Xu Hướng 4/2023 # Kinh Nghiệm Phát Triển Thị Trường Xuất Khẩu Nông Sản # Top 5 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 4/2023 # Kinh Nghiệm Phát Triển Thị Trường Xuất Khẩu Nông Sản # Top 5 View

Bạn đang xem bài viết Kinh Nghiệm Phát Triển Thị Trường Xuất Khẩu Nông Sản được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Phát triển thị trường xuất khẩu nông sản là cơ sở để các nước nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại. Kinh nghiệm của một số nước châu Á xuất khẩu nông sản của khu vực sẽ là bài học hữu ích đối với Việt Nam để mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, thúc đẩy phát triển của đất nước.

1. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực về phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản

Trung Quốc và Thái Lan là những nước có tiềm năng sản xuất nông sản, có điều kiện sinh thái tương tự như Việt Nam. Cách đây hơn 20 năm, tình hình sản xuất và tiêu thụ nông sản của Trung Quốc và Thái Lan ở trình độ như Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của họ đã vượt xa so với Việt Nam; hàng nông sản Thái Lan và Trung Quốc đã có uy tín và chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới. Vì vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Trung Quốc và Thái Lan sẽ rút ra nhiều bài học mang ý nghĩa thực tiễn cho hoạt động này của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trung Quốc là nước có đất tự nhiên rộng lớn người đông, nhưng tỷ trọng đất canh tác trong tổng số diện tích tự nhiên nhỏ (chiếm 10,8%), đất canh tác bình quân đầu người rất thấp (0,11 ha/ người). Tuy vậy, nông nghiệp của Trung Quốc trong thời gian dài liên tiếp được mùa và đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Hiện tại, Trung Quốc là nước có sản lượng nông sản lớn so với Châu Á và thế giới.

Trung Quốc đã lựa chọn và thực hiện chiến lược khai thác thị trường nông sản thế giới theo hai hướng: Tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới và gia tăng kim ngạch xuất khẩu tại các thị trường hiện có. Chiến lược này được ban hành từ năm 2000, Trung Quốc phân chia thị trường theo nhiều tiêu thức như trình độ phát triển, dung lượng thị trường và vị trí địa lý. Việc phân loại thị trường thế giới theo các tiêu thức khác nhau đã giúp Trung Quốc đề ra kế sách khai thác thị trường một cách hợp lý, hiệu quả hơn. Bên cạnh chiến lược khai thác thị trường “cơ bản”, Trung Quốc còn thực hiện chiến lược “bổ khuyết” để tìm cho mình một phương hướng thị trường thích hợp. Theo thuyết “ bổ khuyết”, Trung Quốc phát triển thị trường và mặt hàng mới cho xuất khẩu hàng hoá của mình theo cả hai hướng: Vừa mở rộng thị trường xuất khẩu hiện có với những hàng hoá có sức cạnh tranh cao, vừa phát triển sản xuất các sản phẩm mới.

a) Tăng cường khai thác thị trường xuất khẩu hiện có

Trong khi triển khai chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu theo hướng khai thác thị trường hiện có, Trung Quốc đã kiên trì theo đuổi hai sách lược cơ bản là: (1) Đi theo xu hướng toàn cầu hoá để khai thác tiềm lực của thị trường hiện đã chiếm lĩnh nhằm tăng cường xuất khẩu tới mức tối đa; (2) Không tập trung quá mức vào một thị trường đặc biệt nào, thông qua việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để đảm bảo phát triển ổn định.

Hiện nay, Trung Quốc đã xuất khẩu hàng nông sản đến khoảng 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Các thị trường nhập khẩu hàng nông sản của Trung Quốc rất đa dạng, từ các nước công nghiệp phát triển đến các nước đang và kém phát triển ở nhiều châu lục… Thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Trung Quốc tập trung vào thị trường các nước phát triển (Mỹ, Nhật), Hồng Kông và các nước ASEAN (Thái lan, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a). Giai đoạn 2008-2014, 10 nước và vùng lãnh thổ này chiếm khoảng 62% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Trung quốc, trong đó riêng thị trường Mỹ chiếm tới 16%. Điều này cũng cho thấy Trung Quốc đã khai thác tương đối tốt các thị trường hiện có của mình.

Trung Quốc thực hiện chiến lược đa dạng hoá thị trường xuất khẩu theo cả chiều rộng và chiều sâu. Khu vực APEC, chiếm khoảng 80% giá trị hàng nông sản xuất khẩu của Trung Quốc; thị trường Bắc Mỹ, Đông Nam Á và Tây Âu là ba trung tâm mậu dịch lớn của Trung Quốc. Trung Quốc coi các thị trường này là các thị trường trọng điểm cần tiếp tục khai thác, còn các thị trường cấp hai khác có tiềm lực lớn như Châu Phi và Trung Đông có thể là những thị trường tiềm năng Trung Quốc cần khai thác trong những năm sắp tới.

b) Mở rộng thị trường xuất khẩu thông qua tham gia các liên kết kinh tế khu vực và thế giới

Từ sau cải cách mở cửa nền kinh tế (1979) cho đến nay, Trung Quốc đã tích cực hợp tác kinh tế thương mại với nhiều quốc gia, ký kết hàng trăm hiệp định thương mại song phương và đa phương. Đặc biệt vào giai đoạn cuối thế kỷ XX, Trung Quốc lại càng quan tâm nhiều hơn tới vấn đề hội nhập và đa phương hóa quan hệ. Gia nhập WTO và thành lập Khu vực thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) là những cố gắng hội nhập kinh tế khu vực và thế giới gần đây của Trung Quốc.

Với tư cách là thành viên của WTO, Trung Quốc đã mở ra cánh cửa tới nhiều khu vực thị trường trên thế giới, mở ra “con đường bằng phẳng hơn” cho hàng hóa Trung Quốc xâm nhập vào thị trường của các nước thành viên. Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Trung Quốc duy trì tốc độ tăng trưởng 9.37% trong giai đoạn hậu khủng hoảng 2008-2014.

c) Đa dạng hóa hàng nông sản xuất khẩu và nâng cao chất lượng sản phẩm theo hướng toàn diện

Đa dạng hóa sản phẩm nông sản xuất khẩu, cải thiện chất lượng và hiệu quả kinh tế được coi là định hướng cơ bản của Trung Quốc trong quá trình điều chỉnh sản xuất nông nghiệp. Trung Quốc đã có những chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp theo hướng xuất khẩu tập trung sản xuất sản phẩm có ưu thế.

Mặt khác, Trung Quốc rất coi trọng đầu tư và ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ vào phát triển nông nghiệp. Chính phủ Trung Quốc đã khẳng định rằng con đường căn bản để phát triển nông nghiệp Trung Quốc là lấy khoa học kỹ thuật làm vũ khí; lấy công nghiệp hiện đại làm chỗ dựa; lấy thị trường để hướng dẫn chuyển từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp hiện đại; lấy khoa học kỹ thuật hiện đại làm nền tảng.

