Bạn đang xem bài viết Luận Văn Đề Tài Chức Năng Tổ Chức, Quản Lí Của Nhà Nước Xhcn Trong Lĩnh Vực Kinh Tế Của Nước Cộng Hòa Xhcn Việt Nam được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Cuối thế kỉ XX, trước cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế-xã hội, các nước XHCN đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Dù với phương thức chuyển đổi khác nha, những bước đi và mức độ thành công khác nhau nhưng thực tế cho thấy những kết quả tốt hơn so với trước khi chuyển đổi. Đó là sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, phục hồi và bước đầu tăng trưởng kinh tế; các thể chế của nền kinh tế thị trường đã dâầndần hình tha nhf và phát huy tác dụng tích cực song song với việc chuyển đổi hệ thống pháp luật và thiết chế Nhà nước; từ nội dung đén phương thức quản lí kinh tế ở các nước đã được chuyển đổi. Tuy không phải tất cả các nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạchhóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đều giữ định hướng XHCN nhưng từ thực tiễn của công cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị truờng ở một số nước, có thể rút ra được những vấn đề chung như sau: Một là không thể có một mô thức đồng nhất và giản đơn cho mọi nước trong chuyển đổi. Hai là Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng và tích cực trong quá trình cải cách chuyển đổi. Có thể khẳng định rằng chất lượng của chính sách Nhà nước cũng như sự điều tiết có hiệu quả của Nhà nước mới có ý nghĩa quyết định sự thành công của công cuộc chuyển đổi (Xem: Nguyễn Minh Tú, Về mô hình chuyển đổi kinh tế của một số nước và định hướng vận dụng ở VIệt Nam,Nxb Chính trị Quốc gia,h.1997,tr.24, 49-50). Ba là quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự đồng bộ không phải chỉ trong các chính sách kinh tế mà còn cả hệ thống thể chế, cơ cấu xã hội, những thiết chế Nhà nước và hệ thống lập pháp (Xem Mười vấn đề lớn về kinh tế hiện đại, Viện NCQLTƯ, H.1995,tr.66). Như vậy, với những quan niệm về vai trò kinh tế của Nhà nước trên thế giới như đã nêu trên, có thể thấy cuộc tìm kiếm mô hình kinh tế hợp lí và chức năng đích thực của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế ở các nước từ xưa đến nay vẫn đang tiếp tục. Mỗi mô hình kinh tế cũng như mỗi lí thuyết kinh tế ở các nước đều có những yếu tố hợp lí và những giá trị tham khảo nhất định; đặc biệt là vấn đề chức năng tổ chức, quản lí của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện đại và chức năng của Nhà nước XHCN trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị truờng là những vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Đó cũng chính là cơ sở lí luận và thực tiễn trong lịch sử quốc tế cho việc nhận thức vai trò và chức năng tổ chức, quản lí kinh tế của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.Trên cơ sở phân tích tình hình cụ thể của nước ta trong giai đoạn đầu của thời kì quá độ, tổng kết việc tổ chức và quản lí kinh tế trong thời gian qua, Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã khẳng đinh “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất”.Tư tưởng chỉ đạo đó thể hiện trong các chính sách và biện pháp lớn chỉ đạo nội dung của chức năng tổ chức và quản lí kinh tế của Nhà nước ta. Trong phạm vi bài viết này chúng ta sẽ tìm hiểu chức năng tổ chức, quản lí của nhà nước XHCN trong lĩnh vực kinh tế của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
TÀI LIỆU LUẬN VĂN CÙNG DANH MỤC
TIN KHUYẾN MÃI
Thư viện tài liệu Phong Phú
Hỗ trợ download nhiều Website
Nạp thẻ & Download nhanh
Hỗ trợ nạp thẻ qua Momo & Zalo Pay
Nhận nhiều khuyến mãi
Khi đăng ký & nạp thẻ ngay Hôm Nay
NẠP THẺ NGAY
DANH MỤC TÀI LIỆU LUẬN VĂN
Đề Tài Tìm Hiểu Chức Năng Tổ Chức, Quản Lí Của Nhà Nước Xhcn Trong Lĩnh Vực Kinh Tế Của Nước Cộng Hòa Xhcn Việt Nam
nhà nước đối với kinh tế nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh ở thị trường trong nước cũng như trênthị trường quốc tế của các chủ thể kinh tế nhà nước đã và đang là một trong những nội dung quan trọng nhất trong chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay (theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1996, tr93-94) 3. Thực trạng tổ chức, quản lí kinh tế của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay 3.1. Khái quát về thành tựu đạt được trong việc tổ chức, quản lí kinh tế của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam Bằng chính sách, pháp luật và các công cụ quản lí vĩ mô khác, qua gần hai thập kỉ dổi mới đất nước, Nhà nước ta thực sự đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo ra những chuyển biến to lớn về mọi mặt của đất nước. Đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu rõ nét và đồng bộ, trong đó tốc độ tăng trưởng khá cao ở tất cả các ngành, các lĩnh vực.Nếu tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm từ 1976-1980 chỉ có 0,4% thì từ năm 1991-1999, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 7,7%.Nếu nhìn khái quát giai đoạn từ 1996 đến nay thì những thành tựu phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau: *Nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân được duy trì Sản xuất nông nghiệp liên tục phát triển, sản lượng lương thực bình quân đầu người đã tăng từ 360kg năm 1995 lên trên 444kg năm 2000.Các ngành công nghiệp và xây dựng vượt qua những khó khăn, thách thức đạt được nhiều tiến bộ với nhịp độ tăng trưởng bình quân 13,5%/năm; giá trị các ngành dịch vụ tăng 6,8%/năm *Cơ cấu nền kinh tế quốc dân đã có chuyển biến tích cực Nhìn chung cơ cấu kinh tế đất nước đang được chuyển đổi theo hướng công nghiệp háo, hiện đại hóa; cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại và đổi mới kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tỉ trọng kinh tế nhà nước trong GDP: khoảng 39%, kinh tế tập thể: 8,5%, kinh tế tư nhân: 3,3%, kinh tế cá thể : 32%, kinh tế hỗn hợp: 3,9%, kinh tế có vốn đầu tư nứơc ngoài: 13,3%. (Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, H,tr.229) *Các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân được đảm bảo Các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân được đảm bảo như cân đối giữa tích lũy và tiêu dùng, trong đó tiỉệ tích lũy để phát triển tăng; cân đối tài chính-tiền tệ. Chính sách của Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi cho việc huy động các nguồn vốn phát triển, nhất là nguồn vốn trong nước.Năng lực của các ngành sản xuất, dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội được nâng lên rõ rệt. *Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển Nhờ có những đổi mới trong những chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước, đặc biệt là Luật đầu tư nước ngoài tại Việ Nam được bổ sung, sửa đổi ngày càng thông thoáng hơn; Luạt thương mại đuợc ban hành và có hiệu lực mà hoạt động xuất nhập khẩu những năm qua được đánh giá là phát triển khá, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục tăng góp phần tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước; vôốnhỗ trợ phát triêểnchính thức (ODA) tiếp tục tăng góp phần phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội. Đồng thời các doanh nghiệp VIệt Nam cũng đang từng bước mở rộng hoạt động đầu tư ra nước ngoài *Cơ chế quản lí nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được xác lập, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đã được đổi mới Các chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Nhaànước đang dần được thể chế hóa bằng các đạo luật như Luật doanh nghiệp, Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng, Luật đất đai(sửa đổi), Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam(sửa đổi), Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Bộ luật lao động, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật khoa học và công nghệ … Nhiều loại thị trường hàng hóa dịch vụ như thị trường vốn, tiền tệ, tài chính, lao động, bất động sản, khoa học và công nghệ đã được thừa nhận và bước đầu được tạo lập khuôn khổ pháp lí. Cơ chế quản lí kinh tế vĩ mô của nhà nước đã được định hình; hành lang pháp lí cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và các hoạt động của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế dã đựoc xác lập. Các thủ tục hành chínhđã giảm bớt, tổ chức và cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước đã được đổi mới một bước quan trọng theo các yêu cầu của việc đảm bảo cho quyền tự do kinh doanh. Chính sách chủ động hội nhập với nền kinh tế quốc tế và khu vực đang được tăng cường trên cơ sở phát huy năng lực của nền kinh tế đất nước. Đánh giá tình hình chung sau 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội 1991-2000, Đảng cộng sản Việt Nam nêu rõ Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đó là tổng sản phẩm trong nước năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế . Đặc biệt là nhà nước đã kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp, chuyển đổi sang cơ chế thị trường định hướng XHCN; cơ cấu nền kinh tế quốc dân từ chỗ chủ yếu có hai thành phần là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể nay đã huyển sang nền kinh tế với cơ cấu nhiều thành phần trong đó nền kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đời sống nhân dân những năm qua được cải thiện, đất nước đã ra khỏi khủng hoaảng kinh tế-xã hội, vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự hẫng hụt về thị trường do những biến động ở Liên Xô và các nước Đông Âu gây ra; phá được thế bị bao vây, cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, không để bị cuốn sâu vào cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế ở một số nước Châu Á mà hậu quả của nó đối với Việt Nam cũng khá nặng nề, tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường. 3.2. Những tồn tại và bất cập trong tổ chức, quản lí kinh tế của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam Mỗi bước phát triển kinh tế đều thể hiện mặt thành công và những tồn tại, bất cập trong việc thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, những tồn tại và bất cập trong