trên cùng với những câu hỏi gợi ý nội dung bài học sinh sẽ tìm ra cách đọc thích hợp để diễn tả được cái không khí tưng bừng của cả gia đình bé Hà. Bên cạnh đó một trong những biện pháp để bồi dưỡng học sinh cảm thụ văn học là làm bài tập có hiệu quả. Để hướng tới đọc diễn cảm có sáng tạo, khi giảng bài trên lớp giáo viên cần hướng dẫn luyện đọc diễn cảm. Tuy nhiên chính nội dung này đã quy định ngữ điệu của nó, nên không thể áp đặt sẵn giọng đọc của bài. Ngược lại điều này phải kết hợp luôn tự nhiên của học sinh đưa ra sau khi hiểu sâu sắc và biết diễn đạt dưới sự hướng dẫn của cô giáo. Để hình thành kĩ năng đọc diễn cảm học sinh cần phải: + Biết thở sâu chỗ ngừng nghỉ để lấy hơi đọc. + Rèn cường độ giọng đọc ( luyện đọc to) + Luyện đọc đúng + Đọc diễn cảm đúng. Trong khâu luyện đọc, tôi tiến hành theo hai bước: Ví dụ: Dùng một gạch xiên ( / ) đánh dấu ngắt; hai gạch xiên ( Ví dụ: Ngày xưa ở làng kia, có hai em bé ở với bà. Ba bà cháu rau cháo nuôi nhau tuy vất vả nhưng cảnh nhà lúc nào cũng đầm ấm. (Bà cháu- Tiếng Việt 2- tập 1 trang 86) Với những câu có nhiều cách đọc, giáo viên nêu vấn đề cho nhiều em nêu ra cách đọc và giúp các em nhận ra cách đọc đúng, đọc diễn cảm (đọc ngắt giọng, đọc nhấn giọng) Đọc toàn bài - đây là bước thực hiện sau khi học sinh đã đọc theo từng đoạn. Đọc toàn bài giúp học sinh cảm thụ một cách tổng thể sắc thái của nội dung tác phẩm. Ở bước này giáo viên cần động viên khuyến khích cách đọc biểu lộ tình cảm riêng, tích cực trong đổi mới phương pháp giáo dục dạy học. Ngoài những biện pháp trên người giáo viên có thể kết hợp nội dung luyện đọc lồng ghép với trò chơi như: Thả thơ, truyền điện, chạy tiếp sức 4. Luyện đọc diễn cảm Muốn rèn cho các em đọc diễn cảm thì trước hết phải rèn cho các em đọc đúng, đọc ngắt giọng và nhấn giọng đã. Đọc diễn cảm là đọc văn bản sao cho giọng điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong văn bản, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung miêu tả trong văn bản. Đọc diễn cảm có nhiều mức độ: - Biết nhấn mạnh các từ quan trọng trong câu. Ví dụ: Trong bài Cây dừa - Tiếng Việt 2 tập 2 trang 88 có câu Cây dừa xanh toả nhiều tàu Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng. Khi đọc giáo viên phải lưu ý học sinh đọc nhấn giọng ở các từ ngữ gợi tả, gợi cảm như: toả, dang tay, gật đầu. - Biết thể hiện ngữ điệu (Sự thay đổi cao độ, trường độ của giọng đọc) phù hợp với từng loại câu (câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến). - Biết đọc giọng phân biệt lời kể của tác giả và lời nhân vật. - Biết đọc phân biệt lời của của các nhân vật. Ví dụ : Trong bài Tập đọc " Một trí khôn hơn trăm trí khôn" - Tiếng Việt 2 tập 2 trang 31- Khi đọc giọng Chồn lúc hợm hĩnh, lúc thất vọng, cuối truyện lại rát chân thành. Còn giọng Gà Rừng lúc khiêm tốn, lúc bình tĩnh, tự tin. Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong đoạn văn hoặc văn bản . Chương 3: Kiểm chứng Vận dụng các biện pháp đã nêu trên tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm như sau: Lớp tôi nghiên cứu chính là lớp tôi đang chư nhiệm. Đó là đối tượng lớp 2B Trường Tiểu học Nguyễn Lượng Thái..Bài thực nghiệm: Tôi đã chọn bài: Voi nhà. - Sở dĩ tôi mạnh dạn chọn bài này vì đây là bài văn xuôi, học sinh sẽ đọc hay sai cả phát âm , ngắt giọng và nhấn giọng. Song đây lại là bài văn rất hay bởi nội dung thật gần gũi với học sinh. - Trong quá trình dạy học tôi luôn áp dụng những biện pháp trên vào giảng dạy. Sau đó tôi dã tiến hành khảo sát học sinh như sau: Kiểm tra miệng: Em hãy đọc đúng các từ sau: Rú ga, vục, khựng lại, thu lu, lừng lững, lúc lắc, quặp chặt vòi, huơ vòi, lững thững Em hãy đọc đúng đoạn văn sau: Nhưng kìa, con voi quặp chặt vòi vào đầu xe và co mình lôi mạnh chiếc xe qua vũng lầy. Lôi xong, nó huơ vòi về phía lùm cây rồi lững thững đi theo hướng bản Tun. Đáp án bài 2: Nhưng kìa, /con voi quặp chặt vòi vào đầu xe /và co mình lôi mạnh chiếc xe qua vũng lầy. 2.Kết quả Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh theo nội dung trên và thấy rằng kết quả đọc đúng, đọc ngắt giọng và nhấn giọng dẫn đến dọc diễn cảm của học sinh được nâng cao nhiều so với kết quả đầu năm, số lỗi mà học sinh mắc phải đã giảm đi nhiều nhất là sai về phụ âm đầu l/ n; vần ưng Chất lượng của giờ dạy sau thực nghiệm như sau: Lớp Sĩ số Luyện phát âm Ngắt giọng Nhấn giọng Đọc diễn cảm Đúng Chưa đúng Đúng Chưa đúng Đúng Chưa đúng Đúng Chưa đúng SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % 2A1 38 30 78,9 8 21,1 28 73,7 10 26,3 28 73,7 10 26,3 20 52,6 18 47,4 Qua tiết dạy Tập