Những chương trình thành công là “Chương trình Đốm lửa” và “ Chương trình bó đuốc” đã tạo ra nền tảng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp và đã được Liên hiệp quốc đánh giá cao. Tính đến cuối năm 2014, Trung Quốc đã có 54 khu khai thác ngành nghề kỹ thuật cao và mới cấp Nhà nước với khoảng 12.000 doanh nghiệp tương ứng, trong đó có hơn 1.400 doanh nghiệp sử dụng vốn nước ngoài. Tổng thu nhập từ các thành tựu mới về kỹ thuật – công nghiệp – mậu dịch trong năm 2014 đạt tới hơn 94 tỷ nhân dân tệ, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 1,27 tỷ USD [2, t 111].

Để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc nói chung và hàng nông sản nói riêng, chính phủ Trung Quốc luôn kiểm soát chặt chẽ sự tăng hay giảm giá của đồng NDT. Trên thực tế, đồng NDT bị cáo buộc là yếu hơn giá trị thực, song Trung Quốc vẫn duy trì tỷ giá hối đoái không đổi đối với đồng USD để đảm bảo sự ổn định của đồng tiền và giữ vững khả năng cạnh tranh. Đây được coi là một trong những yếu tố chính nhằm hỗ trợ hàng hoá xuất khẩu nước này xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường nước ngoài.

Tóm lại, Trung Quốc đã có chiến lược phát triển sản phẩm nông sản xuất khẩu phù hợp với thực tiễn và biến động trên thị trường thế giới. Trung Quốc không chạy theo số lượng và khối lượng như trước đây mà chuyển sang nâng cao chất lượng và hiệu quả. Chú trọng nâng cao giá trị gia tăng của hàng nông sản xuất khẩu vừa giúp tăng trưởng nhanh kim ngạch xuất khẩu vừa làm giảm tranh chấp thương mại và nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất, giảm lượng sản xuất dư thừa.

d) Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản

Từ khi cải cách mở cửa, hoạt động ngoại giao và thương mại quốc tế của Trung Quốc phát triển không ngừng. Cùng với việc tăng cường trao đổi mậu dịch qua lại với các nước trên thế giới, Trung Quốc đã đẩy mạnh hoạt động ngoại thương ngày càng sôi động thông qua việc thành lập các cơ quan Thương vụ tại các nước có và chưa có quan hệ ngoại giao. Biện pháp này nhằm giới thiệu “một nước Trung Quốc mới” tới các nước và khu vực trên thế giới. Những năm qua các cơ quan Thương vụ Trung Quốc đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc phát triển hoạt động ngoại thương thông qua việc liên hệ với các ngành, giới kinh doanh của các nước sở tại, tham gia tích cực vào việc đàm phán và ký kết các hiệp định mậu dịch thương mại, bảo vệ quyền lợi đáng được hưởng của nước mình trong mậu dịch kinh tế ở các nước sở tại, giúp đỡ các tổ chức đoàn thể hoạt động ngoại thương ở trong nước sang làm việc, trao đổi và buôn bán với nước ngoài. Tính đến nay, Trung Quốc đã có 222 cơ quan thương vụ ở hầu hết các nước và khu vực trên thế giới.

Những năm gần đây, Trung Quốc còn thành lập các cơ quan đại diện thường trú cho công ty ngoại thương tại nhiều nước nhằm mở rộng mối liên hệ với giới kinh doanh ở nước ngoài, tăng cường xuất khẩu hàng hóa và mua vật tư cần thiết cho trong nước. Từ một số ít các công ty đại diện được thành lập ở Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, đến nay đã lên tới con số hàng trăm cơ quan tương tự ở khắp các nước trên thế giới. Các cơ quan này đã phát huy tác dụng trong việc xây dựng “cửa sổ thương mại” ngoài nước góp phần thúc đẩy giao lưu, trao đổi và buôn bán giữa các địa phương trong nước và ngoài nước một cách rộng rãi.

Bên cạnh việc mở rộng mạng lưới cơ quan xúc tiến thương mại, Bộ thương mại Trung Quốc cũng bắt đầu xuất bản báo cáo thường niên về tiếp cận thị trường thế giới từ năm 2003. Báo cáo này nhằm giúp các doanh nghiệp Trung Quốc hiểu biết một cách rõ ràng và khách quan về cơ chế, chính sách thương mại và đầu tư của các nước đối tác cũng như thị trường thế giới để có thể cạnh tranh hiệu quả hơn.

e) Thu hút đầu tư nước ngoài gắn với phát triển thị trường xuất khẩu

Với tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của Trung Quốc. Nhờ quy mô và khả năng tiếp cận với mạng lưới phân phối và mạng lưới marketing quốc tế, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài dễ dàng thâm nhập thị trường xuất khẩu hơn so với các công ty nội địa.

Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu đã thành công đáng kể. Trung Quốc đã trở thành nước nhận đầu tư lớn nhất trong số các nước đang phát triển từ năm 1993. Các nước đầu tư chính là Hồng Kông, Nhật Bản, Mỹ, Đài Loan, Xing-ga-po và Hàn Quốc cũng luôn nằm trong số 10 nước nhập khẩu hàng hoá nói chung và hàng nông sản nói riêng nhiều nhất từ Trung Quốc trong những năm qua

Khu vực đầu tư nước ngoài không chỉ góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu mà còn thúc đẩy việc cải thiện cơ cấu và nâng cấp sản phẩm xuất khẩu. Số liệu điều tra mới đây cho thấy, hơn 60% các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc áp dụng những công nghệ mới được đưa ra trong ba năm gần nhất.

1.2. Kinh nghiệm của Thái Lan

Thái Lan là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, vốn là một nước nông nghiệp truyền thống, có diện tích canh tác 19,62 triệu ha, gấp 2,62 lần so với Việt Nam. Trong khi đó dân số theo số điều tra năm 2014 có 67 triệu dân, bình quân đất canh tác trên đầu người gấp 4 lần so với Việt Nam. Ngành nông nghiệp đóng góp khoảng 13% vào tổng GDP của Thái Lan, trong đó lĩnh vực trồng trọt đóng góp khoảng 68% vào tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Năm 2014, kim ngạch xuất khẩu nông sản của Thái Lan đạt 20,14 tỷ USD, đứng thứ 6 trên thế giới [3]. Hiện nay, 5 mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng nhất của Thái Lan là gạo (luôn đứng đầu thế giới); sắn (xuất khẩu nhiều nhất thế giới); ngô (xuất khẩu 4-5 triệu tấn/năm); cao su (đứng thứ 3 thế giới); rau quả (đứng thứ 2 khu vực châu Á – Thái Bình Dương, sau Trung Quốc).

