Xu Hướng 3/2023 # Kinh Nghiệm Giảm Nghèo Ở Một Số Quốc Gia Khu Vực Đông Nam Á # Top 5 View | Phauthuatthankinh.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Kinh Nghiệm Giảm Nghèo Ở Một Số Quốc Gia Khu Vực Đông Nam Á # Top 5 View

Bạn đang xem bài viết Kinh Nghiệm Giảm Nghèo Ở Một Số Quốc Gia Khu Vực Đông Nam Á được cập nhật mới nhất trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, xóa bỏ tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng xã hội không còn là mục tiêu của riêng một quốc gia nào mà đã trở thành mục tiêu phấn đấu  của toàn thế giới. Để giải quyết tận gốc sự đói nghèo, biện pháp duy nhất là phát triển kinh tế. Tuy nhiên phát triển và tăng trưởng kinh tế không phải lúc nào cũng đi kèm với công bằng xã hội. Để kết hợp hài hòa hai mục tiêu này và tiến đến xóa đói giảm nghèo thì cần có vai trò điều tiết của Nhà nước. Để lựa chọn con đường và giải pháp thực hiện mục tiêu phát triển, nhất là phát triển bền vững đang là mối quan tâm của các quốc gia, dân tộc. Sự khác nhau về chế độ chính trị, kinh tế – xã hội, về hệ tư tưởng, truyền thống, đặc điểm văn hóa, lịch sử, trình độ phát triển của mỗi quốc gia, khiến cho việc lựa chọn mô hình và giải pháp phát triển cũng khác nhau.

Ở các nước Đông Nam Á, xóa đói giảm nghèo, hướng tới xã hội phồn vinh về kinh tế, lành mạnh về xã hội, kết hợp với tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là vấn đề thời sự hiện nay. Xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là xóa đói giảm nghèo về kinh tế ở nông thôn đối với các hộ nông dân là tiền đề kinh tế tối cần thiết để giữ vững ổn định chính trị- xã hội (1). Chính phủ thực hiện phân cấp quản lý  ngân sách, điều hành hoạt động kinh tế – xã hội cho các cấp chính quyền tỉnh, từ đó tạo sự phát triển đồng bộ hơn, liên kết chặt chẽ hơn giữa các vùng phát triển với các vùng lạc hậu. Điều này giúp người nghèo có được điều kiện tiếp cận nhiều hơn với các cơ hội việc làm cũng như dịch vụ nâng cao chất lượng cuộc sống của họ.

Đói nghèo về kinh tế luôn dẫn tới những sức ép căng thẳng về xã hội. Sự lệ thuộc của nó đối với các nước giàu sẽ khó tránh khỏi, bắt đầu từ kinh tế rồi xâm nhập vào văn hóa, hệ tư trưởng và chính trị. Thực tế cho thấy, trong thời đại kinh tế thế giới đang phát triển như hiện nay, mỗi quốc gia dân tộc chỉ có thế giữ vững chế độ chính trị, độc lập chủ quyền với một tiềm lực kinh tế mạnh. Tuy nhiên, không phải bất cứ tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nào cũng có lợi  cho người nghèo mặc dù tăng trưởng nhanh là yếu tố chung cần thiết và quan trọng nhất trọng mọi chiến lược phát triển.

Trường hợp Thái Lan thể hiện rõ quan điểm ưu tiên đối đa cho tăng trưởng nhanh, xóa đói giảm nghèo sẽ được khắc phục dần dần vào thời gian sau hơn là làm đồng bộ. Kế hoạch 5 năm lần thứ sáu của Thái Lan đề ra hàng loạt biện pháp đồng bộ giải quyết nhiều vấn đề kinh tế- xã hội cấp thiết, trong đó vấn đề xóa đói giảm nghèo được coi là mục tiêu quan trọng (2). Chiến lược tăng trưởng không đồng bộ và thấp sẽ không thể giải quyết được mất cân bằng thu nhập và giảm nghèo đói, vì vậy với một đất nước đang phát triển mạnh như Thái Lan hiện nay thì việc cân đối hai mục tiêu này sẽ có lợi hơn rất nhiều.

Còn ở Malaysia, khi đề ra các chính sách phát triển, Chính phủ nước này luôn đặt mục tiêu là bảo đảm lợi ích hài hòa  giữa các dân tộc  trên cơ sở  chú trọng đến lợi ích của cộng đồng người bản địa, vì họ là thành phần cư dân đông nhất và cũng có tỉ lệ nghèo cao nhất (3).Thông qua các cơ chế quản lý hiệu quả và đồng bộ, các chính sách xóa đói giảm nghèo của Malaixia  đã đến được với những đối tượng nghèo khổ và cần sự trợ giúp. Ở Malaysia, Nhà nước đi đầu và có vai trò nòng cốt trong công cuộc xóa đói giảm nghèo. Nhà nước, thông qua các chương trình xã hội như y tế, giáo dục… đã giúp người lao động nâng cao khả năng tìm kiếm cơ hội việc làm, từ đó cải thiện thu nhập và mức sống. Trong các chương trình đầu tư lâu dài này, Chính phủ Malaysia đặc biệt chú trọng cho giáo dục và đào tạo, phần chi ngân sách cho đầu tư và trợ cấp giáo dục qua từng thời kỳ là rất lớn.

