Bạn đang xem bài viết Liên Hệ Thực Tiễn Vai Trò Của Quản Lý Hành Chính Nhà Nước Ở Cơ Sở Hiện Nay được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Liên hệ thực tiễn vai trò của quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở hiện nay . Liên thực trạng quản lý hành chính nhà nước ở việt nam hiện nay, liên hệ thực tế về quản lý hành chính nhà nướ qua những vai trò của quản lý hành chính nhà nước đối với sự phát triển của xã hội. Link download cuối bài
Liên hệ thực tiễn✅ vai trò của quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở hiện nayĐể thực hiện quản lý hành chính nhà nước, các cơ quan, tổ chức nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó đều phải ban hành quyết định hành chính nhà nước và thực hiện các quyết định đó. chính vì thế, mà việc ban hành và thực hiện các quyết định hành chính trong việc quản lí hành chính nhà nước của các cơ quan, chủ thể quản lí hành chính nhà nước có vai trò rất quan trọng. Có thể nói, trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước, không thể thiếu quyết định hành chính. .
1. Vai trò của quyết định hành chính trong việc bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nướcQuản lí hành chính nhà nước là loại hoạt động được thực hiện chủ yếu bởi cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan hành chính, sử dụng quyền lực nhà nước để đảm bảo quản lí tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Vai trò quản lí của cơ quan nhà nước là thể chế hóa các quy định của pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành ra, đưa nó vào thực tiễn đời sống. Để làm được việc đó, thì cơ quan quản lí hành chính nhà nước phải thực hiện thông qua các biện pháp, hoạt động quản lí khác nhau, trong đó, việc ban hành quyết định hành chính đóng vai trò hết sức quan trọng.
Ví dụ : Nghị định của Chính phủ được ban hành để quy định chi tiết thi hành luật, Nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước như : Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 5 năm 2014 về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai; Nghị định số 104/2003/NĐ-CP của Chính phủ : Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số;……
2. Vai trò của quyết định hành chính trong việc thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nướcCác Phương Pháp Quản Lý Hành Chính Nhà Nước Ở Nước Ta Hiện Nay
Quản lí hành chính nhà nước (QLHCNN) là quản lí nhà nước trong lĩnh vực hành pháp hoặc QLHCNN là một hoạt động chấp hành – điều hành của nhà nước. Hoạt động quản lí này được các chủ thể có thẩm quyền thực hiện thông qua những phương pháp QLHCNNnhằm đạt được những hành vi xử sự cần thiết. Có bốn phương pháp QLHCNN bao gồm phương pháp thuyết phục, phương pháp cưỡng chế, phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế.
1. Hình thức quản lý hành chính nhà nước
Hình thức quản lý hành chính nhà nước là biểu hiện bên ngoài cùng loại của họat động quản lý nhà nước trong những hành động cụ thể cùng loại.
Như vậy, hình thức quản lý hành chính nhà nước (với tư cách là cách thức thể hiện nội dung của quản lý hành chính nhà nước trong hoàn cảnh quản lý cụ thể) là hoạt động biểu hiện ra bên ngoài của chủ thể quản lý nhằm thực hiện tác động quản lý.
Nói cách khác, hình thức quản lý hành chính nhà nước là biểu hiện có tính chất tổ chức – pháp lý của những hoạt động cụ thể cùng loại của chủ thể quản lý hành chính nhà nước nhằm hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra trước nó.
Do tính chất đa dạng của hoạt động quản lý hành chính nhà nước nên việc xác định hình thức quản lý đem lại hiệu quả cáo là nhiệm vụ quan trọng và không dễ dàng. Việc xác định hình thức quản lý có hiệu quả phụ thuộc vào những điều kiện khách quan, những chức năng của quản lý, nội dung và tính chất của những nhiệm vụ (vấn đề) cần giải quyết, những đặc điểm của đối tượng quản lý, yêu cầu cụ thể đặt ra trước chủ thể quản lý,…. Đồng thời, cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật vì hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật.
Việc xác định hình thức quản lý hành chính nhà nước cần phải được tiến hành trên cơ sở những quy luật nhất định, trong đó có:
Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với chức năng quản lý.
Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với nội dung và tính chất của những vấn đề quản lý cần giải quyết.
Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với những đặc điểm của đối tượng quản lý cụ thể.
Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với mục đích cụ thể của tác động quản lý.
Ngoài ra, để bảo đảm sự xác định đúng đắn, bảo đảm tổ chức quản lý hợp lý và khoa học cần phải phân loại các hình thức quản lý hành chính nhà nước thành những nhóm gồm những hoạt động quản lý giống nhau (hoặc tương tự) về tính chất, nội dung, những biểu hiện bên ngoài,…
Xác lập những quy tắc xử sự dưới luật trong những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình.
Tiến hành hoạt động điều hành mà nội dung là áp dụng quy phạm pháp luật.
Giải quyết những trường hợp không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật, đánh giá hành vi xử sự của các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính và áp dụng các biện pháp tác động có tính chất bắt buộc trong những trường hợp pháp luật quy định.
Đồng thời, thực tiễn quản lý hành chính nhà nước cũng cho thấy rằng hoạt động quản lý hành chính nhà nước còn có thể được tiến hành dưới hình thức không pháp lý. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là cho phép các chủ thể quản lý hành chính nhà nước thực hiện những hành vi trái pháp luật, bởi vì mọi hoạt động của chủ thể quản lý hành chính nhà nước đều phải tiến hành trên cơ pháp luật và để thực hiện pháp luật.