đọc bài Voi nhà nhằm rèn kĩ năng đọc đúng, đọc ngắt giọng, nhấn giọng và đọc diễn cảm cho học sinh lớp 2, tôi thu được một số kết quả sau: - Nâng cao được trình độ của giáo viên: Giáo viên phải dành nhiều thời gian nghiên cứu, tham khảo các tài liệu hướng dẫn, sách giáo khoa để dạy phù hợp với trình độ của học sinh. Đặc biệt trong khi dạy phân môn Tập đọc nói chung với các phân môn khác trong trường Tiểu học nói chung, người giáo viên cần phải có tính kiên trì, tỉ mỉ, có cách giảng truyền cảm để hướng dẫn các em cặn kẽ từng bài, từng phân môn, thu hút sự hứng thú học tập của học sinh. Qua đó giáo viên được tư duy khoa học, tạo niềm say mê đối với nghề nghiệp của người giáo viên. Phần III. KẾT LUẬN I. Đánh giá chung: - Trong giao tiếp, trong học tập, trong công tác hàng ngày, con người luôn phải học hỏi, tiếp thu nền văn minh của xã hội loài người. Vậy mà trong những kinh nghiệm cuộc sống, những thành tựu về văn hóa, khoa học, xã hội những tư tưởng tình cảm của các thế hệ đi trước và của xã hội đương thời thì phần lớn đơn vị ghi lại bằng chữ viết. Do vậy nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của nhân loại, không có niềm vui, hạnh phúc với đúng nghĩa của nó trong xã hội hiện tại. Chính vì vậy dạy học là một việc làm vô cùng quan trọng ở Tiểu học, trong các giờ học của các môn học nói chung và ở phân môn Tập đọc nói riêng việc đọc đúng, hay cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Bởi có đọc được thì học sinh mới có thể học các môn khác. - Để học sinh có khả năng đọc đúng, hay, diễn cảm thì người giáo viên phải dạy cho học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm ngay từ những lớp đầu cấp. Nhưng không phải bằng cách tăng thời gian luyện đọc mà coi trọng chất lượng đọc, mà phải xác định nội dung đọc, hiểu như nhau. Xác định được ngữ liệu nội dung từng đoạn của bài để xác định các yếu tố nghệ thuật và giá trị của chúng trong diễn đạt nội dung. Giáo viên phải là người đọc mẫu chuẩn, hay. Dạy phải tỉ mỉ, kiên trì, nhẹ nhàng. Việc đưa ra hệ thống phiếu bài tập phải đảm bảo các yêu cầu, phải thực hiện được mục đích, học sinh phải chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và trong học tập. Khi giảng dạy cần chú ý đến nội dung bài tập đọc. Những bài có yếu tố văn cần có những bài tập giúp học sinh phát hiện ra những giá trị tác dụng của chúng trong tác phẩm. II. Hiệu quả. Đề tài " Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2"giúp học sinh pháp âm đúng, chuẩn, đọc đúng ngữ liệu, ngắt giọng đúng và hay. Khi dạy giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và có đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên và phải chuẩn bị cả về đồ dùng dạy học phục vụ cho bài dạy đó thì tiết học mới có hiêụ quả cao. Mặc dù còn khó khăn trong trong quá trình thực hiện phương pháp nhưng nếu khắc phục được tôi nghĩ đây là một việc làm rất thiết thực trong quá trình nâng cao chất lượng đọc cho học sinh, góp phần lớn vào mục tiêu giáo dục Tiểu học. III.Ý kiến đề xuất. Trước thực tế giảng dạy trong năm học qua nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy học cũng như việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong phân môn tập đọc. Tôi xin đưa ra một vài kiến nghị sau: - Khi trẻ bắt đầu đến trường, giáo viên cùng với gia đình, nhà trường, xã hội phải giáo dục và rèn kỹ năng đọc cho các em một cách hiệu quả nhất. - Mỗi giáo viên , cần dành nhiều thời gian hơn vào việc nghiên cứu, vận dụng các phương pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh sao cho tốt hơn, hiệu quả hơn. - Cần tổ chức, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy trong và ngoài trường theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học. Với đề tài " Một số biên pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2" tôi hi vọng rằng giúp các em nâng cao khả năng đọc của mình .Từ đó rèn cho các em biết: Đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. Thực hiện đề tài này do hạn chế về trình độ nên tôi chỉ đưa ra một số vấn đề nho nhỏ.Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Ban giám hiệu nhà trường, cũng như của các bạn đồng nghiệp để đề tài thêm hoàn chỉnh và chất lượng hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! An Bình, ngày 15 tháng 01 năm 2019 Người thực hiện Ninh Thị Thúy PHẦN IV: PHỤ LỤC Hướng dẫn dạy tập đọc trong trường Tiểu học. Tạp chí Giáo dục và Thời đại. Sách Tiếng Việt các lớp 1, 2
Cập nhật thông tin chi tiết về Một Số Biện Pháp Rèn Kĩ Năng Viết Đúng Chính Tả Cho Học Sinh Lớp 5 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!