Một Số Giải Pháp Thực Hiện Chính Sách Giảm Nghèo Bền Vững Ở Việt Nam

Trong những năm qua, chủ trương giảm nghèo luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo đạt được nhiều thành tựu quan trọng và đã thu được những kinh nghiệm quý báu trong xây dựng, tổ chức thực hiện. Giảm nghèo bền vững đã trở thành chính sách nền tảng, xuyên suốt, luôn được cập nhật, bổ sung trong hệ thống chính sách phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta. Để duy trì những thành tựu giảm nghèo và người dân tự mình vươn lên xây dựng cuộc sống khá giả, hạnh phúc thì cần nhận diện những vấn đề mới và có những giải pháp phù hợp. Chính sách giảm nghèo bền vững của Việt Nam

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định phải “Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần…; nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững” là nhiệm vụ đảm bảo đất nước phát triển bền vững. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020 được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI định hướng: “Đẩy mạnh giảm nghèo bền vững”. Hội nghị Trung ương 5 Khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020 chỉ đạo “Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Chính phủ và Chương trình mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo”. Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội” (Điều 34), “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác” (Điều 59).

Thể chế các chủ trương của Đảng, ngày 09.11.2011, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 13/2011/QH13 về Chương trình mục tiêu Quốc gia giai đoạn 2011 – 2015, trong đó Chương trình mục tiêu Quốc gia Giảm nghèo bền vững được ưu tiên hàng đầu. Tiếp đó, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19.5.2011 về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020 và Thủ tướng phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững 2012-2015.

Năm 2014, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 76/2014/QH13 ngày 24.6.2014 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020. Thủ tướng ban hành Quyết định 1722/QĐ-TTg ngày 02.9.2016 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 gồm 05 nội dung: i) Hỗ trợ các huyện, xã nghèo. ii) Hỗ trợ các xã nghèo miền núi biên giới. iii) Hỗ trợ sản xuất, đa dạng sinh kế ở những xã không thuộc dự án 30A và 135. iv) Truyền thông về giảm nghèo và tiếp cận thông tin của người nghèo. v) Nâng cao năng lực của Chính phủ giám sát chương trình.

Từ năm 2016, chuẩn nghèo mới tiếp cận đa chiều được áp dụng để đo lường tình trạng nghèo của hộ gia đình một cách đầy đủ, tổng thể bao gồm cả giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường và tiếp cận thông tin truyền thông được đưa vào đánh giá tình trạng hộ nghèo.

Các chính sách giảm nghèo đã từng bước được điều chỉnh theo hướng ưu tiên cả cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo; ngoài các chính sách hỗ trợ đối với hộ nghèo, Chính phủ đã ban hành chính sách hỗ trợ Bảo hiểm Y tế cho hộ cận nghèo, chính sách cho vay vốn tín dụng ưu đãi, chính sách hỗ trợ sản xuất, tạo sinh kế đối với hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo. Giảm nghèo đã gắn kết với tạo sinh kế, việc làm, đào tạo nghề và xuất khẩu lao động.

Chính sách giảm nghèo bền vững là hệ thống chính sách được tích hợp trong nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật khác nhau ở Trung ương và địa phương, nhưng tập trung nhất trong 02 Chương trình mục tiêu Quốc gia đó là Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình Xây dựng nông thôn mới. Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững đã được thực hiện bởi hai giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020. Sau gần 10 thực hiện 02 giai đoạn của Chương trình giảm nghèo bền vững, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, hầu hết các mục tiêu đã đề ra đều đạt được và vượt mức kế hoạch, đem lại những thành tựu to lớn trong phát triển đất nước và người dân vùng khó khăn được thụ hưởng những kết quả thực chất.

Một số kết quả thực hiện chính sách giảm nghèo

Một là, kết quả thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020 đã huy động nguồn lực tập trung cho phát triển các thiết chế hạ tầng kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế… vùng khó khăn góp phần bảo đảm an sinh xã hội, tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo, đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số và miền núi; người yếu thế được trợ giúp, có được cơ hội tự vươn lên thoát nghèo bền vững.

Hai là, thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là rõ rệt, thể hiện sự quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) và chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, ấn tượng nhất trong các mục tiêu phát triển bền vững mà Việt Nam cam kết thực hiện; được nhiều Chính phủ, tổ chức quốc tế tham quan, học tập, chia sẻ kinh nghiệm.

Ba là, trong tổ chức thực hiện, giảm nghèo bền vững đã trở thành nhiệm vụ, mục tiêu ưu tiên trong chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy, chính quyền; cơ chế, chính sách giảm nghèo ngày càng phù hợp hơn; Nguồn vốn đầu tư được bảo đảm; Phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau” được nhân dân các địa phương hưởng ứng.

Bốn là, tỷ lệ nghèo dù tính theo chuẩn cũ hay mới trong cả giai đoạn 2011-2020 đều giảm mạnh; mức tăng chi của những gia đình có thu nhập thấp đã cao hơn mức tăng chi trung bình của cả nước trong giai đoạn 2010-2016; sau 5 năm tài sản của người nghèo đã tăng hơn, đời sống của người nghèo được cải thiện.

Năm là, kết quả các chính sách giảm nghèo bước đầu tạo được tạo lưới an sinh cho người dân, đảm bảo hỗ trợ người nghèo, người yếu thế phát triển bền vững hơn về kinh tế và xã hội; đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng còn khó khăn được hưởng những chính sách đặc thù để đảm bảo không bị chênh lệch với các vùng khác về thụ hưởng các chính sách xã hội.

Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững, chưa đồng đều, cụ thể là: Nghèo đói vẫn còn ở những vùng khó khăn, miền núi, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống; tỷ lệ tái nghèo vẫn xảy ra do thiên tai, dịch bệnh và rủi ro khác; tỷ trọng hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo tăng từ 48% năm 2016 lên 55,27% năm 2018. Mức hỗ trợ cho trẻ em, học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số và một số nhóm khác còn thấp so với nhu cầu thực tế; vẫn còn 4.800 hộ gia đình chưa có nhà ở và 1,4 triệu hộ sống trong nhà đơn sơ, trong đó 465 ngàn hộ dân tộc thiểu số đang ở nhà tạm, dột nát cần hỗ trợ (chiếm 15,3% tổng số hộ dân tộc thiểu số); có trên 375 ngàn hộ dân tộc thiểu số chưa được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh…

Nguyên nhân của những hạn chế trên là do khu vực nhiều người nghèo thường có điều kiện tự nhiên, xã hội không thuận lợi, xuất phát điểm thấp, mặt bằng dân trí nói chung còn hạn chế; trình độ sản xuất, phương thức canh tác giản đơn; ít có cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp; chất lượng nguồn nhân lực, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề còn thấp; tâm lý không muốn xa nơi cư trú; việc tiếp nhận áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất của đồng bào còn hạn chế. Các chính sách đặc thù đối với khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc chậm được bố trí vốn thực hiện. Đội ngũ cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn không ổn định, chế độ chính sách cho đội ngũ cán bộ này ở cấp huyện, cấp xã chưa được quan tâm đúng mức làm hạn chế đến hiệu quả công tác tham mưu cho các cấp chính quyền.

Những vấn đề tác động đến chính sách giảm nghèo

Thứ nhất, trong bối cảnh an ninh phi truyền thống, thiên tai, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, thu hẹp diện tích đất ở, đất sản xuất tác động tiêu cực đến cuộc sống và sinh kế của người dân, đòi hỏi Nhà nước có những chính sách phù hợp và đồng hành cùng người dân nhiều hơn trong nỗ lực thực thi các mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Thứ hai, nghèo trẻ em đa chiều, tái nghèo, nghèo phát sinh, nghèo do thiên tai, dịch bệnh, rủi ro thị trường, nhà ở, trường học và chăm sóc y tế đối với người nghèo đô thị và người lao động ở các khu công nghiệp là những đối tượng cần thiết phải mở rộng độ bao phủ để đảm bảo mọi nhóm dân cư, đặc biệt là người nghèo và người dễ bị tổn thương được hưởng các chính sách an sinh xã hội là những thách thức mới trong tổ chức thực thi chính sách giảm nghèo.

Thứ ba, tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và xu hướng phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế trải nghiệm, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp chính xác… đang ngày càng phổ biến và quan điểm lấy con người làm trung tâm có ảnh hưởng lớn đến mô hình sinh kế, hình thức việc làm đã đặt ra các yêu cầu mới đối với chính sách đào tạo nguồn nhân lực, chính sách việc làm, tạo việc làm tại chỗ… những chính sách đó có tác động trực tiếp đến chính sách giảm nghèo bền vững ở nước ta.

Thứ tư, quy mô của lao động khu vực phi chính thức ở Việt Nam còn lớn, thị trường lao động mở và linh hoạt, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra nhanh chóng sẽ thúc đẩy các dòng di cư lao động trong nước và quốc tế, gồm cả người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, làm gia tăng mức độ cạnh tranh về việc làm, nảy sinh những vấn đề kinh tế, xã hội mới ở cả nơi lao động đi và nơi lao động đến, đòi hỏi hệ thống chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội phải dự liệu, mở rộng độ bao phủ nhiều hơn nữa đối với hiện tượng này.

Khuyến nghị một số giải pháp

Thứ nhất là, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng về công tác giảm nghèo, nâng cao năng lực, hiệu quả sự lãnh đạo của đảng đối với công tác quản lý nhà nước trong giảm nghèo, lao động, thị trường việc làm và công tác thể chế hóa, hài hòa hóa các chính sách giảm nghèo với các chính sách phát triển bền vững và chính sách an sinh xã hội. Thứ hai là, tuyên truyền nâng cao nhận thức về chính sách giảm nghèo trong toàn xã hội; phát huy vai trò, sức mạnh của hệ thống chính trị trong tư vấn, phản biện, kiến nghị, giám sát, vận động thực hiện các chủ trương, chính sách và nâng cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, mọi tầng lớp xã hội trong việc thực hiện chính sách giảm nghèo, phát triển bền vững.

Thứ tư là, hoàn thiện hệ thống chính sách giảm ghèo cho giai đoạn 2021-2030, quan tâm ban hành đồng bộ các nhóm chính sách “định hướng”, “hỗ trợ” và “quản lý rủi ro” tạo thành hệ thống chính sách đảm bảo khi thực thi được hiệu quả và tạo được lưới an sinh đồng bộ, toàn diện, bao trùm theo hướng bền vững, ứng phó với những thách thức từ bối cảnh mới. Trong đó cần quan tâm các nội dung:

– Nhóm chính sách “định hướng”: cần định hướng nâng cao chất lượng dịch vụ xã hội cơ bản. Nhà nước đảm bảo nguồn lực đầu tư đáp ứng yêu cầu cơ bản, chủ yếu; huy động sự đóng góp, tham gia của toàn xã hội đầu tư phát triển y tế, giáo dục, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, chú trọng vùng sâu, vùng xa, vùng bị nhiễm mặn, vùng thường xuyên hạn hán và lũ lụt, khó khăn về nguồn nước. Tiếp tục thực Chương trình Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2030 và các chương trình đào tạo cho lao động nông thôn… tạo sức mạnh tổng hợp cho thực hiện đạt các mục tiêu giảm nghèo giai đoạn mới.