Như vậy, ta có thể phân loại các hình thức quản lý hành chính nhà nước thành hình thức pháp lý và hình thức không pháp lý. Hình thức pháp lý bao giờ cũng được pháp luật quy định cụ thể về nội dung, trình tự, thủ tục,… (ví dụ : đối với hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì pháp luật quy định thẩm quyền ban hành văn bản, hình thức văn bản, thủ tục ban hành văn bản,…); còn hình thức không pháp lý thì pháp luật chỉ quy định những thủ tục chung để tiến hành chúng (ví dụ : thủ tục tiến hành hội nghị, hội thảo, tổng kết và phổ biến kinh nghiêm công tác,…).
Sự khác nhau giữa 2 loại hình thức này còn thể hiện ở chỗ hình thức pháp lý có thể dẫn đến sự phát sinh, thay đổi hay chấm dứt những quan hệ pháp luật hành chính cụ thể, còn hình thức pháp lý thì không có khả năng ấy. Hình thức không pháp lý có thể được tiến hành trước hoặc sau hình thức pháp lý (quyết định hành chính nhà nước được ban hành trên cơ sở báo cáo hoặc đề nghị của cấp dưới), hoặc đơn giản là tạo điều kiện cần thiết cho việc tiến hành hoạt động mang tính chất pháp lý (chuẩn bị những số liệu, tài liệu cần thiết).
Các chủ thể quản lý hành chính nhà nước thường kết hợp sử dụng cả hình thức pháp lý lẫn hình thức không pháp lý trong hoat động của mình.
Cần lưu ý rằng, hiện nay các hình thức pháp lý đang chiếm ưu thế nhưng hình thức không pháp lý ngày càng chiếm số lượng nhiều hơn trong hoạt động của các chủ thể quản lý nhà nước. Điều này hoàn toàn phù hợp với phương hướng và nội dung cải cách hành chính quốc gia hiện nay. Khi phạm vi của những chỉ thị, mệnh lệnh bắt buộc ngày càng thu hẹp thì việc hướng dẫn và hỗ trợ hoạt động của cấp dưới, công tác giải thích, dự báo,… ngày càng được quan tâm hơn.
2. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước là gì?
– Định nghĩa: Phương pháp QLHCNN là cách thức thực hiện những chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước, cách thức tác động của chủ thể quản lý hành chính lên các đối tượng quản lý nhằm đạt được những hành vi xử sự cần thiết.
– Đặc điểm của phương pháp QLHCNN:
Phương pháp QLHCNN do các chủ thể QLHCNN (các cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền trong bộ máy hành chính nhà nước…) tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình;
Phương pháp QLHCNN là cách thức thực hiện quyền lực nhà nước trong quản lý;
Những phương pháp quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước được thể hiện dưới những hình thức QLHCNN nhất định (ban hành văn bản quy phạm pháp luật, ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật…) và được tiến hành trong giới hạn do pháp luật quy định.
3. Những yêu cầu đối với phương pháp QLHCNN
Những yêu cầu đối với phương pháp QLHCNN gồm:
– Các phương pháp quản lý phải có khả năng quản lý lên các lĩnh vực chủ yếu của quản lý hành chính nhà nước.
– Phương pháp quản lý phải đa dạng, thích hợp để tác động lên những đối tượng khác nhau.
– Phương pháp quản lý phải có tính hiện thực.
– Phương pháp quản lý phải có khả năng đem lại hiệu quả cao.
– Phương pháp quản lý phải mềm dẻo và linh hoạt.
– Phương pháp quản lý phải có tính sáng tạo.
– Phương pháp quản lý phải hoàn toàn phù hợp với đường lối chính trị quy định chương trình quản lý trong từng giai đoạn cụ thể.
4. Những phương pháp QLHCNN
Các phương pháp QLHCNN bao gồm phương pháp thuyết phục, phương pháp cưỡng chế, phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế.
a. Phương pháp thuyết phục
– Khái niệm: Thuyết phục là làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện những hành vi nhất định hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định.
Nội dung của phương pháp thuyết phục:
+ Phương pháp thuyết phục do chủ thể QLHCNN sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình.
+ Bản chất của phương pháp thuyết phục là làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định.
+ Phương pháp thuyết phục được thể hiện bằng những hoạt động như: giải thích, động viên, hướng dẫn, chứng minh… làm cho đối tượng hiểu rõ và tự giác chấp hành các yêu cầu của chủ thể quản lý.
b. Phương pháp cưỡng chế
– Khái niệm: Cưỡng chế là biện pháp bắt buộc bằng bạo lực của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền đối với những cá nhân, tổ chức nhất định trong những trường hợp pháp luật quy định buộc cá nhân, tổ chức đó phải thực hiện hay không thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục tùng những hạn chế về mặt tài sản hoặc tự do thân thể.
Nội dung của phương pháp cưỡng chế:
+ Chủ thể áp dụng phương pháp cưỡng chế phải là cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật như: cơ quan công an, ủy ban nhân dân…
+ Đối tượng bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế là cá nhân, tổ chức nhất định trong những trường hợp pháp luật quy định như: cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính.