Sự thành công trong xuất khẩu hàng nông sản của Thái Lan chính là nhờ vào chính sách đổi mới của chính phủ trên quan điểm phát triển nông nghiệp, nông thôn là xương sống của đất nước. Các chính sách nhằm phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Thái Lan được thể hiện trên các mặt sau:

a) Lựa chọn thị trường xuất khẩu trên cơ sở kết hợp chính sách đa dạng hoá thị trường và chính sách xây dựng thị trường trọng điểm

Một trong những biện pháp duy trì sự ổn định, hạn chế rủi ro trong hoạt động xuất khẩu nông sản của Thái Lan là xây dựng chiến lược đa dạng hoá thị trường xuất khẩu theo hướng cả chiều rộng và cả chiều sâu. Thái Lan nỗ lực gia tăng số lượng thị trường xuất khẩu và tăng thị phần trên các thị trường xuất khẩu hiện có. Để đạt được mục tiêu đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, Thái Lan vừa tìm cách duy trì, thắt chặt quan hệ với các thị trường truyền thống, vừa đặc biệt quan tâm đến mở các thị trường mới, nhất là tăng cường đi sâu vào các quan hệ láng giềng để khai thác các lợi thế về địa lý- kinh tế, địa lý- văn hoá… Đặc biệt, Thái Lan tận dụng rất tốt cơ hội để xâm nhập vào các thị trường ngách. Chẳng hạn, nhận thức được Trung Quốc là một đối thủ cạnh tranh lớn, có lợi thế về quy mô sản xuất và thị trường, Thái Lan đã xúc tiến chương trình thâm nhập vào các khâu sản xuất và thị trường ngách, những lĩnh vực mà Thái Lan có lợi thế hơn so với Trung Quốc. Thái Lan cũng đã xúc tiến xây dựng hệ thống nhà hàng ăn uống tại Trung Quốc trong kế hoạch “Thái Lan là bếp ăn của thế giới”.

Hiện nay hàng nông sản Thái Lan đã có mặt tại 225 thị trường trên thế giới. Các thị trường nhập khẩu hàng nông sản của Thái lan rất đa dạng, từ các nước công nghiệp phát triển đến các nước đang phát triển trên thế giới. Bên cạnh thị trường truyền thống là các nước công nghiệp phát triển, Thái Lan chú trọng tới thị trường các nước đang phát triển gồm 6 nhóm nước thuộc các khu vực địa lý: ASEAN, Trung Quốc, Đông Âu, Trung Đông, Mỹ La tinh và Châu Phi.

Bên cạnh chính sách đa dạng hoá thị trường, Thái Lan xây dựng 10 thị trường xuất khẩu nông sản trọng điểm để mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước khác. Nâng số thị trường xuất khẩu trọng điểm từ 7 lên 10 để giảm bớt sự lệ thuộc quá lớn vào một vài thị trường riêng lẻ nhằm phân tán bớt rủi ro.

Nhằm thực hiện chính sách đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, Chính phủ Thái Lan tích cực đàm phán và ký kết các FTA, EPA song phương, khu vực với quan điểm tự do hóa thương mại song phương được đặt song song với tự do hóa thương mại đa phương. Tính đến năm 2014, Thái Lan đã tham gia vào 5 FTA song phương, 2 FTA khu vực, 4 EPA song phương và 1 EPA khu vực.

b) Phát triển thị trường thông qua chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu

Nhận thức rõ giải pháp căn bản và bền vững để mở rộng thị trường là nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu, chính phủ Thái Lan đã xây dựng chiến lược phát triển các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu dựa trên sự kết hợp giữa kinh nghiệm truyền thống và khoa học công nghệ hiện đại, đa dạng hoá sản phẩm nông sản xuất khẩu theo cả chiều rộng và chiều sâu, trọng tâm là đa dạng hoá theo chiều sâu. Thái Lan tăng số lượng, chủng loại, sản phẩm xuất khẩu và tìm kiếm các sản phẩm xuất khẩu mới. Đa dạng hoá sản phẩm được thực hiện theo hướng tăng các sản phẩm có chất lượng, tiện dụng, giá cả hợp lý và thân thiện với môi trường nhằm đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn và tình hình thị trường nông sản thế giới.

Các biện pháp của Chính phủ Thái Lan nhằm thực hiện Chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản: Quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm thông qua việc thực hiện chính sách “Mỗi làng một sản phẩm” nhằm phát huy lợi thế so sánh của mỗi địa phương; Hỗ trợ về tài chính nhằm khuyến khích xuất khẩu nông sản, đặc biệt là xây dựng Chương trình bảo lãnh tín dụng xuất khẩu đã khuyến khích được các doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu nông sản sang các thị trường mới như Châu Phi và Trung Đông; Thực hiện tốt chính sách giá cả hàng nông sản, chính sách thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp…

c) Mở rộng thị trường thông qua việc hoàn thiện kênh phân phối hàng hóa

Thái Lan xây dựng kho nông sản tại các thị trường nhập khẩu nhằm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa, hiểu rõ và nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị trường. Các kho ngoại quan này được xây dựng ở quốc gia có vị trí địa lý trung tâm, thuận tiện xuất khẩu đi các nước lân cận hoặc có thể xuất ngay tại nước đó. Hiện nay, Thái Lan đã xây nhà máy đánh bóng gạo và kho chứa trái cây tại Pháp để xuất khẩu sang Hà Lan, Đức. Các doanh nghiệp xuất khẩu nước sau khi thu mua trong nước là vận chuyển sang kho ngoại quan, khi thấy thị trường Pháp hoặc các nước châu Âu có nhu cầu sẽ đáp ứng kịp thời hơn.

Một cách phân phối nông sản hiệu quả nữa của Thái Lan là thông qua Chợ trung tâm mua bán nông sản (Taladd Thai) tại thị trường nội địa. Tất cả nông sản của 76 tỉnh thành của Thái Lan đều được đưa về đây để tiêu dùng và xuất khẩu. Talaad Thai được biết đến như là cửa ngõ xuất khẩu nông sản của Thái Lan. Từ Talaad Thái ra cảng biển, sân bay rất thuận tiện và các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu cũng rất phong phú và hiệu quả. Trung tâm Dịch vụ xuất khẩu nông sản một cửa (Perishable One Stop Service Export Center – POSSEC) đáp ứng mọi thủ tục cho xuất hàng ngay tại Talaad Thai từ hoàn tất thủ tục hải quan, nhận giấy chứng nhận xuất xứ (C/O), chứng nhận kiểm dịch thực vật, kiểm tra an toàn vệ sinh đến những dịch vụ chiếu xạ, kho vận đóng gói, thông tin tư vấn về thị trường, luật lệ…

Ngoài ra, Thái Lan là đất nước có lượng khách du lịch hàng năm lớn nên các nhà kinh doanh nông sản đã tận dụng lợi thế này để xuất khẩu tại chỗ với kim ngạch đáng kể. Mặt khác đây cũng là một hình thức tiếp thị, quảng bá thương hiệu nông sản Thái Lan có hiệu quả.

2. Bài học rút ra cho Việt Nam

Theo dự báo của của IMF, WB và OECD nền kinh tế thế giới đang phục hồi và sẽ bước vào giai đoạn tăng trưởng mới từ năm 2015. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan như biến đổi khí hậu, mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc, khủng bố,… sẽ dẫn tới sự biến động khó dự đoán trước của thị trường thế giới. Cùng với đó, rào cản kỹ thuật của các quốc gia, đặc biệt là các nước phát triển dựng lên ngày càng tinh vi, khó vượt qua hơn đối với hàng nông sản xuất khẩu của các nước đang phát triển. Vì vậy, những kinh nghiệm lựa chọn thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Trung Quốc và Thái lan trong thời kỳ sau khủng hoảng kinh tế thế giới sẽ là những bài học quý đối với Việt Nam trong việc phát triển thị trường hàng nông sản xuất khẩu trong giai đoạn tới.

2.1. Bài học thành công có thể vận dụng

Thứ nhất, lựa chọn chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu phù hợp với lợi thế của đất nước và tình hình thực tiễn thị trường xuất khẩu, nhờ đó mà cả hai nước đã mở rộng được thị trường xuất khẩu và gia tăng kim ngạch. Cả Thái Lan và Trung Quốc đều thực hiện đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nông sản theo cả chiều rộng và chiều sâu, chủ yếu định hướng theo chiều sâu. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với tất cả các nước, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực thông qua việc tăng cường đàm phán và ký kết các FTA, EPA song phương và khu vực.

Thứ hai, hai nước đều thực hiện tái cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng nông sản theo hướng tương đối cân bằng giữa các khu vực thị trường nhằm giảm bớt rủi ro so với những nước quá tập trung vào một khu vực thị trường xuất khẩu nào đó. Đồng thời, Chính phủ hai nước đều xây dựng 10 thị trường xuất khẩu nông sản trọng điểm đóng vai trò điều tiết đối với toàn bộ cơ cấu thị trường xuất khẩu và làm bàn đạp để mở rộng thị trường xuất khẩu.

Thứ ba, thực hiện đa dạng hóa sản phẩm nông sản xuất khẩu theo cả chiều rộng và chiều sâu, chú trọng đa dạng hóa theo chiều sâu nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Hàng nông sản xuất khẩu được cơ cấu theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng chế biến cao nhằm nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu.

Thứ tư, tùy thuộc vào điều kiện thực tế của nước mình mà Trung Quốc và Thái Lan đều đưa ra các giải pháp linh hoạt và hiệu quả để thực hiện phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản

Thứ năm, chú trọng xây dựng chiến lược tiêu thụ, quảng bá và phát triển thương hiệu nông sản cả trong nước và nước ngoài. Trên cơ sở mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, mỗi quốc gia có cách thức riêng nhằm xây dựng hình ảnh, thương hiệu cho mình.

2.2. Bài học thất bại cần tránh

Mặc dù sau nhiều năm thực hiện chính sách phát triển thị trường xuất khẩu, cả hai nước đều đạt được mức tăng trưởng xuất khẩu nông sản ấn tượng nhưng chủ yếu là tăng trưởng theo chiều rộng, chưa thực sự gắn với tăng trưởng và phát triển bền vững. Cụ thể là:

Thứ nhất, phát triển thị trường hàng nông sản chưa tính đến những ảnh hưởng từ rủi ro chính trị. Trong bối cảnh khủng hoảng nền kinh tế thế giới, Trung Quốc đã chuyển trọng tâm xuất khẩu sang thị trường châu Á, đặc biệt chú trọng đến thị trường các nước láng riềng. Tuy nhiên, vấn đề tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc với Nhật Bản (trên biển Hoa Đông) và một loạt các nước Phi-lip-pin, Việt Nam, Bru-nây, Ma-lai-xi-a (khu vực biển Đông) và vùng lãnh thổ Đài Loan đã khiến kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc sang các thị trường này giảm mạnh.

Thứ hai, phát triển thị trường xuất khẩu nông sản chưa chú trọng đến bảo vệ môi trường. Yêu cầu thực hiện tiêu chuẩn thực tiễn nông nghiệp tốt (GAP) hoặc nền nông nghiệp hữu cơ đang rất được các nước phát triển chú trọng kiểm soát đối với hàng nông sản từ các nước đang phát triển. Mặc dù những yêu cầu này đã và đang được cả hai nước thực hiện nhưng còn mang tính thụ động và chưa triệt để.

Thứ ba, vấn đề sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản tại Trung Quốc và Thái Lan chưa mang tính bền vững, đặc biệt vấn đề xã hội chưa được quan tâm thỏa đáng. Thực tiễn cho thấy vấn đề đảm bảo an toàn cho người sản xuất, an toàn thực phẩm còn nhiều hạn chế đã làm giảm uy tín và gây ra không ít thiệt hại cho các nhà sản xuất và xuất khẩu nông sản.

Tài liệu tham khảo

Đỗ Thu Hằng (2017). Phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

Bộ Công thương (2011), Nghiên cứu thị trường nông sản của Trung Quốc và khả năng xuất khẩu một số sản phẩm nông sản của Việt Nam, Đề tài khoa học cấp bộ, mã số chúng tôi NN&PTNT (2002), Triển vọng nông sản thế giới thời kỳ 2003 – 2010, Hà Nội

Tìm Giải Pháp Phát Triển Thị Trường Xuất Khẩu Gạo Bền Vững

Ngày 17/10, tại chúng tôi Bộ Công Thương tổ chức Hội nghị triển khai Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2017 – 2020, định hướng đến năm 2030. Theo đó, Việt Nam sẽ giảm dần xuất khẩu gạo về số lượng nhưng tăng giá trị xuất khẩu theo hướng bền vững.

Ông Trần Xuân Long, Trưởng Phòng Quản lý Xuất khẩu gạo, Cục Xuất nhập khẩu ( Bộ Công Thương) cho biết, theo Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2017 – 2020, định hướng đến năm 2030, Việt Nam sẽ giảm dần xuất khẩu gạo về số lượng nhưng tăng giá trị xuất khẩu theo hướng bền vững. Cụ thể, giai đoạn 2017-2020, lượng gạo xuất khẩu hằng năm khoảng 4,5 – 5 triệu tấn, trị giá đạt bình quân từ 2,2 – 2,3 tỷ USD/năm. Giai đoạn 2021 – 2030, lượng gạo xuất khẩu hằng năm khoảng bốn triệu tấn, trị giá xuất khẩu gạo tiếp tục được duy trì ổn định và tăng đạt khoảng 2,3 – 2,5 tỷ USD/năm.

Đến năm 2020, cơ cấu gạo xuất khẩu cũng thay đổi. Cụ thể, gạo trắng phẩm cấp thấp và trung bình không vượt quá 20% tổng lượng gạo xuất khẩu; gạo trắng phẩm chất cao chiếm khoảng 25%; tỷ trọng gạo thơm, gạo đặc sản, gạo Japonica chiếm khoảng 30%; gạo nếp là 20%… Đến năm 2030, gạo thơm, gạo đặc sản, gạo Japonica chiếm 40%; gạo nếp 25%; gạo dinh dưỡng khác trên 10%…

Tuy nhiên, theo nhiều đại biểu, hiện tăng trưởng sản xuất, xuất khẩu gạo thiên về bề rộng, chưa chú trọng cải thiện chất lượng, bảo đảm an toàn thực phẩm; sản xuất canh tác còn nhiều bất cập, chưa gắn với thị trường; thị trường xuất khẩu gạo còn phụ thuộc cao vào một số nước; quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, hiệu quả thấp; đa phần sản phẩm chưa có thương hiệu, chưa đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường.

Đại diện Cục Trồng Trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho rằng, hoạt động phát triển thương mại, nhất là xuất khẩu còn yếu. Cụ thể, các hoạt động xúc tiến thương mại và nghiên cứu thị trường chưa được quan tâm đúng mức. Hệ thống phân phối gạo trong nước còn nhiều bất cập, chủ yếu do hàng xáo nhỏ lẻ nắm giữ, chất lượng dịch vụ thấp. DN xuất khẩu đóng vai trò là đầu tàu trong chuỗi giá trị, phát triển thị trường và xúc tiến thương mại.