– Về nhóm chính sách “hỗ trợ” và “quản lý rủi ro”: Thiết kế các chương trình “hỗ trợ” cho phát triển sinh kế theo hướng linh hoạt, có thể điều chỉnh kịp thời phù hợp với đối tượng người yếu thế; hỗ trợ trong hoàn cảnh khó khăn, rủi ro đáp ứng nhu cầu người dân và cộng đồng sau thiên tai, thảm hoạ. Chính sách “quản lý rủi ro” hướng tới tăng cường khả năng ứng phó giảm thiệt hại do rủi ro; giảm tỷ lệ người nghèo do thiên tai, dịch bênh, thị trường. Hỗ trợ cho đào tạo, chuyển đổi việc làm; phát triển bảo hiểm nông nghiệp để bù đắp tổn thất của người dân do tác động của thiên tai, dịch bệnh, thị trường; tăng cường cho hệ thống bảo vệ sản xuất cây trồng, vật nuôi và hỗ trợ phát triển thị trường trong điều kiện hội nhập.

Các chính sách giảm nghèo đã từng bước được điều chỉnh theo hướng ưu tiên cả cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo; ngoài các chính sách hỗ trợ đối với hộ nghèo, Chính phủ đã ban hành chính sách hỗ trợ Bảo hiểm Y tế cho hộ cận nghèo, chính sách cho vay vốn tín dụng ưu đãi, chính sách hỗ trợ sản xuất, tạo sinh kế đối với hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo. Giảm nghèo đã gắn kết với tạo sinh kế, việc làm, đào tạo nghề và xuất khẩu lao động.

Nguyễn Văn Tốn Phó Vụ trưởng Vụ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ban Kinh tế Trung ương

So Sánh Các Quy Định Về Văn Hóa, Giáo Dục, Khoa Học Trong Hiến Pháp Trung Quốc Và Hiến Pháp Một Số Nước Đông Nam Á – Những Kinh Nghiệm Có Thể Tiếp Thu

1. So sánh

Khác với nhóm quốc gia Châu Âu hay Bắc Mỹ, nơi mà các nguyên tắc về dân chủ và nhà nước pháp quyền được chấp nhận và thực thi đầy đủ trên thực tiễn và có sự tương đồng cao về chính trị, thì Trung Quốc và các nước Đông Nam Á lại có sự khác biệt lớn về chế độ chính trị, quan niệm về dân chủ, nhà nước pháp quyền, kể cả về chức năng, bản chất của hiến pháp. Do sự khác biệt này dẫn đến các quy định về văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ trong Hiến pháp Trung Quốc 1982 và hiến pháp một số nước Đông Nam Á khác biệt nhau khá lớn.

     Nhà nước cai trị và nhà nước phục vụ

Do ảnh hưởng bởi quan niệm triết học “nhà nước là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp không thể dung hòa được nữa, công cụ bạo lực của giai cấp này đối với giai cấp khác[1]”. Nên Lời nói đầu của Hiến pháp Trung Quốc vẫn tiếp tục khẳng định nhà nước Trung Quốc là “nhà nước chuyên chính vô sản)”[2].  Với cách quan niệm này thì nhà nước tiếp tục thực hiện chức năng cai trị giống như chức năng cai trị của nhà nước phong kiến hàng ngàn năm trước, chỉ khác ở chỗ là nhà nước phong kiến phục vụ giai cấp phong kiến, còn nhà nước Trung Quốc hiện nay phục vụ giai cấp vô sản. Khi quan niệm nhà nước sinh ra là để cai trị, thì sẽ dẫn đến tiếp cận vấn đề văn hóa, giáo dục, khoa học trước hết là vấn đề “quản lý nhà nước đối với văn hóa, giáo dục, khoa học”, để bảo đảm sự thống trị về mặt tư tưởng của giai cấp vô sản, chứ không tiếp cận văn hóa, giáo dục, khoa học là một quyền cơ bản của công dân.

Ngược lại với quan niệm trên về nhà nước thì hiến pháp các nước Thái Lan, Singapore, Indonesia, Malaysia, Philipines coi nhà nước sinh ra sau con người và do tất cả thành viên trong xã hội lập ra để phục vụ chính mình, nên nhà nước có chức năng phục vụ. Do các bản hiến pháp này quan niệm nhà nước là của dân, do dân, vì dân chứ không phải là của giai cấp, do giai cấp, vì giai cấp như Hiến pháp Trung Quốc. Và khi nhà nước là của dân, do dân và vì dân hay nói cách khác nhà nước là của toàn bộ xã hội thì văn hóa, giáo dục, khoa học không có chức năng nhằm bảo đảm sự thống trị về mặt tư tưởng của một nhóm người nào cả, mà thay vào đó là bảo vệ quyền về văn hóa, giáo dục, khoa học của tất cả các thành viên và phục vụ nhu cầu văn hóa, giáo dục của công dân trên cơ sở công dân trả tiền thuế. Chính vì quan niệm này, nên hiến pháp các nước ASEAN tiếp cận các vấn đề văn hóa, giáo dục, khoa học chủ yếu với tư cách là các quyền cơ bản của công dân, chứ không tiếp cận với mục tiêu áp đặt tư tưởng, để bảo đảm sự thống trị về mặt tư tưởng của thế lực cầm quyền.