+ Biểu hiện của phương pháp cưỡng chế là buộc cá nhân, tổ chức phải chấp hành các quyết định đơn phương của chủ thể quản lý. Cụ thể là buộc cá nhân, tổ chức phải thực hiện hay không thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục tùng những hạn chế nhất định về mặt tài sản của cá nhân, tổ chức hoặc tự do thân thể của cá nhân.
– Phân loại: Có bốn loại cưỡng chế nhà nước: Cưỡng chế hình sự, cưỡng chế dân sự, cưỡng chế kỷ luật và cưỡng chế hành chính.
+ Cưỡng chế hình sự: là biện pháp cưỡng chế do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với những người có hành vi phạm tội hoặc bị tình nghi phạm tội.
+ Cưỡng chế dân sư: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm dân sự, gây thiệt hại cho nhà nước, tập thể hoặc công dân.
+ Cưỡng chế kỷ luật: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng đối với những cán bộ công chức có hành vi vi phạm kỷ luật nhà nước.
+ Cường chế hành chính: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước do các cơ quan và người có thẩm quyền quyết định áp dụng đối với cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm hành chính hoặc đối với một số cá nhân, tổ chức nhất định với mục đích ngăn chặn hay phòng ngừa các vi phạm pháp luật…
c. Phương pháp hành chính
– Khái niệm: Phương pháp hành chính là phương thức tác động tới cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng quản lý bằng cách quy định trực tiếp nghĩa vụ của họ qua những mệnh lệnh dựa trên quyền lực nhà nước và phục tùng.
– Đặc điểm của phương pháp hành chính
+ Đặc trưng của phương pháp này là sự tác động trực tiếp của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng cách đơn phương quy định nhiệm vụ và phương án hành động của đối tượng quản lý.
+ Phương pháp này được tiến hành trong khuôn khổ của pháp luật. Các quyết định hành chính được ban hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể quản lý do pháp luật quy định. Ví dụ: Chủ tịch UBND các cấp chỉ được ra chỉ thị, kiểm tra hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong khuôn khổ, chức năng, quyền hạn của mình do pháp luật quy định.
Tóm lại, phương pháp hành chính là phương thức tác động đến cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng quản lý thông qua quy định trực tiếp nghĩa vụ của họ qua những mệnh lệnh và sự phục tùng.
d. Phương pháp kinh tế
– Khái niệm: Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động gián tiếp đến hành vi của các đối tượng quản lý thông qua việc sử dụng những đòn bẩy kinh tế tác động đến lợi ích của con người.
– Đặc điểm của phương pháp kinh tế
+ Đây là phương pháp tác động gián tiếp đến đối tượng quản lý thông qua lợi ích kinh tế như việc quy định chế độ thưởng, xử phạt.
+ Phương pháp kinh tế được thể hiện trong việc sử dụng đòn bẩy kinh tế như: quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; chế độ hạch toán kinh tế, chế độ thưởng… nhằm tạo điều kiện vật chất thuận lợi cho hoạt động có hiệu quả của đối tượng quản lý phát huy năng lực sáng tạo, chọn cách tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ.
Link bài viết: https://havip.com.vn/cac-phuong-phap-quan-ly-hanh-chinh-nha-nuoc-o-nuoc-ta-hien-nay/
Link trang chủ: https://havip.com.vn/
Thực Hiện Tốt Chức Năng Quản Lý Nhà Nước Ở Cấp Cơ Sở
Những năm qua, UBND thị trấn Lai Vung (huyện Lai Vung) tập trung triển khai nhiều giải pháp phát triển kinh tế – xã hội địa phương; thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước ở cấp cơ sở, qua đó thu được nhiều kết quả tích cực. Nghề đan bội tre giúp người dân thị trấn Lai Vung có thêm thu nhập
Những tháng cuối năm, có dịp đi ngang tuyến dân cư thuộc khóm 2, thị trấn Lai Vung mới cảm nhận hết không khí nhộn nhịp nơi đây. Dọc tuyến dân cư, nhiều ngôi nhà mới đang được khẩn trương xây dựng để kịp “ăn Tết”. Với sự quan tâm của lãnh đạo địa phương, đời sống người dân mới về tuyến dân cư sinh sống từng bước ổn định. Xác định thương mại – dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp là thế mạnh nên thị trấn duy trì và phát triển nhiều nghề truyền thống như: đan bội tre, nghề mộc, làm nem… góp phần phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động. Cô Lê Thị Mít (SN 1966) ở khóm 2, thị trấn Lai Vung cho biết: “Gia đình tôi không có ruộng đất, nên tôi làm nghề đan bội tre hơn 10 năm nay, trung bình mỗi ngày đan khoảng 100 cái, lời từ 20.000 – 50.000 đồng; chồng tôi thì đi làm hồ. Cuộc sống gia đình cũng tạm ổn”.
Cùng với công tác giải quyết việc làm, Đảng ủy, UBND thị trấn cũng quan tâm nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Trạm y tế được đầu tư xây dựng khang trang, có đủ y, bác sĩ và trang thiết bị phục vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Công tác đền ơn đáp nghĩa, bảo trợ xã hội luôn được quan tâm thực hiện, thường xuyên tổ chức họp mặt thăm hỏi, tặng quà và hỗ trợ đời sống cho các đối tượng chính sách và hộ nghèo nhân dịp lễ, Tết hay khi gặp khó khăn.