Bàn về giải pháp đẩy mạnh XK gạo,, ông Nguyễn Minh Huệ, Tổng Thư ký Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho rằng, cần tận dụng lợi thế cạnh tranh để củng cố và phát triển các thị trường gần và truyền thống, có nhu cầu phù hợp với điều kiện sản xuất trong nước. Khắc phục bất cập, tận dụng ưu đãi theo các thỏa thuận thương mại tự do, mở rộng các thị trường mới có nhu cầu chất lượng cao để nâng cao giá trị và hiệu quả. Nâng cao năng lực cạnh tranh của thương nhân để thực hiện các mục tiêu của Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo.

Theo đó, ông Huệ đề xuất một số giải pháp cụ thể như Chính phủ cần có chính sách thiết thực khuyến khích tăng cường liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo, xây dựng vùng chuyên canh nguyên liệu chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu thị trường. Thúc đẩy đàm phán và ký kết thỏa thuận về tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm hợp lý với các nước nhập khẩu, làm cơ sở định hướng sản xuất và xuất khẩu gạo phù hợp với yêu cầu. Các thương nhân xuất khẩu cần tăng cường liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo với nông dân, để đảm bảo nguồn cung cấp phù hợp với yêu cầu thị trường, đảm bảo hiệu quả sản xuất, xuất khẩu.

Mặt khác, theo một số đại biểu, cần tăng cường năng lực nghiên cứu phân tích, dự báo và cung cấp minh bạch thông tin thị trường để các tác nhân trong ngành lúa gạo chủ động ra quyết định sản xuất kinh doanh. Khuyến khích và tạo điều kiện để các khách hàng nhập khẩu gạo tham gia đầu tư sản xuất, chế biến gạo, góp phần đảm bảo đầu ra cho các vùng chuyên canh chính.

Tập trung phát triển sản xuất các nhóm sản phẩm theo phân khúc thị trường như tăng tỷ trọng loại gạo trắng, hạt dài, gạo chất lượng cao (5-10% tấm), giảm tỷ trọng loại gạo trên 15% tấm, tăng tỷ trọng các loại gạo thơm, gạo đồ; đa dạng các sản phẩm chế biến.

Nâng cao năng lực DN và hiệp hội bằng việc thu hút đầu tư của các DN trong việc xây dựng vùng nguyên liệu, hình thành liên kết và lâu dài giữa các tổ chức liên kết sản xuất của nông dân, hợp tác xã với các DN nòng cốt và tạo điều kiện cho các DN này tham gia xuất khẩu. Thu hút đầu tư, liên doanh liên kết lâu dài với DN từ các quốc gia khác có tiềm lực về vốn, công nghệ, thiết bị và kinh nghiệm kinh doanh để phát triển và hiện đại hóa ngành lúa gạo…/.

Thu Dịu-LM

Giải Pháp Nào Cho Xuất Khẩu Nông Sản

Theo Bộ NN&PTNT, hiện phía Trung Quốc đang kiểm soát tốt dịch bệnh, do đó thị trường nông sản sẽ hoạt động phục hồi lại vào cuối tháng 3, đầu tháng 4/2020 dẫn tới nhu cầu nhập khẩu nông sản cao, nhất là các mặt hàng thực phẩm. Để thúc đẩy nhập khẩu, Trung Quốc đặc biệt chú trọng khôi phục vận hành bình thường của hoạt động logistic, chuyển phát nhanh hàng hóa nhằm giải phóng sức tiêu thụ ở trong nước, giao thông đường bộ đi lại trên toàn quốc về cơ bản đã thông suốt.

Đồng thời, ngoài các biện pháp cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, Trung Quốc giảm thuế 80 mặt hàng thực phẩm (trong tổng số trên 800 mặt hàng) để thúc đẩy nhập khẩu đáp ứng nhu cầu trong nước. Thị trường Trung Quốc hồi phục nhanh sau khi khống chế dịch vào tháng 3/2020 cùng với các chính sách khuyến khích đồng bộ quyết liệt. Đây sẽ là cơ hội dành cho việc tiêu thụ hàng hóa, trong đó có nông sản. Do vậy, cần huy động mọi nguồn để tập trung khai thác lợi thế này.

Đối với một số thị trường khác, với dự đoán mức độ tác động dịch bệnh hiện tại, EU và Mỹ có thể mất trên 3 tháng để khống chế. Như vậy, đến tháng 6, tháng 7/2020, khả năng thị trường nhập khẩu nông sản mới có thể kích hoạt phục hồi lại bình thường. Thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc bị ảnh hưởng trong nửa cuối tháng 3 đến tháng 5/2020 và hoạt động nhập khẩu nông sản sẽ quay trở lại vào tháng 6, tuy nhiên mức tăng có thể sẽ không nhiều.

Trước những lợi thế về thị trường xuất khẩu, Bộ NN&PTNT kiến nghị Chính phủ cần tập trung hỗ trợ để giải quyết các nút thắt cho phát triển sản xuất, duy trì thương mại nông sản trong Quý II để chờ đà phục hồi quay trở lại vào quý III/2020.

Thứ nhất là nút thắt về vốn tín dụng. Khi thị trường Trung Quốc ấm dần từ đầu quý II, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cần được hỗ trợ tín dụng để tăng tốc sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu sang Trung Quốc và một số thị trường khác. Gói tín dụng tuy có lãi suất thấp nhưng cũng cần đảm bảo mọi doanh nghiệp tiếp cận được dễ dàng, nhất là đối tượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Hợp tác xã nông nghiệp để có khả năng phục hồi sản xuất nhanh và xuất khẩu ngay vào các thị trường khi dịch bệnh COVID-19 suy giảm.

Thứ hai là áp lực chi phí sản xuất, thuế, phí. Do thị trường xuất khẩu bị ảnh hưởng, hoạt động kinh doanh đứt đoạn, lợi nhuận các doanh nghiệp suy giảm trong thời kỳ dịch bệnh và thương mại gián đoạn. Do đó, áp lực chi phí, phí, thuế với doanh nghiệp rất lớn. Trước mắt, một bộ phận doanh nghiệp hoạt động trong nông nghiệp có thể bị phá sản, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khi đơn hàng xuất khẩu giảm dần, thậm chí không còn dẫn đến áp lực ngày càng cao đối với chi phí lưu kho, chi phí điện duy trì (nhất là kho lạnh để bảo quản nông sản) và vốn tồn ứ đọng hàng hóa.

Thứ ba, hệ thống logistic kho lạnh phục vụ bảo quản nông sản còn hạn chế. Cả nước hiện có 48 kho lạnh làm dịch vụ bảo quản nông thủy sản với công suất khoảng 700.000 palet và hàng nghìn kho lạnh với tổng công suất bảo quản ước đạt 2 triệu tấn sản phẩm phục vụ cho một số thị trường nhất định. Tuy nhiên, với số lượng kho lạnh hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu bảo quản nông sản, thủy sản phục vụ nhu cầu bảo quản tươi và chế biến xuất khẩu.