Pháp luật tự nhiên và pháp luật thực chứng: quyền của công dân và quyền của nhà nước cái nào có trước?

Người Trung Quốc xây dựng hiến pháp dựa trên chủ nghĩa pháp luật thực chứng. Pháp luật thực chứng với mệnh đề điển hình: “Luật là luật, mệnh lệnh là mệnh lệnh, bất chấp nội dung của nó thế nào”[3]. Theo quan niệm của chủ nghĩa pháp luật thực chứng thì quyền của công dân có được là do nhà nước trao cho, hay nói cách khác nhà nước là người đóng vai trò ban phát quyền cho công dân. Còn quyền lực nhà nước bắt nguồn từ đâu? Họ quan niệm quyền lực nhà nước bắt nguồn từ cuộc đấu tranh giai cấp[4] và bạo lực cách mạng; quyền lực gắn liền với sức mạnh và chỉ sức mạnh, không nhất thiết phải có tính chính đáng (legitimation). Chủ nghĩa pháp luật thực chứng được học giả biết đến với câu nói nổi tiếng của Mao Trạch Đông[5]: quyền lực hình thành từ nòng đại bác. Tư duy của chủ nghĩa pháp luật thực chứng thể hiện rõ nhất tại Điều 43, 44, 45, 46 Hiến pháp Trung Quốc 1982, khi quy định về quyền của công dân theo công thức “nhà nước quy định”, “nhà nước bảo đảm”, “nhà nước phát triển”[6]. Cũng chính vì quan niệm này, mà thực tiễn pháp luật ở Trung Quốc cho thấy, phạm vi quyền tự do mà công dân được hưởng trên thực tế sẽ được cân nhắc trong mối quan hệ lợi ích nhà nước – công dân, chứ không chú trọng quan hệ công dân – công dân. Và hệ quả của đặt trọng tâm của việc cân nhắc vào lợi ích nhà nước, là một vấn đề nào đó khó quản lý thì cách đơn giản nhất là “cấm”.

Ngược lại với Hiến pháp Trung Quốc, hiến pháp các nước Malaysia, Indonesia, Singapore, Thái Lan xuất phát từ quan niệm về pháp luật tự nhiên để đi đến quan niệm hiến pháp là bản khế ước xã hội. Và thông qua khế ước xã hội này, nhân dân trao quyền cho nhà nước. Hay nói cách khác, những quyền mà nhà nước có là do dân ủy cho. Quyền cơ bản của công dân trong hiến pháp không phải là “quà tặng” của nhà nước trao cho nhân dân, mà là quyền tự nhiên vốn có của nhân dân, và nhân dân quyết định giữ lại hoàn toàn mang tính bất khả xâm phạm hoặc trao cho nhà nước quyền hạn chế một vài quyền tự do cơ bản trong những điều kiện và theo những nguyên tắc mà hiến pháp đã ấn định. Khi cân nhắc hạn chế hay chi tiết hóa các quyền cơ bản của công dân, các nhà lập pháp, lập quy phải cân nhắc việc hạn chế quyền tự do trước hết là trong mối quan hệ công dân – công dân, giữa quyền tự do của người này với quyền tự do của người khác, giữa hai quyền tự do mang tính loại trừ và trong một trường hợp cụ thể thì cần phải ưu tiên quyền tự do nào trước quyền tự do này[7]. Và tất cả sự cân nhắc này là vì quyền tự do của công dân, nhằm mục đích bảo đảm quyền tự do của công dân tốt hơn, chứ không phải vì mục đích tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quản lý nhà nước.

Điều này thể hiện ra trong kỹ thuật soạn thảo hiến pháp các nước Thái Lan, Indonesia, Singapore, Malaysia thường đặt ra các nguyên tắc chặt chẽ đối với các nhà lập pháp trong quá trình ban hành các quy định hạn chế hoặc chi tiết hóa các quyền tự do cơ bản của công dân, đặc biệt hạn chế sự tùy tiện của nhà nước trong vấn đề này[8]. Cũng chính vì quan niệm về quyền tự nhiên của con người, nên hiến pháp các quốc gia này phân biệt rõ nhân quyền, quyền cơ bản của công dân, quyền của công dân theo các văn bản luật và dưới luật. Sự khác biệt theo quan điểm của họ không chỉ dừng lại ở cấp độ văn bản thể hiện nội dung các quyền đó, mà sự khác biệt về mặt bản chất và biện pháp bảo vệ. Còn Hiến pháp Trung Quốc, xuất phát từ quan niệm của chủ nghĩa pháp luật thực chứng cho rằng tất cả các loại quyền mà người dân có được là do nhà nước trao cho, kể cả quyền con người  phải được nhà nước công nhận thì mới có giá trị, nên quyền con người, quyền cơ bản của công dân và quyền công dân trong các văn bản luật, dưới luật chỉ khác nhau ở cấp độ thể hiện của văn bản, chứ không khác nhau về bản chất và tất cả ba loại quyền này đều là quyền “theo quy định của pháp luật”, không có quyền nào là quyền tự nhiên vốn có của con người cả.