hoạt động quản lí kinh tế của Nhà nước hiên nay thể hiện trên những điểm chủ yếu sau: *Về hệ thống pháp luật và các công cụ quản lí vĩ mô khác của Nhà nước Biểu hiện chung là chính sách đối với các thành phần kinh tế của Nhà nước hiện nay chưa thật sự đồng bộ và nhất quán. Trong thực tế từ các nguyên tắc hiến pháp cho đến các đạo luật, các văn bản duới luật và hoạt động thực thi chính sách hàng ngày của các cơ quan và cán bộ công chức nhà nước… là cả chặng đường dài mà ở đó có thể có sự khúc xạ, biến tướng so với các chủ trương, chính sách lớn. Chẳng hạn, giá dịch vụ các loại, giá thuê đất, chế độ tín dụng khác nhau giữa các loại hình doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đến nay, các yếu tố của kinh tế thị trường chưa được hình thành đồng bộ, môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng chưa đượctạo lập đầy đủ. Trong chính sách, thể chế quản lí của Nhà nước còn tồn tại những hình thức bao cấp, vẫn mang tính chất “xin-cho” gắn với thủ tục phiền hà, thiếu công khai nhưng lại có nhiều mặt buông lỏng quản lí, không giữ được trật tự, kỉ cương (Báo cáo của Chính phủ tại kì họp Quốc hội khóa X, 2000) Từ năm 2000, Việt Nam đã khắc phục đượ tình trạng suy giảm nhuưg nhìn chung, cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động của Việt Nam chưa có sự chuyển biến rõ rệt. Lao động trong nông nghiệp chiếm 67%; xuất khẩu chủ yếu là hàng nguêyn liệu thô hoặc hàng gia công, đời sống kinh tế-xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc, tình trạng phân hóa giàu nghèo, chênh lệch thu nhập và mức sống giữa thành thị và nông thôn còn cao.. (theo “Kinh tế Việt Nam trong quá trình cải cách”, Cải cách kinh tế, tài chính Việt Nam& Trung Quốc và thành tựu và triển vọng, Nxb. Tài chính, tác giả Nguyễn Công Nghiệp, H, tr.14) Trong gần 20 năm đổi mới đất nước, bên cạnh những kết quả đã đạt được, về xây dựng hệ thống pháp luật cũng như hoạt động thi hành pháp luật và giáo dục nâng cao ý thức pháp luật trong các tầng lớp nhân dân còn nhiều vấn đề cần phải khắc phục để phát triển kinh tế-xã hội theo chiều sâu của sự nghiệp đổi mới đất nước. So với nhu cầu của đất nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội hiên nay thì có thể thấy hệ thống pháp luật còn những khuyết điểm như sau: Chúng ta vẫn còn thiếu pháp luật trong một số lĩnh vực quan trọng như cạnh tranh, chốn độc quyền; chứng khoán; kiểm toán; kế toán, thống kê; kinh doanh bất động sản. Luật pháp của nhà nước ta vẫn chưa đồng bộ, phần lớn chỉ dưừnglại ở các nguyên tắc chung, muốn đi vào cuộc sống phải ban hành nhiều văn bản dưới luật để hướng dẫn chi tiết mà nhiều khi việc này còn chậm trễ. Pháp luật về kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh thậm chí còn mâu thuẫn ,thiếu tính minh bạch và tính xác định gây khó khăn cho việc sử dụng pháp luật của các nhà đầu tư. Nhà nước ta có bộ máy thi hành pháp luật khá đồ sộ nhưng hiệu lực và hiệu quả còn chưa tương xứng; năng lực cán bộ, công chức nhà nước còn yếu; việc giải quyết các treanh chấp kinh tế, dân sự còn chậm. Bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật còn kém, trong đời sống kinh tế-xã hội còn nhiều vi phạm nư kinh doanh trái phép, buôn lậu, hàng giả, trốn thuế, nợ đọng thuế … Cùng đó, Luật pháp nhà nước ta hay phải sửa đổ,i bổ sung cũng có mặt trái là không đảm bảo được tính ổn định cho sự vận hành của các quan hệ kinh tế Thêm nữa, pháp luật kinh tế thiếu nhiều cơ chế kiểm soát thông qua thị trường, ít mang tính chất cuủa”luật tư” (xem “Mấy điều về pháp luật kinh tế Việt Nam hiện nay”-Nguyễn Am Hiểu, Tạp chí Luật học, số 3/1999, tr.25).Nhìn chung pháp luật hiện hành còn đang thể hiện những điểm mâu thuẫn, bất cập trong hệ thống chính sách kinh tế của nhà nước. Đó là mâu thuẫn trong việc thừa nhận nền kinh tế thị trường theo nguyên tắc tự do kinh doanh mà trên thực tế các cơ chế chính sách, các quy định cụ thể vẫn còn nặng về thủ tục hành chính.Ngaòi ra, hệ thống pháp luật kinh tế của VIệt Nam còn nhiều sự khác biệt với hệ thống pháp luật của các nước trong khu vực và trên thế giới. * Về việc thực hiện chức năng quản lí đối với kinh tế Nhà nước Tình hình chung hiện nay của khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam cho thấy một số doanh nghiệp vươn lên thích ứng với cơ chế thị trường và phát huy được tác dụng tích cực nhưng nhìn chung hiệu quả kinh doanh cảu các doanh nghiệp nhà nước còn thấp, việc sử dụng các nguồn lực của kinh tế nhà nước còn hạn chế và lãng phí. Nhiều daonh nghiệp thua lỗ kéo dài, chưa được sắp xếp lại.Chủ trương cổ phần hóa, đổi mới quan hệ sở hữu và cơ chế quản lí doanh nghiệp nhà nước tiến hành vẫn còn chậm.Hệ thống cơ chế, chính sách đối với kinh tế nhà ước vẫn chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, chưa tạo ra được cơ sở pháp lí vững chắc đẻ cho các chủ thể kinh tế nhà nước tham gia cạnh tranh. Hiện nay, các tổng công ty nhà nước còn nhiều vấn đề bất cập về mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động, chưa thật sự thể hiện được vai trò của