Hoạt động văn hóa thông tin – thể dục thể thao, giải trí có nhiều bước tiến bộ và đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt. Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã đi vào chiều sâu và nâng cao chất lượng, góp phần hạn chế tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống văn minh. Thị trấn Lai Vung có hơn 94% hộ dân đạt chuẩn gia đình văn hóa; 4/5 khóm đạt khóm văn hóa 5 năm và 10 năm liền. Đặc biệt, công tác vận động hiến máu tình nguyện thường đạt và vượt chỉ tiêu trên giao. Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn được giữ vững.
Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, hàng năm thị trấn Lai Vung đã xây dựng được nhiều công trình cầu, đường… Mỗi công trình đều có sự gương mẫu, đi đầu của đảng viên và sự đồng thuận của người dân địa phương trong việc đóng góp vốn, giải phóng mặt bằng và hiến đất. Công trình nâng cấp, mở rộng đường Lê Hồng Phong (khóm 3) và đường 30/4 (khóm 5) với tổng chiều dài trên 3.500m được nhân dân hiến hơn 10.500m2 đất để xây dựng, trị giá hàng tỷ đồng.
Hàng năm, địa phương đều triển khai và thực hiện đúng quy định về cải cách hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông của Chính phủ. Công tác tiếp nhận và giải quyết hồ sơ các loại được đảm bảo về mặt thời gian, đáp ứng nhu cầu và giảm phiền hà cho người dân; kịp thời giải quyết đơn thư khiếu nại của công dân đảm bảo đúng quy định. Đặc biệt là tổ hòa giải ở các khóm thường xuyên được củng cố và hoạt động có hiệu quả.
Theo Chủ tịch UBND thị trấn Lai Vung Nguyễn Phước Hùng, có được những kết quả trên là do Đảng ủy, UBND thị trấn thường xuyên quán triệt và phát huy truyền thống yêu nước, ra sức thi đua lao động sản xuất, thực hiện hoàn thành tốt các mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng-an ninh mà địa phương đã đề ra. Mọi hoạt động của đơn vị tuân thủ theo khuôn khổ của pháp luật, trên cơ sở nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ”, gắn với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã khẳng định được lòng tin của các tầng lớp nhân dân trong tham gia đóng góp xây dựng, phát triển địa phương trên nhiều lĩnh vực.
NHỰT AN
Vai Trò Của Các Cơ Quan Quản Lý Nhà Nước Trong Hoạt Động Hành Chính Nhà Nước Là Như Thế Nào ?
Thưa luật sư, xin cho em được hỏi là vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động hành chính nhà nước là như thế nào? Nó có phân biệt với vai trò của các tổ chức xã hội không? Emxin chân thành cảm ơn. Người gửi : Quang Thoại Vũ
1.Cơ sở pháp lý :
– Hiến pháp 2013
– Luật tổ chức chính phủ 2023
2. Nội dung phân tích:
Cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động hành chính nhà nước bao gồm: chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ. Đây là những cơ quan có vai trò quan trọng, chỉ đạo các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Cụ thể như sau:
a. Chính phủ:
Đây là cơ quan có chức năng hành pháp và là cơ quan đứng đầu trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Chính phủ có nhiệm vụ quản lý mọi mặt của đời sống trong phạm vi cả nước và thực hiện chính sách đối nội, đối ngoại. Căn cứ theo điều 94 Hiến pháp 2013 có quy định : ” Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. “ Từ khẳng định này cho thấy Chính phủ với tư cách là cơ quan chấp hành của quốc hội nên chính phủ có quyền lập quy. Có thể nói đây là một trong những vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước. Quyền hạn của Chính phủ còn được thể hiện rõ qua việc ban hành các nghị định có tính bắt buộc trên phạm vi cả nước để thực hiện các quy định tại Hiến pháp, Luật, Nghị quyết cũng như pháp lệnh của Ủy ban thường vụ quốc hội. Qua đây ta nhận thấy Chính phủ có vai trò đưa pháp luật vào đời sống, tổ chức thực hiện pháp luật cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân. Tuy là một đạo luật chung, nhưng Hiến pháp cũng đóng vai trò là các quy tắc xử sự chung và để cho nó có thể hoạt động , áp dụng hiệu quả trong thực tế thì cần được cụ thể hóa bằng các văn bản dưới luật. Tất cả chúng ta đều sinh sống và làm việc theo pháp luật nên Chính phủ chính là cơ quan hành chính nhà nước thực hiện nhiệm vụ duy trì và phát huy sự tồn tại cao nhất của pháp luật.
Bên cạnh đó, Chính phủ có vai trò trong viêc kiểm tra, thanh tra nhằm đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước, giúp đảm bảo hoạt động quản lí hành chính nhà nước được đảm bảo thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật tránh những hành động tiêu cực xảy ra.
b. Bộ và cơ quan ngang bộ.
Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước. Hiện nay, nước ta có 18 bộ và 4 cơ quan ngang bộ và chức năng cụ thể sẽ được quy định cụ thể tại Luật tổ chức chính phủ hiện hành. Và trong lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước thì bộ và cơ quan ngang bộ có những vai trò cụ thể như sau:
Thứ nhất là ban hành văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện các văn bản đối với tất cả các ngành, địa phương và cơ sở; chỉ đạo, phối hợp với ủy ban nhân dân các cấp thực hiện nhiệm vụ, công tác thuộc ngành, lĩnh vực mà mình quản lí; Và có trách nhiệm để chuẩn bị các đề án trình Chính phủ và Thủ tướng; Phối hợp ban hành thông tư liên tịch chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện các vấn đề thuộc chức năng quản lí nhà nước.