            Giới hạn và định hướng cho khoa học

Về mục đích và giới hạn của nghiên cứu khoa học trong Hiến pháp Trung Quốc 1982 và hiến pháp các nước Malaysia, Indonesia, Singapore, Thái Lan có sự khác biệt rất đáng kể. Hiến pháp các nước ASEAN vừa liệt kê đưa ra một vài giới hạn cho nghiên cứu khoa học như: cấm các khoa học phát triển các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt. Còn Hiến pháp Trung Quốc 1982 thì chưa yên tâm với việc vạch ra các vùng cấm như hiến pháp các nước ASEAN mà còn áp dụng một biện pháp hạn chế thứ hai: định hướng, đặt ra kim chỉ nam cho khoa học, đặc biệt là đối với khoa học xã hội, phạm vi nghiên cứu phải tuân theo một trục tiền định, được đặt ra từ hàng trăm năm trước, để bảo đảm rằng khoa học sẽ phục vụ tốt nhất cho nhà nước. Để bảo đảm được điều này thì đòi hỏi nhà nước Trung Quốc phải đóng vai trò lớn hơn so với các nhà nước ASEAN, bà đỡ cho nghiên cứu khoa học. Điều này thể hiện ra về mặt hình thức: từ “nhà nước” được nhắc đến rất nhiều lần trong Chương 2 của Hiến pháp Trung Quốc 1982 nói chung và các quy định về văn hóa, giáo dục, khoa học nói riêng.  

       Quyền và nghĩa vụ

Theo quan niệm của các nước theo chủ nghĩa pháp luật tự nhiên thì đối với nhân quyền thì chỉ có quyền mà không đề cập nghĩa vụ. Và đối với một vấn đề thì hoặc là chủ thể có quyền hoặc là có nghĩa vụ, vì vậy trong hiến pháp của các quốc gia này không tìm thấy quy định theo kiểu “công dân có quyền đồng thời có nghĩa vụ…”.

Ngược lại trong Chương các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân của Hiến pháp Trung Quốc 1982 có một số điều khoản quy định công dân vừa có quyền đồng thời nghĩa vụ đối với một số vấn đề (Điều 42: làm việc , Điều 46: học tập). Điều này, thực sự gây lúng túng cho những công dân thực sự tin tưởng vào hiến pháp, họ sẽ băn khoăn tự hỏi nếu họ có nhà cho người khác thuê, có tiền gửi ngân hàng lấy lãi và dùng tiền đó để chi tiêu và thời gian còn lại đi ngao du tứ hải thì có bị bỏ tù vì vị phạm nghĩa vụ làm việc ở Điều 42 Hiến pháp Trung Quốc1982; và nếu bỏ học đại học giữa chừng theo gương Billgate thì có bị xem là không thực hiện nghĩa vụ học tập tại Điều 46 Hiến pháp Trung Quốc 1982 không?

      2. Khuyến nghị

Qua phân tích, so sánh các quy định về văn hóa, giáo dục, khoa học trong Hiến pháp Trung Quốc 1982 và hiến pháp một số nước Đông Nam Á, có thể rút ra một số bài học sau cho Việt Nam:

Xây dựng các quy định hiến pháp nói chung, cũng như các quy định về văn hóa, giáo dục, khoa học nên dựa vào quan niệm “nhà nước phục vụ” thay vì quan niệm “nhà nước cai trị”.

Đối với một vấn đề thì công dân chỉ có quyền hoặc nghĩa vụ, chứ không nên quy định quyền đồng thời nghĩa vụ.

Nên đưa ra con đường cụ thể cho công dân bảo vệ các quyền tự do cơ bản của mình khi cho rằng quyền của mình đang bị xâm phạm. Theo đó, “khi quyền và tự do của một người được công nhận bởi hiến pháp này nhưng bị xâm phạm thì có thể viện dẫn các điều khoản của hiến pháp này để khởi kiện ra trước tòa án hoặc sử dụng các điều khoản hiến pháp để bảo vệ mình trước tòa án”. Một người có thể khởi kiện trực tiếp chống lại nhà nước phù hợp với các điều khoản của hiến pháp.

Nên đặt ra các tiêu chí, điều kiện, phạm vi hạn chế đối với cơ quan lập pháp mà Điều 29 Hiến pháp Thái lan 2007 là một ví dụ tốt. Các đạo luật vượt ra ngoài phạm vi này ngay lập tức bị coi là vi hiến. Trong bốn tiêu chí này có một tiêu chí về hình thức và ba tiêu chí về nội dung. Các tiêu chí này gồm: tố quyền kèm theo (Rechtswegsgrantie), phải viện dẫn điều khoản hiến pháp (Zitiergebot), không được ban hành luật nhắm vào áp dụng cho một trường hợp cụ thể (Einzelverbot), tính bất khả xâm phạm của vùng lõi của quyền tự do (Wesensgehaltsgarantie) và nguyên tắc mối quan hệ tương đối (Verhältnisprinzip).

Nên tham khảo kỹ thuật lập hiến đơn giản của Hiến pháp Singapore năm 1965. Kỹ thuật này đưa ra quyền tự do + đưa ra hai nhóm tiêu, hai nhóm quan hệ xã hội mà các quyền tự do có thể bị hạn chế. Nghĩa là ngoài hai nhóm này thì công dân hoàn toàn tự do.

[1] Hans Kelsen. (1976). The communist Theory of law. Scientia Verlag. Newyork. p.53.

Giải Pháp Kích Cầu Kinh Tế Của Các Nước Đông Nam Á

( ĐCSVN) – Kích cầu là biện pháp đẩy mạnh chi tiêu ròng của chính phủ (hay còn gọi là tiêu dùng công cộng) để kích thích tăng trưởng kinh tế. Biện pháp kích cầu có thể là giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc cả hai. Mục tiêu chính của các gói kích cầu là làm tăng tổng cầu trong nền kinh tế và tạo ra nhiều công ăn việc làm.