mình như là tất yếu kinh tế-xã hội mà còn mang nặng tính hành chính. Đảng cộng sản Việt Nam cũng nhận dịnh là khu vực nhà nước chậm được sắp xếp củng cố và đổi mới… Còn một bộ phận không ít doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thiếu năng động, trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước (theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001, tr.52) *Về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước Từ nguyên tắc chung về sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở tập trung thống nhất quyền lực nhà nước. Hiện nay cũngcòn nhiều vấn đề phải tiếp tục giải quyết theo yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước vẫn còn những bất hợp lí, thiếu cơ sở khoa học, tình trạng chồng lấn chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền còn khá phổ biến. Các bộ quản lí ngành kinh tế và bộ tổng hợp chưa có tiêu chí khoa học để phân biệt, có bộ chỉ thực hiện một chức năng. Sự phân công, phối hợp giữa các bộ với nhau, giữa bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quản lí kinh tế-xã hội chưa thật rõ ràng và hợp lí. Nhìn chung, như nhận định của chính phủ VIệt Nam về htực trạng nền hành chính hiện nay là tổ chức bộ máy hành chính còn cồng kềnh, nhiều tầng, nấc: phương thức quản lí hành chính vừa tập trung quan liêu lại vừa phân tán, chưa thông suốt (theo Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010) Trong điều kiện hiện nay, hoạt động tư pháp ngày càng được nhà nước chú trọng là điều tất yếu, bởi lẽ tính hoàn chỉnh và cân đối của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một trong những biểu hiện cho tính thống nhất của quyền lực nhà nước ở Việt Nam. Tuy nhiên cũng phải thấy việc kiểm soát các quan hệ kinh tế -xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường là lĩnh vực còn mới đối với cơ quan tư pháp Việt Nam. Hiệu quả hoạt động tư pháp hiện nay phản ánh tình trạng hệ thống pháp luật, tổ chức bộ máy cũng như năng lực quản lí cán bộ của ngành tư pháp Việt Nam đang còn nhiều vấn đề cấp bách cần giải quyết Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức quản lí kinh tế của Việt Nam hiện nya có nhiều bất cập mà Nhà nước đang từng bước khắc phục. Đó là tình trạng quá nhiều người trong các cơ quan hành chính chế độ chức trách còn chưa cụ thể, trình độ năng lực còn hạn chế, tình trạng quna liêu, tham nhũng không phải ít. Nhiều người không muốn xóa bỏ cơ chế làm việc cũ vì sợ mất đi những đặc quyền đặc lợi qua các khoản thu bất chính từ cơ chế “xin-cho”.Mặt khác, đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế hiện nay đông nhưng không đồng bộ, vừa htừa lại vừa thiếu, trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo quản lí chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới nhất là quản lí kinh tế thị trường .Nhìn chung thực trạng về bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công hcức hiên nay đang là thách thức lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước . 3.3. Nguyên nhân những tồn tại và bất cập Ngoài các nguyên nhân khách quan là do xuất phát từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, với những hậu quả của nhiều năm chiến tranh ác liệt và htiên tai nặng nề thì nhưữngtồn tại và bất cập trong việc thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước hiên nay còn do các nguyên nhân chủ quan. Những nguyên nhân chủ quan bao gồm nhận thức và hành động của con người thể hiện trong cả tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các cơ quan cũng như cán bộ, công chức nhà nước. Đó là các nguyên nhân sau: Thứ nhất, đó là do ảnh hưởng tư tưởng cũ trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.Nền kinh tế thị truờng định hướng XHCN ở Việt Nam được xây dựng từ cơ sở trước đó vốn là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.Vì thế những nếp nghĩ thói quen hành động của con người đã mấy chục năm vẫn còn ảnh huởng rất lớn và không dễ dàng thoát khỏi ngay đựơc.Trong tình hình hiện nay, tàn dư của chủ nghĩa nhà nước trong quản lí kinh tế thể hiện ở chỗ vẫn còn tàn dư tư tưởng tuyệt đối hóa vai trò của nhà nước trong điều chỉnh các quan hệ kinh tế mà không thấy vai trò tự điều chỉnh của xã hội và những sự cần thiết của sự điều chỉnh mang tính nhà nước. Biểu hiện của tàn dư này có thể gặp khá phổ biến trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước như trong hoạt động xây dựng các đạo luật, các văn bản duới luật như nghị định của Chính phủ là văn bản nào cũng thấy có phần, chương quy định về quản lí nhà nước trong lĩnh vực ấy mà nhiều khi thiếu cơ sở vững chắc và thiếu tính khả thi. Biểu hiện khác về sự ảnh hưởng của tư tưởng quản lí nhà nước trong cơ chế cũ là về tính chủ đạo của kinh tế nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo về bản chất khác với tính tập trung của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Nhưng hiện vãn còn quan niệm cho rằng kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo nghĩa là kinh tế nhà nước phải nắm giữ hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và nếu như vậy thì mới thể hiện định hướng XHCN của nền kinh tế. Từ đó mà người ta vẫn chưa hoàn toàn gột bỏ được tư tưởng về chế độ bao cấp của Nhà nước thể hiện ở chế độ bảo hộ doanh nghiệp nhà nước, bảo hộ sản xuất trong nước bằng hàng rào thuế quan nghiêm ngặt. Về quản lí nhà nước với các chủ thể kinh tế nhà nước, đến nay trong việc xây dựng và tổ chức bộ máy chủ quản lí hành chính với doanh nghiệp nhà nước với kiểu quản lí đơn chức năng, cồng kềnh nhiều tầng nấc, nhiều người. Thứ hai, do nhận thức chưa thống nhất về xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Đây một phần cũng là hệ quả của nguyên nhân trên và mặt khác còn do việc sao chép kinh nghiệm của nước ngoài một cách máy móc không phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Biểu hiện của sự không thống nhất trong nhận thức về xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay trước hết là tính không đồng bộ của hệ thống chính sách của Nhà nước. Các chính sách lớn thì mở nhưng việc thực thi hàng ngày thì lại bị vướng mắc hay cản trở bởi hàng loạt các quy định, các thủ tục hành chính rườm rà, ách tắc. Đó là biểu hiện về tư tưởng cục bộ của các ngành, các cơ quan, các địa phương trong quá trình thực thi chính sách kinh tế của Nhà nước. Nhiều người muốn níu kéo cơ chế cũ là do những lợi ích cá nhân trong cơ chế đó nhưng ngay trong nhận thức chung của xã hội, của các cán bộ, công chức nhà nước cũng chưa đạt đến sự thống nhất về những vấn đề như xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, về đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, chính sách đất đai, kinh tế trang trại, nội dung và bước đi công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế (theo Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, H,2001,tr.17). Về vấn đề vait rò chủ đạo của nền kinh tế hiện nay vẫn có sự nhận thức chưa thống nhất, chẳng hạn không ít người vẫn coi trọng số lượng hơn chất lượng, cho rằng cần phải thành lập doanh nghiệp nhà nước hơn nữa để làm đối trọng với doanh nghiệp dân doanh nhằm tạo ra thế cạnh tranh,… Thứ ba, do trình độ năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ công chức còn chưa thật sự đáp ứng được yêu cấu của nhiệm vụ. Việ Nam xây dựng nền kinh tế thị truờng định hướng XHCN vốn từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhiều cán bộ, công chức nhà nước được đào tạo theo mô hiình kinh tế cũ không còn phù hợp với yêu cầu mới của nhiệm vụ. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước tuươg xứng với yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mới đạt được kết quả bước đầu, chưa thật sự vững chắc. Vì thế, trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thì những bất cập về trình độ, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước là điều dễ hiểu. 4. Phương hướng nâng cao hiệu quả chức năng kinh tế 4.1. Chiến lược phát triển pháp luật và hoàn thiện hệ thống kinh tế Trong quản lí kinh tế, Nhà nước phải sử dụng đồng bộ tất cả các công cụ trong đó pháp luật là nền tảng.Từ đường lối chính sách của Đảngvà Nhà nước để xây dựng hệ thống pháp luật, không phải chỉ có việc là chuyển thành ngôn từ pháp lí hay đem lại cho chúng hình thức của văn bản pháp luật mà đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiên cứu thích đáng những nhu cầu, mức độ cần điều chỉnh các quan hệ kinh tế-xã hội. Không phải toàn bộ nội dung đường lối, chính sách đếu được đưa vào nội dung văn bản quy phạm pháp luật mà còn phải qua quá trình thể chế hóa với những yêu cầu đặc thù. Điều này đòi hỏi cần phải khắc phục tình trạng văn bản pháp luật được ban hành vội vã, mang tính chủ quan, chưa đủ độ chín muồi, kém tác dụng trong điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Lĩnh vực kinh doanh là lĩnh vực hết sức năng động và phức tạp nên các chính sách của nhà nước, các biện pháp kế hoạch cũng phải đa dạng và linh hoạt. Tuy nhiên, pháp luật của Nhà nước phản ánh đầy đủ cái đa dạng phong phú ấy bằng phương pháp riêng của mình; pháp luật mang trong nó cái “hồn” của chính sách chứ không thể sao chép chính sách một cách gượng ép. Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật của nước ta là chính sách, kế hoạch phát triển tổng thể của Nhà nước gồm cả lập pháp, thi hành pháp luật nhằm giáo dục nâng cao ý thức pháp luật để hoàn thiện các giải pháp đồng bộ về pháp luật để điều chỉnh các hoạt động kinh tế-xã hội; tạo thế chủ động về hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật của Nhà nước; ổn định hóa chính sách pháp luật.Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật của Nhà nước trong điều kiện hiện nay cũng cần phải được hoàn thiện trên cơ sở coi xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang diễn ra mạnh mẽ như là tất yếu khách quan của thời đại..Chiến lược phát triển pháp luật của Nhà nước phải xác định được những vấn đề cơ bản, có tính định hướng cũng như chương trình hóa dài hạn gồm: – Hướng phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội và nhu càu mức độ điều chỉnh một cách tổng quát; – Các nhu cầu điều chỉnh trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội quan trọng. – Chương trình xây dựng các lĩnh vực pháp luật; – Chương trình tổ chức thực hiện pháp luật, giáo dục nhằm nâng cao ý thức pháp luật. Có thể quan niệm hệ thống pháp luật về kinh tế được cấu trúc theo hai mảng lớn sau: Thứ nhất là hệ thống các qui phạm pháp luật xác định chế độ quản lí của Nhà nước với hoạt động kinh tế. Hệ thống này điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước và quyền của các chủ thể kinh tế, xác dịnh phạm vi thẩm quyền của Nhà nước và quyền của các chủ thể kinh tế. Đặc trưng của quan hệ xã hội trong mảng này là quan hệ giữa một bên là Nhà nước-cơ quan công quyền đại diện cho lợi ích của xã hôi, của người tiêu dùng có thẩm quyền theo quy định của pháp luật buộc các chủ thể kinh tế phải thực hiện những nghĩa vụ do pháp luật quy định, còn các chủ thể kinh tế có quyền được yêu cầu cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước phải thực hiện những công việc theo luật định đảm bảo cho hoạt động kinh tế được thuận lợi. Cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước chỉ được thực hiện những hành vi do luật định không được can thiệp quá giới hạn thẩm quyền, làm cản trở các hoạt động kinh tế. Chủ thể kinh tế chỉ phải thực hiện những nghĩa vụ do luật định một cách rõ ràng, công khai, ngoài ra không có nghĩa vụ bắt buộc nào khác. Thứ hai là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giao dịch giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng. Đây là mảng lớn thứ hai trong hệ thống pháp luật về kinh tế và cũng là mảng còn yếu, Nhà nước cần tập trung khắc phục. Đặc trưng của mảng quan hệ xã hội giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng là lợic ích kinh tế quyết định sự tham gia quan hệ đồng thời nó trực tiếp quyết định hành vi của họ. Do vậy, các nguyên tắc quan trọng hàng đầu của hệ thống các quy phạm trong mảng này là nguyên tắc tự định đoạt, nguyên tắc tự do thỏa thuận trên cơ sở không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Trong lĩnh vực này, chủ thể được tự do thỏa thuận tất cả những gì mà pháp luật không cấm, tất cả những gì ngoài phạm vi pháp luật quy định phải có điều kiện, pahỉ xin phép… Nhà nước tôn trọng tất cả những thỏa thuận như vậy và đảm bảo cho các thỏa htuận, cam kết hợp pháp được tuân thủ như ý chí của cá bên. Đồng thời, vai trò to lớn của nhà nước còn được htể hiện ở chỗ Nhà nước chủ động nghiên cứu và hoàn thiện các mô hình, các hình thức pháp lí cho cá loại hình thị trường, cá giao dịch kinh tế hoặc khắc phục những điểm bất cập của pháp luật hiện hành, tạo môi trường pháp lí thông htoáng và thuận lợi cho cá chủ thể kinh tế hoạt động. HIện nay, một trong những vấn đề bức xúc trong mảng pháp luật này là vấn đề hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng. Mặt khác, mảng pháp luật về các loại hình doanh nghiệp nhất là luật về công ti cũng cần phải được hoàn thiện để đảm bảo tính “tự hành” cho các quan hệ về tổ chức nội bộ của công ty. Hệ thống pháp luật về kinh tế được coi là hoàn chỉnh là hệ thống phải phát triển đầy đủ cả hai mảng pháp luật kể trên..Nguyên tắc xuyên suốt hệ thống pháp luật về kinh tế là dành sự thuận lợi nhất cho hoạt động của các chủ thể kinh tế chứ khong phải chỉ dành thuận lợi cho hoạt động quản lí nhà nước mà gây trở ngại cho hoạt động kinh tế.. Bởi vậy, hệ thống pháp luật cần được hoàn thiện theo hướng: – Phát huy vai trò các yếu tố cơ bản của thị truờng gồm nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể trong hoạt động kinh tế; tự do kinh doanh; sự vận động tự do của vốn và hàng hóa, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế. – Đảm bảo sự quản lí vĩ mô của Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế; – Đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật; – Đảm bảo hiệu lực thực hiện của hệ thống pháp luật; – Đảm bảo sự tương thích với pháp luật và thông lệ quốc tế của hệ thống pháp luật. Từ các yêu cầu cơ bản trên, cần tập trung vào các giải pháp sau đây cho việc hoàn thiện và nâng cao vai trò của hệ thống ph
Bản Chất, Chức Năng Và Hình Thức Nhà Nước Cộng Hoà Xhcn Việt Nam
Trong bài Nguồn gốc, Bản chất, Đặc điểm và Hình thức của Nhà nước, chúng ta đã tìm hiểu các khái niệm chung nhất về Nhà nước như: bản chất, đặc điểm, kiểu Nhà nước và hình thức Nhà nước… Mỗi kiểu Nhà nước khác nhau có bản chất, chức năng và hình thức khác nhau. Vì vậy để hiểu rõ về Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu các khái niệm cơ bản nhất về Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như:
1. Sự ra đời của Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam
Tháng 8 năm 1945, sau khi thực hiện thành công cuộc tổng khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Sau đó lại tiếp tục công cuộc kháng chiến cho đến mùa xuân năm 1975 chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, thống nhất đất nước và tiến hành xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa như hiện nay.