Việc quy định chi tiết như vậy, ta nhận thấy, nếu chính phủ thực hiện các chức năng của mình một cách tổng thể, bao quát và chung chung thì bộ và cơ quan ngang bộ thì sẽ chịu trách nhiệm trong từng lĩnh vực trong phạm vi của mình vì đây là cơ quan nắm rõ nhất, cụ thể nhất và sâu sát nhất.
Thứ hai là hướng dẫn kiểm tra các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ, công tác thuộc ngành, lĩnh vực mình phụ trách; đình chỉ thi hành các văn bản có nội dung trái với pháp luật với các văn bản thuộc ngành, lĩnh vực mình quản lí do các bộ hoặc địa phương ban hành.
Các hoạt động vừa nêu trên nhằm giúp bộ và cơ quan ngang bộ phát huy tối đa chức năng của mình, cụ thể là: kiểm tra, giám sát. Bởi lẽ, bộ và cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm quản lí ngành, lĩnh vực của mình qua việc ban hành các văn bản pháp luật và để đảm bảo cho chúng được thực hiện hiệu quả nhất thì bộ và cơ quan ngang bộ cần nghiêm túc thực hiện kiểm tra nhằm kịp thời phát hiện sai sót để sửa chữa, khắc phục ngay lập tức.
Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.
Trân trọng./.
Vai Trò Của Văn Hóa Công Sở Với Sự Phát Triển Nền Hành Chính Công Vụ Ở Nước Ta Hiện Nay
Vai trò của văn hóa công sở với sự phát triển nền hành chính công vụ ở nước ta hiện nay
Để thúc đẩy sự phát triển của nền hành chính công vụ ở nước ta hiện nay, việc xây dựng, từng bước hoàn thiện và thực thi văn hóa công sở trong các cơ quan công quyền có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là một trong những cơ sở nền tảng xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, trách nhiệm, minh bạch, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Cán bộ tiếp nhận và hướng dẫn người dân làm thủ tục tại Trung tâm phục vụ hành chính công tỉnh Bắc Kạn. Ảnh: vpubnd.backan.gov.vn
Văn hóa công sở trong bối cảnh hiện nay
Thứ nhất, kiến tạo không gian làm việc khoa học, nhân văn.
Văn hóa công sở là một loại hình của văn hóa tổ chức được cấu thành bởi các yếu tố hữu hình và vô hình mà hệ giá trị cốt lõi được sản sinh từ hoạt động công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong các công sở. Giá trị ấy thể hiện tầm nhìn, sứ mệnh, mục tiêu, lý tưởng, khát vọng mà cơ quan công quyền hướng đến, như tận tụy, liêm chính, công bằng, nghiêm minh, sáng tạo, phụng sự nhân dân, Tổ quốc… Bên cạnh hệ thống giá trị được bồi đắp qua nhiều thế hệ, qua các giai đoạn lịch sử gắn với các thể chế chính trị khác nhau, văn hóa công sở còn được thể hiện qua cách bài trí không gian làm việc, qua cảnh quan, kiến trúc công sở. Vì thế, việc quan tâm xây dựng văn hóa công sở có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần tạo không gian, môi trường làm việc khoa học, văn minh. Xét ở phương diện kiến thiết trụ sở các cơ quan công quyền, từ khi Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08-11-2011 của Chính phủ, về “Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2023”, Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ngày 02-8-2007 của Thủ tướng Chính phủ về “Quy chế văn hóa công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước” được ban hành và thực thi, việc bài trí, sắp xếp, tổ chức không gian làm việc của các công sở có nhiều chuyển biến tích cực. Chương III, Quy chế Văn hóa công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước quy định, hướng dẫn chi tiết về cách bài trí công sở (như treo Quốc kỳ, Quốc huy, biển tên cơ quan, phòng làm việc, khu để các phương tiện giao thông), tạo sự thống nhất, hài hòa, bảo đảm tính nghiêm minh, khoa học của các cơ quan đại diện cho tiếng nói và quyền lợi của nhân dân.
Không chỉ vậy, hình ảnh trụ sở cơ quan công quyền ở các địa phương cho thấy việc kiến thiết, bài trí công sở luôn được các thế hệ lãnh đạo quan tâm, từ cách chọn vị trí, địa điểm gần dân, thuận tiện nhất cho nhân dân đến cách bài trí (màu sơn, hoa văn, kiến trúc), làm toát lên biểu tượng của cơ quan quyền lực – nơi người dân tin tưởng gửi gắm, trao niềm hy vọng. Nhiều trụ sở trở thành nơi chứng kiến và diễn ra những sự kiện trọng đại của địa phương, đất nước. Vì thế, công sở không chỉ thuần túy là nơi làm việc mà còn là nơi truyền tải những thông điệp văn hóa, là niềm tự hào, hãnh diện của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và của nhân dân.
Hiện nay, với sự phát triển của nền kinh tế, sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước, nhiều trụ sở cơ quan hành chính, nhất là ủy ban nhân dân cấp xã, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa được xây dựng theo hướng kiên cố, hiện đại với hệ thống khuôn viên sáng, xanh, sạch, đẹp; các phòng, ban chuyên môn, trong đó có phòng một cửa liên thông, trung tâm dịch vụ hành chính công hoạt động với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, in-tơ-nét đã góp phần quan trọng vào việc hình thành văn hóa công sở. Nền tảng cơ sở vật chất khang trang, hiện đại, quang cảnh, khuôn viên thoáng đãng sẽ tạo môi trường tốt, tâm thế tốt để đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm việc hiệu quả, đóng góp tốt hơn cho sự phát triển, lớn mạnh của cơ quan, đơn vị.