Bên cạnh đó, hiện nay, tình hình giao thương hàng hóa nông sản tại các cửa khẩu giáp với Trung Quốc hiện tại đã diễn ra bình thường nhưng tốc độ chậm do phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định phòng dịch. Cụ thể, theo thống kê của các địa phương những ngày gần đây, tại Lạng Sơn còn khoảng hơn 1.000 xe hàng, chủ yếu là các loại trái cây, nông sản chờ xuất khẩu. Tại Quảng Ninh, cửa khẩu Móng Cái thông quan trong nửa đầu tháng 3 là 169 container hoa quả, tương đương 3.524 tấn, 290 container bột sắn tương đương 10.046 tấn, …

Cùng với việc tháo gỡ các nút thắt trên, Bộ NN&PTNT kiến nghị Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh sản xuất nông nghiệp, tăng cường chế biến, bảo quản, lưu thông để linh hoạt thích ứng với bối cảnh dịch bệnh. Yêu cầu các nhà máy chế biến tăng cường công suất, tập trung phân khúc hàng khô, sơ chế, sản phẩm cấp đông,…để chuẩn bị tốt nhất phương án hậu dịch cho thị trường Trung Quốc, EU, Hoa Kỳ, đặc biệt khi mùa hè quay trở lại. Đồng thời, giảm thiểu các thủ tục trong các khâu kiểm tra, cấp giấy chứng nhận đạt chuẩn GAP, tận dụng lực lượng lao động tại chỗ thực hiện ngay tại vườn giúp nông dân bán nông sản phục vụ trong nước, xuất khẩu. Hỗ trợ chính sách thuế, tín dụng cho khu vực sản xuất, chế biến bảo quản và xuất khẩu nông sản. Riêng khu vực sản xuất, chế biến, bảo quản nông sản xuất khẩu cần đặc biệt quan tâm trong thời điểm trước mắt và trung hạn.

Bên cạnh đó, Bộ Tài chính triển khai nhanh chóng gói giải pháp gia hạn tiền thuế, tiền thuê đất cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, …hoạt động sản xuất trong các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản; hỗ trợ giảm lãi suất cho doanh nghiệp xuất khẩu nông sản.

Bộ Công Thương phối hợp Hiệp hội các doanh nghiệp dịch vụ logistic Việt Nam rà soát tổng thể năng lực lưu kho, bảo quản của hệ thống kho lạnh, container phục vụ nhu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản; có chính sách giá điện ưu đãi áp dụng cho vận hành kho lạnh. Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài chính có chính sách hỗ trợ phí, cước vận chuyển đường hàng không và đường biển đối với các thị trường trọng điểm để tăng năng lực cạnh tranh và giảm chi phí giá thành cho doanh nghiệp ngay trong quý II/2020./.

Khái Niệm Và Vai Trò Của Thị Trường Xuất Khẩu Với Doanh Nghiệp Xuất Khẩu

Nói đến thị trường là ta hình dung ra đó là nơi xảy ra các hoạt động kinh doanh. “Thị trường ” chính là một phạm trù của kinh tế hàng hoá ra đời. Thuật ngữ ” thị trường ” được rất nhiều nhà nghiên cứu kinh tế định nghĩa. Song cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm nào mang tính khái quát thống nhất và trọn vẹn. Vì trong mỗi thời kì phát triển, trên mỗi khía cạnh, lĩnh vực thị trường lại được định nghĩa một cách khác nhau.

Theo trường phái Cổ điển thì: Thị trường là nơi diễn ra các trao đổi, mua bán hàng hoá. Theo định nghĩa này thì thị trường được ví như “một cái chợ ” có đầy đủ không gian và thời gian, dung lượng cụ thể, xong nó chỉ phù hợp với thời kì sản xuất chưa phát triển các hình thức mua bán trao đổi còn đơn giản. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển tới trình độ cao, các hình thức mua bán trao đổi trở lên phức tạp đa dạng phong phú thì khái niệm này không còn phù hợp. Theo khái niệm hiện đại (P.A SAMUELSON ) th ì “Thị trường là một quá trình mà trong đó người mua và người bán một thứ hàng hoá tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá“. Như vậy thị trường là tổng thể các quan hệ về lưu thông hàng hoá, lưu thông tiền tệ, các giao dịch mua bán và các dịch vụ. Khái niệm này đã ” lột tả” được bản chất của thị trường trong thời kỳ phát triển này, song khái niệm này mới chỉ đứng trên khía cạnh của nhà phân tích kinh tế nói về thị trường chưa giúp cho doanh nghiệp xác định được mục tiêu của mình.

Theo MC CARTHY: Thị trường có thể hiểu là một nhóm khách hàng tiềm năng với những nhu cầu tương tự (giống nhau) và những người bán đưa ra sản phẩm khác nhau với cách thức khác nhau để thoả mãn nhu cầu đó. Khái niệm này không những nói lên được bản chất của thị trường mà còn giúp cho doanh nghiệp xác định được mục tiêu, phương hướng kinh doanh của mình: Đó là hướng tới khách hàng, mục tiêu tìm mọi cách thoả mãn nhu cầu của khách hàng để đạt được lợi nhuận tối đa.

Trên cơ sở khái niệm MC Carthy thị trường của xuất khẩu của doanh nghiệp được định nghĩa như sau: Thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng của doanh nghiệp tức là những khách hàng nước ngoài đang mua hoặc sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp ấy.

Qua khái niệm này doanh nghiệp không chỉ xác định được mục tiêu của doanh nghiệp là hướng tới khách hàng với nhu cầu đặc trưng của họ mà còn xác định rõ nhu cầu, cơ cấu nhu cầu đó mang đặc tính cơ bản của thị trường quốc tế, bị chi phối bởi tập quán văn hoá, ngôn ngữ lối sống, điều kiện tự nhiên của các nước đó…

Nói tóm lại:Thị trường chính là nơi giúp cho doanh nghiệp “người bán” xác định được.

+ Sản xuất kinh doanh cái gì?.

+ Cho đối tượng khách hàng nào?.

+ Và sản xuất kinh doanh như thế nào?.

Còn giúp người tiêu dùng ( người mua )biết được:

+ Ai sẽ đáp ứng nhu cầu của mình?.

+ Nhu cầu được thoả mãn đến mức nào?.

+ Khả năng thanh toán ra sao?.

Đối với các doanh nghiệp thì việc xác định các yếu tố của thị trường cũng rất cần thiết. Điều đó giúp cho doanh nghiệp hiểu hơn về mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố đó và đưa ra các chiến lược kinh doanh phù hợp.

Các yếu tố của thị trường gồm cung, cầu và giá cả thị trường.

Tổng hợp các nhu cầu của khách hàng tạo nên cầu của hàng hoá. Đối với các doanh nghiệp thì nhu cầu đòi hỏi phải cụ thể hơn đó là các nhu cầu có khả năng thanh toán và đặc biệt là các nhu cầu về các mặt hàng của doanh nghiệp đã, sẽ và có khả năng kinh doanh. Đối với thị trường nước ngoài thì nhu cầu có khả năng thanh toán là khác nhau giữa các nước phát triển khác nhau. Đối với các nước phát triển thì thu nhập của người dân rất cao, mạng lưới phân phối khá hoàn chỉnh do vậy đối với hàng hoá thông thường, nhất là nhu cầu yếu phẩm thì nhu cầu và nhu cầu có khả năng thanh toán là tương đương nhau. Nhưng đối với các nước kém phát triển thì hai loại nhu cầu có sự khác biệt rất lớn đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu và điều tra kỹ lưỡng.