Các gói giải pháp cứu trợ và ngăn chặn suy giảm kinh tế của các nước Đông Nam Á mang một số đặc điểm là: Thứ nhất, gói kích cầu kinh tế được thiết kế tùy theo đặc điểm nền kinh tế mỗi nước; Thứ hai, tùy theo hoàn cảnh mỗi nước, gói kích cầu có thể chỉ bao gồm các công cụ chính sách tài khóa hoặc cả công cụ chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ; Thứ ba, giải pháp kích cầu có thể chia thành bốn nhóm chính sau: 1) Kích cầu tiêu dùng; 2) Kích cầu đầu tư; 3) Kích cầu qua đầu tư công; 4) Nhóm biện pháp hỗ trợ khác.

Cụ thể, với nhóm kích cầu tiêu dùng. Để kích cầu tiêu dùng, chính phủ hỗ trợ trực tiếp tiền cho dân để tăng sức mua hoặc chuyển tiền cho doanh nghiệp, ngân hàng… Các nước đang phát triển có điều kiện kinh tế eo hẹp không thể áp dụng cách thức này do tiềm lực còn hạn chế. Vì vậy phải dùng hình thức khác như bù lãi suất, cho vay không lãi, hỗ trợ mua bảo hiểm y tế…

Thái Lan thực hiện chính sách kích cầu hai giai đoạn với toàn bộ số tiền bơm vào nền kinh tế và kích cầu chủ yếu từ tài khoản vay nước ngoài. Giai đoạn một (tháng 12/2008), kế hoạch cứu trợ gồm 3,35 tỉ USD, nhắm vào các mục tiêu: phát tiền mặt cho người nghèo; giảm thuế cho người có thu nhập; tăng số học sinh được miễn học phí; trợ giá tiền điện, nước và vé tàu xe đi lại cho dân, trợ cầp một ngân phiếu có giá trị 58 USD cho người dân có thu nhập dưới 430 USD/tháng 9. Giai đoạn hai, bắt đầu từ tháng 3 năm 2009 Thái Lan khuyến khích người dân tiêu dùng bằng cách trợ cấp 2000 Baht/tháng cho viên chức nhà nước có thu nhập dưới 15.000 Baht/tháng (khoảng 7,5 triệu đồng). Khoảng 9 triệu người đã nhận được khoản trợ cấp kích cầu tiêu dùng này. Nhờ chính sách kích cầu nhanh chóng mà người dân Thái Lan không hốt hoảng, đảm bảo tiêu dùng nội địa, giảm thiểu tác động của suy giảm kinh tế tới tốc độ tăng trưởng.

Malaysia chi 27,9 tỉ Ringgit (2009) để hỗ trợ người dân trong tiêu dùng một số hàng hóa như xăng, diesel, gas dùng để nấu ăn, lúa mỳ, bánh mỳ, bột mỳ, đường, gạo, sách vở học sinh, học bổng, đào tạo, y tế, phúc lợi xã hội và lệ phí giao thông…

Singapore đưa ra gói kích thích kinh tế 13,8 tỉ USD (2009) trong đó có chương trình tín dụng việc làm bằng cách hỗ trợ tiền mặt đối với các chủ sử dụng lao động để giúp họ trang trải một phần chi phí lương và tránh sa thải lao động; giảm 20% thuế thu nhập cá nhân đến hạn, đối với lao động khó khăn trợ cấp thêm 300-500 SGD/người/tháng…

Indonesia thông qua gói kích thích kinh tế 73.300 tỉ rupiah (tháng 2/2009)10; trong đó dành 90 nghìn tỉ rupiah (7,5 tỉ USD) cho các Bộ, ngành; khoảng 300 nghìn tỉ rupiah để đẩy mạnh tiêu dùng hàng nội địa; Các cơ quan nhà nước bắt buộc phải tiêu dùng hàng nội địa trong các hoạt động thông thường như quần áo, giày dép đồng phục. Không như các quốc gia ASEAN khác, hầu hết các doanh nghiệp Inđônêsia đều phải trợ giúp khoản đóng thuế thu nhập của nhân công, và đây được coi là gánh nặng của các doanh nghiệp. Vì vậy, Chính phủ trợ cấp 6.500 tỉ rupiah để đền bù vào khoản thuế thu nhập của người lao động mà các doanh nghiệp vẫn thường phải trả thay. Nhờ đó giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí, đẩy mạnh chi tiêu kích thích tiêu dùng nội địa.

Với nhóm kích cầu đầu tư . Trong kích cầu đầu tư, cần khuyến khích các thành phần kinh tế, doanh nghiệp tham gia, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư vào các lĩnh vực như xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, kho cảng, sân bay, đường bộ, điện, xi măng… Bên cạnh đó tập trung đầu tư vào nhà ở, đặc biệt là nhà ở cho người thu nhập thấp. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư theo các hình thức khác nhau. Đầu tư vào ngành điện không chỉ theo hình thức Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao BOT (Built-Operation-Transfer) mà cả hình thức Xây dựng – Chuyển giao BT (Built-Transfer). Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào các dự án, kể cả bất động sản. Kích cầu đầu tư đúng thì sẽ kích cầu được tiêu dùng. Giảm thuế, giảm lãi suất, doanh nghiệp sẽ có lợi nhuận nhiều hơn, tiền chi trả cho người lao động sẽ cao hơn. Khi có thu nhập người lao động sẽ chi tiêu nhiều. Mục tiêu kích cầu tiêu dùng sẽ đạt được.