Thứ hai, góp phần nâng cao đạo đức công vụ.
Đạo đức là yếu tố quan trọng quyết định nhân cách, phẩm chất của người cán bộ. Việc hình thành đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên chức là quá trình học hỏi, phấn đấu, nỗ lực không ngừng của cá nhân nhưng đó cũng là trách nhiệm của tập thể, cộng đồng. Trong công sở, việc hình thành, bồi đắp các giá trị văn hóa sẽ tạo không gian, môi trường nhân văn, lành mạnh để mỗi cán bộ, công chức, viên chức tự giáo dục, điều chỉnh hành vi, liêm khiết, gương mẫu với chính bản thân mình, với cấp trên, cấp dưới, với đồng nghiệp và nhân dân.
Hạt nhân của văn hóa công sở là hệ thống các giá trị với những tri thức, kinh nghiệm (về chuyên môn nghiệp vụ, về thực hành công vụ, về kỹ năng sống và làm việc) được tích lũy trong quá trình hoạt động công vụ, biểu hiện qua hành vi ứng xử, qua tinh thần, thái độ làm việc, qua cách xử lý công việc một cách khoa học, hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Vì thế, khi sống và làm việc trong môi trường văn hóa công sở, mỗi cán bộ sẽ được trải nghiệm, học tập những tri thức, kỹ năng và phong cách làm việc từ tấm gương của những thế hệ đi trước và của đồng nghiệp để phấn đấu, noi theo, trở thành người cán bộ có phẩm chất, đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn giỏi, được đồng nghiệp mến mộ, nhân dân tin yêu.
Bên cạnh chức năng giáo dục, nâng cao nhận thức, văn hóa công sở còn có khả năng điều tiết, điều hòa mâu thuẫn, xung đột của các cá nhân, tạo sự hòa đồng, thân thiện. Khi đạo đức công vụ được thực thi đồng bộ với vai trò đầu tàu, gương mẫu của người đứng đầu cơ quan, đơn vị thì những hành động đẹp, lời nói hay, mang ý nghĩa và giá trị với người dân sẽ tạo sức mạnh để hấp dẫn, lan tỏa, giáo dục và điều chỉnh hành vi của những cán bộ dưới quyền.
Nhiều giá trị của văn hóa công sở mang tính tiềm ẩn, được trao truyền qua truyền thống của đơn vị, có sức mạnh lớn hướng con người đến những điều tốt đẹp. Trong nhiều cơ quan, chính không gian, môi trường văn hóa công sở góp phần triệt tiêu thói lười biếng, “an phận thủ thường”, cửa quyền hách dịch, xa hoa lãng phí, tham ô tham nhũng, bè phái,…
Đạo đức công vụ là sự tận tâm, cống hiến hết mình với tinh thần trách nhiệm cao của người cán bộ, đảng viên. Vì thế, danh hiệu cao quý Người cán bộ của dân là khát vọng mà đại đa số cán bộ, công chức của nền hành chính muốn vươn tới. Chỉ khi nào suy nghĩ, hành động của cán bộ, công chức cùng chung với nhịp suy nghĩ, hành động của nhân dân, đất nước, vì lợi ích, sứ mệnh phát triển của cộng đồng thì lúc ấy đạo đức công vụ được thể hiện rõ nét nhất.
Thứ ba, gia tăng hiệu quả công việc, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.
Mặc dù không là lực lượng trực tiếp tham gia vào quá trình lao động sản xuất, phát triển kinh tế nhưng hoạt động của nền hành chính công có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển.
Công sở hành chính là nơi sản sinh, thực hành cơ chế, chính sách, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật; là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, với các tổ chức, doanh nghiệp. Vì thế, việc thực thi tốt văn hóa công sở sẽ giúp mỗi cán bộ, công chức ý thức rõ hơn về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của bản thân để không lạm quyền, tiếm quyền; biết cách xử lý công việc một cách sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả, không mắc bệnh chủ quan, máy móc, rập khuôn, vô cảm.
Một biểu hiện sinh động của văn hóa công sở trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là tác phong làm việc công nghiệp, đúng giờ, quý trọng từng phút, từng giây; là ý thức, tinh thần thượng tôn pháp luật; chịu sự giám sát, điều chỉnh của nhân dân, xã hội; là tâm thế sẵn sàng bị sa thải nếu không đáp ứng được yêu cầu.