Tổng hợp các nguồn cung ứng sản phẩm cho khách hàng trên thị trường tạo nên cung hàng hoá. Hay chính xác hơn đó chính là doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp đó. Đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì đối thủ cạnh tranh không phải chỉ là doanh nghiệp trong nước mà quan trọng hơn là các doanh nghiệp quốc tế với đủ loại hình kinh doanh khác nhau.

Sự tương tác giữa cung và cầu (tương tác giữa người mua và người bán, người bán và người bán, người mua và người mua) hình thành giá cả thị trường. Giá cả thị trường là đại lượng biến động do sự tương tác của cung và cầu trên thị trường của một loại hàng hoá ở địa điểm và thời điểm cụ thể. Nhưng ở thị trường xuất khẩu thì giá cả không chỉ bị chi phối của cung và cầu mà còn bị chi phối bởi hai yếu tố nữa đó là sự tác động của địa phương (chính phủ các nước) và tỷ giá hối đoái, hai yếu tố này có tác động mạnh và chi phối lớn đến giá cả hàng hoá. Vì vậy điều đầu tiên đối với doanh nghiệp khi nghiên cứu giá cần xem xét đến hai yếu tố này.

Một yếu tố nữa của thị trường đó là cạnh tranh yếu tố này chỉ xuất hiện một cách rõ nét khi kinh tế hàng hoá phát triển với mức độ cao. Đối thủ cạnh tranh là những doanh nghiệp trong cùng một ngành hoặc có những sản phẩm có khả năng thay thế loại hàng hoá của doanh nghiệp trên cùng một thị trường và trong cùng một thời kỳ. Đối với thị trường xuất khẩu thì đối thủ cạnh tranh không chỉ hiểu là các doanh nghiệp trong nội địa (có ưu thế khuyến khích dùng hàng nội địa), mà còn là các đối thủ nước ngoài với nguồn lực mạnh và các chiến lược cạnh tranh nổi trội hơn.

Tìm hiểu và nắm, biết cách điều phối yếu tố thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp chinh phục được thị trường và đạt được hiệu quả kinh doanh như mong muốn.

Thị trường có 4 chức năng cơ bản, trên cơ sở hiểu rõ được 4 chức năng này sẽ giúp cho doanh nghiệp khai thác được tối đa những lợi ích cần khai thác được tốt.

Chức năng thừa nhận:

Thị trường là nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán trong quá trình trao đổi hàng hoá. Người bán (doanh nghiệp ) đưa hàng hoá của mình vào thị trường với mong muốn là bán được để bù đắp chi phí và thu được lợi nhuận. Người mua tìm đến thị trường để mua hàng hoá đúng với công dụng, hợp thị hiếu và có khả năng thanh toán theo đúng mong muốn của mình. Trong quá trình trao đổi đó nếu hàng hoá không phù hợp với khả năng thanh toán hoặc không phù hợp với công dụng thị hiếu người tiêu dùng hàng hoá sẽ không bán được tức là không được thị trường thừa nhận và ngược lại sẽ được thừa nhận. Để được thừa nhận trên thị trường quốc tế doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường để hiểu được nhu cầu của khách hàng, hàng hoá của doanh nghiệp phải phù hợp nhu cầu (phù hợp về số lượng, chất lượng sự đồng bộ qui cách, cỡ loại, màu sắc, giá cả, thời gian, địa điểm…) của khách hàng.

Chức năng thực hiện:

Trên thị trường người bán thì cần tiền, người mua cần hàng. Sự trao đổi giữa hai bên mua và bán phải được thực hiện thông qua giá trị trao đổi giá hàng bằng tiền hoặc bằng vàng hoặc bằng những chứng từ có giá trị khác. Chức năng này đối với doanh nghiệp rất quan trọng là yếu tố quyết định đến thu nhập của doanh nghiệp. Để tiêu thụ được hàng doanh nghiệp không chỉ đưa ra được mức giá hợp lý ( thu được lợi nhuận ) mà doanh nghiệp phải xem xét đến tỉ giá hối đoái, chính sách của chính phủ và các yếu tố ảnh hưởng đến giá, khả năng thanh toán của khách hàng trên thị trường đó để đảm bảo chức năng này của thị trường được thực hiện.

Chức năng điều tiết và kích thích:

Thông qua sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, thị trường điều tiết và kích thích sản xuất kinh doanh phát triển. Với điều kiện quan hệ quốc tế ổn định và thuận lợi hàng hoá tiêu thụ nhanh sẽ kích thích doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nhiều hơn. Và ngược lại. Chức năng điều tiết kích thích của thị trường nó điều tiết sự ra nhập hoặc rút ra khỏi một số ngành kinh doanh của doanh nghiệp. Nó khuyến khích các nhà kinh doanh giỏi và điều chỉnh theo hướng đầu tư kinh doanh có lợi, các mặt hàng mới có chất lượng cao có khả năng bán với khối lượng lớn.

Chức năng thông tin:

Theo PA SAMUELSON nói thì thị trường chính là nơi giúp doanh nghiệp quyết định 3 vấn đề kinh tế cơ bản của mình đó là: Sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và phân phối cho ai?. Tại sao thị trường lại giúp doanh nghiệp quyết định được là bởi vì thị trường chính là nơi cung cấp thông tin cho doanh nghiệp. Thị trường chứa đựng các thông tin về tổng số cung cầu và cơ cấu cung cầu quan hệ cung cầu của từng loại hàng hoá và chi phí giá cả thị trường…

Tuy vậy không phải bất cứ thông tin nào của thị trường đều đúng đắn. doanh nghiệp phải biết chắt lọc các thông tin của thị trường để đưa ra các quyết định đúng đắn nhất cho kế hoạch kinh doanh của mình.

Vai trò của thị trường: Xuất khẩu đó chính là sự trao đổi mua bán hàng hoá với các nước (ngoài biên giới). Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt với các quốc gia khác nhau. Thị trường xuất khẩu không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, người tiêu dùng và nó có đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhà nước trong thời kỳ “mở cửa”.

Đối với nhà nước:

– Xuất khẩu giúp cho nước đó phát huy được lợi thế so sánh của đất nước và tăng hiệu quả kinh tế làm cho kinh tế đất nước phát triển và phồn thịnh hơn. Nó khuyến khích kích thích sự phát triển trong nước (do tăng được thị trường tiêu thụ hàng hoá). Nó nâng cao chất lượng hàng hoá trong nước (do sự cạnh tranh toàn cầu hoá cao). Xuất khẩu còn tạo sự gắn kết quan hệ phụ thuộc tương hỗ giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước cùng phát triển. Thông qua kinh doanh xuất khẩu sẽ phát huy, sử dụng tốt được nguồn lao động và tài nguyên của đất nước, góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ trong nước, tạo vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng, sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp trong nước.