2. Bản chất của Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam
Bản chất của Nhà nước mang thuộc tính giai cấp. Vì vậy Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước do giai cấp công nhân và nhân dân lao động lãnh đạo, nhằm thực hiện những lợi ích của giai cấp mình và đồng thời mang lại lợi ích cho tất cả các tầng lớp khác trong xã hội.
Bản chất của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thể hiện cụ thể của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Theo Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Bản chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân được thể hiện như sau:
Nhà nước ta là Nhà nước của tất cả các dân tộc trong quốc gia Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đoàn kết các dân tộc.
Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, thể hiện qua việc thiết lập nên Nhà nước bằng quyền bầu cử các cơ quan quyền lực Nhà nước của nhân dân; thực hiện quyền lực Nhà nước bằng các hình thức giám sát, kiểm tra, khiếu kiện các quyết định của cơ quan Nhà nước làm thiệt hại quyền lợi của dân.
Nhà nước thể hiện bản chất dân chủ trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và ý thức xã hội.
Bản chất Nhà nước thể hiện trong chính sách đối ngoại là theo phương châm Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở hòa bình, hữu nghị, cùng có lợi và tôn trọng chủ quyền của nhau.
3. Chức năng của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
Chức năng của Nhà nước là khái niệm quản lý mà qua đó nội dung và mục đích của quản lý Nhà nước được biểu hiện cụ thể.
Chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là những phương diện hoạt động cơ bản của Nhà nước thể hiện bản chất giai cấp nhằm thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của Nhà nước.
Cần phân biệt chức năng với nhiệm vụ Nhà nước. Đây là 2 khái niệm gần nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Nhiệm vụ là những vấn đề đặt ra mà Nhà nước cần phải giải quyết, có nhiệm vụ cấp bách, có nhiệm vụ lâu dài. Còn chức năng là những phương diện hoạt động có tính chất định hướng phù hợp với sự phát triển của Nhà nước.
Chức năng cơ bản của Nhà nước Việt Nam bao gồm: Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
3.1. Chức năng đối nội
Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế, tạo lập và bảo đảm môi trường chính trị, luật pháp tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế hoạt động có hiệu quả.
Chức năng tổ chức và quản lý về văn hóa xã hội, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, giáo dục và đào tạo nâng cao dân trí giúp phát triển đất nước.
Chức năng bảo đảm ổn định chính trị, an ninh trật tự, an toàn xã hội và quyền lợi chính đáng của công dân.
3.2. Chức năng đối ngoại
Chức năng bảo vệ tổ quốc, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và ổn định hòa bình cho đất nước.
Chức năng củng cố, mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau.
4. Hình thức của Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam
Xét theo khái niệm chung, hình thức Nhà nước gồm 3 yếu tố cấu thành là hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.
Là Nhà nước xã hội chủ nghĩa nên hình thức Nhà nước Việt Nam là hình thức Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Các Nhà nước xã hội chủ nghĩa đều có cùng bản chất dân chủ.
4.1. Hình thức Nhà nước Việt Nam dưới góc độ hình thức chính thể
Hình thức chính thể là cách thức tổ chức và trình tự thành lập các cơ quan Nhà nước tối cao. Đối với Nhà nước Việt Nam do Hiến pháp quy định về cách thức tổ chức thành lập các cơ quan Nhà nước và xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với nhau, đảm bảo có sự tham gia của Nhân dân vào việc tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà nước. Từ Hiến pháp đầu tiên 1946 cho đến Hiến pháp 1992 hiện nay, khẳng định hình thức chính thể của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chính thể cộng hòa dân chủ nhân dân.
Chính thể cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc điểm sau:
– Tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
– Quyền lực Nhà nước không theo nguyên tắc “tam quyền phân lập” mà theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phân nhiệm, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
– Bộ máy Nhà nước được tổ chức thể hiện bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
4.2. Hình thức Nhà nước Việt Nam dưới góc độ hình thức cấu trúc nhà nước
Hình thức cấu trúc nhà nước là sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và xác lập mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan Nhà nước. Cấu trúc Nhà nước Việt Nam là Nhà nước đơn nhất, Nhà nước Việt Nam có chủ quyền quốc gia, có một lãnh thổ duy nhất, thống nhất không phân chia thành các Nhà nước tiểu bang. Nhà nước Việt Nam có một Hiến pháp, một hệ thống Pháp luật áp dụng chung trên toàn lãnh thổ và một hệ thống bộ máy Nhà nước.