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình, Trưởng Ban chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ kiểm tra công tác cải cách tại Trung tâm Hành chính công thành phố Tam Kỳ (tỉnh Quảng Nam), tháng 7-2023. Ảnh: VGP
Thời gian qua, bằng những chính sách quyết liệt của Chính phủ, sự hưởng ứng, sáng tạo của các địa phương, việc kiến tạo văn hóa công sở đã đem lại những hiệu ứng tích cực đối với cộng đồng. Dễ thấy nhất là những hiệu quả từ việc sáp nhập một số cơ quan, đơn vị; tinh giảm một lượng lớn cán bộ không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Qua đó, tiết kiệm nguồn chi thường xuyên của ngân sách quốc gia, hạn chế sự cồng kềnh, nhũng nhiễu, phiền hà nhân dân, doanh nghiệp do chính những cán bộ kém năng lực tạo ra. Cùng với đó là tinh thần đổi mới, sáng tạo của các địa phương trong việc thiết kế, xây dựng và hình thành mô hình chính quyền điện tử với mong muốn đem lại những tiện ích tốt nhất cho người dân và doanh nghiệp, tạo sự thân thiện, gần gũi với tinh thần tôn trọng, lắng nghe và thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, thực hiện tốt lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân… Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”1. Những việc làm, hành động đó đã tiết kiệm cho ngân sách quốc gia hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm, giảm các thủ tục phiền hà, chi phí phát sinh, tiết kiệm tiền của, thời gian cho người dân, doanh nghiệp. Chính việc xây dựng và vận hành tốt văn hóa công sở với sự nỗ lực, quyết tâm của Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành trong việc giảm thiểu những hạn chế, bất cập đi đôi với không ngừng đổi mới, sáng tạo, hành động một cách quyết liệt đã tạo ra những giá trị mới, diện mạo mới của cơ quan công quyền, kiến tạo niềm tin trong nhân dân và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế – xã hội.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng văn hóa công sở
Để văn hóa công sở hình thành và vận hành thống nhất, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động của các cơ quan hành chính, cần có sự vào cuộc của các cấp, các ngành, sự giám sát, điều chỉnh của người dân với các biện pháp cơ bản mang tính thường xuyên, liên tục:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ, công chức, viên chức về sự cần thiết, ý nghĩa của văn hóa công sở. Trong thực hành văn hóa công sở, mỗi cán bộ, công chức, viên chức, cần khắc sâu những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, về bản chất, sứ mệnh của nhà nước ta, đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, lấy dân làm gốc. Cán bộ phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng, đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và trước hết, kiên quyết “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, trung thành, tận tụy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân theo như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong điều kiện hiện nay, các cơ quan, đơn vị cần tổ chức cho cán bộ, công chức, viên chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25-10-2023 của Ban Chấp hành Trung ương về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”, Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23-9-2023 của Bộ Chính trị về “Việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”…; đồng thời, thực hiện tốt các quy chế, đề án, các phong trào hành động do Chính phủ ban hành, như Đề án văn hóa công vụ, Phong trào “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”,… để tiếp tục xây dựng hình ảnh đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức kỷ cương, trách nhiệm, tận tụy, chuyên nghiệp; xây dựng thành công nhà nước kiến tạo, phát triển và phục vụ ở nước ta hiện nay.
Làm tốt công tác tuyên truyền thông qua các phong trào thi đua, các hội nghị tập huấn chuyên đề, qua những tấm gương điển hình, những cách làm hay, sáng tạo của cá nhân, tổ chức…, sẽ tạo nên những chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động của cán bộ, công chức, viên chức. Việc thực thi tốt nhiệm vụ, quyền hạn được giao cũng như ý thức rõ về sứ mệnh, bổn phận của mình trước sự phát triển của đất nước và cuộc sống bình yên của nhân dân, tự những hành động đó sẽ sản sinh ra những giá trị của văn hóa công sở.
Thứ hai, đội ngũ lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức cần có tầm nhìn chiến lược trong việc xác định tôn chỉ, mục tiêu, sứ mệnh mà cơ quan, tổ chức hướng đến. Trên cơ sở những quy định chung của Chính phủ và hướng dẫn của các bộ, ngành, các cơ quan, đơn vị cần căn cứ vào tính chất công việc chuyên môn, điều kiện đặc thù để xây dựng bộ quy tắc ứng xử (chuẩn mực giao tiếp), trang phục cán bộ, công chức, viên chức phù hợp, tạo dấu ấn tốt đẹp đối với nhân dân.
Trong điều kiện hiện nay, để thực hành tốt văn hóa công sở cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách hợp lý, thu hút được người tài, như vấn đề tiền lương, bổ nhiệm cán bộ phải khách quan, công bằng, tạo động lực để cán bộ có năng lực, phẩm chất hăng say với công việc, tận tâm với nghề, yên tâm công tác. Đồng thời, cần tạo dựng hàng lang pháp lý với những điều khoản được quy định chặt chẽ; siết chặt kỷ luật lao động, hình thành phong cách sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Bên cạnh ý thức công dân, ý thức nghề nghiệp thì việc thực thi tốt ý thức tuân thủ pháp luật là điều kiện căn bản, nền tảng để văn hóa công sở được duy trì một cách thường xuyên, liên tục, lâu dài.
Bên cạnh đó, làm tốt công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi văn hóa công sở sẽ giúp mỗi cơ quan, đơn vị đánh giá được thực trạng văn hóa công sở, điều chỉnh, khắc phục những hiện tượng lệch lạc, những hành vi đi ngược lại lợi ích chung của tập thể, cộng đồng.
Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tầm, có uy tín, có chuyên môn giỏi, thông thạo nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức, luôn gần dân, lắng nghe, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, tôn trọng và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho nhân dân…
Trong điều kiện hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cần thực hiện tốt những nội dung, yêu cầu đề ra trong Đề án văn hóa công vụ với những tiêu chí cụ thể quy định về tinh thần, thái độ, phong cách làm việc, chuẩn mực trong giao tiếp ứng xử. Đó là “phải tôn trọng, lắng nghe, tận tình hướng dẫn về quy trình xử lý công việc và giải thích cặn kẽ những thắc mắc của người dân. Thực hiện “4 xin, 4 luôn”: xin chào, xin lỗi, xin cảm ơn, xin phép; luôn mỉm cười, luôn nhẹ nhàng, luôn lắng nghe, luôn giúp đỡ”2.