Để phát triển xuất khẩu thì tất yếu doanh nghiệp phải phát triển thị trường xuất khẩu. Vì vậy phát triển thị trường đối với Nhà nước là yếu tố quan trọng trong sự phồn thịnh của đất nước.

Đối với người tiêu dùng:

Thị trường xuất khẩu phát triển sẽ giúp cho kinh tế xã hội phát triển, đời sống nhân dân nâng cao tạo điều kiện cho sức mua lớn. Mặt khác mở rộng thị trường xuất khẩu cho phép người tiêu dùng được tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn, chất lượng tốt hơn đa dạng và phong phú, chi phí tiêu dùng trên một đơn vị sản phẩm thấp hơn giá trị nhận được khi chưa có thị trường xuất nhập khẩu.

Đối với doanh nghiệp đặc biệt doanh nghiệp xuất nhập khẩu:

Thị trường xuất khẩu có một vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu nó là nơi sống còn của doanh nghiệp. Thị trường chính là môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, các hoạt động kinh doanhcủa doanh nghiệp đều được giải quyết trên thị trường.

Thị trường chính là nơi cung cấp thông tin kinh doanh cho doanh nghiệp (thông tin về cung, cầu, giá cả, số lượng, chất lượng sản phẩm…) thị trường chính là nơi quyết định được các vấn đề về kinh doanh (sản xuất cái gì? như thế nào? và cho ai?) và thị trường cũng chính là mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp thông qua chức năng thực hiện thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho doanh nghiệp và mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Do vậy chiếm lĩnh được thị trường chính là sự dành lợi nhuận- đó chính là mục tiêu sống còn của doanh nghiệp.

Như đã nói ở trên muốn thành công trong kinh doanh thì phải hiểu cặn kẽ về thị trường. Để hiểu rõ về thị trường và có thể chiếm lĩnh được thì cần phải phân loại chúng. Có rất nhiều cách phân loại tuỳ từng mục đích kinh doanh khác nhau mà ta có các phân loại khác nhau. Ở bài viết nhỏ này chỉ giới thiệu một số cách phân loại đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

Căn cứ vào mức độ xã hội hoá của thị trường:

– Thị trường địa phương: Là nơi diễn ra các hoạt động mua bán với dung lượng thị trường nhỏ. Và chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán của địa phương đó.

– Thị trường quốc gia: Là nơi diễn ra hoạt động mua bán giữa những người trong cùng một quốc gia và chịu ảnh hưởng chung bởi các quan hệ kinh tế chính trị trong nước.

– Thị trường quốc tế: Là nơi diễn ra hoạt động mua bán giữa các quốc gia khác nhau và chịu tác động chung của các thông lệ quốc tế và biến đổi theo từng quốc gia đặc thù.

Cách phân chia này giúp cho doanh nghiệp hiểu hơn về phong tục tập quán, chính trị, luật pháp của từng thị trường.

Căn cứ vào phương thức hình thành giá cả thị trường:

– Thị trường độc quyền: Trên thị trường này giá cả và các quan hệ kinh tế khác do các nhà độc quyền áp đặt, thường là những độc quyền, độc tôn hoặc các liên minh độc quyền.

– Thị trường cạnh tranh: Đó là thị trường mà ở đó người bán và người mua tham gia với số lượng lớn và không ai có ưu thế để cung ứng hay mua trên thị trường, không ai quyết định giá mà chỉ chấp nhận giá. Các sản phẩm mua bán trên thị trường là đồng nhất không có sự dị biệt.

– Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp hiểu được bản chất của thị trường để có những phương hướng, kế hoạch kinh doanh thích hợp đặc biệt là các chiến lược cạnh tranh phù hợp với từng đặc tính của thị trường.

Căn cứ theo khả năng tiêu thụ:

– Thị trường thực tế: Là thị trường thực tại doanh nghiệp đang tồn tại và chiếm lĩnh (còn gọi là thị trường hiện tại).

– Thị trường tiềm năng: Là thị trường doanh nghiệp chuẩn bị và có khả năng chiếm lĩnh trong thời gian tới (còn gọi là thị trường tương lai).

Cách phân chia này giúp cho doanh nghiệp đưa ra được các chiến lược về thị trường một cách đứng đắn về việc mở rộng thị trường hay xâm nhập thị trường.

Căn cứ vào tỷ trọng hàng hoá:

– Thị trường chính: Là thị trường mà số lượng hàng hoá bán ra chiếm đại đa số so với tổng khối lượng hàng hoá được đưa ra tiêu thụ của Công ty. Hiện nay thị trường chính của doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam chủ yếu ở 4 khu vực lớn: Châu Á Thài Bình Dương, Tây Bắc Âu, Nam Mỹ, Châu Phi và Tây Nam Á.

Cách phân chia nàygiúp cho doanh nghiệp đưa ra cách phân phối sản phẩm hàng hoá một cách hợp lý, có phương cách xúc tiến khuyếch trương sản phẩm phù hợp.

Đó là cách phân chia các loại thị trường. Tuy rằng với cách phân loại này đã giúp cho doanh nghiệp định hình được các đặc điểm thị trường, nhưng nó chưa giúp cho doanh nghiệp xác định được nhu cầu khách hàng một cách cụ thể mà đối với doanh nghiệp muốn phát triển thị trường phải biết và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng do vậy tất yếu doanh nghiệp phải phân nhỏ thị trường theo nhu cầu thị hiếu của khách hàng đó chính là phân đoạn thị trường.

Phân đoạn thị trường là sự phân chia thị trường thành những bộ phận nhỏ dựa vào phân loại nhu cầu của từng nhóm khách hàng cụ thể. Tất cả các thị trường nhỏ trong tổng thể thị trường đều có điểm đồng nhất giống nhau, xong ở từng đoạn thị trường thì nhu cầu của nhóm khách hàng lại khác nhau do vậy đòi hỏi phân đoạn thị trường phải đáp ứng được các yêu cầu sau:

+ Nhu cầu và hành vi ứng xử của các cá nhân trong nhóm phải hoàn toàn đồng nhất (giống nhau).

+ Nhu cầu và hành vi ứng xử của các khách hàng thuộc các nhóm khác nhau (phân đoạn thị trường khác nhau) phải có sự khác biệt đủ lớn. Và số lượng khách hàng phải đủ lớn ở mỗi nhóm để đạt hiệu quả khi khai thác cơ hội kinh doanh .

+ Phải lựa chọn chính xác tiêu thức của sự khác biệt giữa các nhóm để xác định được đặc điểm của từng nhóm.

Đó là yêu cầu của phân đoạn thị trường. Tuỳ từng loại mặt hàng, mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp lựa chọn tiêu thức phân loại phù hợp ví dụ như phân đoạn theo lứa tuổi, theo giới tính, theo thu nhập, theo thị hiếu….

Tất cả các kiến thức về thị trường đã nói ở trên đều nhằm giúp doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiểu hơn về bản chất qui luật của thị trường xong để tiếp cận và chiếm lĩnh vào thị trường thì doanh nghiệp cần phải phát triển thị trường xuất khẩu của mình.

Cập nhật thông tin chi tiết về Kinh Nghiệm Phát Triển Thị Trường Xuất Khẩu Nông Sản trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!