4.3. Hình thức Nhà nước Việt Nam dưới góc độ chế độ chính trị
Chế độ chính trị là tổng thể những phương pháp và cách thức cơ quan Nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước. Nhà nước Việt Nam sử dụng hệ thống các phương pháp và biện pháp dân chủ thực sự để tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, đảm bảo sự tham gia của nhân dân vào việc quản lý nhà nước và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm Pháp luật nhà nước.
TÓM LƯỢC
Bản chất Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Chức năng cơ bản của Nhà nước Việt Nam bao gồm chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội gồm chức năng tổ chức và quản lý kinh tế; chức năng tổ chức và quản lý về văn hóa xã hội; chức năng bảo đảm ổn định chính trị, an ninh trật tự, an toàn xã hội. Chức năng đối ngoại gồm chức năng bảo vệ tổ quốc, bảo vệ độc lập dân tộc và chức năng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước nhằm phát triển đất nước.
Hình thức Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chính thể cộng hòa dân chủ nhân dân, cấu trúc nhà nước đơn nhất, chế độ chính trị dân chủ.
Tài liệu cùng môn học
Chia sẻ bài viết:
Luận Văn Ths: Thực Hiện Chức Năng Quản Lý Kinh Tế Của Nhà Nước Việt Nam
Đề tài “Thực hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam” là hết sức quan trọng và cần thiết. Việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần cung cấp những luận cứ khoa học để phục vụ cho việc tiếp tục hoàn thiện và đổi mới chủ trương, đường lối, chính sách và hệ thống pháp luật về QLKT của Nhà nước phù hợp với bối cảnh đất nước đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế theo chiều sâu. Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài phần nào chỉ rõ những tồn tại, hạn chế của cơ chế QLKT hiện hành để từ đó xây dựng các giải pháp có nhiều giá trị thực tế để hoàn thiện cơ chế QLKT của Nhà nước. Đó cũng là lý do chính để tác giả lựa chọn đề tài nói trên, làm luận văn thạc sĩ kinh tế.
Đối tượng nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu việc thực hiện chức năng QLKT của Nhà nước Việt Nam hiện nay.
Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu trong giai đoạn 2000 – 2010.
Phạm vi về không gian: Nghiên cứu tại Việt Nam.
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về việc thực hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước và phân tích thực trạng thực hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam, luận văn đề xuất một số giải pháp để góp phần hoàn thiện chức năng QLKT của Nhà nƣớc Việt Nam trong thời gian tới. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
Một là, hệ thống hóa, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận cơ bản về chức năng QLKT của Nhà nước.
Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua.
Ba là, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam trong thời gian tới
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bổ sung những tri thức mới vào hệ thống các tri thức khoa học về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của đề tài trong chừng mực nhất định còn góp phần cung cấp những luận cứ khoa học để Đảng, Nhà nước tiếp tục ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách mới nhằm bảo đảm thực hiện chức năng QLKT ngày càng có hiệu quả và chất lượng tốt hơn.
Tổng quan tình hình nghiên cứu
Một số vấn đề lý luận về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước
Kinh nghiệm quốc tế trong việc đổi mới, hoàn thiện chức năng quản lý kinh tế của nhà nước và một số bài học tham khảo
Phương pháp luận
Phương pháp tổng hợp
Phương pháp phân tích
Phương pháp so sánh
Khái lược về quá trình hình thành và phát triển của chức năng quản lý kinh tế qua các thời kỳ
Những thành tựu trong thực hiện chức năng quản lý kinh tế ở thời kỳ đổi mới vừa qua và nguyên nhân
Những nhược điểm trong thực hiện chức năng quản lý kinh tế ở thời kỳ đổi mới vừa qua và nguyên nhân
Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy quản lý và năng lực cán bộ quản lý kinh tế
Nhóm giải pháp về cách thức tổ chức thực hiện
Nhóm giải pháp về mặt pháp lý
Nhóm giải pháp về nhận thức tƣ tƣởng đối với lĩnh vực quản lý kinh tế
Nhóm giải pháp về thanh tra, kiểm tra và giám sát
Bộ Chính trị, 2005. Nghị quyết số 48 – NQ/TW, ngày 24 – 5 – 2005, Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Hà Nội:
Bộ Chính trị, 2005. Nghị quyết số 49 – NQ/TW, ngày 02 – 06 – 2005, Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Hà Nội.
Bộ Chính trị, 2013. Nghị quyết số 22 – NQ/TW, ngày 10 – 4 – 2013, Về hội nhập quốc tế, Hà Nội.
Bộ Giáo dục và đào tạo, 2010. Giáo trình Triết học (dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học). Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Hành chính.
Phan Kim Chiến, 2013. Bài giảng môn Quản lý Nhà nước về kinh tế nâng cao. Hà Nội: Các lớp cao học K21 ngành Quản lý kinh tế.
Cập nhật thông tin chi tiết về Luận Văn Đề Tài Chức Năng Tổ Chức, Quản Lí Của Nhà Nước Xhcn Trong Lĩnh Vực Kinh Tế Của Nước Cộng Hòa Xhcn Việt Nam trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!