Hoạt động tại Trung tâm Giám sát hệ thống công nghệ thông tin, Tổng cục Thuế. Ảnh: TTXVN
Bên cạnh đó, cần tích cực đổi mới, sắp xếp lại bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, tinh giảm biên chế, tránh sự ôm đồm, chồng chéo theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, tạo sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức hành động của cả hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, có chất lượng để gánh vác những trọng trách lớn lao, cao cả để duy trì sự ổn định, phát triển của đời sống xã hội và gia tăng tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế quốc gia.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính, minh bạch hóa thông tin và tiến trình giải quyết công việc, tạo sự nhạnh nhạy, thông thoáng, lấy sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm thước đo đánh giá sự phát triển của cơ quan, đơn vị. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức cần không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân3./.
TS. Nguyễn Huy PhòngHọc viện Chính trị quốc gia Hồ Chí MinhTheo Tạp chí Cộng sản điện tửPhương Ngân (st)
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 64 – 652. Quyết định số 1847/QĐ-TTg, ngày 27-12-2023, của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án văn hóa công vụ3. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09-6-2014 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”
Các Chức Năng Của Pháp Luật, Liên Hệ Thực Tiễn Việt Nam Hiện Nay
59505
là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.
Chức năng của pháp luậtlà những phương diện, mặt tác động chủ yếu của pháp luật phản ánh bản chất giai cấp và giá trị xã hội của pháp luật.
Pháp luật gồm có 3 chức năng cơ bản đó là: chức năng điều chỉnh, chức năng bảo vệ và chức năng giáo dục, cụ thể:
– Chức năng điều chỉnh của pháp luậtChức năng điều chỉnh của pháp luật thể hiện vai trò và giá trị xã hội của pháp luật. Pháp luật được đặt ra nhằm hướng tới sự điều chỉnh các quan hệ xã hội, thiết lập “trật tự” đối với các quan hệ xã hội, tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển theo chiều hướng nhất định phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, phù hợp với quy luật vận động khách quan của các quan hệ xã hội.
– Chức năng bảo vệ của pháp luậtPháp luật là công cụ bảo vệ các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Khi có các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định trong bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Chẳng hạn như hành vi xâm phạm tính mạng sức khoẻ con người bị xử lý theo Luật hình sự, hành vi gây thiệt hại tài sản buộc phải bồi thường theo Luật dân sự.
– Chức năng giáo dục của pháp luậtChức năng giáo dục của pháp luật được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật vào ý thức của con người, làm cho con người xử sự phù hợp với cách xử sự được quy định trong các quy phạm pháp luật. Việc giáo dục có thể được thực hiện thông qua tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể thông qua việc xử lý những cá nhân, tổ chức vi phạm (phạt những hành vi vi phạm giao thông, xét xử những người phạm tội hình sự …).
– Chức năng điều chỉnh của pháp luật: Phạm vi điều chỉnh của pháp luật ngày càng được mở rộng. Trong thời kỳ đổi mới, nhà nước ta đã xây dựng một khung pháp lý mới trong mọi lĩnh vực quan hệ xã hội. Nguyên tắc quản lý xã hội bằng pháp luật và tăng cường pháp chế đã được thể hiện và thực hiện.
– Trong thời gian tới, công tác xây dựng pháp luật cầ tập trung vào những lĩnh vực quan hệ xã hội quan trọng như: xây dựng khung pháp lý cần thiết cho sự hình thành đồng bộ các thiết chế thị trường, đơn giản hóa thủ tục hành chính: xóa bỏ cơ chế “xin – cho”…
– Chức năng bảo vệ: Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu về đảm bảo, bảo vệ các quyền con người bằng hệ thống pháp luật và cơ chế pháp lý – xã hội thực hiện. Pháp luật ghi nhận và có cơ chế bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Các quy định pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo, quyền trong lĩnh vực giáo dục, học tập, hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần, quyền tự do cá nhân: bất khả xâm phạm về thư tín, điện thoại, chỗ ở, bí mật đời tư…được tâm sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Nhà nước ta cần quan tâm hơn để hoàn thiện các văn bản pháp luật về hình thức, thủ tục và cơ chế thực hiện các quyền con người.
– Chức năng giáo dục của pháp luật ở nước ta hiện nay được thực hiện bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau như phổ biến pháp luật, tư vấn và trợ giúp pháp luật, thông qua hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền… Để có hiệu quả giáo dục, cần đổi mới các hình thức, phương pháp, nội dung giáo dục pháp luật phù hợp với trình độ, điều kiện và nhu cầu của các đối tượng giáo dục pháp luật. Xây dựng môi trường văn hóa pháp luật, sự tuân thủ pháp luật từ phía các cơ quan công quyền và các nhân viên của họ, đảm bảo tính đúng đắn của các quyết định áp dụng pháp luật.
Cập nhật thông tin chi tiết về Liên Hệ Thực Tiễn Vai Trò Của Quản Lý Hành Chính Nhà Nước Ở Cơ Sở Hiện Nay trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!