Để kích cầu đầu tư và tiêu dùng có hiệu quả cần chú ý đến những vấn đề chính sau: Một là, tập trung kích cầu đầu tư vào các dự án sắp hoàn thành, đưa nhanh vào sử dụng các dự án có dung lượng và triển vọng thị trường tiêu thụ tốt, các dự án góp phần trực tiếp duy trì và mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh cần thiết của doanh nghiệp và nền kinh tế. Ưu tiên các dự án có khả năng tạo được thị trường tiêu thụ, các dự án kết hợp phát triển kinh tế – xã hội – môi trường. Hai là, để kích cầu tiêu dùng cần giảm giá hàng tiêu dùng, giảm lãi suất, điều chỉnh tăng lương, giảm thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp, tăng cho vay tiêu dùng, đồng thời giãn, khoanh nợ và tăng hỗ trợ an sinh xã hội. Hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, người có thu nhập thấp, đồng bào dân tộc thiểu số, các vùng núi khó khăn, thiên tai, bệnh dịch… Đơn giản hóa các thủ tục trợ cấp cho người nghèo.

Với nhóm kích cầu qua đầu tư công . Yếu tố quan trọng để đạt được mức độ tăng trưởng kinh tế khu vực cao và thúc đẩy thương mại nội khối là kết nối tốt hơn về cơ sở hạ tầng trong khu vực như đường giao thông, các bến cảng, sân bay, đường sắt. Malaysia đã đưa ra hai gói kích cầu kinh tế tập trung cho đầu tư công: Lần thứ nhất là 1,9 tỉ USD, trong đó chi cho nâng cấp và sửa chữa tiện nghi công cộng, giao thông nông thôn, cảnh sát và lực lượng vũ trang là 1,5 triệu ringgit; chi 1,4 triệu Ringgit Malaysia (RM) cho nhà ở chi phí xây dựng thấp và mức chi trả trung bình; chi 0,5 triệu RM cho nâng cấp và duy trì các phương tiện giao thông công cộng; chi 0,5 triệu RM thực hiện truy cập Internet băng thông rộng… Lần thứ hai là 16,2 tỉ USD trong đó chi 19 tỉ RM xây dựng năng lượng cho tương lai. Trong dự án cơ sở hạ tầng “Thái Lan vững mạnh 2012” với tổng chi là 42 tỷ USD thì chính phủ Thái Lan dành 73% trong số đó (tương đương 30,6 tỷ USD) chi cho đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, truyền thông và năng lượng, 15% (tương đương 6,3 tỷ USD) cải thiện hệ thống cấp nước và thủy lợi nông nghiệp. Indonesia trong gói kích cầu kinh tế 73,3 nghìn tỉ Rupi (2009) cũng chi 12,2 nghìn tỉ Rupi chi nâng cấp cơ sở hạ tầng. Phillipines chi 48% trong 6,5 tỉ USD kích thích kinh tế (2009) cho hạng mục cơ sở hạ tầng bao gồm chi tiêu sửa chữa các tòa nhà chính phủ và chi phí thuê giáo viên, cảnh sát, binh sĩ và các bác sĩ. Những khoản đầu tư này đã cải thiện được đáng kể cơ sở vật chất của ASEAN giúp kết nối tốt khi có cơ sở hạ tầng được nâng cấp.

Bên cạnh hoạt động xuất khẩu, Thái Lan thực hiện kích cầu du lịch với chiến dịch có tên “Đem đồng Baht tới Thái Lan” và chiến dịch “Một giá cho tất cả các địa điểm”. Nhờ các biện pháp kích cầu du lịch này mà lượng du khách đến Thái Lan đã tăng lên 14 triệu người (2009) và 15,5 triệu người (2010). Ngành du lịch Thái Lan vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh triển khai các kế hoạch xúc tiến du lịch trên khắp thế giới, nhằm quảng bá Thái Lan như là một điểm đến hấp dẫn, với mục tiêu thu hút thêm khách du lịch từ các thị trường Nam Á, Đông Nam Á, Anh và Pháp.

Tóm lại, nhờ tính hiệu quả và kịp thời của các gói kích cầu đã tạo ra sự phục hồi mạnh mẽ, giúp ASEAN vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tốt hơn hơn mong đợi. Năm 2010, tăng trưởng GDP của ASEAN đạt 6,0% (Inđônêsia); 6,8% (Việt Nam); 7,2% (Malaysia); 7,3% (Philippines) và 7,8% (Thái Lan). Các gói kích cầu kinh tế có tác dụng như chiếc phao cứu sinh làm gia tăng lòng tin của các doanh nghiệp, các ngân hàng và nhà đầu tư trong nước và quốc tế vào trách nhiệm của chính phủ trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp đang gặp khó khăn, cũng như tin vào triển vọng thị trường và môi trường đầu tư trong nước. Gói kích cầu trực tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn vốn ngân hàng với chi phí rẻ hơn, từ đó giảm bớt các chi phí kinh doanh, góp phần giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Nhiều doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ kịp thời của gói kích cầu đã có thêm cơ hội giữ vững và mở rộng sản xuất, từ đó góp phần giảm bớt áp lực thất nghiệp và đảm bảo ổn định xã hội. Bên cạnh đó, gói kích cầu còn trực tiếp góp phần gia tăng các hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo nền tảng và động lực của sự phát triển xã hội cả hiện tại và tương lai.

Cập nhật thông tin chi tiết về Kinh Nghiệm Giảm Nghèo Ở Một Số Quốc Gia Khu Vực Đông Nam Á trên website Phauthuatthankinh.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!